Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
PHẨM TỰA THỨ NHẤT
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá cùng với một ngàn tám trăm vị Tỳ-kheo đều là A-la-hán, đã diệt tận các lậu, không còn phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, đạt chín trí, mười trí, việc làm đã làm xong, quán đúng như thật về ba điều giả, quán ba không môn, đã thành tựu công đức hữu vi và công đức vô vi.
Lại có tám trăm vị Tỳ-kheo ni đều là A-la-hán. Lại có vô lượng vô số đại Bồ-tát với thật trí bình đẳng, đoạn hẳn phiền não chướng, có phương tiện thiện xảo phát hạnh nguyện lớn, lấy bốn nhiếp pháp làm lợi ích chúng sanh, đem bốn tâm vô lượng che trùm tất cả, ba minh thấu suốt, chứng đắc năm thần thông, tu tập vô biên pháp Bồ-đề phần, có kỹ thuật thiện xảo vượt hơn mọi người trên thế gian, thâm nhập rõ về duyên sanh, không, vô tướng, vô nguyện, ra vào diệt định, thị hiện khó lường, thu phục ma oán, hiểu rõ cả hai đế với pháp nhãn thấy biết tất cả nguồn căn của chúng sanh, với bốn vô ngại giải giảng nói không sợ sệt, với mười lực diệu trí, tiếng giảng pháp như sấm động, gần gũi với vô đẳng đẳng Kim cang Tam muội. Các vị ấy đều có đầy đủ các công đức như vậy.
Lại có vô lượng chúng Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả đều thấy Thánh đế.
Lại có vô lượng vị tu hạnh thất hiền, niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn, lực, bát thắng xứ, mười biến xứ, mười sáu tâm hành, vượt đến tứ đế hiện quán.
Lại có mười sáu đại quốc vương: vua Ba-Tư-Nặc... cùng cả ngàn vạn quyến thuộc.
Lại có Lục dục thiên vương: Thích Đề Hoàn Nhơn... cùng vô lượng thiên tử quyến thuộc.
Bốn Tĩnh tự thiên ở cõi Sắc: các đại Phạm vương... cùng quyến thuộc với vô lượng thiên tử.
Vô lượng hữu tình biến hóa của các cõi như A-tu-la.... và rất nhiều quyến thuộc.
Lại có cõi thanh tịnh biến hiện ở mười phương và hiện trăm ức tòa sư tử. Đức Phật ngồi trên tòa ấy giảng nói pháp giải thoát, trước mỗi tòa hiện một đóa hoa có trăm ức cánh được trang hoàng bằng những vật quý báu. Trên mỗi đóa hoa có vô lượng hóa Phật, vô lượng Bồ-tát, vô lượng tứ chúng và bát bộ. Ở giữa, chư Phật giảng nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa, từ từ lần lượt lưu bố khắp hằng sa cõi chư Phật ở mười phương.
Tất cả các đại chúng đến như vậy đều lạy sát hai chân đức Phật rồi lui ngồi qua một bên.
Bấy giờ vào ngày mồng tám tháng giêng, đức Thế Tôn nhập đại tịch tịnh diệu Tam ma địa. Các lỗ chân lông trên thân Ngài phóng ánh sáng lớn chiếu khắp hằng sa cõi Phật ở mười phương. Khi ấy, vô lượng chư thiên ở cõi Dục mưa các loại hoa đẹp. Chư thiên cõi Sắc cũng mưa hoa trời đủ các màu sắc xen lẫn với nhau rất là đẹp mắt. Cõi Vô sắc mưa các hoa thơm, mùi thơm như Tu-di, hoa như bánh xe, như mây bủa xuống che khắp đại chúng và Phật, làm thế giới chấn động sáu cách.
Bấy giờ đại chúng nói với nhau: “Trước đây Đại giác Thế Tôn vì chúng ta đã nói Ma Ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Kim-cang Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Thiên vương vấn Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Đại phẩm đẳng vô lượng vô số Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Hôm nay Như Lai phóng ánh sáng lớn như vậy là do nguyên nhân gì?”.
Khi ấy, vua Ba-Tư-Nặc nước Thất La Phiệt suy nghĩ: “Hôm nay đức Phật hiện tướng hy hữu như vậy, chắc chắn là có mưa pháp vũ làm cho tất cả đều được lợi ích an lạc”. Thế rồi vua hỏi các Ưu-bà-tắc: Bảo Cái, Vô Cấu Xứng..., các đại Thanh văn: Xá Lợi Phất, Tu Bồ Đề...., các đại Bồ-tát: Di-Lặc, Sư Tử Hống,...:
- Như Lai biểu hiện là tướng điềm lành gì?
Các đại chúng không ai trả lời được. Nương oai thần lực của Phật, vua Ba Tư Nặc... trỗi vang âm nhạc, chư thiên cõi Dục đều tấu lên vô lượng các kỹ nhạc trời, tiếng nhạc vang khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới.
Bấy giờ, Thế Tôn lại phóng vô lượng A-tăng-kỳ ánh sáng. Ánh sáng ấy đủ cả màu sắc lẫn lộn. Trong mỗi vầng ánh sáng hiện lên hoa sen báu, mỗi hoa có ngàn cánh làm bằng vàng ròng và có hóa Phật ngồi ở trên giảng nói pháp giải thoát. Ánh sáng của Phật chiếu khắp hằng hà sa cõi Phật trong mười phương, vì có nhân duyên nên hiện lên như vậy.
Trong cõi Phật ở phương khác: phương Đông có đại Bồ-tát Phổ Quang, phương Đông-nam có đại Bồ-tát Liên Hoa Thủ, phương Nam có đại Bồ-tát Ly Ưu, phương Tây-nam có đại Bồ-tát Quang Minh, phương Tây có đại Bồ-tát Hành Huệ, phương Tây-bắc có đại Bồ-tát Bảo Thắng, phương Bắc có đại Bồ-tát Thắng Thọ, phương Đông-bắc có đại Bồ-tát Ly Trần, phương trên có đại Bồ-tát Hỷ Thọ, phương dưới có đại Bồ-tát Liên Hoa Thắng, đều cùng vô lượng trăm ngàn câu chi đại Bồ-tát đến đây, đem đủ loại hương thơm, rải đủ loại hoa, trỗi vô lượng âm nhạc để cúng dường Như Lai và tất cả đảnh lễ sát hai chân đức Phật rồi im lặng lui qua một bên, ngồi chấp tay cung kính, nhất tâm chiêm ngưỡng đức Phật.
PHẨM THỨ HAI: QUÁN NHƯ LAI
Bấy giờ, Thế Tôn ra khỏi Tam muội, ngồi nơi tòa sư tử, Ngài dạy đại chúng:
- Như Lai biết mười sáu vị đại quốc vương đều nghĩ như vầy: “Thế Tôn đại bi làm cho tất cả đều được lợi ích an lạc. Các vua chúng ta phải giữ gìn đất nước như thế nào?”. Này thiện nam tử! Trước tiên vì các đại Bồ-tát, Ta sẽ nói về việc giữ gìn quả Phật, giữ gìn hạnh Thập địa. Các ông phải lắng nghe cho rõ, lắng nghe cho thật kỹ, ghi nhớ đúng về việc ấy.
Nghe đức Phật nói như vậy, cả đại chúng, vua Ba Tư Nặc... đều cùng nhau khen ngợi rằng:
- Lành thay! Lành thay!
Rồi tất cả rải vô lượng hoa báu thơm đẹp, hoa ấy biến thành lọng báu lơ lửng giữa hư không, che khắp cả đại chúng và bao khắp mọi nơi.
Khi ấy, vua Ba Tư Nặc đứng dậy đảnh lễ sát hai chân đức Phật, chấp tay quỳ dài bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát giữ gìn quả Phật như thế nào? Giữ gìn hạnh Thập địa như thế nào?
Đức Phật dạy vua Ba Tư Nặc:
- Giữ gìn quả Phật nghĩa là đại Bồ-tát nên trụ như vầy: giáo hóa tất cả loài noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh, không quán sắc tướng, không quán sắc, với thọ - tưởng - hành - thức cũng như vậy. Hiểu biết ngã - nhơn, thường - lạc - ngã - tịnh, bốn nhiếp pháp, sáu độ, hai đế, bốn đế, lực, vô úy.v.v... tất cả các hạnh cho đến Bồ-tát, Như Lai cũng đều như vậy, không quán tưởng, không quán Như. Vì sao? - Vì tánh của các pháp là chân thật, nó không đến không đi, không sanh không diệt, đồng đẳng với chơn tế, pháp tánh không có hai, không riêng biệt, nó như hư không, tướng uẩn xứ giới không có ngã, không có ngã sở. Đó là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vua Ba-Tư-Nặc thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tánh của Bồ-tát và chúng sanh không có hai thì Bồ-tát lấy tướng gì để giáo hóa chúng sanh?
Phật dạy:
- Này đại vương! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là thường, lạc, ngã, tịnh. Pháp tánh không trụ vào sắc, không trụ vào phi sắc. Thọ, tưởng, hành, thức là thường, lạc, ngã, tịnh; không trụ vào tịnh, cũng không trụ vào phi tịnh. Vì sao? - Vì tánh của các pháp đều là không, do thế đế, do tạm giả mà có. Tất cả hữu tình và pháp uẩn - xứ - giới, tạo phước chẳng phải phước và bất động hành, do nhân quả mà có. Các hạnh của Thánh hiền Tam thừa đã tu cho đến quả Phật đều nói là có. Sáu mươi hai kiến cũng gọi là có.
Này đại vương! Nếu chấp trước vào danh tướng để phân biệt các pháp hành của sáu cõi, bốn sanh, ba thừa tức là không thấy được thật tánh của các pháp.
Vua Ba Tư Nặc thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật tánh của các pháp là thanh tịnh, bình đẳng, phi hữu, phi vô. Vậy trí chiếu như thế nào?
Phật dạy:
- Này đại vương! Trí chiếu thật tánh phi hữu phi vô. Vì sao? - Vì pháp tánh là không; tức là sắc - thọ - tưởng - hành - thức, mười hai xứ, mười tám giới, sáu cảnh giới của phàm phu, mười hai nhân duyên, hai đế, bốn đế, tất cả đều không. Các pháp ấy sanh rồi diệt, có rồi không, trong từng sát-na cũng như vậy. Vì sao? - Vì trong một niệm có chín mươi sát-na. Mỗi sát-na trải qua chín trăm lần sanh diệt. Vì các pháp hữu vi đều là không. Nhờ Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu nên chiếu thấy tất cả các pháp đều không, nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, vô thủy không, cứu cánh không, tánh không, bản tánh không, tự tướng không, tất cả pháp không, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không, nhơn không, quả Phật không, không không nên không. Các pháp hữu vi do pháp tập hợp nên có, thọ tập hợp nên có, danh tập hợp nên có, nhơn tập hợp nên có, quả tập hợp nên có, sáu cõi nên có, mười địa nên có, quả Phật có, tất cả đều có.
Này thiện nam tử! Nếu Bồ-tát trụ vào tướng của pháp mà có tướng ngã, tướng nhơn, là sự hiểu biết của hữu tình, là vướng vào thế gian nên chẳng phải Bồ-tát. Vì sao? - Vì tất cả các pháp đều không. Nếu đối với các pháp mà đắc bất động, không sanh không diệt, vô tướng, không phải vô tướng thì không nên khởi kiến chấp. Vì sao? - Vì tất cả pháp đều là Như. Phật, Pháp, Tăng cũng Như. Trong một niệm đầu tiên khi Thánh trí hiện tiền thì có đầy đủ tám vạn bốn ngàn ba-la-mật-đa, gọi là Hoan hỷ địa, diệt sạch các chướng, được giải thoát. Vận chuyển gọi là thừa. Khi tướng động diệt thì gọi là Kim-cang định, tướng lễ bình đẳng gọi là trí Nhất thiết trí.
Này đại vương! Văn tự, chương cú của Bát-nhã Ba-la-mật-đa này trăm đức Phật, ngàn đức Phật, trăm ngàn vạn ức đức Phật đều cùng nói. Nếu có người đem bảy báu trong cả hằng hà sa ba ngàn đại thiên thế giới để bố thí, làm cho tất cả hữu tình trong đại thiên thế giới đều chứng quả A-la-hán, không bằng người đối với kinh này - dù chỉ khởi lên một niệm với lòng tin thanh tịnh, huống chi người thọ trì, đọc tụng, hiểu một câu. Vì sao? - Vì lìa tánh văn tự, không có tướng văn tự, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Vì Bát-nhã là không, nên Bồ-tát cũng không. Vì sao? - Vì trong mười địa, địa nào cũng đều có mới bắt đầu sanh, hiện đang sanh, cho đến chấm dứt sự sanh. Như vậy, ba mươi sanh đều là không. Trí Nhất thiết trí cũng đều không.
Này đại vương! Nếu Bồ-tát thấy có cảnh giới, thấy trí tuệ, thấy nói, thấy thọ trì thì chẳng phải sự thấy của bậc Thánh mà đó là sự thấy của phàm phu. Quả báo của hữu tình ba cõi là hư vọng. Các nghiệp ở cõi Dục do phân biệt đã tạo ra, các nghiệp của bốn tịnh lự định ở cõi Sắc đã tạo ra, các nghiệp của bốn không định ở cõi Vô sắc đã tạo ra, tất cả nghiệp quả của ba cõi đều là không. Căn bản vô minh của ba cõi cũng không. Các địa của bậc Thánh là sanh diệt vô lậu. Ở trong ba cõi huân tập các vô minh khác, quả báo có thay đổi cũng đều là không. Bồ-tát ngôi Đẳng giác chứng đắc Kim-cang định, nhơn quả của hai trường hợp chết là không, Nhất thiết trí cũng không. Phật Vô thượng giác với các trí đã viên mãn; trạch, phi trạch diệt chơn tịnh pháp giới, tánh tướng bình đẳng, ứng dụng cũng không.
Này thiện nam tử! Nếu có người tu tập Bát-nhã Ba-la-mật-đa, người nói, người nghe; ví như nhà ảo thuật không nói, không nghe. Pháp đồng với pháp tánh giống như hư không. Tất cả đều là Như.
Này đại vương! Đại Bồ-tát giữ gìn quả Phật là như vậy.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo vua Ba Tư Nặc:
- Ông đem tướng gì để quán Như Lai?
Vua Ba Tư Nặc thưa:
- Quán thật tướng của thân thì quán Phật cũng như vậy, không có khoảng trước, không có khoảng sau, không có khoảng giữa, không trụ vào ba khoảng, không lìa ba khoảng, không trụ vào năm uẩn, không trụ vào bốn đại, không lìa bốn đại, không trụ vào sáu xứ, không lìa sáu xứ, không trụ vào ba cõi, không lìa ba cõi, không trụ vào phương hướng, không lìa phương hướng. Minh và vô minh đồng đẳng, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải đây, chẳng phải kia, chẳng thanh tịnh, chẳng ô uế, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải tướng mình, chẳng phải tướng người, không danh, không tướng, không mạnh, không yếu, không chỉ dạy, không nói, chẳng bố thí, chẳng xan tham, chẳng giữ giới, chẳng phạm, chẳng nhẫn nhục, chẳng sân giận, chẳng tinh tấn, chẳng biếng nhác, chẳng định, chẳng loạn, chẳng trí tuệ, chẳng ngu si, chẳng đến, chẳng đi, chẳng vào, chẳng ra, chẳng phải ruộng phước, chẳng phải không ruộng phước, chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng nắm bắt, chẳng xả bỏ, chẳng lớn, chẳng nhỏ, chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng hay chẳng biết, diệt hết nơi hoạt động của tâm, dứt hẳn đường ngôn ngữ, pháp tánh đồng với chơn tế. Con dùng tướng như vậy để quán Như Lai.
Phật dạy:
- Này thiện nam tử! Đúng như lời ông đã nói, các lực, vô úy,... hằng hà sa công đức, các pháp bất cộng của chư Phật Như Lai đều như vậy. Người nào tu tập Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán như vậy. Nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Khi đức Phật nói pháp này có vô lượng đại chúng đắc pháp nhãn tịnh. PHẨM THỨ BA: HẠNH BỒ-TÁT
Bấy giờ, vua Ba-Tư-Nặc thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát giữ gìn hạnh Thập địa nên tu hành thế nào? Giáo hóa chúng sanh thế nào? Và lại dùng tướng gì để quán sát?
Đức Phật dạy:
- Này đại vương! Các đại Bồ-tát nương vào năm pháp nhẫn để tu hành, đó là: Phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn, Vô sanh nhẫn đều thượng - trung - hạ. Còn đối với Tịch tịnh nhẫn thì có thượng - hạ. Đó gọi là Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Này thiện nam tử! Mới vào địa vị Phục nhẫn bắt đầu huân tập chủng tánh tu hạnh Thập trụ. Tướng mới phát tâm có hằng hà sa chúng sanh, thấy Phật Pháp Tăng phát mười tín, đó là: tín tâm, niệm tâm, tinh tấn tâm, huệ tâm, định tâm, bất thối tâm, giới tâm, nguyện tâm, hộ pháp tâm và hồi hướng tâm. Nếu đầy đủ mười tâm này thì có thể giáo hóa chúng sanh được phần nhỏ, vượt qua tất cả thiện địa của hàng nhị thừa. Đó là Bồ-tát mới nuôi lớn tâm, là Thánh thai.
Lại nữa, Bồ-tát ở ngôi tánh chủng tánh tu hành mười loại ba-la-mật-đa, phát sanh mười thứ đối trị, nghĩa là quán sát thân, thọ, tâm, pháp, bất tịnh, các khổ, vô thường, vô ngã, trị ba căn bất thiện: tham, sân, si; phát sanh ba thiện căn: bố thí, từ bi, trí tuệ; quán sát ba đời nhân nhẫn ở quá khứ, nhân quả nhẫn ở hiện tại, quả nhẫn ở vị lai. Bồ-tát ở địa vị này làm lợi lạc cho chúng sanh, vượt qua các tư tưởng ngã kiến, nhơn kiến của chúng sanh và tư tưởng điên đảo của ngoại đạo không thể nào làm hại được.
Lại nữa, Bồ-tát ở ngôi đạo chủng tính tu Thập hồi hướng, phát mười tâm nhẫn, nghĩa là quán năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì đắc được giới nhẫn, định nhẫn, tuệ nhẫn, giải thoát nhẫn và giải thoát tri kiến nhẫn. Quán nhân quả ba cõi thì đắc được Không nhẫn, Vô tưởng nhẫn và Vô nguyện nhẫn. Quán các pháp giả thực của nhị đế là vô thường thì đắc Vô thường nhẫn. Quán tất cả pháp là không thì đắc Vô sanh nhẫn. Bồ-tát ở ngôi này làm Chuyển luân vương, có năng lực giáo hóa làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Lại nữa, Bồ-tát ở ngôi Tín nhẫn, nghĩa là ở Hoan hỷ địa. Ly cấu địa và Phát quang địa có thể đoạn trừ ba chướng và đoạn trừ dây phiền não của sắc, hành bốn nhiếp pháp: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự; tu bốn vô lượng tâm: từ vô lượng tâm, bi vô lượng tâm, hỷ vô lượng tâm và xả vô lượng tâm; đầy đủ bốn hoằng nguyện, đoạn trừ các triền cái, luôn giáo hóa chúng sanh, tu tri kiến Phật, chứng thành Vô thượng giác, trụ vào ba giải thoát thoát môn: không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô nguyện giải thoát môn. Đây là đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đến các hạnh căn bản của Nhất thiết trí, làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh.
Lại nữa, Bồ-tát ở ngôi Thuận nhẫn, nghĩa là ở Diệm huệ địa, Nan thắng địa và Hiện tiền địa có thể đoạn trừ ba chướng và dây phiền não thuộc tâm. Một thân có thể đi khắp cả ức cõi Phật ở mười phương, hiện thần thông biến hóa không thể nói được, để làm lợi ích an lạc chúng sanh.
Lại nữa, Bồ-tát ở ngôi Vô sanh nhẫn, nghĩa là ở Viễn hành địa, Bất động địa và Thiện huệ địa có thể đoạn trừ ba chướng, tập khí của sắc tâm, thị hiện thân nhiều không thể tính, tùy theo từng loại mà làm lợi ích tất cả chúng sanh.
Lại nữa, Bồ-tát ở ngôi Tịch diệt nhẫn, Phật và Bồ-tát đều nương nhờ vào nhẫn này. Với Kim cang định, nếu trụ ngôi vị hạ nhẫn thì gọi là Bồ-tát, còn trụ thượng nhẫn thì gọi là Nhất thiết trí. Quán Thắng nghĩa đế đoạn trừ tướng vô minh, đó là Đẳng giác. Một tướng và vô tướng đều bình đẳng không có hai, là Nhất thiết trí địa thứ mười một phi hữu phi vô, lắng trong thanh tịnh, không đến không đi, thường trụ bất biến, pháp tánh đồng đẳng với chơn tế, dùng vô duyên đại bi luôn giáo hóa chúng sanh, ngồi xe Nhất thiết trí để đến hóa độ ba cõi.
Này thiện nam tử! Tất cả phiền não của các loài chúng sanh, nghiệp quả dị thục, hai mươi hai căn không ra ngoài ba cõi. Chư Phật chỉ dạy bằng ứng hóa và pháp thân cũng không ngoài cõi này. Nếu nói rằng ngoài ba cõi còn có cảnh giới của tất cả chúng sanh thì đó là kinh ngoại đạo đại hữu nói.
Này đại vương! Ta thường dạy chúng sanh chỉ đoạn trừ hết sanh tử vô minh trong ba cõi, đó tức là Phật. Tự tánh thanh tịnh gọi là bản giác, tức là trí Nhất thiết trí của chư Phật. Nhờ đó mà được làm cội gốc của chúng sanh, cũng là hành bổn của chư Phật và Bồ-tát. Đó là sự tu hành của Bồ-tát, là mười bốn nhẫn trong năm pháp nhẫn.
Đức Phật dạy:
- Này đại vương! Trước đây ông hỏi về vấn đề Bồ-tát làm thế nào để giáo hóa chúng sanh. Đại Bồ-tát nên giáo hóa như vầy: Từ địa đầu tiên cho đến địa cuối cùng phải hiểu biết tất cả hành xứ của chính mình và hành xứ của Phật. Nếu đại Bồ-tát trụ trong trăm cõi Phật làm Chuyển luân Thánh vương ở Thiệm Bộ Châu, tu tập một trăm pháp minh môn, dùng bố thí độ trụ nơi tâm bình đẳng để giáo hóa chúng sanh cả bốn thiên hạ. Nếu đại Bồ-tát trụ một ngàn cõi Phật, làm vua trong cõi trời Đao Lợi, tu tập ngàn pháp minh môn, giảng nói mười thiện đạo, hóa độ tất cả chúng sanh.
Nếu đại Bồ-tát trụ vạn cõi Phật, làm Thiên vương cõi trời Dạ Ma, tu tập vạn pháp minh môn, nương vào bốn thiền định mà giáo hóa tất cả chúng sanh.
Nếu đại Bồ-tát trụ ức cõi Phật, làm Thiên vương cõi trời Đâu Suất, tu tập ức pháp minh môn, tu hành pháp phần Bồ-đề để giáo hóa tất cả chúng sanh.
Nếu đại Bồ-tát trụ trong trăm ức cõi Phật, làm Thiên vương cõi trời Hóa Lạc, tu tập trăm ức pháp minh môn, dùng nhị đế, tứ đế để giáo hóa chúng sanh.
Nếu đại Bồ-tát trụ trong ngàn ức cõi Phật, làm Thiên vương cõi trời Tha Hóa Tự Tại, tu tập ngàn ức pháp minh môn, dùng trí chứng mười hai nhân duyên để giáo hóa tất cả chúng sanh.
Nếu đại Bồ-tát trụ trong vạn ức cõi Phật, làm Phạm vương ở cõi Sơ thiền, tu tập vạn ức pháp minh môn, dùng trí phương tiện thiện xảo để giáo hóa tất cả chúng sanh.
Nếu đại Bồ-tát trụ trong trăm vạn ức số vi trần cõi Phật thì làm Phạm vương ở cõi Nhị thiền, tu tập trăm vạn số vi trần pháp minh môn song chiếu bình đẳng, dùng trí nguyện thần thông để giáo hóa tất cả chúng sanh.
Nếu đại Bồ-tát trụ trong trăm vạn a tăng kỳ kiếp số vi trần cõi Phật, làm Phạm vương ở cõi Tam thiền, tu tập trăm vạn a tăng kỳ số vi trần pháp minh môn, dùng trí bốn vô ngại để giáo hóa tất cả chúng sanh.
Nếu đại Bồ-tát trụ trong các cõi Phật nhiều không thể nói, không thể tả, làm Đại Phạm thiên vương ở cõi Tứ thiền, tu tập các pháp minh môn nhiều không thể nói, không thể tả hết được, đạt được Tận lý tam muội đồng với hành xứ của Phật, rõ tận căn nguyên của ba cõi, làm lợi ích cho chúng sanh giống như cảnh giới của đức Phật. Đó là việc đại Bồ-tát thị hiện thân vua để giáo hóa, dẫn dắt chúng sanh.
Chư Như Lai ở mười phương cũng giống như vậy, chứng đắc Vô thượng giác, thường ở khắp pháp giới để làm lợi lạc cho chúng sanh.
Bấy giờ, tất cả đại chúng đều đứng dậy, rải hoa nhiều không thể nói, đốt hương nhiều không thể nói, cúng dường cung kính khen ngợi Như Lai.
Khi ấy, ở trước Phật, vua Ba Tư Nặc nói kệ khen:
- Đạo sư Thế Tôn thể Kim-cang
Chuyển pháp luân tâm hành tịch diệt
Giảng nói bằng tám loại viên âm
Người đắc đạo cả trăm vạn ức
Trời người đều tu hạnh xuất ly
Tu tập tất cả đạo Bồ-tát
Công đức năm nhẫn môn diệu pháp
Và mười bốn, Bồ-tát đều hiểu rõ
Hành trong nhẫn tam hiền thập thánh
Chỉ có Phật hiểu tận nguồn căn
Biển Phật, Pháp, Tăng kho Tam bảo
Vô lượng công đức ở trong đó
Bồ-tát thập thiện phát tâm lớn
Luôn ở ba cõi biển luân hồi
Thiện trung hạ làm các vua nhỏ
Thiện bậc thượng làm Thiết luân vương
Tập chủng đồng luân hai thiên hạ
Tánh chủng tánh ngân luân ba thiên hạ
Đạo chủng đắc vững Chuyển luân vương
Bảy báu, kim luân bốn thiên hạ
Phục nhẫn thánh thai ba mươi vị
Thập trụ, thập hành, thập hồi hướng
Là pháp chư Phật ba đời học
Đều nhờ Phục nhẫn này sanh ra
Làm căn bản các hạnh Bồ-tát
Nên khó phát tâm và tín tâm
Nếu được tín tâm ắt không lùi
Tiến vào đạo Sơ địa vô sanh
Làm lợi mình người đều bình đẳng
Nên gọi Bồ-tát mới phát tâm
Bồ-tát Hoan Hỷ Chuyển luân vương
Làm sáng lý bình đẳng nhị đế
Đến trăm cõi giáo hóa chúng sanh
Bố thí thanh tịnh lợi quần sanh
Thể nhập Bát-nhã gọi là trụ
Trụ sống đức hạnh gọi là địa
Sơ trụ nhất tâm đủ các đức
Với thắng nghĩa không lay động
Bồ-tát Ly Cấu: Đao Lợi vương
Hiện thân ngàn cõi trong sáu cõi
Giữ giới thanh tịnh đều tròn đầy
Dứt hẳn các lỗi lầm đã phạm
Không tướng, không duyên, tánh chân thật
Không thể, không sanh, sáng không hai
Bồ-tát Phát Quang: Dạ Ma thiên
Hiện thân đi đến vạn cõi Phật
Hoàn toàn thông đạt tam-ma-địa
Ẩn hiện tự tại, đủ ba minh
Hoan Hỷ, Ly Cấu và Phát Quang
Diệt trừ dây sắc và phiền não
Quán rõ tất cả nghiệp thân - khẩu
Pháp tánh thanh tịnh sáng tròn đầy
- Bồ-tát Diễm Huệ: Đâu Suất vương
Rất tinh tấn đi trong ức cõi
Thật trí tịch diệt, trí phương tiện
Đạt lý vô sanh chiếu không - hữu
- Bồ-tát Nan Thắng: Hóa Lạc vương
Đắc bình đẳng đi trăm ức cõi
Không, không đế, quán không hai tướng
Hiện thân đi khắp trong sáu cõi
- Hiện tiền Bồ-tát Tự Tại vương
Thấy rõ tướng duyên sanh là một
Trí sáng thắng nghĩa khắp mọi nơi
Đến ngàn ức cõi độ chúng sanh
- Diễm Huệ, Nan Thắng, Hiện Tiền địa
Đoạn trừ ba chướng tâm mê hoặc
Không huệ tịch nhiên vô duyên quán
Chiếu lại tâm không, vô lượng cảnh
- Bồ-tát Viễn Hành: Sơ thiền vương
Trụ vào nhẫn vô tướng, vô sanh
Phương tiện thiện xảo đều bình đẳng
Đến vạn ức cõi độ chúng sanh
Nhập vào địa pháp lưu bất động
Không còn phần đoạn, vượt các hữu
Thường quán thắng nghĩa rõ không hai
Hành không tịch sanh thứ hai mốt
Thuận đạo pháp ái và vô minh
Chỉ Bồ-tát ở Viễn hành đoạn
- Bồ-tát Bất Động: Nhị thiền vương
Được thân biến hóa luôn tự tại
Đi đến trăm vạn vi trần cõi
Tùy loại biến hóa độ chúng sanh
Biết rõ ba đời vô lượng kiếp
Với đệ nhất nghĩa không lay động
- Bồ-tát Thiện Huệ: Tam thiền vương
Một lúc hiện qua ngàn ức cõi
Luôn hành hạnh vô vi không tịch
Một niệm hiểu hằng sa Phật tạng
- Bồ-tát Pháp Vân: Tứ thiền vương
Đến ức hằng cõi độ chúng sanh
Mới nhập Kim-cang biết tất cả
Đã vượt khỏi hai mươi chín cõi
Trong Tịch diệt nhẫn không quán nhẫn
Liền chuyển Diệu giác Vô đẳng đẳng
- Bất Động, Thiện Huệ, Pháp Vân địa
Trừ tập khí vô minh ở trước
Tập khí vô minh, thức cùng chuyển
Lý nhị đế đều hiểu cùng tận
Chánh giác vô tướng biến pháp giới
Ba mươi sanh tận trí viên minh
Tịch chiếu vô vi chơn giải thoát
Đại bi ứng hiện không ai bằng
Lắng trong, bất động, luôn an ổn
Ánh sáng chiếu khắp, không chướng ngại
Tam hiền thất thánh còn quả báo
Chỉ duy nhất Phật ở cõi tịnh
Tất cả hữu tình đều ở tạm
Chứng Kim-cang vốn không lay động
Đức ba nghiệp Như lai vô lượng
Bình đẳng thương yêu các chúng sanh
Pháp vương vô thượng trong cõi người
Vô lượng ánh sáng che mát chúng
Luôn nói pháp đúng với thật nghĩa
Tâm trí tịch diệt rõ vô duyên
Sư tử trong loài người giảng nói
Cú nghĩa thâm sâu chưa từng có
Làm chấn động cả hằng sa cõi
Đại chúng vui mừng được lợi ích
Thế Tôn nói cho mười bốn vua
Nay con cúi đầu xin đảnh lễ.
Bấy giờ nghe đức Phật Thế Tôn và vua Ba Tư Nặc nói vô lượng công đức của mười bốn nhẫn, trăm vạn ức hằng sa đại chúng đạt được lợi ích về đại pháp, và nhờ nghe pháp được giác ngộ, chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn.
Thế rồi đức Thế Tôn dạy đại chúng:
- Vua Ba Tư Nặc này đã qua mười ngàn kiếp trong quá khứ ở trong pháp của Phật Long Quang Vương làm Bồ-tát ở Tứ địa. Còn Ta làm Bồ-tát ở Bát địa. Hôm nay ở trước ta, ông ta rống tiếng đại sư tử. Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời các ông đã nói, đạt được nghĩa chân thật, nghĩa bất khả tư nghì. Chỉ có Phật cùng Phật mới biết được điều này.
Này thiện nam tử! Mười bốn nhẫn này các pháp thân của chư Phật, các hành của Bồ-tát không thể nghĩ bàn, không thể tính kể. Vì sao? - Vì tất cả chư Phật đều từ trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà sanh ra, từ trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà hóa, từ trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà diệt, nhưng thật ra chư Phật sanh mà không có chỗ sanh, hóa mà không chỗ hóa, diệt mà không chỗ diệt, là đệ nhất không có hai, chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, không có tự mình, không có người khác, không đến không đi, vì như hư không.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh tánh không sanh diệt, do các pháp nhóm họp huyễn hóa mà có tướng uẩn xứ giới, không hợp không tan, pháp đồng với pháp tánh vì tịch diệt không tịch. Tự tánh của tất cả chúng sanh là thanh tịnh, các hành động tạo ra không trói buộc, không giải mở, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải không nhân quả, biết được là do biết các phiền não thọ hành các khổ não, tướng ngã, tướng nhơn, tri kiến, người thọ. Vì tất cả không cho nên pháp của cảnh giới không; không - vô tướng - vô tác, không thuận với điên đảo, không thuận với huyễn hóa, không có tướng của sáu cõi, không có tướng của bốn sanh, không có tướng của bậc thánh, không có tướng Tam bảo, vì như hư không.
Này thiện nam tử! Bát-nhã thâm sâu không thể biết, không thể thấy, không hành, không duyên, không xả, không thọ, chánh trụ quán sát nhưng không có tướng chiếu sáng. Ai hành đạo như vậy là như hư không. Như vậy, tướng của pháp đối với tâm có sở đắc hay tâm không có sở đắc đều không thể đắc. Vì thế Bát-nhã chẳng phải là năm uẩn, chẳng phải lìa năm uẩn, chẳng phải chúng sanh, chẳng phải lìa chúng sanh, chẳng phải cảnh giới, chẳng phải lìa cảnh giới, chẳng phải hành giải, chẳng phải lìa hành giải. Các tướng như vậy không thể tính lường. Cho nên tất cả các hạnh của Bồ-tát tu tập chưa đạt đến cứu cánh nhưng vẫn có hành trong đó. Tất cả chư Phật biết như huyễn hóa, dù đắc tướng vô trụ nhưng lại ở trong đó hóa hiện. Cho nên mười bốn nhẫn không thể nghĩ lường.
Này thiện nam tử! Hôm nay các ông đã nói về tạng công đức này có lợi ích rất lớn cho tất cả chúng sanh. Giả sử vô lượng hằng hà sa số Bồ-tát hàng Thập địa nói công đức này cả trăm ngàn ức phần cũng như một giọt nước trong biển. Chư Phật ba đời biết một cách như thật, tất cả hiền thánh đều khen ngợi, cho nên nay Ta nói sơ về chút phần công đức.
Này thiện nam tử! Mười bốn nhẫn này được tất cả Bồ-tát ở quá khứ, hiện tại trong mười phương thế giới hiển bày. Chư Phật và các đại Bồ-tát đời vị lai cũng vậy. Nếu Phật và Bồ-tát không nhờ môn này mà đắc Nhất thiết trí thì vấn đề này không thể xảy ra. Vì sao? - Vì chư Phật và Bồ-tát không có lối đi khác.
Này thiện nam tử! Nếu người nào nghe Trụ nhẫn, Hành nhẫn, Hồi hướng nhẫn, Hoan hỷ nhẫn, Ly cấu nhẫn, Phát quang nhẫn, Diễm huệ nhẫn, Nan thắng nhẫn, Hiện tiền nhẫn, Viễn hành nhẫn, Bất động nhẫn, Thiện huệ nhẫn, Pháp vân nhẫn, Chánh giác nhẫn này mà nhất tâm có lòng tin thanh tịnh thì người ấy vượt qua tất cả khổ nạn trong trăm kiếp, ngàn kiếp, vô lượng vô biên hằng hà sa kiếp không sanh vào cõi ác, không bao lâu sẽ đắc Vô thượng Bồ-đề.
Lúc ấy, mười ức Bồ-tát đều cùng một tên là đại Bồ-tát Hư Không Tạng cùng vô lượng vô số đại chúng từ nơi khác đến hoan hỷ vui mừng và nhờ oai thần của Phật được thấy hằng sa chư Phật ở mười phương, các Ngài đều ở trong đạo tràng nói mười bốn nhẫn giống y như những lời Thế Tôn đã nói. Tất cả rất vui mừng như theo lời nói mà tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Bấy giờ, Thế Tôn nói với vua Ba Tư Nặc:
- Trước vua đã hỏi lấy tướng gì để trụ quán sát. Đại Bồ-tát nên quán như vầy: Do thân huyễn hóa mà thấy huyễn hóa, trụ chân chánh bình đẳng không còn có người và ta. Quán sát như vậy để giáo hóa làm lợi ích cho chúng sanh. Nhưng với kiếp lâu xa các hữu tình ở sát-na đầu tiên thì thức khác với gỗ đá. Sanh ra có nhiễm tịnh đều tự chính mình làm ra. Vô lượng vô số thức bổn nhiễm tịnh từ sát-na đầu tiên ở nhiều kiếp không thể nói, đến Kim-cang là sát-na cuối cùng có thức nhiều không thể nói, không thể tả. Sanh ra thì các hữu tình có hai pháp là: sắc và tâm. Sắc gọi là sắc uẩn, tâm gọi là bốn uẩn, đều là tánh chứa nhóm, làm che lấp chân thật.
Này đại vương! Một sắc pháp phát sanh vô lượng sắc. Nhãn hợp với sắc, nhĩ hợp với thanh, tỷ hợp với hương, thiệt hợp với vị, thân hợp với xúc. Cứng chắc gọi là Địa, ẩm ướt gọi là Thủy, tánh nóng ấm gọi là Hỏa, nhẹ động gọi là Phong, sanh năm thức xứ gọi là năm sắc căn. Như vậy, lần lượt một tâm một sắc, sanh sắc tâm nhiều vô lượng không thể nói, nhưng đều như huyễn.
Này thiện nam tử! Hữu tình mà thọ là đứng trên mặt thế tục, dù hữu hay vô cũng do vọng tưởng của hữu tình sanh ra, nhớ nghĩ rồi tạo nghiệp, thọ quả, đều gọi là thế đế. Tất cả hữu tình trong sáu đường ba cõi, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Tỳ-xá, Thủ-đà, ngã - nhơn, tri kiến, sắc pháp, tâm pháp như thấy trong mộng.
Này thiện nam tử! Tất cả các tên đều mượn để đặt ra. Khi đức Phật chưa xuất hiện nơi đời thì pháp huyễn thế đế không có tên, không có nghĩa, cũng không có thể tướng, không có tên của ba cõi, không có tên sáu đường, quả báo thiện ác. Khi Phật ra đời, vì các hữu tình mà Ngài nói vô lượng danh từ của ba cõi, sáu đường, nhiễm tịnh. Như vậy, tất cả giống như tiếng vang, các pháp tương tục mỗi niệm mỗi niệm không dừng, từng sát-na... từng sát-na chẳng phải một, chẳng phải khác, vừa khởi lên là diệt ngay, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, vì các pháp hữu vi như sóng nắng. Các pháp đối đãi nhau đó là sắc giới, nhãn giới, nhãn thức giới, cho đến pháp giới, ý giới, ý thức giới, nó giống như điện chớp, không nhất định, đối đãi nhau, có - không, một - khác giống như người thấy vầng trăng thứ hai, các pháp do duyên mà thành. Pháp uẩn - xứ - giới như bọt trên nước, các pháp do nhân mà thành. Tất cả nhân quả cùng thời, nhân quả khác thời của các hữu tình và thiện ác ba đời giống như mây giữa hư không.
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát trụ vào vô phân biệt, không còn tướng bỉ - thử, không có tướng mình - người, luôn hành tướng có lợi ích hay không có lợi ích. Cho nên biết kẻ phàm phu ngu si với thức dơ xấu chìm sâu vào hư vọng, bị tướng trói buộc. Bồ-tát nhìn thấy biết nó như nhà ảo thuật, không có thể tướng, chỉ như hoa đóm giữa hư không. Đó là đại Bồ-tát sống tự lợi - lợi tha, quán sát một cách chân như.
Khi đức Phật nói pháp này, trong chúng hội có vô lượng lượng trời người đắc được Phục nhẫn không, Vô sanh nhẫn. Vô lượng Bồ-tát từ một địa, hai địa cho đến mười địa đều đắc Nhất sanh bổ xứ.
PHẨM THỨ TƯ: NHỊ ĐẾ
Bấy giờ, vua Ba Tư Nặc bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Trong Thắng nghĩa đế có Thế tục đế không? Nếu nói không thì trí ấy không phải hai. Còn nếu nói có thì trí ấy không phải một. Nghĩa một và hai, việc ấy như thế nào?
Phật dạy:
- Này đại vương! Trong pháp của Phật Long Quang Vương ở quá khứ ông đã hỏi nghĩa này. Nay Ta không nói thì đại vương không nghe. Vậy không nói không nghe tức là một nghĩa, hai nghĩa. Ông hãy lắng nghe cho kỹ, vì ông Ta sẽ nói.
Thế rồi Thế Tôn nói kệ:
- Vô tướng Thắng nghĩa đế
Thể chẳng ta - người làm
Nhân duyên có như huyễn
Cũng chẳng ta-người làm
Pháp tánh vốn vô tánh
Thắng nghĩa đế không như
Các pháp là như huyễn
Hợp ba giả mà có
Không, không đế thật không
Tịch tịnh thắng nghĩa không
Các pháp do duyên có Nghĩa hữu - vô như vậy
Hữu - vô vốn là hai
Như trâu có hai sừng
Hiểu rõ thấy không hai
Nhị đế thường không vậy
Tâm hiểu thấy không hai
Cầu hai không thể được
Không nói hai là một
Một cũng không thể đắc
Hiểu rõ luôn từ một
Với đế luôn từ hai
Thấu đạt một - hai này
Thể nhập Thắng nghĩa đế
Thế đế huyễn hóa sanh
Ví như hoa hư không
Như ảnh, như mao luân (?)
Do duyên nên huyễn có
Huyễn hóa thấy huyễn hóa
Ngu gọi huyễn là thật
Thuật gia thấy pháp huyễn
Thật huyễn đều không có
Nếu hiểu pháp như vậy
Là hiểu nghĩa một - hai
Với tất cả các pháp
Nên quán sát như vậy.
Này đại vương! Đại Bồ-tát trụ vào Thắng nghĩa đế để giáo hóa các hữu tình. Hữu tình và Phật là một không hai. Vì sao? - Vì hữu tình và Bồ-đề cả hai đều là không. Vì hữu tình không, nên chứng đắc Bồ-đề cũng không. Vì Bồ-đề không, nên hữu tình không. Vì tất cả pháp không, nên không là không. Vì sao? - Vì Bát-nhã là vô tướng, hai đế đều không. Nghĩa là từ vô minh đến Nhất thiết trí không có tự tướng, không có tha tướng. Đối với đệ nhất nghĩa thấy mà không có chỗ thấy. Nếu có tu hành cũng không chấp trước, mà không tu hành cũng không chấp trước, chẳng tu hành, chẳng phải không tu hành cũng không chấp trước. Với tất cả pháp đều không chấp trước. Khi Bồ-tát chưa thành Phật thì cho Bồ-đề là phiền não. Khi Bồ-tát thành Phật thì phiền não là Bồ-đề. Vì sao? - Vì Đệ nhất nghĩa không có hai. Chư Phật Như Lai và tất cả pháp đều như vậy.
Vua Ba Tư Nặc bạch Phật:
- Chư Phật và tất cả Bồ-tát cả mười phương vì sao không lìa văn tự để hành thật tướng?
Phật dạy:
- Này đại vương! Văn tự nghĩa là khế kinh, ứng tụng, khởi biệt, phúng tụng, tự thuyết, duyên khởi, thí dụ, bổn sự, bổn sanh, phương quảng, hy hữu và luận nghị. Tất cả chương cú, văn tự, ngôn ngữ, âm thanh từ các kinh trên nói ra đều Như, không phải phi thật tướng. Nếu chấp lấy tướng văn tự tức là phi thực tướng.
Này đại vương! Người tu thật tướng như tu văn tự. Thật tướng tức là mẹ trí của chư Phật, là mẹ trí căn bản của tất cả hữu tình. Như vậy gọi là thể của Nhất thiết trí. Chư Phật chưa thành Phật là mẹ trí của Phật hiện tại. Chư Phật đã thành Phật tức là Nhất thiết trí. Khi chưa đắc là tánh, mà đắc rồi là trí. Bát-nhã của ba thừa không sanh, cũng không diệt, tự tánh nó thường trụ. Đây là giác tánh của tất cả hữu tình. Nếu Bồ-tát không chấp trước văn tự, không lìa văn tự, không có tướng văn tự, chẳng phải không văn tự, có thể tu như vậy mà không thấy tướng tu. Đó gọi là người tu văn tự mà có thể đắc chơn tánh Bát-nhã. Đó là Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Này đại vương! Đại Bồ-tát hộ trì quả Phật, hộ trì hạnh Thập địa, ủng hộ giáo hóa hữu tình là như vậy.
Vua Ba Tư Nặc bạch Phật:
- Chơn tánh là một nhưng căn hạnh, phẩm loại hữu tình lại có vô lượng. Vậy pháp môn là một hay vô lượng?
Đức Phật dạy:
- Này đại vương! Pháp môn chẳng phải một, cũng chẳng phải vô lượng. Vì sao? - Vì sắc pháp và tâm pháp, tướng ngũ thủ uẩn, ngã nhơn tri kiến của các hữu tình có nhiều căn hạnh và vô biên phẩm loại. Pháp môn tùy theo căn cũng có vô lượng. Tánh của các pháp này chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng và chẳng phải vô lượng. Nếu Bồ-tát theo các hữu tình mà thấy một thấy hai tức là không thấy nghĩa một và hai. Nếu hiểu rõ chẳng phải một, chẳng phải hai tức là Thắng nghĩa đế. Nếu chấp lấy một và hai là có hoặc không tức là Tục đế, cho nên pháp môn chẳng phải một, chẳng phải hai.
Này đại vương! Tất cả chư Phật giảng nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa và hôm nay Ta giảng nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa không có hai, không khác. Đại chúng các ông nên thọ trì đọc tụng, lời nói đi đôi với sự tu hành. Đó là thọ trì pháp của chư Phật.
Này đại vương! Bát-nhã Ba-la-mật-đa này có vô lượng công đức. Nếu có hằng hà sa bất khả thuyết chư Phật thì mỗi mỗi đức Phật ấy giáo hóa vô lượng bất khả thuyết hữu tình. Mỗi hữu tình ấy đều chứng thành Phật. Chư Phật này lại giáo hóa vô lượng bất khả thuyết hữu tình đều thành Phật. Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà chư Phật ấy giảng nói có vô lượng bất khả thuyết na-du-đa ức kệ, nói không cùng tận. Trong các bài kệ lại lấy một bài kệ, một bài kệ chia ra ngàn phần, lại trong ngàn phần mà chỉ nói một phần. Công đức của ý nghĩa trong một câu ấy còn vô cùng tận, huống chi tất cả công đức của vô lượng ý nghĩa của câu như vậy. Nếu có người nào với kinh này mà sanh một tâm niệm với niềm tin thanh tịnh, người này vượt ra khỏi sanh tử khổ nạn trong trăm kiếp ngàn kiếp, trăm ngàn vạn kiếp, huống chi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người thì công đức đạt được sánh bằng tất cả chư Phật trong mười phương. Nên biết, người này được chư Phật hộ niệm, không bao lâu sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề.
Khi đức Phật nói pháp này, có mười ức người đắc Tam không nhẫn, một trăm vạn ức người đắc Đại không nhẫn, vô lượng Bồ-tát được trụ vào mười địa.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.119.110.139 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.