Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình.
Kinh Pháp cú
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
PHẨM THỨ BA : QUÁN TƯỚNG
IV- Đức Phật nói với Phụ vương rằng :
- Sao gọi là quán tướng phóng ra ánh sáng thường của đức Như Lai ? - Như Lai, hôm nay vì những người phàm phu của đời vị lai sẽ thị hiện ánh sáng ít ! Những phàm phu kia sẽ học sự quán tưởng đó. Người quán như vậy thì cũng như ngày hôm nay thấy tướng ánh sáng của Phật không có khác.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng Nhục kế. Ánh sáng ấy có hàng ngàn màu. Mỗi màu tạo ra tám muôn bốn ngàn chi. Mỗi một chi có tám muôn bốn ngàn những vị hóa Phật vi diệu. Thân của những hóa Phật ấy nhiều vô lượng vô biên. Trên đỉnh hóa Phật cũng phóng ra ánh sáng này. Từng ánh sáng, từng ánh sáng tiếp theo nhau cho đến vô lượng thế giới của thượng phương. Ở thế giới thượng phương có những hóa Bồ tát nhiều như đám mây vi trần từ hư không hạ xuống vây quanh các đức Phật. Khi ánh sáng này hiện lên thì các đức Phật của thế giới nhiều như vi trần trong mười phương cũng đều được thấy. Ánh sáng này chiếu thẳng lên đỉnh của chư Phật. Chư Phật phóng ra ánh sáng thì ánh sáng ấy cũng chiếu xuống đỉnh của Phật Thích Ca Văn.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Chúng sinh muốn quán tưởng ánh sáng Nhục kế của Phật Thích Ca Văn thì phải tác khởi sự quán tưởng đó. Người thực hành sự quán tưởng đó, nếu tâm chẳng linh lợi thì trong mơ được thấy. Tuy nhiên tâm tưởng đó có thể trừ vô lượng trăm ngàn trọng tội. Người quán như vậy thì thân hiện tại nhất định thấy các vị Đại Bồ tát. Thấy Bồ tát nên nghe được Bồ tát nói pháp. Nghe nói pháp nên được Đà la ni. Đà la ni ấy gọi là “Toàn ức trì” (giữ gìn điều nhớ trở lại). Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Đức Phật bảo với vua cha rằng :
- Sao gọi là quán ánh sáng mày (mi gian) của Như Lai ? Hôm nay Như Lai vì các chúng sinh đời sau này nên phải hiện ít ánh sáng của tướng Bạch hào.
Khi nói lời nói đó thì mi gian của đức Phật phóng ra ánh sáng tướng đại nhân Bạch hào. Ánh sáng ấy chia làm tám muôn bốn ngàn chi. Mỗi chi cũng có tám muôn bốn ngàn màu, soi khắp mười phương vô lượng thế giới. Mỗi một màu sáng hóa ra một núi vàng. Mỗi một núi vàng có vô lượng khám thờ, hang động. Trong mỗi một hang động có một vị hóa Phật ngồi kiết già vào sâu thiền định với trăm ngàn đại chúng Thanh văn Bồ tát làm quyến thuộc. Trong các hang động có các hóa Phật, các đức Phật đó đều phóng ra ánh sáng tướng Đại nhân Bạch hào, cũng chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới, đều như màu vàng. Trên đất màu vàng có hoa sen vàng. Trên hoa sen vàng đều có vị hóa Phật cũng đều đồng danh hiệu là Thích Ca Văn. Mi gian của các đức Phật cũng phóng ra ánh sáng này. Ánh sáng ấy soi khắp mười phương thế giới giống như trăm ngàn ức vua núi Tu di chung hợp về một chỗ. Các núi Tu di ánh hiện các đức Phật. Thân Phật cao hiển cùng với núi ngang bằng. Ánh sáng mi gian của những vị hóa Phật đó nhiễu quanh các vị hóa Phật đủ bảy vòng rồi trở lại nhập vào mi gian của Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi ánh sáng này nhập vào lỗ chân lông thân Phật thì trong mỗi lỗ trong lông có một vị hóa tượng. Trong lỗ chân lông của thân mỗi một hóa tượng hóa thành tám muôn bốn ngàn tượng vi diệu. Đó đều là việc hiếm thấy của tất cả chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới. Đó gọi là ánh sáng của một vẻ đẹp trong tám mươi vẻ đẹp của Như Lai. Ánh sáng của tám mươi vẻ đẹp tùy hình như vậy, nói chẳng thể hết. Như Lai chỉ hiện chút ít ánh sáng Bạch hào. Trong chúng tướng của vua cha, có tám ngàn người xa trần lìa cấu được Pháp nhãn tịnh. Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Ánh sáng tướng Bạch hào của Như Lai, trong các kinh điển Phật đã nói rộng rãi. Ánh sáng nhiệm màu như vậy chỉ có Phật mới thấy được của Phật, còn Bồ tát thập địa chẳng thấy rõ ràng. Vậy nên lấy phần ít trong tướng này mà nói. Nói phần ít là vì người phàm phu. Sau khi Phật diệt độ, người quán tưởng như vậy gọi là Chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Ánh sáng này trừ diệt tội như vừa nói ở trên. Duy chỉ người thấy ánh sáng thì lòng được tỏ rõ, thấy hàng trăm ức đức Phật. Người thấy tướng Bạch hào chính là tâm tưởng thấy.
Sao gọi là quán tưởng tướng trán rộng bằng phẳng của Như Lai ? - Trên mặt Như Lai có tướng ba luân, tướng mép tóc... mọi tướng như vậy. Trong mỗi một tướng đều phát ra ánh sáng vàng. Ánh sáng màu vàng ấy hóa thành giường vàng. Trên mỗi một giường vàng ấy có một ngàn vị Bồ tát, Câu Lâu Tôn Đà là vị đầu tiên đến nơi giường. Một ngàn vị Bồ tát đều phóng ra ánh sáng, ngồi trên giường vàng. Như vậy có trăm ức ngàn vạn Bồ tát, trăm ức ngàn vạn giường vàng. Trên giường vàng ấy đều có bảo trướng. Mỗi một bảo trướng có hàng ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng hóa thành hàng ngàn bảo tràng. Trên mỗi một tràng có hàng ngàn vạn bảo cái. Dưới mọi bảo cái có các bảo phan. Trong các bảo phan có vô lượng vị hóa Phật. Các vị hóa Phật đó đều nói về khổ, không, vô thường, vô ngã. Tất cả các vị hóa Phật, khi nói kệ này thì đức Phật Thích Ca Văn, phương thân một trượng sáu, ở trước mặt hành giả, đưa tay phải lên mà nói rằng : “ Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông nay có thể quan sát tướng tốt của các đức Phật. Chúng ta đời trước hành đạo Bồ tát so cùng ông không khác ! Ông nay có thể quán tưởng cảnh giới các đức Phật. Cảnh giới này chỉ là sự phát sinh của vọng tưởng trong lòng các ông. Nói lời nói đó xong liền biến mất. Những ánh sáng trên trán trở lại sáng rỡ. Ánh sáng ấy lan tỏa ra có đến trăm ngàn ức luồng. Mỗi một ánh sáng chiếu soi mặt các vị Bồ tát ngồi trên giường báu. Mặt những vị Bồ tát kia cũng phát ra ánh sáng chiếu soi Phật Thích Ca Văn. Khi hiện ra tướng này, hành giả quan sát mặt Phật chân thật tỏ rõ không nghi ngờ.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật có thể quán thấy chân thật mặt Phật, so cùng ta khi còn tại thế ngang bằng không có khác. Người tác khởi sự quán tưởng này, trừ được một ức kiếp tội sinh tử. Nơi sinh ra thân sau được diện kiến các đức Phật giáng sinh vào nhà các đức Phật, làm quyến thuộc của các đức Phật, Bồ tát. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán tưởng mũi phát ra ánh sáng của Như Lai ? - Mũi phát ra ánh sáng chia làm bốn chi, đi lên vào mắt Phật, lông mày Phật, lông mi Phật, rồi phát ra ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy kéo đến dày đặc như hình rồng, voi, soi khắp mười phương vô lượng thế giới vào trong mắt của các đức Phật. Khi hiện tướng này thì mười phương rất sáng. Khi đó, các hành giả thấy đất và hư không của mười phương thế giới đầy chư Phật trong đó. Mắt, lông mày, lông mi, lỗ mũi của mỗi một đức Phật phóng ra ánh sáng lớn cũng lại như vậy. Hai luồng ánh sáng của mắt Phật soi vào khắp mắt của các đức Phật. Rồi chúng ở trong hư không hóa thành đài ánh sáng. Trên đài ánh sáng ấy chỉ thuần là mây ánh sáng mà mây ánh sáng xanh trắng trong thế giới không sánh được. Ở trong ánh sáng xanh có vị hóa Phật màu xanh. Ở trong ánh sáng trắng có vị hóa Phật màu trắng. Hai đức Phật màu xanh, trắng này, trái phải phân minh, có ánh sáng màu bách bảo làm mây cho các đức Phật ấy như người có thần thông bay lướt đi trong đám mây. Các lỗ chân lông của thân Phật giống như cây hoa. Mỗi một cây hoa cao lên đến cõi Phạm, các cánh hoa có trăm ngàn ức Thanh văn Tỳ kheo. Mỗi một Tỳ kheo mặc áo ngàn mảnh (áo có nhiều mảnh ghép lại) mà ngàn mảnh là ngàn màu. Trong mỗi một màu có trăm ngàn vị hóa Phật đều thuần một màu vàng. Các vị Tỳ kheo đó bay vọt thân trong mây cũng theo sau đức Phật như rồng, voi lớn đi thì con của chúng đi theo.
Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :
- Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, nếu có thể chính tâm quán tưởng ánh sáng mắt Phật thì nghiệp chướng nặng của đời hiện tại liền được tiêu trừ, ở đời đương lai thường được quán Phật, chẳng lìa khỏi mặt trời Phật, tuy ở thai mẹ nhưng thường vào tam muội, khi ở tại thai mẹ thấy Phật mười phương đều phóng ra ánh sáng mắt đến soi thân mình, khi trong vỏ trứng thai thường thọ pháp mầu, huống là đã ra bên ngoài. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Mũi phát ra hai luồng ánh sáng. Ánh sáng ấy chiếu khắp mười phương thế giới. Mỗi một ánh sáng ấy hóa thành đại thủy (nước to). Nước ấy trụ ở hư không, chảy vào các ánh sáng. Khi nước này chảy vào thì tất cả ánh sáng lại càng hiển minh. Mỗi một vùng sáng sinh ra núi Pha lê. Mỗi vùng núi Pha lê sinh ra hoa bảy báu. Trên đài hoa ấy vọt trào ra các thứ nước. Nước ấy màu vàng giống như Tràng bằng vàng. Bên trong Tràng vàng ấy có trăm ngàn vạn không lường vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật, phương thân một trượng sáu. Trong lỗ chân lông của thân Phật có tám muôn bốn ngàn sắc báu thượng diệu. Trong các sắc báu lại phóng ra ánh sáng. Ánh sáng ấy nhiệm mầu có hằng hà sa số màu - Đức Phật bảo ngài A-nan - Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật tác khởi sự quán tưởng đó thì trừ khước được nghiệp ác rất nặng của một ngàn kiếp, chỗ sinh đời sau lòng không sở trước, chẳng ở bào thai, luôn luôn hóa sinh, đã hóa sinh rồi thì ánh sáng của thân đầy đủ chẳng lìa khỏi các đức Phật. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán tưởng ánh sáng diện môn của Như Lai ? - Ánh sáng ấy màu trắng giống như núi báu, trong ngoài đều sạch. Ở bên trong núi báu có vô lượng vị hóa Phật màu chân Kim tinh. Diệu môn của các hóa Phật cũng phóng ra ánh sáng. Ánh sáng ấy năm màu soi khắp mười phương, rồi vào diện môn của các đức Phật. Khi hiện tướng này thì hành giả đi đứng ngồi nằm luôn luôn nghe đức Như Lai nói về Tứ niệm xứ, thân thọ tâm pháp, đồng thời nghe nói cảnh giới, khiến cho hành giả nghe rồi nhớ nghĩ, giữ gìn, nhắm mắt tư duy. Nhờ sức của ánh sáng này nên hành giả được pháp Tứ niệm xứ. Các đức Phật mười phương và Phật Thích Ca Văn ở trong tam muội, đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu hành giả mà nói lên rằng : “ Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi có thể chân thật hành Niệm Phật định”. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán tướng tai của Như Lai ? - Tai Phật phát ra năm ánh sáng. Ánh sáng ấy có một ngàn màu. Mỗi màu có một ngàn vị hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật phóng ra một ngàn ánh sáng. Ánh sáng như vậy soi khắp mười phương vô lượng thế giới, rồi hóa thành một đóa hoa. Hoa ấy rất lớn, đo lường chẳng thể biết, ngoại trừ sức Phật tâm, không ai có thể biết. Trong hoa sen đó, có trăm ngàn vạn ức vô lượng cõi Phật đều hiện ra và có trăm ngàn vạn ức các Đại Bồ tát ngồi trên một tua hoa, tua hoa chẳng lớn, Bồ tát chẳng nhỏ mà cũng chẳng phương hai nhau. Những Bồ tát như vậy, trái tai đều thòng xuống như sen vàng treo ở ánh sáng mặt trời. Cũng ở trong tai quay lại sinh ra năm luồng ánh sáng. Khi tướng này hiện thì lông trong tai Phật như cây của Đế thích mà mọi người ưa nhìn thấy - Đức Phật bảo ngài A-nan - Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật tác khởi sự quán tưởng đó thì thường nghe trăm ức ngàn đức Phật và các vị Bồ tát nói mọi diệu pháp, chẳng bị hư hoại nhĩ căn. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán tướng cổ của Như Lai ? Tướng cổ phát ra hai luồng ánh sáng. Ánh sáng ấy có một vạn màu, soi khắp tất cả thế giới mười phương. Có các chúng sinh thuần thục thiện căn gặp ánh sáng ấy thì ngộ được mười hai nhân duyên, thành Bích Chi Phật. Ánh sáng này soi cổ các Bích Chi Phật. Khi tướng này hiện thì hành giả thấy khắp tất cả những Bích Chi Phật trong mười phương ném bát lên hư không, tạo tác mười tám sự biến hóa. Dưới mỗi một chân của các Bích Chi Phật đều có văn tự. Văn tự ấy diễn nói mười hai nhân duyên : Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi khổ não. Một chữ có một ánh sáng, một ánh sáng có mười hai âm (âm thanh), một âm nói khổ, không, vô thường, vô ngã, một âm diễn nói mười hai nhân duyên. Như vậy, trong ánh sáng dưới chân Phật Bích Chi đều có chữ đó, nghịch thuận qua lại đến mười hai lần. Đó gọi là căn bản sinh tử vậy. Ánh sáng này soi các Bích Chi Phật rồi thì trở lại cổ Phật. Người tạo tác sự quán tưởng này chẳng sinh trong loài người mà sinh lên cõi trời Đâu suất, gặp được Bồ tát Nhất Sinh Bổ Xứ vì họ nói diệu pháp. Đã nghe pháp rồi, thân tâm hoan hỉ, học theo các Bồ tát quán pháp duyên khởi. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán tướng xương Khuyết bồn đầy đặn của Như Lai ? - Ánh sáng tướng đầy đặn soi khắp mười phương tạo thành màu hổ phách. Nếu có chúng sinh gặp ánh sáng này thì tự nhiên phát ý đạo Thanh văn. Những Thanh văn đó thấy ánh sáng này chia làm mười chi, mỗi chi có một ngàn màu. Mười ngàn ánh sáng màu, mỗi ánh sáng có một vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có bốn vị Tỳ kheo làm thị giả. Mỗi một vị Tỳ kheo đều nói khổ, không, vô thường, vô ngã, phân biệt bốn đế, nói ý nghĩa Bát đại nhân giác, nói bốn quả tướng, nói ba tam muội... khiến cho những chúng sinh kia ở trong pháp này cầu pháp xuất gia, xuất gia chẳng bao lâu đều thành A la hán. Như vậy ánh sáng soi khắp đỉnh đầu của các La hán trong mười phương. Khi soi đỉnh đầu các vị ấy thì như người cầm bình thuốc nước rót vào đỉnh đầu. Hình trạng sắc mạo ánh sáng ấy giống như đề hồ, theo đỉnh vào rồi, xuyên suốt bày rõ. Lúc bấy giờ, hành giả thân tâm yên ổn. Tâm ấy điềm nhiên không có ác tưởng, chẳng thấy tướng mạo của các sử và kết. Như vậy bỗng nhiên thành A la hán ngay. Ánh sáng này lại biến thành táng che màu vàng nhiều không lường. Trong mỗi một táng che có trăm ngàn thất Phật. Mỗi một thất Phật có bốn vị Tỳ kheo làm thị giả. Mỗi một vị Tỳ kheo vào bốn đại định. Trong bốn đại định khắp hiện tướng mạo của tất cả kết sử : Tám vạn hộ trùng đắp đổi mà sinh ra, các chủng loại trùng nhỏ cũng đều sinh theo. Khi tướng này hiện thì trước tiên lửa dậy lớn. Lửa dậy lớn bắt đầu như hạt cải, từ lỗ chân lông phát ra rồi sau lớn lên dần dần, thiêu đốt khắp các thân. Thân như lửa tụ lại, các trùng kêu rống như tiếng sư tử. Khi tiếng này phát ra, lòng hành giả sợ hãi mê muội, ngã lăn ra đất. Ra khỏi định, hành giả thấy thân như lửa đồng hoang đi bên cây bị đốt cháy. Khi tướng này hiện thì hành giả phải khởi lên tâm tạo ra một dược tưởng (tư tưởng về thuốc). Trước hết tác khởi thân tưởng, thân tưởng đã thành thì mở đỉnh (đỉnh đầu) khiến cho rỗng không, rồi tác khởi Phạm vương tưởng, tác khởi Đế thích tưởng, tác khởi ý tưởng chư thiên, tay cầm bình báu, ý tưởng đem thuốc rót vào. Khi thuốc đã vào đỉnh thì vào khắp bốn thể và trong các mạch, thấy mạch và thân như ống lưu ly, chỉ thấy các trùng như hoa héo chết. Lúc bấy giờ, các mạch lại chảy rót vào nhau, chỉ có các loại nước. Chỗ nào nước đến thì lửa tắt theo. Lúc đó, hành giả, từng đốt từng đốt nước phun ra như người ngước bắn lên. Nước lên đến bờ cõi Phạm, từng luồng nước tiếp nhau lên đến cõi Phạm thiên. Hành giả thấy nước trong thân mình như bốn biển lớn, thấy các trùng, đầu héo, tróc rễ, tay gẫy, chân cong queo. Chỉ có tim hành giả sinh ra lửa phân làm mười chi. Lửa vào các loại nước chẳng tiêu diệt nhau. Ánh nước xông lên, ánh lửa đuổi theo. Hai ánh sáng nước lửa đều từ tim phát ra, xen lẫn hổ tương nhau lên đến tột đỉnh ba cõi, xuống đến ngục A tỳ. Hết bờ cõi một thế giới chỉ thuần thấy nước lửa tuông chảy, đông tây nam bắc lửa cũng chạy theo. Lúc bấy giờ, đầu trái tim tự nhiên mọc một sợi lông đen. Ở đầu sợi lông ấy phát ra một luồng gió đen lớn. Gió ấy có bốn màu theo tâm căn (trái tim) khởi lên như cơn gió lốc xoáy mà hình trạng như khói lửa. Ngọn gió ấy thổi khắp tất cả các dòng nước. Nước ấy dậy sóng, bọt tụ thành đống, lửa cũng vào trong đó. Được sức lửa nên bọt cứng như băng. Rồi lại có gió đến, thổi các bụi bẩn, chín mươi tám thứ vật ác, bất tịnh đem đặt lên trên băng. Sức băng yếu nên theo vật bất tịnh tan, chỗ đặt liền tan ra. Khi băng (nước đá) này tan thì tám người (bát đại nhân giác ?) cầm dao chặt khối băng thành khúc, lấy mà mang đi. Bui đất lấm bẩn, lòng buồn rầu mà nằm. Gió, lửa, nước.v.v... tụ hợp một chỗ. Sức lửa lớn nên thiêu đốt hủy hoại mọi vật. Có bốn con ác xà (rắn độc) ngậm một viên ngọc báu, từ nơi lửa cháy vút lên hư không bay đi. Có sáu con rồng lớn đón bốn con li nhỏ (một loại rồng nhỏ không có sừng) đớp lấy mà chạy. Đỉnh đầu rồng mọc lên cây cao đến cõi Vô sắc. Có một cây cỏ nhỏ, nhỏ như sợi lông mùa thu (thu hào). Có sắc chính màu vàng, từ lõi cây mọc xuống rễ cây, rồi từ rễ cây mọc lên vào thân cây, từ thân cây mọc tứ tản vào cành lá. Hoa cây ấy màu trắng cũng có hồng, đỏ. Trái của cây ấy sắp chín làm thành bốn màu. Đến nửa tháng tám thì thuần một màu hoàng kim. Như ánh sáng này chiếu soi các Thanh văn thì biến hóa vô lượng trăm ngàn cảnh giới. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Nếu có các Tỳ kheo khi vào định này mà thân như cây chuối không có bền thật thì khi ra khỏi định, chi tiết thân thể đau đớn tê liệt. Nếu họ chẳng uống thuốc thì phát điên mà chết. Vậy nên phải kịp thời dùng một thứ thuốc để tiêu diệt. Người tác khởi sự quán tưởng đó trừ được tội sinh tử của vô số kiếp. Như dòng nước lớn, chẳng bao lâu họ sẽ đắc đạo A la hán - Đức Phật bảo ngài A-nan - Ông hãy gìn gìn lời nói chân thật của Phật chớ quên ! Rồi vì các Tỳ kheo, ông phải tuyên nói rộng rãi.
Khi đức Phật nói lời nói đó thì năm trăm vị Tỳ kheo được bốn đại định, đồng thời đều được bốn quả Sa môn.
Sao gọi là quán tưởng tướng chữ Vạn giữa ngực của Như Lai ? - Ngọc Ma ni dưới nách đều phóng ra ánh sáng. Trong ánh sáng hồng tía ấy có hoa vàng. Hoa ấy nở ra hóa làm vô lượng trăm ngàn vạn ức vô số những hoa. Trên mỗi một hoa, có vô lượng đức Phật. Những vị hóa Phật đó đều có một ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng có một hóa Phật. Ánh sáng ấy năm màu. Nếu có chúng sinh gặp ánh sáng này thì người điên được chính, người loạn được định, người bệnh được bớt, người nghèo cùng tự nhiên được báu, người mù được nhìn thấy, người điếc được nghe, người câm có thể nói, người gù, thọt, ghẻ lở, cùi hủi đều được trừ hết. Ánh sáng ấy vào khắp trên đỉnh của chư Phật mười phương. Nó nhập vào rồi thì trong ngực các đức Phật có trăm ngàn ánh sáng từ chữ Vạn sinh ra. Trong mỗi một ánh sáng ca lên hàng trăm ngàn bài kệ diễn nói về Đàn Balamật (Bố thí Balamật)... Những ánh sáng như vậy diễn nói sáu Balamật. Kệ ấy nhiều không lường. Hành giả ngồi ngay nghe vô lượng đức Phật đều nói về pháp đó. Mỗi một đức hóa Phật sai một hóa nhân đoan nghiêm vi diệu giống như đức Di Lặc đến an ủi hành giả mà nói lên rằng : “ Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông ràng buộc ý niệm nên thấy ánh sáng của các đức Phật. Trong ánh sáng chư Phật nói lên Vô tướng thí, nói lên Vô tướng giới, nói lên Vô tướng nhẫn, nói lên Vô tướng tinh tấn, nói lên Vô tướng định, nói lên Vô tướng tuệ. Ngươi nghe pháp này hãy thận trọng chớ kinh sợ. Các đức Phật quá khứ ràng buộc ý niệm tư duy cũng nghe pháp đó, cũng giải tướng đó. Giải được tướng đó rồi thì chẳng sợ sinh tử. Dù ở đại địa ngục A tỳ đầy lửa dữ cũng chẳng thể đốt cháy. Tuy ở địa ngục mà như dạo chơi ở thiên cung. Vậy nên chữ Vạn gọi là Thật Tướng Ấn. Các đức Phật Như Lai, vô lượng vô biên atăngkì kiếp học được ấn này, nhờ được ấn này nên chẳng sợ sinh tử, chẳng nhiễm năm dục - Đức Phật bảo ngài A-nan - Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, người thấy ánh sáng tướng ngực của Phật thì trừ khước được tội sinh tử của mười hai vạn ức kiếp. Nếu người chẳng thể thấy tướng ngực phân minh thì vào Tháp mà quán tưởng tướng đó. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán tưởng tướng cánh tay tròn nhỏ như vòi voi chúa của Như Lai ? - Mười ngón tay hợp lại căng bàn tay ra thành hàng ngàn vòng nan hoa mà mỗi mỗi đều phóng ra trăm ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng chia làm hàng ngàn chi thuần là màu hồng. Mọi ánh sáng như vậy soi khắp mười phương vô lượng thế giới. Chiếu soi thế giới rồi hóa thành nước vàng. Trong nước vàng, có một thứ nước vi diệu như màu thủy tinh mà ngã quỉ nhìn thấy thì trừ được nóng nảy trở nên mát mẻ, súc sinh nhìn thấy thì tự biết được túc mạng, voi điên nhìn thấy thì trở thành Vua Sư tử, Sư tử nhìn thấy là Chim cánh vàng, các rồng nhìn thấy là vua chim cánh vàng. Các súc sinh đó đều thấy được tôn trọng nên lòng phát sinh sợ sệt, chắp tay cung kính. Do cung kính nên sau khi mạng chung được sinh lên trời. Mọi người nhìn thấy nước thủy tinh đó như vua Phạm thiên, hoặc như mặt trời, mặt trăng, tinh tú... thấy rồi hoan hỉ nên sau khi mạng chung sinh lên cõi trời Đâu suất. Hành giả thấy điều đó, tâm nhãn liền mở ra thấy hóa Phật đầy trong cõi mười phương. Tay của mỗi một hóa Phật phát ra ánh sáng nhập vào mắt hành giả nên dù nhắm mắt hay mở mắt đều luôn thấy các đức Phật. Hành giả tự quan sát thân tướng mình như trong bình báu diệu có sự bất tịnh. Như vậy người thấy tuy chưa được thông nhưng đã đến khắp mười phương, hầu hạ qua các đức Phật, thấy tay của mỗi một đức Phật phóng ra ánh sáng cũng lại như vậy. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán tưởng tướng rốn của Như Lai ? - Trong rốn của Như Lai có hàng vạn ức hoa báu. Mỗi một hoa báu có hàng vạn ức nadotha cánh. Mỗi một cánh hoa có hàng vạn ức nadotha màu. Mỗi một màu có hàng vạn ức nadotha ánh sáng. Khi hiện tướng này thì tất cả đại chúng thấy tướng tim của Phật. Tim của Như Lai như đóa hoa sen hồng mà hoa vàng ánh che khiến cho ánh sáng vàng tía xen lẫn vào như ống lưu ly treo ở trước ngực đức Phật. Hành giả thấy bên trong thân Phật hàng vạn ức vị hóa Phật. Các vị hóa Phật đó ở vùng tim Phật. Rốn của mỗi vị Phật phát ra ánh sáng kéo tới sáng rỡ như núi Tu di. Xen giữa các núi có vô lượng núi báu như núi Tu di. Trên mọi hoa này đều có vị hóa Phật nghiêm trang hiển hách khả quan như núi Tu di. Ánh sáng ngàn thứ có đến mười ngàn màu chia làm mười ức ức chi. Ức ức chi soi xuống hạ phương, ức ức chi soi lên thượng phương, ức ức chi soi phương Đông, ức ức chi soi phương Nam, ức ức chi soi phương Tây, ức ức chi soi phương Bắc, ức ức chi soi phương Đông Nam, ức ức chi soi phương Tây Nam, ức ức chi soi phương Tây Bắc, ức ức chi soi phương Đông Bắc. Như vậy mười phương đều có các hoa. Hoa nhỏ nhất thì giống như trăm ức núi Tu di lớn. Trên mỗi núi Tu di có trăm ức vạn các vị Đại Bồ tát. Thân nhỏ nhất của các vị thì như núi Tu di. Trong rốn của các vị hóa Bồ tát đều mọc ra một hoa sen lớn. Các hoa sen ấy che khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Mỗi một đóa hoa có ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy giống như vàng Diêm Phù Đàn. Mỗi một ánh sáng vàng hóa ra Phật Thích Ca Mâu Ni nhiều như vi trần. Trong rốn mỗi một vị Phật Thích Ca phát ra ánh sáng cũng lại như vậy. Mọi ánh sáng như vậy hợp thành đài ánh sáng. Mọi đài ánh sáng ấy cũng có vô lượng những vị Đại Hóa Phật nhiều như vi trần như cát sông Hằng. Từng đức Phật, từng đức Phật tiếp nhau phóng ra ánh sáng của rốn. Ánh sáng ấy rất thịnh chiếu thẳng lên vô lượng thế giới ở thượng phương và qua khỏi những thế giới đó. Như vậy số những thế giới nhiều như vô lượng vi trần của ba ngàn đại thiên thế giới. Trong những thế giới đó đều có lưu ly, pha lê.... hàng ức thứ báu dùng làm hang động của Phật. Trong mọi hang động đó đều có hàng vạn ức không lường các đức Phật. Trong rốn các đức Phật, mỗi mỗi đều mọc ra hoa sen lớn, cùng với trước không khác. Ánh sáng đó chiếu soi tất cả những Bồ tát Thập Địa. Những Bồ tát đó gặp ánh sáng ấy rồi liền vào cửa Thủ Lăng Nghiêm vi diệu, lại được vào đến Kim Cương Thí định. Chư thiên gặp ánh sáng ấy thì phát sâu ý đạo Vô Thưọng Chánh Chân, tâm nhãn mở sáng thấy tướng các đức Phật. Như ánh sáng này chiếu soi Bồ tát rồi khiến cho các lỗ chân lông của thân những Bồ tát mà trong mỗi lỗ chân lông tạo ra hàng atăngkì những mây cúng dường và mọi thứ đồ cúng dường. Cái táng che (cái) nhỏ nhất cũng che cả cõi Diêm Phù Đề ... Như vậy mọi thứ đồ cúng dường, đủ thứ báu nhiều chẳng thể nói hết. Những đồ cúng dường này từ Thủ Lăng Nghiêm Hải sinh ra - Đức Phật bảo ngài A-nan - Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân khi tác khởi sự tư duy đó mà nhớ tưởng như vậy hay mơ thấy việc này thì đời đời chỗ sinh ra luôn luôn gặp được ngài Phổ Hiền, ngài Văn Thù. Những vị Pháp Vương Tử đó sẽ vì hành giả, ở trong mơ, hằng nói pháp của Phật ba đời quá khứ vị lai, nói Thủ Lăng Nghiêm tam muội, Bát Chu tam muội, cũng nói quán Phật tam muội... dùng làm chuỗi ngọc trang sức. Tỉnh dậy rồi, hành giả ghi nhớ giữ gìn không để quên mất. Công đức hiện thế của người này là được Thiên nữ làm cấp sứ (người cung cấp cúng dường) khước trừ được tội sinh tử của mười vạn ức kiếp. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Ức ức ánh sáng chiếu xuống hạ phương khiến cho đất của hạ phương như màu nước của cõi Diêm Phù Đề. Ở trong nước có hằng hà sa số lầu báu. Bên dưới mọi lầu báu có một ngôi thành báu như thành của Càn thát bà. Ở bên trên lầu báu có cây báu lớn. Lá cành của cây ấy, tất cả đều dấy lên lửa. Lửa ấy cháy rực, trên dưới đều thiêu đốt. Nó đốt các loại nước này hóa thành lưu ly. Trên đất lưu ly lại mọc lên các cây. Mỗi cây có bốn con rồng. Trên đỉnh rồng ấy có ngọc Như Ý. Ánh sáng ngọc ấy soi khắp thân rồng khiến cho rồng và cây thuần một màu hoàng kim. Khi rồng ấy phấn tấn thì những lỗ chân lông của rồng phát ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy soi thẳng xuống hạ phương vô lượng thế giới. Rồi qua khỏi hạ phương lại soi vô lượng thế giới khiến cho đất của hạ phương đều trở thành màu vàng. Trên đất màu vàng có hoa Kim cương. Trên hoa Kim cương có thiên nữ vàng. Mỗi một thiên nữ vàng có trăm ngàn thiên nữ làm quyến thuộc. Các thiên nữ đó đều khen ngợi Từ Tâm Tam Muội Hải. Từ hạ phương ra lên thẳng đến thành Ca Tỳ La ở thượng phương. Tiếng khen ấy như tiếng sấm khen nói lòng từ. Khi nói lời nói đó, đầu lông của các rồng phát ra các mây báu. Trong mỗi một đám mây có hằng hà sa số cõi Phật. Trong mỗi một cõi Phật có những vị hóa Phật nhiều như vi trần. Mỗi một vị hóa Phật phóng ra ánh sáng này. Khi ánh sáng này hiện thì thế giới ở hạ phương có trăm vạn núi vàng. Ở vùng núi cao ấy có trăm ức hang động báu như mây trào dậy. Trong mọi hang động đó thuần là các đức Phật trắng; Bồ tát bạch diệu và chúng Thanh văn làm thị giả. Ánh sáng Kim tinh ở bên trái, bên phải đức Phật giống như xẻ núi, mọi thứ báu chiếu sáng lẫn nhau. Có diệu bảo cái lớn như núi Tu di, do vô lượng báu tạo thành. Mỗi một thứ báu có hàng trăm ức ánh sáng xoay vần uyển chuyển. Ở trong mọi ánh sáng đều có trăm ức tòa sư tử. Trên mỗi một tòa sư tử có trăm ức nadotha đại chúng Bồ tát ngồi kiết già. Trong lỗ chân lông của thân các Bồ tát đó có atăngkì ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng có một vị hóa Phật, thân vị Phật ấy viên mãn như núi Tu di. Các vị hóa Phật đó dùng trăm ngàn bài kệ khen nói, chẳng giết hại, từ là căn bản, từ chính là diệu dược (thuốc hay) trừ khử hoạn sinh tử, từ là mắt thanh tịnh dẫn đường cho những trời người. Các vị hóa Phật đó khen ngợi lòng Từ rồi đều tạo tác biến hóa làm núi Lưu ly. Ở bên trong núi ấy có hàng trăm ức Bồ tát. Mỗi một vị Bồ tát có hàng vạn Phạm vương làm thị giả, đi đến trước hành giả, ở trong núi báu, khác miệng mà đồng âm, đều nói lên pháp đó, bảo rằng : “ Này thiện nam tử ! Ông đối với Niệm Phật Hải nên tu lòng từ ! Các đức Phật Bồ tát do tu lòng Từ nên được Đại Từ của Phật. Nay ông nên phải tu giới bất sát, hành Đại Từ Bi”. Lúc bấy giờ, cũng có trời, rồng... tám bộ chúng, tất cả chúng sinh gặp ánh sáng này, nghe lời nói đó nên sau khi mạng chung nhất định đều sinh về cõi Phạm thế - Đức Phật bảo ngài A-nan - Ông giữ gìn lời nói này cẩn thận chớ quên mất ! Ông bảo các Tỳ kheo khiến cho họ tu hành việc đó. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nếu nghe lời nói đó, tư duy pháp đó thì người có chánh niệm, có chánh thọ, tam muội chẳng động, lòng chẳng giải đãi thoái lui, phát tâm Đại thừa thì phải biết rằng, người đó luôn ở trong mơ nhìn thấy ánh sáng này và cùng nghe hóa Phật nói pháp Từ Tâm. Tỉnh dậy rồi, hành giả nhớ và giữ gìn, hiểu sâu nghĩa thú, tư duy nghĩa ấy thì liền được Từ định. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, người tư duy pháp đó, giữ gìn pháp đó thì phải biết rằng, người đó, lòng họ thanh tịnh như lòng của các đức Phật và khước trừ được tội sinh tử của ức kiếp, thường sinh vào cõi Phạm thế, gặp gỡ các đức Phật, thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp. Đã nghe pháp rồi thì họ phát tâm Bồ đề và vào đời vị lai nhất định thành Phật đạo.
Ức ức ánh sáng chiếu về phương Đông, cho đến vô lượng thế giới ở phương Đông, khiến cho đất của phương Đông trắng như núi Tuyết. Ở trên mọi ngọn núi đều có mây báu trắng. Mây trắng báu ấy giống như bảo đài với hàng vạn ức lưới báu, chuông báu. Vùng lưới báu chuông báu ấy có một ức ánh sáng trắng. Những ánh sáng trắng đó hóa thành đài vàng. Trên mỗi đài vàng có bốn vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có bốn ức Bồ tát làm thị giả. Vị Phật cùng với các vị Bồ tát đều giảng nói pháp từ, khen ngợi sự chẳng giết hại bằng hàng ngàn ức bài kệ. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán - Đức Phật bảo ngài A-nan - Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật quán tưởng như vậy thì trừ được tội sinh tử của nửa ức kiếp.
Ức ức ánh sáng chiếu về phương Nam, khiến cho đất phương Nam đều trở nên màu hồng. Ánh sáng màu hồng này soi cho đến vô lượng thế giới của phương Nam đều biến thành mây trắng. Hai màu hồng, trắng phân minh. Ở mọi vùng mây có các vị hóa Phật màu trân châu trắng với tòa ngồi bằng hoa sen vàng thượng diệu màu Tỳ lưu ly. Ở trên hoa vàng còn có hàng trăm ức Bồ tát đều màu hoàng kim với trăm ức ánh sáng báu sáng lòa mây trắng. Trong mỗi một ánh sáng có năm trăm vị hóa Phật, các vị hóa Phật ấy khác miệng đồng âm cũng khen ngợi sự chẳng giết hại và Đại Từ Bi. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán - Đức Phật bảo ngài A-nan - Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nghe pháp đó, tư duy pháp đó, quán tưởng pháp đó thì người này ở trong mơ, luôn luôn thấy Phật Thích Ca Văn phóng ra ánh sáng từ rốn chiếu soi đến họ. Tướng ánh sáng này như đã nói trên. Người ấy sinh ra chẳng ở trong bào thai, luôn luôn sinh ra ở tịnh quốc, như sinh lên trời thì tự nhiên hóa sinh.
Ức ức ánh sáng chiếu về phương Tây, cho đến vô lượng thế giới ở phương Tây. Ánh sáng ấy đủ thứ màu như mặt trăng, như vì sao. Ở vùng trăng sao ấy có ngọc bảy báu. Một viên ngọc sinh ra nước, một viên ngọc sinh ra lửa, một viên ngọc sinh ra cây. Quả cây ấy là Kim cương bảy báu. Một viên ngọc sinh ra hoa. Ở trong ánh sáng mặt trăng có cung điện trời Phạm với quyến thuộc của vua Phạm và mọi thứ báu của trời Phạm đều đầy đủ. Ở trong ánh sáng của sao có cung điện của Ma Ê Thủ La và quyến thuộc của họ. Mỗi một cung điện trời có hàng trăm vạn ức Phạm vương. Mỗi một Phạm vương có vô lượng vô số đại chúng các trời làm quyến thuộc, còn số Ma Ê Thủ La.v.v... thì chẳng thể biết. Những ngọc báu ấy phát ra ánh sáng lưu ly. Bên trong ánh sáng lưu li có tượng vàng ròng. Tượng vàng ròng ấy ngồi trên tòa bạch bảo, cổ đeo ánh sáng trân châu đỏ. Trong ánh sáng trân châu đỏ có trân châu hóa Phật kết thành. Các vị hóa Phật đó và các thiên chúng khác miệng đồng âm, khen nói sự chẳng giết hại, khuyến lệ, sách tấn hành giả tu hành Đại Từ Bi - Đức Phật bảo ngài A-nan - Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, có người nhớ tưởng, có người tư duy như người quán tưởng này thì ở trong miệng, luôn mơ thấy chư Phật vì mình nói pháp Từ Bi, khước trừ được tội sinh tử của bảy ức kiếp.
Ức ức ánh sáng chiếu về phương Bắc, cho đến vô lượng thế giới ở phương Bắc, khiến cho đất phương Bắc đều màu san hô xen lẫn báu hổ phách, mai côi, trân châu, mã não, pha lê.v.v... Trong mỗi một báu có một ức ánh sáng. Mỗi một ánh sáng hóa làm một con Sư tử. Trên lưng sư tử có Thất bảo cái. Bảo cái ấy cao đẹp như núi Tu di, cán bằng lưu ly, trang nghiêm bằng lụa báu năm màu và hoa. Trên mỗi một hoa có trăm ức vị hóa Phật. Mặt của mỗi một vị hóa Phật như màu của vàng Diêm Phù Đàn, tóc màu lưu li xanh biếc, thân màu của trăm ức báu, cánh tay màu trân châu hồng, móng tay màu vàng ròng, trong tay tướng màu hoa sen trắng, đùi vua nai màu hoa Ưu đàm, tướng dưới chân màu tỳ lăng ma ni. Từ dưới chân phóng ra ánh sáng năm màu lên đến mép tóc. Những lỗ chân lông của thân đều có hóa quang. Trong một lỗ chân lông có một ức Bồ tát. Rốn của mỗi vị Bồ tát có một hoa sen lớn. Hoa ấy cao lớn như núi Tu di do trăm báu tạo thành. Trên hoa có Phật, đức Phật ấy cao lớn cùng ngang bằng với hoa, cũng phát ra ánh sáng ở rốn. Khi hiện tướng này thì mọi con sư tử báu phấn khích như kinh sợ. Ở lông sư tử thì đầu mỗi một sợi lông có trăm ức cõi Phật. Mỗi một cõi Phật được trang nghiêm bằng vô lượng trăm ức hoa sen báu. Trên hoa sen ấy cũng có hàng trăm ngàn đại chúng Bồ tát. Các vị Bồ tát đó cũng phát ra tướng ánh sáng rốn như Bồ tát trên. Mọi ánh sáng màu của những Bồ tát như vậy đã hợp thành một ngọn núi. Núi ấy cao hiển như đài vàng ròng. Bốn góc của đài ấy có bốn Phạm tràng, đầu mỗi tràng đều có bốn ức cõi Phật. Trong mỗi một cõi có trăm ngàn tháp mà tháp cực nhỏ cũng cao từ cõi Diêm Phù Đề lên đến cõi Phạm thế, với vô số những thứ vi diệu và tất cả tượng báu làm trang nghiêm. Những tháp báu và hóa Bồ tát đó đều chung ca ngợi hai pháp Hỉ và Xả. Nếu có chúng sinh gặp ánh sáng ấy thì được trí tuệ lớn như ông Xá Lợi Phất, tổng trì chẳng mất giống như ông A-nan - Đức Phật bảo ngài A-nan - Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật muốn thấy tướng đó thì phải phát tâm từ bi, tu trì giới bất sát (chẳng giết hại). Người khắp vì tất cả chúng sinh mười phương thi hành cái hạnh đó thì tuy chẳng ngồi thiền mà ở trong mơ luôn được thấy mọi sắc tướng như đã nói trên - Đức Phật bảo ngài A-nan - Người giữ lời nói đó tức là giữ Phật tâm. Người tác khởi sự quán tưởng đó có thể quan sát tâm của Phật. Các đức Phật Như Lai lấy Đại Từ Bi mà làm tâm, lấy giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến mà làm thân, lấy mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, đại bi, ba niệm xứ mà tự trang nghiêm. Quán như vậy thì gọi là quán Phật tâm - Đức Phật bảo ngài A-nan - Trong tướng rốn này, ở đây sơ lược mà giải đó thôi, còn cảnh giới Phật tâm, sau này ta sẽ tự giải nói thêm. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật tư duy pháp đó, thọ trì pháp đó, quán tưởng pháp đó thì tội chướng ác nghiệp đời hiện tại của người này đều thanh tịnh hết.
Ức ức ánh sáng chiếu về phương Đông Nam, cho đến vô lượng thế giới ở phương Đông Nam, hóa thành bánh xe vàng. Mỗi một bánh xe vàng có bảy báu đi theo. Mỗi một bánh xe vàng có trăm ức Chuyển Luân Thánh Vương. Mỗi một Chuyển Luân Thánh Vương có một ngàn con trai, bốn thứ binh... đều đầy đủ. Báu ngọc thần ấy (?) phát ra ánh sáng lớn như khói như mây. Trong mỗi một ánh sáng có hoa sen lớn. Hoa, hoa hợp nhau, trong hợp hoa phát ra ánh sáng mặt trời lớn. Mỗi một ánh sáng mặt trời có con voi màu vàng, hóa Bồ tát cưỡi. Khi Bồ tát cưỡi voi có vạn ức điềm ứng chẳng thể tuyên nói. Ánh sáng của các Bồ tát hợp thành một vị Phật. Thân màu vàng của đức Phật ấy đo lường thật vô biên, cũng phát ra tướng rốn. Ánh sáng tướng rốn cũng như trên đã nói. Người trong các ánh sáng đều khen năm giới, nói mười pháp thiện. Các Chuyển Luân Vương, tay cầm bánh xe vàng, tuyên dương mười pháp thiện - Đức Phật bảo ngài A-nan - Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật nhớ tưởng điều đó, tư duy điều đó, quán tưởng pháp đó thì trừ khước được tội sinh tử của hai mươi vạn ức kiếp, thường sinh lên cõi trời, nghe lời dạy mười pháp thiện.
Ức ức ánh sáng chiếu về phương Tây Nam, cho đến vô lượng thế giới ở phương Tây Nam. Đến những cõi đó rồi thì ánh sáng ấy như mưa, giống như ngọc đủ màu. Trong mỗi một viên ngọc phát ra trăm ức ánh sáng. Mỗi một ánh sáng hợp thành đài báu. Ở góc mỗi một đài có mười hai núi Tu di. Mỗi một núi Tu di có vô lượng nhà, khám thờ. Trong mỗi một khám thờ có vô lượng vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có vô lượng Bồ tát làm quyến thuộc. Mọi vị hóa Phật và hóa Bồ tát đó cũng đều khen ngợi nói mười pháp thiện. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán - Đức Phật bảo ngài A-nan - Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật nhớ tưởng pháp đó, tư duy pháp đó, quán tưởng pháp đó thì trừ được tội sinh tử của mười hai ức kiếp, như muốn vãng sinh đến cõi thanh tịnh của phương khác thì tùy ý không gì ngăn ngại.
Ức ức ánh sáng chiếu về phương Tây Bắc, cho đến vô lượng thế giới ở phương Tây Bắc, ánh sáng ấy trở thành màu ngọc. Nó cùng với pha lê màu hồng tía lại chói sáng nhau đẹp thêm. Trong mỗi một ánh sáng có trăm ức xe báu, hễ xe trắng là ngựa trắng, xe tía là ngựa tía, xe hồng là ngựa hồng... nhưng các bờm ngựa đều màu vàng ròng. Trên mỗi xe như vậy đều có hiên thất bảo, trên hiên xe đều có táng che. Táng che ấy có mười tầng, ở trong hiên xe và táng che có hàng ngàn ánh sáng. Vòng cài báu rũ xuống, ánh sáng tuông theo ra rồi vào trở lại trong xe hóa thành vị Hóa Phật. Thân Phật cao hiển hàng vạn ức do tuần. Trong rốn mỗi một vị hóa Phật phát ra vô số ánh sáng. Ánh sáng ấy chiếu khắp vô lượng vị hóa Phật. Người gặp ánh sáng này thì vĩnh viễn thoát khỏi ba đường, không có ba ác hoạn. Ánh sáng này quay trở lại đứng ngay trong hư không như mây bay lên. Mỗi một vùng mây có trăm ngàn vị Hóa Phật. Mỗi một vị Hóa Phật có trăm ức đệ tử như Đại Ca Diếp siêng năng tu hành mười hai hạnh khổ Đầu Đà, lòng không tham trước, chán lìa thế gian. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán - Đức Phật bảo ngài A-nan - Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nhớ tưởng pháp đó, tư duy pháp đó, quán tưởng pháp đó thì phải biết, người này thường thấy các đức Phật, mau chóng thành tựu Đại thừa, trừ được tội sinh tử của mười ức kiếp.
Ức ức ánh sáng chiếu về phương Đông Bắc, cho đến vô lượng thế giới ở phương Đông Bắc. Ánh sáng ấy thanh tịnh không có các uế trược như kính pha lê, trong ngoài đều hiện. Ở trong ánh sáng đó thấy Phật mười phương đều phát ra tướng rốn. Ánh sáng rốn của mỗi một vị Phật soi khắp vô lượng những cõi Phật trong mười phương. Mỗi một cõi Phật có số hóa Phật nhiều như vi trần. Mỗi một vị hóa Phật có số Bồ tát nhiều như vi trần làm quyến thuộc. Ánh sáng tướng rốn của những Bồ tát như vậy giống như cây trụ vàng. Đầu cây trụ vàng ấy có hàng vạn ức rương áo báu, hòm báu, ví như đài mây từ hư không mà hạ xuống. Mỗi một rương, hòm có hàng vạn ức ánh sáng. Mỗi một ánh sáng hợp thành một vị Phật. Trong thân mỗi vị Phật có vô lượng vi trần vô số hóa quang. Ở đầu các ánh sáng có các vị hóa Phật giống như hạt cải. Thân đức Phật nhỏ này cũng phát ra tướng rốn như trên đã nói. Ánh sáng rốn này soi khắp mười phương, rồi vào rốn các đức Phật. Rồi từ rốn các đức Phật phát ra để vào ngực các vị Bồ tát. Từ ngực các vị Bồ tát phát ra để vào đỉnh đầu các vị Thanh văn. Từ đỉnh đầu của các Thanh văn phát ra, ví như đám mây lớn với vô lượng màu vàng xen lẫn các báu, vào dưới chân Phật. Vào dưới chân Phật rồi, trong tướng ngàn vòng nan hoa dưới chân Phật phát ra ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy như hoa. Rồi từng hoa, từng hoa tiếp theo nhau nhiễu quanh đức Phật hàng ức vòng. Từ móng chân màu đồng đỏ, lỗ lông gót chân cho đến đỉnh kế, các lông của thân Phật như hoa sen nở. Trong mỗi lỗ chân lông có tám muốn bốn ngàn hoa sen. Trên mỗi hoa sen có tám muôn bốn ngàn vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có tám muôn bốn ngàn vị Đại Bồ tát làm quyến thuộc. Ánh sáng ở vùng chân mày của mỗi một vị Bồ tát phát ra âm thanh vi diệu khen ngợi sắc thân của Phật.
Đức Phật Thích Ca Văn thị hiện ánh sáng này rồi bảo với đại vương rằng :
- Sắc thân Như Lai đã phân biệt sắc tướng rồi, ngoại trừ tâm Phật còn các cảnh giới khác thì như đã thị hiện.
Đức Phật nói thế rồi, lúc đó vua cha liền đứng dậy, sửa y phục, làm lễ đức Phật, nhiễu quanh đức Phật bảy vòng, quì xuống chắp tay bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Sắc thân của đức Như Lai thì tất cả đã nhìn thấy! Duy chỉ có bên trong tâm Phật có cảnh giới gì ? Có tướng mạo ra sao ? Tu hành việc gì ? Sở niệm của tâm Phật là những vật nào ? Ánh sáng của tâm Phật hình dáng ra sao ?
Lúc đó, đức Như Lai liền mĩm cười, ánh sáng của tướng lưỡi, như trên đã nói, nhiễu quanh đức Phật bảy vòng, rồi theo đỉnh đầu đức Phật mà vào. Lúc bấy giờ, đức Như Lai vào Giải Thoát Tướng tam muội, khiến cho vua cha thấy như hang động lưu ly thành tượng vàng ròng. Bên trong tượng vàng ròng, ở trong ngực của đức Phật như ống lưu ly. Từ dưới yết hầu của đức Phật, thấy tim của đức Như Lai như đóa hoa sen hồng với hoa vàng ánh lên trang sức. Ánh sáng vàng của hoa sen hồng chẳng nở, chẳng khép, tròn xoe như quả tim, có tám muôn bốn ngàn mạch máu. Mỗi một mạch như mạch đã vẽ của họa sư nhà trời. Trong mỗi một họa tiết có tám muôn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng có tám muôn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng có tám muôn bốn ngàn thứ màu sắc. Trong mỗi một màu có vô lượng vi trần vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật ngồi trên đài Kim cương. Đài Kim cương ấy phóng ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy nhiều vô số, chẳng thể nói đủ được. Trong mỗi một ánh sáng có hóa Phật mà số lượng như trên đã nói. Các vị hóa Phật đó đều hiện ra tướng lưỡi dài rộng lên đến mép tóc. Lưỡi của mỗi một vị Phật có một ức ánh sáng. Ánh sáng ấy hợp lại làm mười ngàn đoạn. Trên mỗi một ánh sáng có trăm ức vị hóa Phật ngồi kiết già vào Phổ Hiện Sắc Thân tam muội. Sắc thân vi diệu của các đức Phật mười phương vào trong tam muội hải này. Khi đức Phật đang vào tam muội này thì thành Ca Tỳ La và tinh xá Ni Câu Lâu Đà cùng cõi Diêm Phù Đề như là đóa hoa báu lớn. Ở trên đài hoa có Pha lê tràng. Đầu pha lê có gương pha lê. Vô lượng những đất nước thanh tịnh của mười phương đều hiện ở trong gương. Hội đại chúng nhìn thấy các đức Phật. Hoặc thấy thân Phật mà lượng đồng với hư không thuần màu hoàng kim. Hoặc thấy thân Phật như núi Tu di do bốn báu tạo thành. Hoặc thấy thân Phật màu lưu ly lớn mười trượng. Hoặc thấy thân Phật trở thành màu bạc trắng, lớn hàng trăm ngàn trượng. Hoặc thấy thân Phật Thích Ca Văn lớn một trượng báu, hoặc thấy bảy thước, hoặc thấy ba thước, hoặc thấy cao đến khắp cõi Phật thế, hoặc thấy bảy tấc, thấy vào bình bát. Các quỉ thần thấy như vi trần, thấy như hạt cải, thấy như hạt gạo vàng. Các quỉ thần thấy rồi, quỉ thần nhỏ.v.v.. đều rất vui mừng. - Hết quyển thứ tư –
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.139.87.113 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.