Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Quán Sát Chư Pháp Hạnh Kinh [觀察諸法行經] »» Bản Việt dịch quyển số 3 »»

Quán Sát Chư Pháp Hạnh Kinh [觀察諸法行經] »» Bản Việt dịch quyển số 3

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.52 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.67 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Quán Sát Chư Pháp Hạnh

Kinh này có 4 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 |
Việt dịch: Tuệ Khai

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

PHẨM THỨ HAI: TIÊN THẾ CẦN TƯƠNG ỨNG
II- Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Hỷ Vương cùng ba mươi ngàn vị Bồ tát nghe những sự phá diệt của chánh pháp lâu sau năm mươi năm đời mạt thế như trên đây thì trào nước mắt, thân thể rúng động, nổi da gà, toát mồ hôi, liền đứng dậy, chỉnh lý một vai áo, gối phải quì xuống đất, hướng về đức Phật chắp tay, cùng nghẹn ngào mà bạch đức Phật rằng:
- Thưa đức Thế Tôn! Chúng con về sau năm mươi năm đời mạt thế, lúc chánh pháp tiêu mất, lúc trong đó đại ách đến, lúc mỗi mỗi đều tan nát, lúc người nói pháp bị bức thiết, lúc biến trí diệt, lúc bạch pháp tan, lúc rỗng không vô mạng, lúc chánh pháp giáo phá diệt, lúc bài báng chính pháp, lúc ngôn ngữ thiếu trí hiện lên, lúc tạp thoại chung ở dẫy đầy, lúc dùng việc ác tìm sự sống, lúc mỗi mỗi hành động chẳng khen ngợi, lúc nghiêm trượng (nghi thức trang nghiêm) của ma xí thạnh, lúc trong đó chuyển bức não lớn... Thưa đức Thế Tôn! Chúng con bỏ thân mạng mình và bỏ những niềm vui tri thức, như con tê ngưu (loài tê giác) ra đi, hoặc trong rừng, hoặc trong rừng nhỏ, lìa khỏi các ái trước. Chúng con ở chỗ những kinh như thế này, chọn lấy trí Như Lai, đạt đến trí đại pháp thể, tàng chứa chủng tính, chẳng làm điên đảo hạnh sở ấn, nhiếp lấy vô lượng căn lành và Kinh Đà la ni đã được ấn khả, đả phá các luận ngoại đạo, thuận giác Biến trí, nhiếp lấy chánh pháp, thị hiện những niềm vui của chúng sinh. Chúng con đều sẽ ghi chép, đọc tụng, thọ trì, giảng nói Kinh này. Thưa đức Thế Tôn! Chúng con chấp nhận chịu trụ ở Nê La Gia vì Kinh báu Tam Ma Địa này! Chúng con cũng lại chẳng bỏ Như Lai, Pháp, Tăng và chẳng bỏ Vô Thượng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, những vị Đại Bồ tát mà ngài Hỷ Vương đứng đầu đó, đồng thanh một lòng ở trước đức Phật và chư thiên cùng thế gian, nói lên tiếng rống sư tử Đại pháp Vô Thượng xong, liền nói bài tụng ca này:
Ứng biết lòng chúng con
Như con muốn cầu Giác
Không có đèn sáng khác
Chỉ trừ đấng trượng phu
Lòng chúng con tự nhiên biết làu
Như con muốn cầu trí thắng Phật
Con trong ba hữu không chứng khác
Như người thắng mọi đức đến bờ.
Thân mạng đã bỏ đi
Không còn trên lưỡng túc (hai chân)
Trì tam muội này tốt
Về sau lúc hãi kinh (sợ)
Với thân chẳng yên, lìa mạng mình
Lợi lạc thân gần đều bỏ hết
Hành tam muội vô trần này được
Thì sau này khó có ác to.
Hoặc chẳng thể lường kiếp không bờ
Trụ Nê La Gia sợ ác khổ
Thọ trì vô trần Tam ma địa
Con sẽ chịu đựng trong mọi thời.
Khổ não như vậy không có bờ
Trụ Ta Bà, khốn không người hộ
Tam muội vô trần này trì thọ
Khổ ác hại con cam chịu cho.
Ở trong con kham nhẫn
Chẳng động bền tinh tấn
Con mời các chúng sinh
Pháp thí vật (chất) chẳng xin
Mình lợi, chúng sinh lợi
Đồ cúng các của cải
Danh văn và khen chê
Con đã nhịn xả lìa,
Con thỉnh các sinh chúng
Thật pháp, vật chẳng cầu
Con sẽ rộng nói pháp
Chúng sinh pháp đủ no.
Đã có rồi thanh tịnh
Sẽ làm hạnh Bồ đề
Sẽ tạo nghĩa lợi rộng
Vì xót thương sinh chúng.
Da, thịt và cả xương
Tủy, máu đều khô khan
Con sẽ chẳng lười biếng
Vì thấy khổ sinh chúng.
Da thịt và bạc bì (da mỏng)
Và máu, con khiến khô
Con nay thân phá tán
Chẳng sinh tiểu (nhỏ) tinh tấn
Thấy khổ chúng sinh này
Phải bệnh trong lo sợ
Sẽ khiến qua biển khổ
Không sợ trên đất yên.
Con trụ A lan nhã
Các ái đã lìa bỏ
Từ tưởng đã khắp đầy
Khiến không nóng, ban vui
Rừng nhàn A lan nhã
Ít tiếng (ồn) con dừng trụ
Xa lìa các tạp ngôn(lời nói tạp)
Kia vì ái, chẳng chung.
Con sẽ có ý từ (ý lành)
Cho chúng sinh vui vẻ
Cam lộ thắng dược ban (cho)
Được dược tính (vui), bệnh tan.
Kia đã chẳng thuận học
Như đó lìa lời thật
Con sẽ trụ tu hành
Theo lời nói trong Kinh (này).
Chúng con chẳng theo họ
Thuận học sở hạnh đó.
Nếu chẳng phải hạnh phàm (phu)
Chẳng thật lìa đạo chân
Chúng con sẽ luôn trụ
Trong tự cảnh thật ngữ.
Như Kinh này nói ra
Con sẽ có ý kia
Con sẽ chẳng phóng dật
Như điều biết đức Phật.
Chúng sinh, sức ban cho
Ở trong con đi trước.
Con sẽ thường có chẳng phóng dật
Như Thắng giả biết Biến Trí nhìn (thấy)
Trong các chúng sinh, con cho lực
Con sẽ đi trước trong trí Phật.
Đám cháy con rơi vào
Nếu ăn đồ ăn độc
Chẳng cúng dường tri thức
Chẳng nói Phật Bồ đề.
Con vì pháp nên đọa trong lửa
Ăn đồ ăn độc con vào khổ
Lợi tri thức chẳng lại buộc ràng
Vô thượng Bồ đề chẳng tuyên dương
Ma la nhiều vô lượng
Tác ngại ở bên con
Các ma la đã bỏ
Sẽ làm vua thế gian (thế chi đế)
Ma la trăm ngàn chẳng thể lường
Ở trong, chúng vì con tác ngại
Không não phiền, con đều lìa xong.
Đời sẽ sinh nhánh vua Vô Thượng.
Lại nữa, trong khi Đại Bồ tát Hỷ Vương dùng tiếng rống sư tử để nói thì ba ngàn đại thiên thế giới này, sáu thứ chấn động, ánh sáng lớn soi khắp thế gian, các chúng sinh đều dùng hoa tung lên trong hư không nhiều chẳng phải một lần. Chư thiên có đến câu trí na do đa trăm ngàn người, phát ra tiếng khen lành, lại tấu lên vô lượng vô số cấu trí na do đa trăm ngàn âm nhạc và nói lên lời như vầy: “Vị Đại Bồ tát Hỷ Vương này, chẳng bao lâu nữa sẽ hướng về Bồ đề đạo tràng, sẽ tạo được lời nói sư tử hống của Như Lai đúng như tiếng rống của Như Lai trước chư thiên và người đời”. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, ở chỗ của Đại Bồ tát Hỷ Vương, ban lời khen lành rằng:
- Rất hay! Rất hay! Này Hỷ Vương! Ông có khả năng nhiếp lấy chánh pháp, nói lời rống đại sư tử Vô thượng này! Như ông đã ở bên những đức Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng, nói tiếng rống sư tử như vậy. Này Hỷ Vương! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Chánh niệm tác khởi ý! Ta sẽ vì ông nói về Đại Bồ tát sở hữu nhiếp lấy chánh pháp đã sinh ra phước tụ. Này Hỷ Vương! Ta nay vì ông đưa ra thí dụ. Ở trong thí dụ này có một bậc trượng phu trí giả biết được ý nghĩa của điều nói ra. Này Hỷ Vương! Như trong phần phương Đông kia có những cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, như vậy trong phần Nam phương, Tây phương, Bắc phương và thượng phương, hạ phương, như vậy trong mười phương và trong chẳng chính phương đều có những cõi Phật nhiều như cát sông Hằng. Những cõi đó đều làm một vòng tường thành vây quanh. Nhưng tường ấy đo lường đến bờ đỉnh mọi người đều cho là lớn. Dọc ngang trên đại thành báu đầy cây dây leo chằng chịt, đầu nhọn buộc vào trụ vững, chẳng gạt mà khiến cho bằng phẳng. Có một vị trượng phu khác sinh ra để phân chia riêng biệt cây dây leo ấy. Nếu vị đó, tay phải nắm lấy những hạt cây dây leo, ném lên không. Những hạt ném ấy không rời ra mà chúng tụ lại thành một đám hạt dây leo lớn. Cho đến khi có một ngọn gió thổi đến, như vậy đám hạt dây leo lớn đó bị xao động tan rã, văng đến trong mỗi một cõi Phật khắp mười phương. Nhưng mỗi cõi Phật chỉ rơi xuống một hạt dây leo, nhất định không có hai. Đám hạt dây leo lớn sở hữu nói trên rơi hết vào các cõi Pmà mỗi một cõi chỉ rơi xuống một hạt. Này Hỷ Vương! Ý ông thế nào? Số cõi Phật đó có thể dùng phương tiện để biết được bờ cõi không?
Ngài Hỷ Vương đáp rằng:
- Thưa đức Thế Tôn! Chẳng thể được vậy! Thưa đấng Tu Già Đa! Chẳng thể được vậy! Chỉ có đức Như Lai mới đạt được sự hiểu biết như vậy!
Đức Phật dạy rằng:
- Này Hỷ Vương! Nếu lại có vị Bồ tát tín giải bố thí, ở những cõi Phật nhiều vô lượng vô số, lại chẳng thể tính được, đem bảy báu chất đầy trong đó rồi dùng để ban cho. Nếu có bất kỳ Bồ tát tôn trọng chánh pháp nào mà nhiếp thọ chánh pháp, thậm chí chỉ trong một ngày đêm kham nhẫn vì khiến cho chính pháp trụ thế lâu dài. Như vậy thì vị này phát sinh nhiều phước hơn vị ở trên kia. Vì sao vậy? Này Hỷ Vương! Vì vị ấy ở chỗ một đức Như Lai nhiếp lấy chính pháp rồi thì tức là đã ở chỗ những đức Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai và hiện tại mà được nhiếp thọ chánh pháp. Này Hỷ Vương! Khi các báu xả (bỏ) thì chung lậu chung thủ (lấy). Này Hỷ Vương! Lại khi pháp thí thì vô lậu vô thủ, các khổ trở nên tiêu diệt. Này Hỷ Vương! Do đó nên các ông phải tín giải pháp thí, chớ tín giải của cải thế gian. Các ông nên dùng pháp cúng dường để cúng dường cho ta, chớ dùng của cải thế gian để cúng dường, dùng pháp cung kính để cung kính ta, chớ dùng tài vật để cung kính. Vì sao vậy? Này Hỷ Vương! Vì Bồ đề của các đức Phật Thế Tôn từ pháp mà ra, chẳng do của cải mà ra.
Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Hỷ Vương bạch đức Phật rằng:
- Thưa đức Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ tôn trọng chánh pháp, chẳng tôn trọng tài vật. Vì sao vậy? Thưa đức Thế Tôn! Vì nhất định do pháp nên Đại Bồ tát chứng giác Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chứ chẳng phải do tài vật. Lại nữa, tài vật khiến cho phiền não dài thêm, pháp khiến cho phiền não tận diệt mà chuyển biến.
Đức Phật ở chỗ Đại Bồ tát Hỷ Vương ban lời khen tốt rằng:
- Rất hay! Rất hay! Này Hỷ Vương! Ông khéo nói lời nói này! Pháp khiến cho phiền não tận diệt mà chuyển biến! Lại này Hỷ Vương! Ông hãy lắng nghe! Lắng nghe! Chánh niệm mà tác khởi ý! Ta sẽ vì ông giảng nói! Như Đại Bồ tát trước nhiếp lấy chánh pháp, siêng cùng tương ứng, chẳng tiếc thân mạng, lìa bỏ các niềm vui và dùng tài lợi tri thức để cung kính mà đối với chánh pháp nhiếp lấy.
Đại Bồ tát Hỷ Vương bạch đức Phật rằng:
- Như vậy, thưa đức Thế Tôn! Con rất ưa thích nghe!
Đức Phật dạy rằng:
- Này Hỷ Vương! Khi trước, ở đời quá khứ, chẳng thể tính được kiếp, lại qua vô số vô lượng, rộng chẳng thể lường, chẳng thể suy nghĩ được, vào thời gian đó, có đức Phật hiệu là Quảng Tịnh Hậu Kim Phổ Vô Nghi Quang Oai Vương Như Lai ra đời, Ứng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Giáo Sư Phật Bà Già Bà (Thế Tôn). Lại này Hỷ Vương! Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri Quảng Tịnh Hậu Kim Phổ Vô Nghi Quang Oai Vương thọ mạng không lường và có cõi Phật trang nghiêm vô biên công đức và có bảy mươi câu trí trăm ngàn quyến thuộc Thanh văn vây quanh cùng với vô lượng chúng Bồ tát. Hết thảy đã phát ra vô biên hạnh thuận vào pháp giới. Này Hỷ Vương! Như vậy đức Như Lai Thế Tôn Quảng Tịnh Hậu Kim (vàng dày) Phổ Vô Nghi Quang Oai Vương đó qua đi, diệt rồi. Lâu về sau, khi chính pháp mất đi, có người nói pháp tên là Vô Biên Bảo Chấn Thanh (tiếng) Tinh Hạnh Tụ. Người nói pháp ấy đến hết chỗ hạnh (tu hành hết các hạnh), được trí năm thông, Tổng trì tự tại, chẳng đoạn biện tài, thuận vào pháp hạnh. Người đó đi vào thôn, thành, phường ấp, kinh đô vua... mà vì chúng sinh nói pháp. Điều ngài nói ra cũng là nói Quyết Định Quan Sát Chư Pháp Hạnh Tam ma địa này, lấy đó làm phát khởi. Vị đó theo thứ lớp đã kiến lập được sáu mươi câu trí nadođa trăm ngàn chúng sinh ở đạo Vô Thượng Chánh Giác. Trong lúc đó, có nhiều Tỳ kheo xem ra giống như người nhập đạo (ý nói ngoại đạo) mặc Phú Già La. Nhưng những người đó chẳng sử dụng Tam ma địa này, cũng chẳng thể nhẫn. Họ bị sự trói buộc của tật đố san tham nên ở chỗ vị Tỳ kheo nói pháp kia, bảo cho những người trong lãnh thổ cai trị của vua, những thôn, thành, phường ấp, vương đô chẳng nghe biết, chẳng lệnh cho vào, chẳng chung lời nói, chẳng sánh số lượng... Này Hỷ Vương! Lúc bấy giờ, người nói pháp kia bị đuổi ra khỏi thôn, nhưng lòng không khiếp sợ lẩn tránh, lòng không yếu hèn, lòng không sân động, lòng không vẩn đục, lòng không ô tạp... mà chỉ đối với chính pháp như vậy thuận hộ, chẳng tiếc thân mạng, xả bỏ các tài lợi cung kính thôi. Có vị vua rừng lớn tên là Nhị Sinh (Nhị Sinh là chim vậy. Đầu tiên sinh trứng là một lần sinh, ra khỏi vỏ trứng là hai lần sinh. Phàm loài noãn sinh thì đều ứng với hai lần sinh. Vì chim phần nhiều là noãn sinh nên riêng một mình nên riêng một mình được hiệu là Nhị sinh) lên tiếng, tung hoa mà đi đến chỗ người nói pháp đó. Đến rồi, vua Nhị sanh vào ngồi chung với ba mươi ngàn câu trí Bồ tát. Cùng du hành với vua rừng có tứ đại thiên vương... cho đến trời Sắc cứu cánh. Vì nghe pháp nên họ đi đến chỗ ấy. Vị nói pháp đó, ở trong chúng đại thiên mà nói pháp. Bên vị nói pháp đó đầy ắp ba dũ xà na trăm ngàn trời người hiển hiện. Vị ấy ở trong chỗ vua rừng đó vì chúng bốn đại thiên vương mà nói pháp như vầy, như vầy... khiến cho trăm ngàn trời của chín mươi chín từng trời chẳng thoái chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và vô lượng trăm ngàn thiên tử chứng được trí kiến đạo (thấy đạo). Ở chỗ đó, bốn đại thiên vương, chúa của ba mươi ba tầng trời và Phạm thiên, chúa của cõi Ta Bà... siêng đến cung cấp hầu hạ tùy theo sự cần thiết của vị nói pháp đó. Như cung cấp hầu hạ vị nói pháp đó cũng có ba mươi ngàn câu trí Bồ tát. Này Hỷ Vương! Vào lúc đó có vị vua tên là Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm xuất hiện ở châu Diêm Phù. Pháp vương dùng pháp, ở trong bốn châu, tự tại chuyển luân, bảy báu đầy đủ. Này Hỷ Vương! Lại nữa, vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm đó đầy đủ một ngàn người con trai. Nhưng tất cả đều hóa sinh ra từ Già Pha, chánh niệm chẳng mất. Tám mươi bốn ngàn phụ nữ trong cung đều có phạm hạnh. Lại nữa, vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm đó thường thuận phạm hạnh, thường vào chánh định. Này Hỷ Vương! Lúc bấy giờ, vị nói pháp Vô Biên Công Đức Bảo Chân Thanh Tịnh Hạnh Tụ biết lòng vị vua đó đã ở đời trước tướng ứng thành tựu, quyết định phát tâm tu hành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vị vua đó ở trong đêm tịch tịnh, biến hóa thân mình làm voi Ma Na Bà vào trong vầng trăng. Vị vua đó ở trên điện với các người trong cung vây quanh. Rồi từ vua rừng đó, ông bay lên trong hư không giống như chúa chim ưng mà không sở trước, đi đến chỗ vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm. Đến nơi, ông ra khỏi vầng trăng (Nguyệt luân) hóa làm sắc tượng Phạm thiên, trụ ở trước mặt vị vua đó, tại không trung. Phát ra ánh sáng soi cùng khắp cung điện xong, liền vì vị vua kia mà nói bài tụng ca rằng:
Chủ đất người chớ phi pháp hạnh
Vang danh khen ngợi ắt chẳng tăng
Dùng hạnh phi pháp chẳng vui lòng
Chúa loài người không vui hiện tại.
Chúa đất, trước cũng pháp hạnh ấy
Nay được lợi tự tại bốn châu
Không đoạn chúng tánh hộ pháp mầu
Với pháp hạnh chúa người thuận hộ
Với mắt chánh pháp ứng thuận hộ
Chánh pháp hộ xong rất vui mừng.
Có nhiều Tỳ kheo, cấm hạnh không
Bài báng Bồ đề và Thiện Thệ
Tu Phật Bồ đề, chúng tôi khởi
Như vậy “kiến xả” và chúng sinh
Nếu vì những hạnh này, khi hành
Như vậy chúng sinh rơi đường ác.
Châu Diêm phù có Tỳ kheo xuất (hiện)
Hiệu Vô Biên Tụ Địa Chấn Thanh
Quan sát nghĩa, nói chánh định rành
Phú Già La, vô ngã, vô mạng
Ngài nói Tam ma địa tịch tịnh
Mà Tỳ kheo bị đời đuổi đi
Trong vua rừng Chấn Thanh diệu vi
Tá túc trong đó khéo hộ pháp.
Kia trụ rừng đó mừng vui khắp
Trời Sắc Cứu Cánh đều đến nơi
Để nghe Ngài nói tam muội này.
Nhiêu câu trí trời phát hạnh đạo.
Vua voi, ông muốn đi đâu đó
Nghe biển công đức Tam ma địa?
Và vì chúng sinh làm lợi nhiều?
Nay nên đến người nói pháp kia.
Như Lai sinh ra rất khó được
Bạn nói pháp lại khó gặp
Chúng sinh cầu pháp càng khó hơn
Gặp người hộ pháp rất khó khăn
Châu Diêm phù này, ông tự tại
Vì chánh pháp ông nên nhiếp lấy
Người nói pháp, vô úy thường cho
Như vậy trong thành nói pháp đến.
Nếu lời tôi nói vua thực hiện
Đương lai nhiều lợi ắt được luôn
Và vì chúng sinh làm lợi hơn
Thì sẽ được nhiếp Bồ đề Phật.
Này Hỷ Vương! Như vậy người nói pháp kia ở chỗ vua đó giác ngộ, quan sát xong, như vậy trở lại đường hư không vào với nguyệt luân, lại đi đến chỗ Lâm vương kia. Vị vua đó nghe sự giác sát này rồi vui mừng, nhảy nhót, yêu thích, thỏa lòng thì thiện ý lại phát sinh. Đêm đó qua rồi, nhà vua cùng với một ngàn người con và bốn binh chúng cùng rất nhiều chúng nhân khác đi đến chỗ vua rừng lớn Nhị Sanh Chấn Thanh Tán Hoa đó. Đến rồi, nhà vua hướng về chỗ người nói pháp kia. Vào lúc đó người nói pháp đang vì chúng đại thiên và Đại Bồ tát rộng nói Tam ma địa này. Lúc bấy giờ, vị vua đó và các con cùng những người vây quanh đều thấy người nói pháp đó và các vị Đại Bồ tát thì liền được niềm vui mừng đại ái tịnh tín. Những người đó đem lòng tịnh tín đảnh lễ dưới chân người nói pháp đó và đảnh lễ dưới chân những vị Đại Bồ tát kia xong, ngồi về một bên. Những người theo nhà vua đã ngồi xong, người nói pháp kia vì họ nói giảng Tam ma địa này. Những người kia nghe Tam ma địa này xong được niềm tịnh tín yêu thích mừng rỡ. Lúc bấy giờ, vị vua đó đắc được Tam ma địa này. Và trong số người rất nhiều đó có tám mươi bốn ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Giác. Và một ngàn người con đó đều cùng thuận được Bất Đoạn Biện Tài. Này Hỷ Vương! Như vậy, vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm vui mừng hớn hở tràn đầy trong lòng, liền đứng dậy, đem hai chiếc áo vô giác dâng lên che vị Tỳ kheo nói pháp đó. Các thứ sở hữu của nhà vua đều đem ban cho và bố thí vô úy tô tức (?).... cho đến cung cấp, hầu hạ trọn đời (tận thọ), tùy theo sự cần dùng của vị ấy mà dâng cho ăn, mặc và nói như vầy: “Thưa Tỳ kheo! Ngài nên hạ cố đi vào thôn, thành, phường, ấp, vương tôi xin làm thị giả, khiến cho các chúng sinh sẽ được trí này”. Này Hỷ Vương! Nhà vua kia nói lời như vậy rồi đảnh lễ dưới chân người nói pháp đó và quyến thuộc xong, đi ra trở về bổn cung. Này Hỷ Vương! Lúc bấy giờ, người nói pháp Vô Biên Công Đức Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ từ trong vua rừng đó đứng dậy đi ra, rồi vào trong thôn, thành, phường, ấp, vương đô phát khởi việc nói pháp vì chúng sinh. Nhà vua đó ở những chỗ có người đều ban lời tuyên dạy rằng: “Không một người nào đối với vị Tỳ kheo mà chẳng ái niệm, chẳng vui lòng, chẳng kính trọng, chẳng so sánh”. Một ngàn người con trai của vị vua đó đi theo sau vị nói pháp kia, tiếp nối nhau ủng hộ vì pháp lợi. Và ba mươi ngàn người bà con vương tử khác cũng vì Đại Bồ tát kia mà làm người hầu hạ sai bảo. Tùy theo việc làm của vị ấy mà họ làm cho người được những hạnh vui. Này Hỷ Vương! Người nói pháp đó vì thành tựu chúng sinh nên tự lượng thân mạng trì Kinh nửa kiếp. Vị Tỳ kheo đó khiến cho vô lượng chúng sinh ở trong ba thừa đều đã thành thục. Nhà vua đó và các con cùng mọi quyến thuộc, hoặc là cấp sư (người cung cấp sai bảo) của các vương tử kia hay làm người cấp sứ của Bồ tát đó, ở trong số ấy đều đã phát tâm Bồ đề. Bọn họ do nghe Tam ma địa này và hạnh căn lành đời trước nên đều chung cùng ở trong tám mươi kiếp, thừa sự sáu mươi tần bà la các đức Phật Thế Tôn. Các xứ đều nghe Tam ma địa này đúng như sở dục của họ mà nhiếp lấy cõi Phật, ở trong ấy, hoặc có người đạt đến Bồ đề, hoặc có người hiện hành hạnh Bồ tát vì thành thục chúng sinh. Này Hỷ Vương! Như trong lúc đó, có người nói pháp tên là Vô Biên Công Đức Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ. Ý ông nghi là ai khác chăng? Chớ thấy như vậy! Vì sao vậy? Vì chính đức Như Lai Vô Lượng Thọ là người nói pháp trong lúc đó vậy. Lại này Hỷ Vương! Trong lúc đó có vị vua tên là Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm. Ông cho là ai khác chăng? Chớ thấy như vậy! Vì sao vậy? Vì chính là đức Như Lai Bất Động đó vậy. Lại này Hỷ Vương! Một ngàn người con của vị vua kia trong lúc đó, ông cho là ai khác chăng? Ông chớ thấy như vậy! Vì sao vậy? Vì là những Đại Bồ tát trong kiếp Hiền này hay là một ngàn vị Phật sẽ ra đời trong đại kiếp Hiền đó vậy. Lại này Hỷ Vương! Người nói pháp Vô Biên Công Đức Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ, trong lúc đó, sở hữu ba mươi ngàn Bồ tát bằng hữu theo sau nối nhau vây quanh. Ý ông nghi họ là ai khác chăng? Ông chớ thấy như vậy! Vì sao vậy? Vì những Đại Bồ tát đó, ở trong một kiếp, chứng giác đạo Vô Thượng Chánh Giác. Này Hỷ Vương! Như vậy nhiếp lấy chính pháp siêng cùng tương ứng với Đại Bồ tát, vì vô lượng vô số chúng sinh mà tạo tác nghĩa lợi và mau chóng được Tam ma địa này. Này Hỷ Vương! Do đó nên hoặc ta hiện tiền, hoặc ta diệt độ thì Tam ma địa này phải nên thọ trì, đọc tụng, giảng nói, tư duy, vì người khác diễn nói rộng rãi, mau chóng phá được ma quân.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn làm cho ý nghĩa này vượt cao hơn nữa nên liền nói bài tụng ca này:
Với các chúng sinh nếu cho lạc (vui)
Ngàn na do tha chẳng nghĩ năm (nhiều)
Phước này chẳng lường bằng ví dụ
Nếu lòng này sinh Bồ đề nhân.
Chúng sinh sở hữu trong mười phương
Họ đều thành tựu hơn Độc Giác (Duyên Giác)
Cúng dường họ ngàn câu chi kiếp
Tâm tịnh đem vui thường ban cho.
Nếu Bồ đề này, sinh dục ra
Rằng: “Ta sẽ được trên hai cẳng” (nhị túc thượng)
Tam ma địa này trì một tụng (tụng ca)
Đâyvới đó phước thắng có thừa.
Các chúng sinh gặp đời có Phật
Ngàn câu đê kiếp cúng dường Phật
Họ cũng chẳng được ví phước này
Nếu một lòng phát Bồ đề ngay
Hợc đối với Phật pháp thủ hộ
Tam ma địa này bốn câu kệ
Phước như vậy phi tân Bồ đề
Như người thủ hộ chánh pháp kia.
Chúng sinh trong thế giới Ta Bà
Hoặc dùng Bồ đề hóa độ họ
Nghe xong, với người chẳng thọ đạo
Thì chẳng sinh ra sợ phước này.
Nếu có Bồ tát bố thí tài (của cải)
Trải hằng hà sa câu trí kiếp
Dùng trân bảo ở cõi đầy ắp
Cũng chẳng nghe Tam ma địa này
Như vậy nếu có người trí trì
Bốn câu kệ tụng của định ấy
Thì phước đức tụ nhiều lắm vậy
Chẳng cần nhiều ức kiếp thí cho.
Nếu bậc Thắng giả hộ Bồ đề
Được định Vô Trần chẳng thể nghĩ (bàn)
Chẳng thể dùng lời mà nói đủ
Như người có phước nhiếp lấy kia
Ở trong sinh tử thấy Phật nhiều
Ý niệm đó chưa từng quên mất.
Ở trong đất nước hạnh sở dục
Tam muội này nên chép giữ gìn
Niềm vui của thân như của lòng
Được sinh lên trời gặp bậc Thánh Đương lai, khổ não chưa từng gánh.
Vua Tam ma địa vui mừng theo (tùy hỷ)
Ngàn na do đa cái cửa vào
Bậc ánh sáng vô biên hứa cho
Ta trụ thắng lực mà nói ra
Cốt do định này Bồ đề được
Như Tổng trì môn được biện tại
Được Tam ma địa như thần túc
Thánh vô lưu người trí sở đắc
Nếu diễn nói Tam ma địa này
Trong các cõi người trí ra đời
Họ sẽ hiện tiền thấy chư Phật
Nghe được pháp Phật thọ trì hết
Tụng, tập, chuyển đều do định này
Nếu được đoan chính, căn đủ đầy
Ba mươi hai thứ tướng trăm phước
Chúng sinh thấy rồi vui nhảy nhót
Tụng tập, chuyển đều do định này.
Người trí tiếng đẹp lời ý hay
Đủ sáu mươi phần âm ngạn (bờ tiếng) đến
Nhiếp lấy Phật âm tịnh sinh chúng
Do nghe định này khen nói lành.
Họ sẽ được tuệ mà khôn lanh
Họ cũng được trí mà không đục (bẩn)
Lòng các chúng sinh, họ cũng biết
Nếu trì Tịch Tam ma địa này.
Cửa sở nhập không một tiếng lay
Kia ở trong ấy chẳng sinh biện (luận)
Mà trong các tiếng được xảo thiện
Do tụng Tam ma địa vô trần
Được lòng chẳng nhỏ, chẳng thẹn thùng
Lại được hoan hỷ sinh nhảy nhót
Hỷ lạc đó chưa từng giảm bớt
Do rộng nói Tam ma địa này.
Việc thấy ta nay như đến tay
Các ông nên chính tâm khởi dậy
Các ông là con, thuận ta dạy
Phát tu định này sẽ được thành.
Đây có ông hứa, ta nói lên
Các ông tịnh tâm làm tương ứng
Đến nay ta trụ nên siêng làm
Chớ để về sau phải nhiệt não.


PHẨM THỨ BA: THỌ KÝ
I- Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Hỷ Vương bạch đức Phật rằng:
- Hy hữu quá, thưa đức Thế Tôn! Rất là hy hữu Tu Già Đa! Thậm chí đức Như Lai cũng xưng nói khen ngợi công đức sở hữu của Đại Bồ tát nhiếp thọ chánh pháp này. Thưa đức Thế Tôn! Pháp nào mà Bồ tát phải đầy đủ để được Tam ma địa này?
Đức Phật dạy rằng:
- Này Hỷ Vương! Một pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này. Cái gì là một? Này Hỷ Vương! Ở trong Bồ tát bền chắc thệ nguyện trụ trong Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chỗ đó, hoặc có phá hoại, hoặc đối trước đùa giỡn, hoặc hướng về người khác hủy báng, hoặc tranh trái quấy, hoặc sân mắng, hoặc quở trách. Người kia ở trong hoàn cảnh ấy không phẩn hận, không tỵ hiềm, không sinh kết hận, mà trụ ở trên sự quan sát tâm mình. Khi ta phát tâm Bồ đề không người thỉnh ta, hoặc trời, rồng, hoặc Dạ xoa, A tu la, Già lưu trà, Kiền thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già và phi nhân, chẳng phải phi nhân, cũng chẳng có một người thế gian khác thỉnh ta. Chỉ tự tâm của ta suy nghĩ mà sinh tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhưng khi tâm đó của ta sinh ra thì các đức Phật đều biết. Ta nay chẳng nên như thế này: Như ta vì người khác phá vỡ tự tại, như đối trước người khác đùa chơi, như giận mắng, như quở trách, như khinh khi, như giỡn học, như nói hại, như đánh... muốn khiến cho họ sợ hãi xả bỏ Bồ đề hay xả bỏ chúng sinh. Như ta lại tác khởi ý nhỏ nhoi, hoặc sinh ra tâm Thanh văn hoặc tâm Độc giác... thì ta đã lừa dối các đức Phật Thế Tôn. Nếu tâm này sinh ra Bồ đề thì ta nay cần phải trụ chắc chắn ở thệ nguyện. Khi tâm đó sinh thì nhất định chẳng buông bỏ cho đến khi chưa ngồi Bồ đề đạo tràng. Này Hỷ Vương! Đây là một pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn cho ý nghĩa này sáng tỏ hơn nữa nên liền nói lời tụng ca này:
Người trí thường sinh thề bền chắc
Vì cầu Vô Thượng Đại Bồ đề
Ta ở trung gian chẳng mỏi mệt
Dùng tâm chẳng mệt hành Bồ đề.
Nếu bị đùa chơi và tranh cãi
Giận mắng, quở trách, chẳng cúng dường
Tự tâm như vậy thuận an ủi
Ở trong không có giận phá sinh (ra)
Như ta khi tâm Bồ đề sinh
Chẳng phải trời rồng... thỉnh ta vậy
Trong các chúng sinh ta sinh bi (từ bi)
Sinh tâm duyên với đạo Bồ đề.
Nếu lại ta nay khởi ý nhỏ
Thì ta lừa dối các Thế Tôn
Ta bền tinh tấn chẳng mỏi mệt
Thủ hộ thệ nguyện mà làm Phật.
Hành giả như vậy đại danh xưng
Tam ma địa này có hiện tiền
Tâm Bồ đề căn bản đứng vững
Hành pháp Bồ đề chẳng khó khăn.
Này Hỷ Vương! Lại có hai pháp cụ túc khác để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là hai? Như ngôn như tác, các hạnh Bạch pháp chọn lấy mà chẳng chán. Này Hỷ Vương! Ở trong, cái gì là như ngôn như tác? - Bồ tát này nghe nói có hạnh Bồ tát, nghe có Phật pháp đầy khắp thì Bồ tát đó chọn lấy những điều này mà làm. Ta cũng tu hành những điều này. Bồ tát hành rồi, nhân đây sẽ giác ngộ Phật pháp vô thượng. Bồ tát đó làm đúng như lời nói tức là chọn lấy mà làm. Như hành thành tựu, hành động thanh tịnh thì đây là như ngôn như tác. Sao gọi là trong các thiện hạnh chẳng chán? - Bồ tát này tác khởi ý niệm này: “Biến Trí không lường, như vậy chúng sinh không lường, ta làm lợi nghĩa, họ chẳng thể do thiếu căn lành, thiếu hạnh. Đối với vô lượng Biến trí mà được đầy khắp, vì vô lượng chúng sinh mà làm lợi nghĩa”. Bồ tát đó nếu khi phát khởi ý thiện như vậy mà đem hồi hướng hết những hồi hướng không lường đó thì sẽ như biển lớn cầu nghe chẳng chán. Này Hỷ Vương! Đây là hai pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này.
Ở trong, đức Phật lại nói lời này:
Như nói tức Như làm
Đó không chẳng Như nói
Đó cũng chẳng nói năng
Biệt dị này nếu có
Bồ tát đó là Như nói năng (ngôn thuyết)
Như vậy hạnh tướng nghe đã hành
Người trí như nói tức như tác
Đó được định này Phật công đức
Bạch pháp chẳng đủ, nhàm
Những vị đó không chán
Bồ đề kia không lường
Vô lượng tánh công đức
Với bạch pháp lại chẳng đủ, nhàm
Ý thường chẳng đủ giống như biển
Vô lượng vô biên cõi chúng sinh,
Chẳng thể ý nhỏ mà đủ, chán
Lời nói của Như tức Như làm (như tác)
Lai với pháp cầu chẳng chán pháp
Với hai pháp này thuận học hành
Kia được định này Phật công đức.
Này Hỷ Vương! Lại có ba pháp cụ túc khác để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là ba? - Bồ tát này có ba thứ cấm giới thành tựu. Những gì là ba? - Đó là thân giới, ngữ giới và ý giới; lại không có ba thứ phiền não đốt nóng. Những gì là ba? - Đó là tham dục đốt nóng, sân ác đốt nóng, ngu si đốt nóng và trong ba cõi chẳng nương mà tu hành Phạm hạnh. Có ba pháp cụ túc này Bồ tát được Tam ma địa này. Ở trong đức Phật lại nói lời này:
Cấm ngăn ba thứ chỗ
Thân, miệng và ý lòng
Đã tịch ba phiền não
Trong ba cõi chẳng nương
Cấm ngăn thân, ngữ và cả ý
Ba thứ phiền não lại lặng lòng
Và trong ba cõi chẳng nương cậy
Nên Tam ma địa được mau thành.
Này Hỷ Vương! Lại có bốn pháp cụ túc khác để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là bốn? - Đó là biết nhân sinh ra pháp, biết nhân đó rồi và biết nhân sinh ra pháp rồi liền xả bỏ cái nhân ấy và chẳng chấp trước nhân sinh ra pháp. Bồ tát đó biết đầy đủ như vậy thì Bồ tát chẳng thấy có một pháp nào mà chẳng phải do nhân sinh ra. Bồ tát đó nghĩ như vầy: “Nếu pháp đó nhân duyên sinh thì bản tính “không” kia chẳng sinh. Lại nữa, Bồ tát đó có trí cụ túc như vậy rồi thì chẳng khởi vô minh và khiến cho vô minh diệt nên vì chúng sinh mà nói pháp. Bồ tát đó chẳng khởi các hành và khiến cho biết các hành nên vì chúng sinh mà nói pháp... cho đến chẳng khởi lão tử và khiến vượt qua lão tử nên vì chúng sinh mà nói pháp. Này Hỷ Vương! Đây là bốn pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này.
Ở trong, đức Phật lại nói lời này:
Đã biết ở nhân duyên
Nhân sinh ra cũng biết
Thì đó không nhận thức
Như đoạn và cả thường
Và nhân cũng biết cùng (khắp)
Hoặc tướng, hoặc tự thể
Hoặc pháp thuộc về nhân
Ở trong, trí chẳng trước (chấp)
Sự sinh của nhân duyên
Là không, nếu có thật
Nếu trí chuyển bên trong
Thì được Tam ma địa
Khắp biết vô minh xong
Thì các hành chẳng sinh
Như biết cũng Như nói
Lợi ích cho chúng sinh.
Bốn pháp này nếu có
Bồ tát, các Thắng giả
Thì chẳng khó được thành
Tam muội Phật khen ấy.
Này Hỷ Vương! Lại có năm pháp cụ túc khác để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là năm? Này Hỷ Vương! Đó là Bồ tát biết Tác biết Hợp, biết Cửa, biết Hạnh, biết Đạo. Ở trong, sao gọi là Tác? Sở dĩ nói Tác là nếu ở trong chúng sinh mà lòng bình đẳng, xả bỏ mọi thứ tưởng, trong các chúng sinh chỉ dùng một vị Từ (bi). Đây gọi là Tác. Ở trong, sao gọi là Hợp? Nếu biết quả báo chín muồi trong thân, thiện nghiệp đã làm hồi hướng về đạo Bồ đề, ở trong chẳng chạm đến. Đây gọi là Hợp. Ở trong sao gọi là Môn (cửa)? Cái gọi là môn chính là không môn hay cam lộ môn (y vào Phạm bản thì gọi là Bất tử. Từ xưa đến nay theo nghĩa gọi là cam lộ), ở trong cũng chẳng do cái gì khác. Đây gọi là Môn. Ở trong sao gọi là Hạnh? Đó là không hạnh, độc hạnh, như hạnh. Hạnh của các pháp bản tính đều tịnh. Đây gọi là Hạnh. Ở trong, sao gọi là Đạo? Cái gọi là lìa khỏi ngã tác và ngã sở tác (ta làm và cái ta làm) là chánh kiến của bậc Thánh. Đây gọi là Đạo. Này Hỷ Vương! Đây là năm pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này.
Ở trong, đức Phật lại nói lời này:
Đẳng tâm trong chúng sinh
Những bậc đó làm vậy
Nghiệp báo thục (chín) cũng tin
Thì hợp này Vô Thượng
Đạo phi, pháp tiểu đều lìa xong
Cầu đến pháp lành chẳng ngưng bỏ
Đều đem hồi hướng Bồ đề đạo
Mà với Bồ đề, chạm đến không. ( không chạm đến Bồ đề)
Biết được cửa giải thoát
Là vô tướng và không
Cũng chẳng làm với nguyện
Đây là Vô thượng môn.
Ở trong các pháp có thiện xảo
Ở trong các pháp thường chẳng nương
Riêng tự hợp với Vô sinh cảnh (cảnh giới vô sinh)
Ngã và ngã sở, đó chẳng sinh.
Việc làm kẻ trí hợp với hạnh
Và trong bốn đạo trụ ở luôn
Là Hợp Bồ đề chẳng khó được
Huống chi Tịch tam muội này thành.
Này Hỷ Vương! Lại có sáu pháp cụ túc khác để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là sáu? Đó là biết Nhãn (mắt) và biết tự tánh của Nhãn. Kia biết Nhãn rồi và biết tự tánh của Nhãn rồi, ở trong ý sáng Sắc, chẳng ý sáng sắc không có chấp trước ngăn ngại đạt đến lượng ngang bằng. Sắc này Nhãn căn (cơ quan của mắt) chẳng đốt cháy. Như vậy biết Nhĩ, Tỷ, Thiệc, Thân, Ý và biết... tự tính của Ý... kia biết ý rồi, biết tự tánh của ý rồi, ở trong ý sáng pháp và chẳng ý sáng pháp không có chấp trước ngăn ngại, đạt đến lượng ngang bằng. Pháp này ý căn chẳng đốt cháy. Này Hỷ Vương! Đây là sáu pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này.
Ở trong, đức Phật lại nói lời này:
Biết đến tự tánh Nhãn
Phi tự tánh, tự tánh
Kia trong Sắc chẳng ngăn(ngại)
Hoặc không hoặc bất tịnh
Trong sắc đến ngang bằng
Kia không có dục nhiễm
Biết bản tính thể xong
Kia không có đốt cháy.
Như vậy Nhĩ, Tỵ cùng
Thiệc, Thân và cả Ý
Biết tự tánh kia xong
Trong các pháp chẳng trước (chấp)
Sáu cảnh giới giam cầm
Khiến bên ngoài chẳng chạy
Trí tự tánh đủ thành
Phi dục, phi ly dục
Trí như vậy tối tôn
Là bậc thắng Bồ tát
Người đó chẳng khó khăn
Được Phật Tán Tam muội.
Này Hỷ Vương! Lại có bảy pháp cụ túc khác để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là bảy? - Đó là chẳng Siểm (dua nịnh), Thuần trực, dục pháp, cầu pháp, quan sát pháp, khai pháp, hành pháp. Này Hỷ Vương! Nhờ bảy pháp cụ túc này, Bồ tát được Tam ma địa này.
Ở trong đức Phật lại nói lời này:
Không có siểm khúc luôn luôn thẳng
Và khác lời ý khác đều không
Sở niệm của ý như lời nói
Người trí tự vui kẻ khác cùng (với)
Trụ ở trong Thuận pháp, hành pháp
Dùng tiếng làm Tối Thắng chưa từng.
Như vậy siêng hợp thì được định
Mau chạm đại Bồ đề không trên (vô thượng).
Đó có dục pháp vang tiếng cả (lớn)
Có chán đủ cầu nghe chưa từng
Như nghe chánh niệm mà quan sát
Vì người nghe (người) đó lại tuyên dương.
Này Hỷ Vương! Lại có tám pháp cụ túc khác để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là tám? Đó là: Giới tụ đều tịnh, các ái trước xa lìa, lòng thường xuất gia, ưa trụ chỗ tịch tịnh, chẳng vì các lợi dưỡng, lòng chẳng tiếc thân, tín giải cao đạo, đối với ái, chẳng ái lòng bình đẳng. Này Hỷ Vương! Đầy đủ tám pháp này Bồ tát được Tam ma địa này.
Ở trong đức Phật lại nói lời này:
Khắp tịnh với giới tụ
Trong thiện tịnh trụ dừng
Đã lìa các ái trước
Trong Thắng giáo xuất gia
Thiện Thệ dạy Tỳ kheo
Nên xả bỏ lợi dưỡng
Mà cầu trụ Tịch này
Định này rất khó thấy
Hành tối thượng này nếu tu hành
Trong ái, chẳng ái không có khác
Nhiếp lấy tám pháp mà chuyển hành
Thượng Tam ma địa này ắt được.
Này Hỷ Vương! Lại có chín pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là chín? Này Hỷ Vương! Đó là Bồ tát này xả bỏ chín việc sân, vượt khỏi chín chỗ chúng sinh trụ (ở), thành tựu chín lớp định, qua khỏi tám tà đão (tà kiến điên đảo), vào trong tám chánh, lìa khỏi tám chẳng nhàn, chứng tám giải thoát, biết bảy thức trụ, tu bảy giác phận. Này Hỷ Vương! Đầy đủ chín pháp này, Bồ tát được Tam ma địa ấy.
Ở trong, đức Phật lại nói lời này:
Chín trú xứ sinh chúng
Ở trong chúng sinh nương
Đoạn lìa khỏi các kiến
Kia không có hỏi nương (y vấn)
Đoạn lìa tám chẳng nhàn
Đã chạm tám giải thoát
Ở chỗ trụ bảy thức
Dùng chánh niệm biết cùng (khắp)
Người trí tu niệm bảy giác phận
Đoạn các phân biệt, bứng não phiền
Như vậy siêng hợp thì được định
Thắng Bồ đề cũng lại chạm liền.
Này Hỷ Vương! Lại có mười pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là mười? Đó là: Bỏ các sở hữu, kham nhẫn thuần trực nhiếp lấy lưu chuyển không lường, đầy đủ trí xuất thế, chẳng được các chúng sinh mà Đại từ, trì giữ những điều đã nghe do đa văn, vượt các cuộc bố thí mà Đại Bi, chẳng dùng các phương tiện vui khéo léo, niệm khắp các đức Phật, mười nghiệp đạo thiện này, thậm chí trong mơ cũng chẳng quên mất, nói pháp nương vào tâm Bồ đề, chẳng tham muốn thừa khác. Này Hỷ Vương! Đầy đủ mười pháp này thì Bồ tát được Tam ma địa ấy.
Ở trong, đức Phật lại nói lời này:
Bỏ các sở hữu mà vui mừng
Cũng có lời nhẫn, tâm thuần trực
Câu trí kiếp, hạnh thiếu thốn không
Tam muội này, người đó mau được.
Người có trí tuệ không não phiền
Kẻ có lòng từ không hy vọng
Nhiếu thọ điều nghe chẳng mất quên
Tịch tam muội này người đó được.
Bi các chúng sinh, chẳng đùa bàn (hí luận)
Các xảo phương tiện chẳng ưa thích
Chánh niệm là niệm các Thế Tôn
Tịch tam muội này, người đó được
Hộ những mười thiện đều sạch trong
Thậm chí trong mơ chẳng từng mất
Lòng nghĩ đến hạnh Bồ đề luôn
Trong tiểu thừa chưa từng hâm mộ.
Như tối thắng pháp này nếu có
Thì được Phật pháp chẳng khó khăn
Quân chúng Ma la (ma) chóng phá được
Sẽ chạm Tịnh Bồ đề tối tôn.
Lại nữa, khi đức Thế Tôn nói pháp bản này thì bảy mươi ngàn chúng sinh xa trần lìa cấu, ở trong pháp được pháp nhãn tịnh, bảy ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Giác, đều được thọ ký Bất thoái chuyển, ba mươi ngàn Bồ tát trong pháp Vô sanh được Nhẫn mà về sau muốn hộ trì thành lũy pháp, vô lượng chúng sinh thành tựu căn lành. Ba ngàn đại thiên thế giới này, sáu thứ chấn động, đại quang soi khắp thế gian, ba đường ác lặng dừng, trước mặt các chúng sinh, họ đều thấy đức Như Lai. Đức Thế Tôn, từ thân lại phóng ra ánh sáng. Nhờ ánh sáng này nên vô lượng vô số thế giới tràn đầy ánh sáng. Chúng sinh ở những nơi đó mà ánh sáng chạm đến thân rồi thì họ đều đối với đức Phật, chánh niệm thuận theo, cùng vui tương ứng, lìa bỏ nhiệt não. Ánh sáng Thế Tôn đó, ở trong mười phương, vô biên trân bảo trang nghiêm, chẳng phải một trăm ngàn thứ màu sắc. Có câu trí na do đa hoa sen trăm ngàn cánh mọc ra khắp các chỗ. Trong hoa sen có hình tượng giống như đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Nhưng hình tương tợ Như Lai đó, ở trong hoa sen kia, ngồi ngay thẳng hiển hiện. Trong những chỗ hoa sen đó, trên đài hoa sen có vị tương tợ Hỷ Vương Đại Bồ tát, gối phải trụ ở đài hoa sen rồi, cũng hỏi Tam ma địa này như vậy. Mỗi một vị Như Lai đó giác ngộ, thành thục vô lượng câu trí na do đa trăm ngàn chúng sinh. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Đại Bồ tát Hỷ Vương rằng:
- Này Hỷ Vương! Ông có thấy trong khắp mười phương vô lượng vô số vị Như Lai tương tợ ta ngồi trong hoa sen và những Đại Bồ tát tương tợ Hỷ Vương như vậy chăng?
Ngài Hỷ Vương đáp rằng:
- Con thấy, thưa đức Thế Tôn! Con thấy, thưa Tu Già Đa! Nhưng mà con chẳng biết số lượng.
Đức Phật dạy:
- Này Hỷ Vương! Có thể thủ lấy hết số lượng cát sông Hằng mà chẳng thể biết số lượng của những đức Phật Thế Tôn đó. Như vậy các đức Phật Thế Tôn sở hữu ông đã thấy vậy. Như vậy số Đại Bồ tát tương tợ ông kia cũng lại chẳng thể biết số lượng của họ.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thu nhiếp lại thần lực hy hữu xong liền bảo Đại Bồ tát Hỷ Vương rằng:
- Này Hỷ Vương! Ý ông thế nào? Như Lai từ cõi Phật này có chỗ ra đi sao? Ngồi mà động sao? Ông cũng có chỗ ra đi sao?
Ngài Hỷ Vương đáp rằng:
- Chẳng vậy, thưa đức Thế Tôn! Chẳng vậy, thưa Tu Già Đa!
Đức Phật dạy rằng:
- Này Hỷ Vương! Do chính nhân duyên! Ông nên biết rằng, các pháp đều Như, sinh tướng tác trụ, khởi ra phân biệt, không lai không khứ, sở dục Như, sở tác Như vì không ai chủ vậy. Ông nên biết, những cái đó đều rỗng không, chia lìa. Này Hỷ Vương! Vậy nên ông đối với các pháp nên phải tín giải, thấy chúng như lửa hừng, như mộng mơ, như bóng dáng, như tiếng vang, như trăng đáy nước, như điện chớp, như bọt nước... Các ông nên học như vậy. Vì sao vậy? Vì Bồ tát tín giải sâu sắc sẽ được Tam ma địa này.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 4 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Kinh Bi Hoa


Pháp bảo Đàn kinh


Các vị đại sư tái sinh Tây Tạng


Tôi đọc Đại Tạng Kinh

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.119.125.240 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập