Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh [佛說觀佛三昧海經] »» Bản Việt dịch quyển số 2 »»

Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh [佛說觀佛三昧海經] »» Bản Việt dịch quyển số 2

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.55 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.66 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Quán Phật Tam Muội Hải

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Tuệ Khai

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

PHẨM THỨ BA : QUÁN TƯỚNG
II- Đức Phật bảo rằng :
- Thưa Phụ vương ! Sao gọi là ánh sáng của tướng Bạch Hào khi Bồ tát hàng phục ma ? - Thiên ma Ba Tuần, từ xa dùng thiên nhãn quan sát cõi Diêm Phù Đề thấy người con của dòng họ Thích Ca bỏ nước như nhổ nước bọt, ngồi dưới gốc cây Đạo, xương da khô đét, hình thể gầy còm như người bệnh lâu ngày, chỉ có ánh sáng màu vàng thêm hiển hiện, đôi mắt thâm đen như sao đáy giếng, xương đốt chống đỡ nhau mất thế rồng cuộn. Ba Tuần mừng nói rằng : “Ông Cù Đàm thân thể gầy còm, xương đốt như cỏ mục, tuy có màu sáng nhưng mạng còn không bao lâu mà đạo chưa thành, ta phải đánh bại ông ấy”. Tỏ ra giận dữ, ra lệnh cho các dạ xoa tập họp quân chúng nói rằng : “ Ta nay muốn đi xuống cõi Diêm Phù Đề, đến chinh phạt ông Cù Đàm !”. Khi đó, con của ma tên là Tát Đa La quì dài bạch với cha rằng : “ Con của vua Tịnh Phạn, lúc ông ấy sinh, muôn vị thần hầu ngự, ánh sáng soi suốt mọi cõi trời. Lòng từ bi của người ấy che khắp tất cả. Nay ngài vì quần sinh, ngồi ở cây Đạo thì sao vua cha hưng khởi ý nghịch ác ?” Ma liền giận dữ nói rằng : “ Ngươi còn nhỏ không biết mới nói ông Cù Đàm có đạo đức hơn người. Thân ông Cù Đàm gầy đét như bộ xương khô, xét cho cùng thì chỗ nào có thể nói ông ấy từ bi ?” Người con lại bạch rằng : “ Thân thể ông Cù Đàm gầy còm vì chẳng ăn nên vậy. Quan sát màu sáng của ông ấy như ánh lửa sáng tía của núi Kim cương tuông ra. Ngài ngồi lặng lẽ sáu năm, lòng không nghiêm động, quan sát diện mạo ngài từng không có sắc sợ. Nguyện xin đại vương hãy trụ ở thiên cung, chẳng nên đến đánh phá !” Ba Tuần lại nói rằng : “ Ngươi chỉ nên im lặng, sao phải nhiều lời ?” Chúa Dạ xoa tên là Sí Đà liền đến chỗ ma dập đầu xuống đất làm lễ ma mà bạch rằng : “ Ngài ban lệnh đi đâu ?” Ba Tuần bảo rằng : “ Ngươi đem tiếng của ta bảo khắp sáu cõi trời, bảo xuống đến vua quỉ cùng những tám bộ chúng và quỉ đồng trống, Diêm La Vương thần của mười tám tầng Địa ngục... Tất cả đều đến tập họp tại chỗ ông Cù Đàm. Lúc đó các quỉ giống như mây nổi dậy, từ bốn mặt đều tập họp về. Hoặc có quỉ đầu như đầu trâu có bốn mươi cái tai. Ở trong tai ấy sinh ra những mũi tên sắt đỏ rực lửa dậy lên cao một do tuần. Có mười tám cái sừng, đầu sừng nâng quả núi, trên núi có rồng ngậm hòn sắt nóng. Lại có các quỉ, đầu như đầu chồn có mười ngàn mắt, lông mi mắt dài lớn như lửa cháy sét đánh. Trên cổ có miệng, miệng phun ra lửa hừng hực. Các sợi lông trên thân chúng giống như cây kiếm (kiếm thọ). Lại có các quỉ đứng nghiêng ngã ở trong hư không, có mười hai chân. Ở gót chân chúng có ngàn bánh xe dao. Đầu chúng như núi lớn. Ở trên đầu chúng có năm trăm cây kiếm, đầu cây kiếm lửa bốc lên. Lại có các quỉ uyển chuyển bò đi bằng bụng, đội núi Thiết vi, khom lưng mà đến. Lại có các quỉ, một cổ nhiều đầu, miệng có ngàn lưỡi. Ở trên lưỡi chúng mọc cây gai nhọn. Lông, râu tua tủa, đầu sợi lông mưa máu, phun gai nhọn, chạy nhanh trên không mà đến. Quỉ Tỳ Xá Xà phát ra tiếng ác lớn, hơi trào lên như mây, mưa xuống những hòn sắt nóng, đi đến như chớp nhoáng. Quỉ Cưu Bàn Trà ngồi xoạc chân ra đất, hiện thân hình xấu xí. Quỉ Phú đơn na với thân hình đen đủi gầy đét, đầu đội cái vạc đựng hòn sắt nóng, tay cầm bánh xe dao, chân trái đạp lên lưng chó, chân phải đạp lên lưng sói, chạy nhanh mà đến. Các vua La sát lưng đen như sơn đen, ngực trắng như mặt trăng, mắt như lửa rực, đầu tóc rối bồng như ràng gai nhọn, răng chó chỉa lên như xà mâu, kiếm bén, mười ngón tay có móng bén như mũi nhọn, bàn chân có mười móng ngang dọc như kiếm, dùng sắt ràng giữ đầu, chạy nhanh mà đến. Quỉ thần đồng trống, đại tướng quân.v.v... một cổ sáu đầu, ngực có sáu mặt, đầu gối có hai mặt, toàn thân thể mọc lông giống như mũi tên sắt, rung thân bắn người, mắt mở đỏ rực máu chảy ra, cùng các loài hung dữ chạy mau mà đến. Lại có các quỉ, đầu như đầu cọp, có mười hai mắt, mũi như vòi voi, có mười ba vòi, vai trái vác núi, vai phải mang lửa, tay cầm kiếm bén, chân bước nhẹ như sư tử vừa kêu rống mà đến. Lại có các quỉ, thân chúng như mây, lửa sấm sét khởi dậy như đầu đám mây. Ở bên đám mây có trăm ngàn vạn rồng, chẳng thấy thân chúng mà chỉ thấy phun ra khói độc ở khắp mười phương. Tất cả việc ác như mây tập họp lại. Mẹ con quỉ, tướng thần và các con của chúng đều cầm một vách đá vuông vức mười dặm cao ngất đáng sợ. Chúng tranh nhau mà đến. Lại có các quỉ co quắp sống lưng, cụp đuôi lại, dùng mũi ngửi đất, mũi phì ra lửa, trên lửa đỏ rực hóa sinh các quỉ, bưng mặt mà chạy... Khi đó Ma vương nghiêng nhìn Dạ xoa, bảo sai các quỉ, hôm nay binh quỉ đã vân tập, người thiện Cù Đàm hoặc có thể biết chú thuật nên phải hưng khởi bốn binh. Nó dùng ngọc Ma vương hóa làm bốn binh : binh voi, binh ngựa, binh xe, binh bộ, đồ binh khí la liệt như rừng rất là đáng sợ. Chúng đi thẳng từ trên không xuống đến bên cây Đạo. Ma lại nghĩ rằng, quân chúng như thế này hoặc chẳng thể đánh úp, hàng phục Cù Đàm. Ma lại cởi mũ báu đặt xuống đất. Ánh sáng mũ ấy thẳng đến hạ phương sẽ ở trên cung vua Diêm La hóa làm người lớn tiếng cả kêu sắc bảo các quỉ rằng : “Này Ngục tốt và Diêm La Vương các ngươi ! Bánh xe dao, kiếm, kích, xe lửa, lò than... của A tỳ địa ngục tất cả hãy cất lên hết, hướng về cõi Diêm Phù Đề ! Ta muốn tiêu diệt ông Cù Đàm, ném vào trong ấy. Địa ngục A tỳ ngang dọc bằng nhau, tám vạn do tuần với bảy lớp thành sắt, bên dưới mười tám từng (ngăn), bốn mặt rừng kiếm cũng mười tám hàng. Phương đông lại có mười tám địa ngục nhỏ vây quanh. Phương Nam có mười tám từng vây quanh. Phương Tây có mười tám từng vây quanh. Phương Bắc có mười tám từng vây quanh. Dưới đất tự nhiên có lửa cháy ngùn ngụt thiêu đốt thành sắt, lưới sắt. Tất cả lửa nóng xoay vần lẩn quẩn trong địa ngục, xuống qua mười tám tầng. Nếu có chúng sinh phạm tội ngũ nghịch thì thân chứa trong ngục ấy chịu khổ như thế này, ngày đêm không dứt, không rỗng khuyết. Khi kiếp sắp hết thì bốn cửa tự mở, các tội nhân đều thấy tất cả rừng kiếm ở ngoài cửa đông như là rừng mát mẻ. Họ từ từng dưới khởi dậy đến từng thứ hai, từ từng thứ hai khởi dậy đến từng thứ ba... cho đến lên đến trên cùng, họ chạy hướng về cửa Đông. Ngục tốt La sát dùng cây xoa bằng sắt nóng (cây sắt nóng mà đầu tỏe ra nhiều mũi nhọn) đâm ngược vào mắt họ. Tinh khí như nước đồng chảy tràn ra đất, họ tức thời ngã lăn khắp cùng trong mười tám từng. Lòng họ mê sảng tròn một tiểu kiếp. Vậy rồi họ mới quay trở lại khởi dậy hướng về cửa Nam... Như vậy bốn phương như trước không khác, ngày đêm chịu khổ trải qua một đại kiếp. Kiếp hết lại sinh vào tiểu địa ngục khác. Những ngục khác ấy hình trạng lớn nhỏ, thọ báo nhẹ nặng, hình loại đẹp xấu... tất cả mọi thứ quả báo ta sẽ lại nói rộng rãi trong Từ tam muội. Về các ngục tốt, phía Đông thành có tám ngàn, ba phương còn lại cũng vậy. Mỗi một ngục tốt, đầu tóc như núi phát sinh bánh xe dao, kiếm, kích. Tai như tai lừa có trăm ngàn thứ. Trong mỗi một tai khói lửa đều dấy lên. Môi, miệng, răng, nanh quá hơn La sát trăm ngàn vạn lần. Sừng như sừng trâu, đầu sừng phát sinh kiếm, năm hướng nhìn thấy khác nhau. Thân thể đỏ đen như chó bệnh ghẻ lở. Có bốn trăm đuôi, ở đầu của đuôi ấy máu nồng phân sôi. Có trùng mỏ sắt buộc quanh thân thể. Tay cầm thiết xoa, dưới chân đạp bánh xe. Dao trên bánh xe đâm thẳng suốt tim tủy, chạy nhanh như gió. Chúng đều dùng xoa sắt tréo lưng tội nhân thẳng lên mà chạy. A tỳ địa ngục như bóng theo hình xua đuổi tội nhân lại, thoáng chốc đã đến bên cây Đạo. Chúng nhất thời vân tập muốn hưng khởi ác nghịch. Bồ tát khi đó nghiễm nhiên chẳng động, nhập vào Thắng ý từ. Ma vương lừa dối, phấn kích, rống to bảo các binh chúng rằng : “ Các ngươi hãy mau chóng bức hại ông Cù Đàm”. Trên chấn động đến thiên lôi, mưa xuống những hòn sắt nóng, bánh xe dao vũ khí lại thêm chồng chất lên nhau ngổn ngang trong hư không. Bốn mặt, các quỉ đồng thời đều đốt lửa. Những tên lửa ấy chẳng tiếp cận được Bồ tát. Lúc đó Bồ tát từ từ nhấc cánh tay phải kéo duỗi sợi lông mày trắng hướng xuống đến địa ngục A tỳ, khiến cho những tội nhân thấy trong sợi ông trắng tuông ra nước, mưa xuống giọt to như trục bánh xe tưới lên lửa lớn. Lửa lớn tắt dần chỉ còn lại hơi khói, khiến cho tâm người thọ tội được liễu ngộ, tự nhớ lại sự tạo tác các tội của trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn vạn đời ở tiền thế. Các ngục tốt đều cầm cây thiết xoa lớn cất tội nhân dậy, nhưng chúng dùng hết sức mình mà chẳng thể lay động được. Bỗng nhiên, chúng tự thấy ở đầu cây đại thiết xoa như núi bạc trắng với ngàn vạn khám thờ, nhà ở, có sư tử trắng cuộn thân làm tòa ngồi. Ở trên tòa ngồi ấy mọc lên hoa sen trắng, có diệu Bồ tát ngồi nhập định Thắng Diệu Từ. Như vậy trang nghiêm như núi Tu Di. Bọn ngục tốt buông thiết xoa, ném xuống đất thì có hoa thất bảo mọc dưới rễ thiết xoa. Có ánh sáng màu trắng soi các địa ngục và thân ngục tốt khiến cho vua Diêm la và các ngục tốt trở thành núi bạc trắng giống như ánh chớp tạm thời được thấy. Các người chịu tội, sáu tình, các căn đang dậy lửa mạnh, đốt xương, đầu lửa đang cháy, gân mạch trở thành đinh... tạm thời đều đứng dậy được, chắp tay, vòng tay hướng về tướng Bạch Hào. Tức thời lòng họ được cởi mở, nhìn thấy người trong sợi lông trắng như mình không khác, đang ngồi trong rừng hoa sen dùng nước tưới xuống đỉnh đầu các tội nhân khiến cho lòng nhiệt não tạm được mát mẻ. Họ liền cùng một lúc đều xưng niệm : Nam Mô Phật. Do nhân duyên đó, khi chịu tội xong rồi, họ được sinh thẳng vào trong loài người với các tình đầy đủ, chính kiến xuất gia. Đã xuất gia rồi, họ phá tan hai mươi ức hang động kết sử, thành tựu Tu Đà Hoàn. Ma thấy những tướng đó, tiều tụy áo não, lui về nằm trên giường. Ma có ba người con gái, đứa lớn tên Duyệt Bỉ, đứa giữa tên Hỷ Tâm, đứa nhỏ tên Đa Mị. Ba đứa con gái của ma đến chỗ vua cha, quì dài vòng tay, làm lễ vua cha mà bạch rằng : “ Thưa Phụ vương ! Ngày hôm nay vì sao cha ưa sầu tiều tụy đến vậy ?” Cha chúng đáp rằng : “ Sa môn Cù Đàm kết thệ sâu nặng, nay ngồi dưới cây Đạo là cốt hại dân ta. Vậy nên ta lo buồn vậy”. Đứa con gái bạch với cha rằng : “ Con có thể đến gây nhiễu loạn, xin cha chớ buồn !” Chúng liền tự trang sức, đội mũ tạp bảo, hình dung kiều mị, đỉnh đặc vượt hơn hoàng hậu của vua ma trăm ngàn vạn lần. Liếc mắt đưa tình, tạo dáng đẹp lỗng lẫy, chuỗi ngọc chói lòa sáng lấp sáu trời, chúng ngồi xe lông báu, vây kín bằng trướng báu, thướt tha những hoa trời. Ở đầu tua hoa có các hóa ngọc nữ, tay cầm nhạc khí, tấu nhạc đàn ca, muôn vàn thứ âm thanh tạo niềm hỉ lạc cho người ở đời. Mỗi một ngọc nữ đem theo năm trăm người con gái để làm người hầu với tàng che, tràng, phan bằng lụa ngũ sắc rực rỡ như mây mà giáng hạ. Trong lỗ chân lông của thân tỏa khói thơm sực nức. Có trăm ngàn màu sắc, đất trời sáng rực, rất thích mắt người. Bọn ma nữ an tường, từ từ bước đến chỗ Bồ tát, xuống xe, chắp tay lễ kính Bồ tát, đi nhiễu quanh ngài bảy vòng, rồi bạch với Bồ tát rằng : “ Thái tử lúc sinh ra, vạn thần hầu hạ, bảy báu kịp đến, sao ngài bỏ địa vị trời mà đến dưới cây này ? Tôi chính là thiên nữ, đẹp không gì sánh ! Nhan mạo rực hồng, sáu trời không hai ! Nay đem tấm thân nhỏ mọn dâng lên thái tử ! Cung nạp cho ngài để hầu hạ hai bên, nâng khăn sửa túi. Chúng tôi khéo léo điều thân vuốt ve ! Nay muốn gần gũi bên ngài, nguyện xin ngài hạ cố dung tình. Thái tử ngồi dưới cây, thân thể mệt mỏi nên cần nằm nghỉ, ăn uống cam lồ !” Chúng liền dùng đồ báu, dâng hiến trăm món ăn trời. Thái tử lặng lẽ, thân tâm chẳng động, dùng sợi lông trắng nghĩ định khiến cho ba đứa con gái của ma trời tự thấy bên trong thân là túi mũ, nước mắt, nước dãi, chín lỗ gân mạch, tất cả căn bản, ruột già, ruột non, tạng sống, tạng chín... Ở khoản giữa ấy, trở lại ngấm ngầm uyển chuyển sinh ra các trùng. Số trùng ấy chứa đầy có đến tám ngàn hộ (ngăn để chứa). Mỗi hộ có chín ức những trùng nhỏ. Trùng nhỏ khi du hí chạy vào ruột non, chúng đều có bốn miệng, há miệng hướng lên. Trùng lớn du hí vào trong ruột già. Từ ruột già ra, chúng lại vào trong bao tử. Khi bịnh lạnh khởi lên thì cuống bao tử bế tắc trùng chẳng vào được nên ăn chẳng tiêu. Lá lách, thận, gan, phổi, tim, mật, cổ họng... phổi nhũn, gan nhăn... khoản giữa như vậy lại sinh ra bốn loài trùng. Chúng như bốn con rắn hợp lại, trên dưới đồng thời ăn các tạng. Cặn bã hết nước sinh ra, vào mắt là nước mắt, vào mũi là nước mũi, tụ ở miệng thành nước dãi, há miệng thì nước miếng chảy ra. Da dày, da mỏng, gân, tủy, các mạch đều sinh ra những loài trùng nhỏ như lông mùa thu với số lượng rất nhiều, chẳng thể nói đủ được. Những đứa con gái ấy thấy những điều này liền luôn miệng ói mữa ra, không có cùng tận. Chúng liền tự thấy thân mình, bên trái sinh ra đầu rắn, bên phải sinh đầu cáo, ở giữa là đầu chó. Trên đầu hóa sinh thây chết chín màu như chín tướng quán. Chín tướng quán gồm :
- Một là tướng mới chết. Như thây người chết, thân thể thẳng đuột, không biết gì nữa. Rồi tưởng thân này của ta cũng sẽ lại vậy, cùng người này không khác. Vậy nên gọi là tướng mới chết.
- Hai là tướng thanh ứ (bẩn đọng lại). Như thấy người chết từ một ngày đến bảy ngày thì tướng thân thể sình lên xanh méc, đọng bẩn đen thui. Tấm thân yêu thích của ta cũng sẽ lại như vậy, cùng người chết này không khác. Vậy nên gọi là tướng thanh ứ.
- Ba là tướng máu mũ. Như thấy người chết mà thân đã hoại rữa, máu chảy tràn lan, thật là đáng tởm, chẳng thể ngắm nhìn. Tấm thân yêu thích của ta cũng sẽ lại như vậy, nên gọi là tướng máu mũ.
- Bốn là tướng nước sắc đỏ. Hoặc thấy người chết, thân thể dọc ngang, nước vàng chảy ra giống như nước sắc đỏ. Tấm thân yêu thích của ta cũng sẽ lại như vậy, nên gọi là tướng nước sắc đỏ (ráng chấp).
- Năm là tướng ăn chẳng tiêu. Hoặc thấy người chết bị quạ chim rỉa ăn, bị trùng sói nhai nuốt, bị ruồi đẻ trứng sinh giòi đục khoét... Thịt ấy sắp hết hoặc còn lại nửa thân. Tấm thân yêu thích của ta cũng sẽ lại như vậy, nên gọi là tướng ăn chẳng tiêu.
- Sáu là tướng gân ràng buộc củi. Hoặc thấy người chết mà da thịt đã hết chỉ có gân xương liền nhau ví như bó củi. Do đó được thành mà chẳng rời tan. Tấm thân yêu thích của ta cũng sẽ lại như vậy, nên gọi là tướng gân ràng buộc củi.
- Bảy là tướng xương, đốt chia lìa. Hoặc thấy người chết mà gân đã rã hoại, xương đốt ngổn ngang, chẳng ở một chỗ. Tấm thân yêu thích của ta cũng sẽ lại như vậy, nên gọi là tướng xương đốt chia lìa.
- Tám là tướng đốt cháy đáng tởm. Hoặc thấy người chết mà bị lửa cháy nhà thiêu hay lửa ngoài đồng đốt, nám đen nằm dưới đất rất là đáng tởm, chẳng thể ngắm nhìn. Tấm thân yêu thích của ta cũng sẽ lại như vậy, nên gọi là tướng đốt cháy đáng tởm.
- Chín là tướng xương khô. Hoặc thấy xương khô lâu đời, hoặc năm mươi năm... đến một trăm năm, hai trăm năm, ba trăm năm... xương trở lại biến thành trắng phơi ra dưới ánh mặt trời. Lửa từ trên xương ngun ngún khởi lên. Sau khi lửa đốt cháy xương rồi thì gió thổi vào đất, xương trở lại về với đất.
Đó gọi là lược nói về chín tướng. Đó là Bồ tát trước tiên ở dưới gốc cây, lần đầu mở cửa phép quán bất tịnh. Khi đó, ba đứa con gái của ma tự thấy trên lưng mình lại cõng cha mẹ, đầu bạc, mặt nhăn, môi miệng méo mó, chân tay cong queo, nhan sắc thâm đen giống như thây chết cứng đờ, trước ngực lại bồng một đứa trẻ chết, ở trong sáu lỗ chảy ra những mũ, trong mũ sinh ra loài trùng giống như con giun (lãi). Các đứa con gái thấy những điều này ngạc nhiên kinh hãi, gào khóc, bước giật lùi mà đi. Chúng cúi đầu nhìn thấy ngang rốn sinh ra sáu con rồng, rồng phun ra nước lửa, tai phát ra gió, thân thể cứng như sắt. Chúng tự thấy hình trạng con gái xấu xí, thấp hèn bẩn thỉu đến như vậy. Ở chỗ thấp hèn ấy có các con trùng nhỏ, trùng có bốn đầu, trên hai, dưới hai ăn thân người con gái, miệng phun ra năm độc. Mỗi độc có năm mạch lên đến tim, xuống cho đến yết hầu. Từ trong sáu căn sinh ra các mạch căn, có đến chín mươi chín mạch xuống thẳng, rót chảy đến các trùng ở đỉnh đầu, rồi chung nhau rót thông suốt đến các trùng ở tim. Những người con gái đã từ vô số đời tạo các tà hạnh. Nhân duyên nghiệp ác nên họ phải bị thân xấu xí, bất tịnh như vậy. Lại có các trùng như vòng đeo cánh tay, tướng tròn xoe, có các miệng. Miệng chúng sinh ra năm độc rỉa ăn nữ căn. Những người con gái đó đời trước làm hạnh tà dâm nên bị thân xấu xí mà cho là trang nghiêm. Những người con gái thấy rồi, lòng rất chua xót đau khổ như tên bắn vào lòng nên lúc lui ra, bò lê bò càng mà đi. Họ đi như bước đi của con lạc đà ốm yếu, lúc mới nhấc chân thì từng đốt, từng đốt xương như dậy lửa. Tóc của chúng vàng đen như rừng gai nhọn. Chúng tự ràng buộc thân mình, kêu van than thở, đi đến trước ma vương. Ma vương giận dữ vung kiếm biến sắc, tức thời muốn đến thẳng trước chỗ Phật. Con của ma can rằng : “ Phụ vương không tội mà tự rước lấy ung nhọt ! Đức Bồ tát tu hành thanh tịnh khó lay động như đất thì làm sao có thể phá hoại được !”. Khi chúng nói lời can ngăn này thì Bồ tát lại dùng ánh Bạch Hào hướng về phía ma, khiến cho quyến thuộc của ma thân tâm an lạc ví như Tỳ kheo vào đệ tam thiền. Ngã quỉ thấy sợi lông trắng, trên đầu sợi lông có trăm ngàn vạn ức những Đại Bồ tát. Các vị Bồ tát đó cũng vào tam muội Thắng Ý Từ tâm, đều dùng tay phải vuốt đầu ngón tay trái. Từ đầu những móng tay đó phát sinh ra sữa tưới xuống diệt lửa mạnh. Lửa mạnh tắt rồi liền được mát mẻ, tự nhiên chúng no đủ, thân tâm hớn hở vui mừng, phát tâm Bồ đề. Nhân được cái tâm đó nên chúng bỏ nỗi khổ ngã quỉ. Những quỉ đó đều từ thấy thân mình tợ như ngọc trắng, tợ như núi Lưu ly, tợ như núi Pha lê, tợ như núi hoàng kim, tợ như núi mã não. Những lỗ chân lông của thân như xâu trân châu. Mắt sáng như ngọc Minh Nguyệt. Các khói lửa của thân như mây tạp bảo. Dao gậy đã cầm tựa như đài bảy báu. Bên trong đài bảy báu bày lớp nệm êm, đặt yên gối đỏ, bên phải bên trái tự nhiên có những vị hóa Phạm vương. Những quỉ đó thấy có hóa Bồ tát ngồi ở hóa đài, mỗi mỗi đều nói với các tội nhân rằng : “ Các ngươi đời trước ngồi làm nghiệp ác nên bị thân hình khả ố như thế này”. Khi Bồ tát nói lời nói đó thì các quỉ thần này, có người phát tâm Vô thượng Bồ đề, có người gieo trồng nhân duyên Thanh văn, Bích Chi Phật, có người ở đời đương lai sẽ sinh vào chỗ thắng lạc của người trời. Lúc đó Ma vương bỗng nhiên trở về cung thì lông trắng đi theo thẳng đến sáu trời. Ở khoản giữa ấy, vô số thiên tử, thiên nữ thấy trong lỗ lông trắng thông suốt đều rỗng không tròn xoe khả ái như cờ của Phạm vương. Ở khoản không ấy có trăm ngàn vạn ức những hoa sen báu nhiều như hằng hà sa số vi trần. Mỗi một hoa sen có đài hoa với vô lượng vô biên những sắc trắng vi diệu. Trên đài ấy, có hóa Bồ tát phóng ra ánh sáng tướng Đại nhân Bạch Hào, cũng lại như vậy. Đỉnh đầu các vị Bồ tát có hoa sen vi diệu màu vàng. Trên những hoa ấy có bảy đức Phật đời quá khứ. Các vị hóa Phật đó tự nói danh tự cùng kinh điển giống nhau không sai khác. Lại có chư thiên, nhờ thiện căn đời trước, thấy trong lỗ lông của mỗi hóa Bồ tát sinh ra một vị Bồ tát. Trên đỉnh các vị Bồ tát đó đều có hóa Phật, như trước chẳng khác. Ở khoản mày của các vị hóa Phật mọc ra hoa bách bảo trang nghiêm mà không hình sắc gì của chư thiên và thế gian có thể so kịp. Trên hoa ấy có “hóa quang đài”, trên đài có hóa Phật như trước không khác. Trong lỗ lông của thân những hóa Bồ tát hóa ra tất cả việc hiếm thấy cho chúng sinh trong mười phương. Dưới chân hóa nhân có hóa quang đài, sinh ra các cung trời quá hơn cung điện của ma sáu trời Dục, cũng hơn cả cung nghiêm thân của trời Đại Phạm. Các tướng Phạm đỉnh sinh ra từ những vòng tròn dưới chân hóa Bồ tát. Như vậy sợi lông trắng lên đến cõi Vô Sắc, soi khắp tất cả vô lượng vô biên thế giới của chư thiên đều như gương sáng pha lê báu trắng. Chư thiên thấy tướng điềm ứng thắng diệu này rồi thì chẳng ưa niềm vui của trời mà phát tâm Bồ đề. Tám muôn bốn ngàn thiên nữ của ma vương nhìn thấy thân trạng của Ba Tuần như chó chết, cũng tợ như cây cháy. Họ chỉ chiêm ngưỡng ánh sáng tướng Bạch Hào của Bồ tát mà tâm ý vui sướng không lấy gì làm ví dụ được và giận cho việc làm trước đây của Ba Tuần : Mưu toan muốn hủy hoại người khác, ngược lại tự làm mất quân chúng của mình. Khi tác khởi lời này thì trăm ngàn vô số thiên tử, thiên nữ lại phát ý đạo Vô thượng Bồ đề - Đức Phật nói với Đại vương - Như vậy đủ thứ việc của các thắng tướng chỉ từ sợi lông trắng ở khoản mày của Bồ tát mà sinh ra thôi vậy, chẳng nhọc đến phần công đức khác của thân Bồ tát ấy. Sau khi Phật diệt độ, những bốn bộ chúng nếu có thể tạm thời lìa bỏ tán loạn, ràng buộc lòng, chánh quán tướng Bạch Hào hàng ma của Bồ tát thì diệt được vô số nghiệp chướng đen tối ác hại, cũng trừ được những chướng phiền não của mười điều ác, ở hiện thế có thể thấy ảnh tượng của Phật rõ ràng phân minh. Như vậy đủ thứ cảnh giới của quán tướng chẳng thể nói đủ được. Như sau khi ta diệt độ, người muốn quán tướng lông trắng khi Như Lai hàng phục ma thì phải quán như đây. Người quán như vậy gọi là chánh quán. Nếu quán khác thì gọi là tà quán.
Sao gọi là tướng Đại nhân, tướng người giác ngộ, tướng người chẳng động, tướng người Giải thoát, tướng người quang minh, tướng người đầy trí tuệ, tướng người đầy đủ các Balamật, tướng Thủ Lăng Nghiêm ngang bằng những biển tam muội lúc Như Lai thành Phật ?
- Đại Bồ tát từ Thắng Ý Từ tam muội khởi lên, lại vào Diệt Ý định. Từ Diệt Ý định khởi lên, trở lại vào Thủ Lăng Nghiêm. Từ Thủ Lăng Nghiêm khởi lên, lại vào Tuệ Cự tam muội. Từ Tuệ Cự tam muội khởi lên, lại vào Chư Pháp tướng tam muội. Từ Chư Pháp tướng tam muội khởi lên, lại vào Quang Minh Tướng tam muội. Từ Quang Minh Tướng tam muội khởi lên, lại vào Sư Tử Âm Thanh tam muội. Từ Sư Tử Âm Thanh tam muội khởi lên, lại vào Sư Tử Phấn Tấn tam muội. Từ Sư Tử Phấn Tấn tam muội khởi lên, lại vào Hải Ý tam muội. Từ Hải Ý tam muội khởi lên, lại vào Phổ Trí tam muội. Từ Phổ Trí tam muội khởi lên, lại vào Đà La Ni Ấn Tướng tam muội. Từ Đà La Ni Ấn Tướng tam muội khởi lên, lại vào Phổ Hiện Sắc Thân tam muội. Từ Phổ Hiện Sắc Thân tam muội khởi lên, lại vào Pháp Giới Tính tam muội. Từ Pháp Giới Tính tam muội khởi lên, lại vào Sư Tử Hống Lực Vương tam muội. Từ Sư Tử Hống Lực Vương tam muội khởi lên, lại vào Diệt Chư Ma Tướng tam muội. Từ Diệt Chư Ma Tướng tam muội khởi lên, lại vào Không Tuệ tam muội. Từ Không Tuệ tam muội khởi lên, lại vào Giải Không Tướng tam muội. Từ Giải Không Tướng tam muội khởi lên, lại vào Đại Không Trí tam muội. Từ Đại Không Trí tam muội khởi lên, lại vào Biến Nhất Thiết Xứ Sắc Thân tam muội. Từ Biến Nhất Thiết Xứ Sắc Thân tam muội khởi lên, lại vào Tịch Tâm Tướng tam muội. Từ Tịch Tâm Tướng tam muội khởi lên, lại vào Bồ tát MaHaTát Kim Cương Tướng tam muội. Từ Kim Cương Tướng tam muội khởi lên, lại vào Kim Cương Đỉnh tam muội. Từ Kim Cương Đỉnh tam muội khởi lên, lại vào tất cả biển tam muội. Từ tất cả biển tam muội khởi lên, lại vào tam muội tất cả biển Đà la ni. Từ tam muội tất cả biển Đà la ni khởi lên, lại vào tam muội tất cả biển cảnh giới của Phật. Từ tam muội tất cả biển cảnh giới của Phật khởi lên, lại vào tam muội biển giải thoát, giải thoát tri kiến của tất cả các đức Phật. Từ tam muội biển giải thoát, giải thoát tri kiến của tất cả các đức Phật khởi lên, nhiên hậu mới vào cửa những biển tam muội nhiều như số vi trần không lường. Từ cửa những biển tam muội khởi lên, lại vào Tịch Ý Diệt Ý tam muội. Từ Tịch Ý Diệt Ý tam muội khởi lên, lại vào cửa của tướng tam muội Kim Cương Thí Định Đại Giải Thoát.
Lúc bấy giờ, đất của đạo tràng hóa thành tựa như Kim cương, đầy tám mươi dặm, một màu trắng bạch, chẳng thể thấy đủ được. Khi hiện tướng này thì ánh sáng tướng Bạch Hào ở mi gian của Bồ tát thanh khiết chánh trực, thẳng đường về hướng Đông, dài một trượng năm thước, có mười góc hiện ra người con gái Di Ca, năm người con gái đồng loại. Vô số vạn ức trời rồng, quỉ thần, Di Lặc, các Bồ tát kiếp Hiền.v.v..., Bạt Đà Ba La.v.v..., vô lượng vô biên atăngkì các Bồ tát nhiều như số vi trần cũng thấy tướng này. Khi thị hiện tướng này, ở cây Bồ đề của Phật, do sức lông trắng nên dưới rễ cây tự nhiên hóa sinh hoa báu, dọc ngang bằng nhau bốn mươi do tuần. Đài hoa ấy bằng Kim cương. Ánh sáng ở khoản mày đức Phật chiếu soi đài hoa này. Ánh sáng ấy thẳng xuống đến mép Kim cương. Ở mép Kim cương tự nhiên hóa sinh hai tòa Kim cương. Chúng va chạm lẫn nhau, tiếng chấn động ba ngàn đại thiên thế giới, khiến cho đại địa này sáu thứ chấn động. Trên tòa Kim cương ấy, có đường thông từ hoa sen đến rễ của hoa sen. Rễ hoa sen ấy cũng chính là Kim cương. Ba thứ Kim cương va chạm nhau, xuống thẳng rồi trở lại, qua đến mép Kim cương, đi đến quay lại mười lần, ánh sáng Bạch Hào vây tròn mười vòng khiến cho tòa Kim cương vững vàng chẳng động. Phật ngồi tòa này, tiêu trừ ba chướng, thành đạo Bồ đề. Cảnh giới tâm của Phật nói chẳng thể hết. Nếu nói rộng ra thì tất cả chúng sinh cho đến Bồ tát Thập Địa cũng chẳng thể biết, cũng chẳng phải điều lý giải của họ. Vậy nên ở trong tướng Bạch Hào này ẩn dấu mà chẳng nói. Như vậy, sức ánh sáng của lông trắng khiến cho cây Bồ đề có thân là Kim cương, rễ cũng là Kim cương, tua hoa là bảy báu. Trên tua hoa phát sinh ánh sáng, mỗi mỗi đều có bảy vòng vây quanh thân Phật, hóa thành màn báu. Lá cây màu vàng, hoa màu báu trắng. Trên hoa có ánh sáng màu trăm ngàn báu mà ánh sáng báu chư thiên chẳng ví dụ được. Quả cây màu báu trắng mà báu trắng vi diệu trên trời Dạ Ma chẳng sánh được. Ánh sáng quả ấy hóa thành lưới Ma ni che rộng trên cây. Ở vùng lưới ấy giống như tơ trắng, uyển chuyển thòng xuống, hóa thành những chuông báu. Đầu bốn góc của chuông có đài báu lớn. Đài ấy cao hiển qua khỏi vô lượng thế giới ở phương trên. Qua khỏi thế giới đó rồi lại hóa thành các đài báu lớn nữa. Sự cao diệu của những đài ấy chẳng thể nói đủ được. Chúng quang hiển thắng diệu ví như trăm ngàn vạn ức núi Tu di hòa hợp lại. Ở trên đài ấy có bảo cái lớn thuần bằng Kim cương đủ màu xen lẫn ánh sáng vi diệu. Ánh sáng buông xuống hóa thành phan, trướng. Ở trong phan, trướng mưa xuống mây bảo cái. Ở trong mây bảo cái mưa xuống mây tràng phan. Trong mây tràng phan mưa xuống mây kỹ nhạc. Trong mây kỹ nhạc mưa xuống mây ánh sáng báu. Trong mây ánh sáng báu mưa xuống mây các hương thơm. Trong mây các hương thơm mưa xuống mây Sư tử tòa. Trong mây Sư tử tòa mưa xuống mây hoa man. Trong mây hoa man mưa xuống mây diệu âm. Trong mây diệu âm mưa xuống mây kệ tụng. Trong mây kệ tụng mưa xuống mây đồ trân bảo cúng dường. Như vậy .v.v... đủ thứ đồ cúng dường đều từ trong ánh sáng của tướng bạch hào tại cây Bồ đề sinh ra. Khi ánh sáng sợi lông trắng buông xuống chiếu vào đất thì khiến cho trên đất Kim cương bên đạo tràng hóa thành bảy ao. Ao sinh ra nước công đức, nước có bảy màu, từng màu từng màu phân minh. Màu có mười ánh sáng chiếu lên Vua cây (thọ vương). Bốn bờ của ao ấy do mọi thứ báu hợp thành. Mỗi bờ là sự chung hợp thành của trăm thứ báu. Mỗi báu tuông ra hàng trăm ức ánh sáng. Đáy ao thuần là Kim cương, ngọc Ma ni dùng làm cát đáy. Nước ao sinh ra các hoa mà cánh thuần là hoàng kim. Trên cánh, hàng ngàn ánh sáng hóa thành quang luân (vừng ánh sáng). Ao có bảy ngòi, nước tự trào ra. Miệng ao sinh ra hoa, từng cánh hoa từng cánh hoa kế tiếp nhau. Ở tua hoa sen tuông ra nước như ngọc lưu ly sáng trưng phân minh. Ở hai bờ ngòi la liệt những là hoa có đến tám muôn bốn ngàn các báu nghiêm sức. Nước trong ngòi này tưới rót vào nhau, khi nước đang chảy ánh sáng cũng chuyển theo làm chói sáng cây Bồ đề. Trong ánh sáng cây này, trên mỗi một lá sinh ra hoa sen báu. Hoa ấy bày khắp tất cả thế giới. Ở trên hoa ấy hóa ra bảo đài trắng khắp cùng vô lượng thế giới trong mười phương. Ánh sáng Bạch Hào ấy từ mi gian đức Phật phóng ra hoa sen báu tròn xoe đầy đặn một do tuần và cứ như vậy tiếp theo nhau qua vô lượng vô biên, chẳng thể tính toán thế giới nhiều như vi trần ở thượng phương. Từng hoa từng hoa kế tiếp nhau, trên mỗi một hoa có một đức Phật đang ngồi. Thân Phật màu hoàng kim, cao một trượng sáu, ngồi kiết già trên đài hoa sen. Tòa Kim cương ấy và cây Bồ đề... như trên đã nói, ngang bằng không có khác... cho đến những tòa những cây ở mười phương cũng lại như vậy. Ở trong Bạch Hào lại sinh ra hoa báu tốt hơn hoa báu trước gấp trăm ức vạn lần. Trên hoa ấy có đức Phật giống như Thích Ca Văn không có khác. Ở đầu mỗi tua hoa lại có một đức Phật thân cũng một trượng sáu đang vào sâu thiền định, lòng chẳng chao động. Như vậy, ánh sáng Bạch Hào soi đến phương Đông vô lượng vô số trăm ngàn thế giới, khiến cho các thế giới đều trở thành màu vàng. Chúng sinh của những thế giới đó thấy lỗ lông của những hóa Phật mở ra thị hiện ánh sáng cũng lại như vậy... phóng ra vô lượng trăm ngàn ánh sáng báu... trong mỗi một ánh sáng lại có vô lượng trăm ức hóa Phật... Lúc bấy giờ, chư thiên, rồng, quỉ thần, dạ xoa, Càn thát bà.v.v.. nhìn thấy ánh sáng này nhiễu quanh đức Phật ngàn vòng, soi chiếu mười phương đất nước. Đất nước mười phương cao thấp, lớn nhỏ rõ ràng phân minh như đang cầm gương sáng tự soi mặt mũi mình. Những đại chúng đó, quyến thuộc của Ma Ba Tuần, tám vạn ức chúng và các quỉ thần, trời, rồng, dạ xoa.v.v... đều thấy sợi lông trắng ngay thẳng dài một trượng năm, hiện ánh sáng khắp mười phương sáng lòa mắt mọi người như có vạn ức mặt trời, chẳng thể thấy đủ hết, chỉ thấy ở trong ánh sáng có vô lượng vô số trăm ngàn vạn ức đức hóa Thích Ca Văn với sợi lông trắng ở mi gian dài một trượng rưỡi. Trong mỗi một sợi lông phát ra vô lượng ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng có vô lượng đức hóa Phật. Rồi mi gian của hóa Phật cũng lại như vậy. Trong vách ngăn vừng sáng Bạch Hào đó tuông ra ánh sáng lên đến trán Phật làm hiển phát tướng trán rộng bằng phẳng, những lông trên trán đều lướt lên trên. Dưới chân lông ấy có màu ngọc Ma ni trời Phạm, vừa lòng chúng sinh. Đầu sợi lông tuông ra ánh sáng như vàng tía rực rỡ. Tướng sáng lướt lên vào đến mép tóc rồi uyển chuyển rũ xuống đến bên vòng tai, nhiên hậu mới phủ lên trên vùng tóc, vây quanh nhục kế hàng trăm ngàn vòng từ xương sọ sinh ra như cánh hoa sen vàng nở rộ dưới ánh mặt trời. Vùng cánh hoa sen và tua hoa sen như bức họa của Đế thích rõ ràng phân minh với mọi sắc hiện khác. Ở vùng sắc ấy có vô lượng hóa Phật. Mỗi hóa Phật có bảy Bồ tát và chư thiên làm thị giả, tay cầm hoa báu trắng nhất, hoa có năm ánh sáng năm màu phân minh, đi theo hóa Phật chẳng rời. Đây gọi là ánh sáng tướng Bạch Hào khi Như Lai mới thành Phật. Nhân ánh sáng Bạch Hào, ánh sáng đỉnh sơ sinh nên lúc sinh ở vương cung, ánh sáng này như mặt trời thấy chẳng tỏ rõ. Vầng sáng tròn một tầm riêng biệt, Ta tự sẽ nói. Việc nhìn thấy ánh sáng Bạch Hào của tám bộ chúng chẳng đồng : có người thấy lông trắng giống như các đức Phật, có người thấy lông trắng như các vị Bồ tát; có người thấy lông trắng như cha mẹ mình... Việc đáng tôn kính của tất cả thế gian đều ở đầu sợi lông, được thấy rõ ràng. Thấy rồi thì vui mừng, có người phát tâm Vô thượng Bồ đề, có người phát tâm Thanh văn, Duyên Giác. Như vậy, các quỉ thấy lông trắng thì tự nhiên phát từ tâm, không có ý ác - Đức Phật bảo với Phụ vương - Lông trắng của Như Lai, từ lúc sơ sinh cho đến khi thành Phật ở khoản giữa ấy, những việc nhỏ vi tế có thể được xem thấy. Nhưng khi đã thành Phật rồi thì mọi tướng đầy đủ của ánh sáng Bạch Hào, đức Phật đã nói rộng rãi trong các kinh điển. Chỗ rốt ráo của ánh sáng tướng Bạch Hào thì Bồ tát Thập Địa mới được thấy. Trước tiên ta nói trong phạm vi nhỏ hẹp cho việc này dễ thấy, ứng hợp với các thế gian.
Đức Phật nói với Phụ vương và bảo A-nan rằng :
- Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Suy nghĩ kỹ càng vấn đề đó ! Ông hãy truyền lời nói của ta cho các đệ tử đời sau đều được biết rằng, nếu sau khi ta diệt độ, có các Tỳ kheo... hỏi việc đó. Rằng, Bồ tát vốn xưa đã tu hạnh gì mà được tướng Bạch Hào này ? Thì ông phải đáp rằng, tướng Bạch Hào của đức Phật, từ vô lượng kiếp, lòng xả bỏ chẳng keo kiệt, chẳng thấy tướng đời trước, chẳng nhớ tài vật, lòng không tham trước mà làm bố thí, dùng pháp của thân tâm mà nhiếp lấy uy nghi của thân, hộ trì cấm giới như yêu thương đôi mắt, nhưng bên trong tấm lòng ấy thông suốt rỗng không lặng lẽ, chẳng thấy sai phạm khởi lên và xả bỏ đọa pháp, lòng yên như đất không lay động. Giả sử có một người dùng trăm ngàn lưỡi dao mổ xẻ thân ấy, giả sử lại có người dùng roi có gai nhọn đánh đập thân ấy mà Bồ tát không một ý niệm sân nhuế. Giả sử lại có người, đầu có một ngàn lưỡi, lưỡi nói ra hàng ngàn lời với đủ thứ ngôn từ nhục mạ, Bồ tát nhan sắc chẳng biến đổi, như hoa sen thanh tịnh, lòng không chấp trước, thân tâm chẳng giải đãi, không mệt mỏi, ý như cứu lửa cháy đầu, như lỗ chân lông của thân phát sinh ghẻ lở na-lợi mà ngày đêm tinh tấn tìm kiếm lương y. Lòng không nhiễm bẩn như ngọc lưu ly phơi bày sự thanh tịnh. Nhiếp thủ thân, thúc liễm ý, nhắm mắt, vòng tay, ngồi ngay chánh thọ, lòng ấy như biển sáng ngời chẳng động như núi Kim cương không thể cản trở hủy diệt. Tuy tác khởi ý này mà chẳng tùy theo thiền sinh khởi, lòng hạnh (như tro tàn) trí diệt, không có gì thích hay không thích, cũng không giác quán mà chẳng phải chẳng quán pháp. Tâm trí mạnh mẽ linh lợi nhiếp lấy các phương tiện, chẳng thấy có pháp hoặc lớn hoặc nhỏ, có tướng vi tế. Như vậy cái mà nhiều người gọi là Balamật, cũng từ ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề, lại từ mười lực, bốn vô sở úy, đại từ, đại bi, ba (?) niệm xứ, các diệu công đức... mà được tướng Bạch Hào này. Nếu sau khi ta diệt độ thì các đệ tử của Phật lìa bỏ các ác, trừ khử tướng rối loạn ồn ào, ưa phép ít nói, chẳng chuộng nhiều việc. Ngày đêm sáu thời, người đó có thể ở trong một thời phân làm một phần ít, trong phần ít có thể trong giây lát nghĩ đến tướng Bạch Hào, khiến cho lòng tỏ rõ không có tư tưởng lầm lẫn rối loạn phân minh chánh trụ, chú ý nghĩ đến tướng Bạch Hào chẳng ngưng thì hoặc thấy được tướng tốt, hoặc chẳng được thấy. Những người như vậy thì khước trừ được tội sinh tử của chín mươi sáu ức nadotha hằng hà sa vi trần số kiếp.
Giả sử lại có người chỉ nghe đến tướng Bạch Hào, lòng chẳng kinh sợ, nghi ngờ mà hoan hỉ tín thọ thì người này cũng khước trừ được tội sinh tử của tám mươi ức kiếp. Nếu có các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di phạm bốn căn bản tội, bất như đẳng tội và ngũ nghịch tội, trừ tội bài báng kinh Phương Đẳng. Những người như vậy nếu muốn sám hối thì ngày đêm sáu thời, thân tâm chẳng lười biếng. Ví như người đi sâu vào vùng cỏ khô, bốn bề lửa cháy, gió mạnh thổi lại muốn thiêu đốt thân họ. Người này nghĩ rằng, nếu lửa đốt ta, trong thời gian chưa chết mà chi tiết rã rời thì ta sẽ làm sao diệt được lửa này ? Nếu chẳng thiết lập kế sách thì sinh mạng nhất định chẳng cứu được. Ai là người có trí, nhiều những phương tiện có thể cứu mạng của ta? Giả sử cứu mạng an toàn mà ở chỗ người đó không có sự tiếc rẻ ? Tác khởi sự suy nghĩ này rồi, như núi lớn lở, họ gieo năm vóc xuống đất, gào khóc nước mắt như mưa, chắp tay hướng về đức Phật, khen ngợi đủ thứ đức hạnh của Như Lai. Tạo tác sự khen ngợi này rồi, họ tụng pháp sám hối, ràng buộc ý niệm ở trước mặt, nghĩ về ánh sáng tướng Bạch Hào ở mi gian của Phật từ một ngày đến bảy ngày thì bốn thứ tội trước có thể được nhẹ bớt, đến hai mươi mốt ngày thì tội tướng diệt dần, sau bốn mươi chín ngày nhiên hậu làm pháp yết ma. Việc này nói ở kinh khác. Nếu Tỳ kheo phạm chẳng đúng tội mà quán ánh sáng Bạch Hào tối đen chẳng hiện thì nên vào tháp quán tưởng mi gian của hình tượng, từ một ngày đến ba ngày, chắp tay kêu khóc, một lòng quan sát kỹ càng, nhiên hậu vào với Tăng, nói lên việc tội trước của mình. Đây gọi là diệt tội. Còn năm thứ tội trước thì niệm tướng ánh sáng Bạch Hào trải qua tám trăm ngày, nhiên hậu lại có pháp yết ma khác.
Đức Phật bảo với Phụ vương rằng :
- Như Lai có vô lượng tướng tốt. Trong mỗi một tướng có tám muôn bốn ngàn tướng tốt nhỏ. Tướng tốt như vậy mà chẳng bằng một phần nhỏ công đức của Bạch Hào. Vậy nên ngày hôm nay ta vì những chúng sinh ác ở đời sau nói về pháp quán Bạch Hào Tướng Đại Tuệ Quang Minh Tiêu Ác. Nếu có người tà kiến, ác rất nặng nghe đầy đủ tướng mạo phép quán này mà sinh lòng sân hận thì không có điều đó. Giả sử có sinh sân hận thì ánh sáng tướng Bạch Hào cũng lại che chở hộ trì. Tạm nghe lời nói đó thì trừ được ba kiếp tội, chỗ sinh thân sau là sinh ra vào đời có Phật. Như vậy đủ chủng loại trăm ngàn ức thứ cảnh giới ánh sáng vi diệu của các quán, chẳng thể nói hết, khi niệm Bạch Hào tự nhiên sinh ra. Quán như đây thì gọi là Chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán trán rộng bằng phẳng ?
- Tướng trán rộng bằng phẳng có hai vừng ánh sáng. Vách ngăn vừng ánh sáng với ngàn nan hoa, trục, vành thành ngọc Ma ni, hình dạng như bức họa của trời Tỳ Nựu Yết Ma. Ở trong bức họa tuông ra ánh sáng màu vàng thượng diệu đến nhập vào Bạch Hào, nhiễu quanh Bạch Hào bảy vòng. Bên trên nó vào trong lỗ các lông trên trán cho đến trong các sắc tướng của mép tóc, rồi uyển chuyển rũ xuống đến vành tai. Bên trên nó tan vào tóc, nhiễu quanh tóc bảy vòng. Từ xương sọ mọc ra tướng hoa sen vòng quanh phía trước tròn xoe, bảy vòng bảy họa phân minh. Bức họa có bảy sắc, mỗi sắc sinh bảy hoa, mỗi hoa có một đức Phật với bảy vị Bồ tát làm thị giả, cung kính vây quanh, xoay về bên phải mà di chuyển. Như vậy ba tướng trán rộng bằng phẳng là : tướng mép tóc, tướng các lỗ chân lông trên đầu, tướng trong não. Trong não cũng có mười bốn ánh sáng hiện bên trong các mạch mà trong ngoài đều suốt thông minh hiển đáng yêu. Chúng tuông ra ánh sáng trắng xen lẫn màu hồng tía. Màu sắc ấy vi tế từ xương sọ phát ra, cũng vòng quanh phía trước ba vòng. Mỗi một bức họa có một đức Phật ngồi, có hai vị Bồ tát làm thị giả, càng thêm minh hiển hơn trước bội phần.
Sao gọi là quán tướng my (mày) của Như Lai ?
- Hai my phải trái, hình như trăng non. Từ đường cong sinh ra những sợi lông, nhiều ít tùy theo chỗ thay đổi của hình trăng non. Màu sắc những lông ấy đẹp xanh biếc, Đầu lông xanh biếc mà sắc sáng vi diệu của lưu ly không sánh được. Ánh sáng hai my lướt tan vào những sợi tóc. Đã vào tóc rồi thì lên đến ngọn tóc. Ánh sáng khởi lên thì màu sắc của ong xanh, Khổng tước (con công) không so cùng loại được. Chúng giống như vết mực đen sánh với ánh sáng của lưu ly. Rồi ánh sáng ấy buông xuống theo xương sọ mà phát ra, xoay về bên phải uyển chuyển sáng nhiễu quanh bốn vòng. Trong mỗi một vòng hiện ra một hóa Phật, có hai vị Bồ tát và hai vị Tỳ kheo hầu hạ phải trái. Những vị ấy đều đứng trên tua của hoa sen, sáng rỡ đáng yêu hơn trước bội phần. Ba vạch dưới my và trong vành mắt lại sinh ra bốn luồng ánh sáng xanh vàng đỏ trắng, hướng lên trên ra vào trong xương sọ và ra khỏi đầu lông mày cũng như pháp trước. Rồi những ánh sáng màu ấy từ xương sọ phát ra nhiễu quanh bốn vòng sáng với bốn màu phân minh. Màu vàng có hóa Phật thân màu hoàng kim. Màu trắng có hóa Phật, thân màu bạc trắng (bạch ngân). Màu xanh có hóa Phật, thân màu vàng ròng. Màu đỏ có hóa Phật, thân màu xa cừ. Như vậy xoay về bên phải, lại thêm sáng rỡ hơn trước bội phần.
Sao gọi là tướng lông mi mắt của Như Lai ?
- Lông mi mắt của Như Lai, trên và dưới đều mọc ra năm trăm sợi lông mềm mại, đáng yêu như tua của hoa Ưu Bát. Ở đầu những sợi lông ấy tuông ra một luồng ánh sáng như màu pha lê nhập vào mọi tướng ở trước. Trong màu ánh sáng vòng quanh đầu một vòng, rồi từ xương sọ phát ra vây quanh ánh sáng trước và mọc ra thuần là những hoa sen xanh vi diệu. Trên đài hoa sen có bảo cái màu xanh và có vị Phạm Thiên Vương, tay cầm bảo cái đó. Khi hiện tướng này thì mắt của Phật trắng xanh, trắng hơn cả báu trắng trăm ức vạn lần, xanh thì xanh hơn cả hoa sen xanh và lưu ly xanh biếc trăm ức vạn lần, trên dưới đều nhìn thấy được như mắt của Ngưu vương. Đuôi nheo đôi mắt phát ra hai luồng ánh sáng rất là vi tế như hoa sen xanh, vòng quanh tóc một vòng rồi theo xương sọ phát ra chói sáng các hoa khiến cho hoa nở rộ, ánh sáng càng thêm hiển hiện. Tướng vô lượng công đức thù thắng như vậy gọi là mắt của Như Lai. Nếu có người muốn quán mắt của Như Lai thì phải quán theo pháp quán này. Người quán theo pháp quán này mà diệt trừ được các ác, nhắm mắt ngồi ngay chánh quán mắt Phật từ một ngày đến bảy ngày thì ở đời vị lai thường được thấy Phật, nhất định chẳng mù tối, cũng chẳng sinh ra ở chỗ biên địa tà kiến không có Phật pháp, tuệ nhãn luôn mơ chẳng sinh ngu si.
Đức Phật bảo với Phụ vương :
- Vậy nên kẻ trí vì trừ mù tối thì phải quán tưởng mắt Phật. Phật có năm mắt. Trong phép quán này, trước hết nói về ánh sáng minh tịnh của nhục nhãn. Ích lợi của lòng quán tưởng mắt Phật là sinh ra cảnh giới chẳng thể nói đủ được. Quan sát kỹ mắt Phật với chút ít thời gian và quán tưởng mắt tượng Phật thì trong đời vị lai trải qua năm chỗ sinh ra, mắt thường minh tịnh, nhãn căn (cơ quan của mắt) không bệnh, trừ được tội sinh tử của bảy kiếp.
Đức Phật bảo ngài A-nan, lệnh cho những bốn chúng rằng :
- Hãy siêng năng quán tưởng mắt Phật ! Hãy thận trọng chớ ngưng bỏ ! Người quán mắt Phật ắt được vô lượng công đức vi diệu. Mép tóc trán rộng và tóc xoắn hoa văn, vành mắt, mi mắt, lông nheo, vạch mắt.... Những tướng sáng như vậy.v.v... nếu người tạm nhìn thấy thì trừ được tội sinh tử của sáu mươi kiếp, nơi sinh ra ở đời vị lai nhất định thấy đức Di Lặc, được uy quang của một ngàn đức Phật ở kiếp Hiền ủng hộ, lòng như hoa sen mà không chấp trước, nhất định chẳng rơi vào ba đường tám nạn. Nếu ngồi quán tưởng mà chẳng thấy thì phải vào tháp quán tưởng. Khi vào tháp quán cũng phải quán tưởng những ánh sáng này. Phải chí tâm chắp tay quì gối quan sát kỹ càng, từ một ngày đến ba ngày, lòng chẳng thác loạn thì sau khi mạng chung sinh lên cõi trời Đâu suất, diện kiến đức Bồ tát Di Lặc sắc thân đoan nghiêm, ứng cảm hóa đạo. Đã được thấy rồi thì thân tâm hoan hỉ, vào Chính Pháp Vị (địa vị).
Đức Phật bảo với Phụ vương :
- Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
- Hết quyển thứ hai -

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Thắp ngọn đuốc hồng


Hạnh phúc khắp quanh ta


Lược sử Phật giáo


Tự lực và tha lực trong Phật giáo

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.226.150.245 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập