Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay.
Kinh Bốn mươi hai chương
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các vua nước lớn: vua Ba Tư Nặc.v.v...:
- Hãy lắng nghe cho rõ, cho thật kỹ. Vì các ông, Ta sẽ nói pháp hộ quốc. Nếu những đất nước nào sắp nổi loạn, bị các tai nạn, hoặc giặc cướp đến phá hoại, các ông phải thọ trì, đọc tụng Bát-nhã Ba-la-mật-đa này, trang hoàng đạo tràng, tôn trí trăm tượng Phật, trăm tượng Bồ-tát, trăm tòa sư tử, mời trăm pháp sư để diễn giảng kinh này. Ở trước các tòa đốt đủ loại đèn, đốt đủ loại hương thơm, rải đủ các loại hoa, cúng dường rất nhiều y phục, ngọa cụ, thức ăn uống, thuốc thang, nhà cửa, giường chiếu,... đem tất cả vật để cúng dường. Mỗi ngày hai thời giảng đọc kinh này. Nếu có vua, đại thần, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nghe, thọ, đọc tụng, như pháp mà tu hành thì tai nạn liền diệt trừ. Nếu trong đất nước của các đại vương có vô lượng quỷ thần, mỗi quỷ thần lại có vô lượng quyến thuộc, nếu chúng nghe kinh này thì sẽ đến hộ vệ đất nước của các vua. Nếu nước sắp loạn thì quỷ thần loạn đầu tiên. Vì quỷ thần loạn nên vạn người loạn, thì có giặc nổi lên làm cho trăm họ bỏ mạng; quốc vương, thái tử, vương tử, bá quan chống đối, ganh tỵ lẫn nhau, trời đất biến đổi kỳ lạ; mặt trời, mặt trăng, tinh tú vận hành không đúng lúc, không chừng mực, có lửa lớn, nước lớn, gió lớn.v.v... Khi các tai nạn ấy xảy ra thì phải thọ trì, giảng nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa này. Nếu thọ trì, đọc tụng kinh này thì tất cả sở cầu như quan chức, giàu sang, con cái, trí tuệ, qua lại tùy ý, quả báo trời người đều được đầy đủ, tật bệnh, ách nạn đều tiêu trừ, gông cùm, xiềng xích trói buộc vào thân đều được tháo bỏ; vô lượng lỗi lầm: phá bốn giới trọng, tạo năm tội nghịch và hủy báng giới.... đều được tiêu diệt.
Này đại vương ! Về quá khứ xa xưa, Thích Đề Hoàn Nhơn làm Đảnh sanh vương, thống lãnh bốn quân chúng lên cung trời muốn diệt Đế Thích. Khi ấy, Thiên vương cõi trời ấy nhờ nghe giáo pháp của chư Phật ở quá khứ nên bố trí trăm cao tòa, thỉnh trăm pháp sư để giảng nói kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đảnh vương liền rút lui, chúng trời được an ổn vui vẻ.
Này đại vương ! Thuở xưa vua nước Thiên La có một thái tử tên là Ban Túc. Khi thái tử lên làm vua có thầy ngoại đạo tên là Thiện Thí làm lễ quán đảnh cho vua. Ông ta bảo Ban túc lấy một ngàn đầu vua để nơi nghĩa địa cúng tế cho thiên thần Đại hắc là Ma Ha Ca La. Từ khi lên ngôi vị làm vua, Ban Túc đã lấy được chín trăm chín mươi chín đầu vua, chỉ thiếu một đầu vua nữa thôi. Ban Túc đi về phía Bắc một vạn dặm thì gặp một vị vua tên Phổ Minh. Vua Phổ Minh nói với Ban Túc rằng:
- Xin cho tôi một ngày để lễ kính Tam bảo, cúng dường thức ăn uống cho Sa-môn.
Nghe vậy, Ban Túc liền chấp nhận. Vua ấy nương vào giáo pháp mà chư Phật quá khứ đã nói, bèn trải một trăm cao tòa, thỉnh một trăm pháp sư, mỗi ngày hai thời giảng nói tám ngàn ức kệ của kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Lúc đó, trong số pháp sư có một vị đệ nhất vì Phổ Minh mà nói kệ:
- Kiếp hỏa nổi lên
Cả ngàn đều hoại
Tu Di, biển cả
Tan nát không còn
Phạm, Thích, trời, rồng
Các loài hữu tình
Còn phải tiêu diệt
Huống chi thân này
Sanh, già, bệnh, chết
Lo buồn khổ não
Oán hận bức bách
Trái với ước nguyện
Ái dục kiết sử
Tự làm ung bướu
Ba cõi không an
Nước có vui gì
Hữu vi không thật
Do nhân duyên sanh
Thạnh suy chớp nhoáng
Tạm có liền không
Các cõi thọ sanh
Theo nghiệp duyên hiện
Như bóng, tiếng vang
Tất cả đều không
Thức trôi theo nghiệp
Nương bốn đại sanh
Dây ái vô minh
Ngã, ngã sở sanh
Thức đổi theo nghiệp
Thân thì vô chủ
Nên biết quốc độ
Huyễn hóa cũng thế.
Sau khi pháp sư nói kệ này xong, vua Phổ Minh nghe pháp được giác ngộ, chứng Không tam muội, quyến thuộc của các vua đắc pháp Nhãn không. Vua Phổ Minh liền đến nước Thiên La, giữa các vua, vua Phổ Minh nói rằng:
- Thưa các ngài, khi sắp qua đời, nên đọc trì kệ Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà chư Phật thuở quá khứ đã nói.
Nghe vậy, các vua đều giác ngộ, đắc Không tam muội. Tất cả đều đọc tụng thọ trì.
Khi ấy, vua Ban Túc hỏi các vua:
- Hôm nay các ông đọc pháp gì vậy?
Vua Phổ Minh dùng kệ vừa rồi trả lời vua Ban Túc. Nghe pháp này, vua Ban Túc cũng chứng Không định và hoan hỷ vui mừng, rồi nói với các vua:
- Ta đã bị thầy tà ngoại đạo làm mê hoặc, đó chẳng phải lỗi lầm của các ông. Các ông hãy trở về nước, phải thỉnh pháp sư giải nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Khi ấy, vua Ban Túc giao nước lại cho em rồi xuất gia học đạo, chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn.
Này đại vương ! Quá khứ có năm ngàn quốc vương luôn đọc tụng kinh này, hiện sanh ra đời đạt được phước báo. Các đại quốc vương mười sáu nước của các ông tu pháp hộ quốc nên như vầy và thọ trì, đọc tụng, giải nói kinh này. Các vua ở đời vị lai vì muốn bảo vệ đất nước, giữ tự thân cũng nên thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh này.
Khi đức Phật nói pháp này, có vô lượng người đắc Bất thối chuyển, hàng A-tu-la được sanh lên cõi trời, vô lượng vô số chư thiên cõi Dục, cõi Sắc đắc Vô sanh nhẫn.
PHẨM THỨ SÁU: BẤT TƯ NGHÌ
Bấy giờ, mười sáu vị quốc vương và các đại chúng nghe Phật nói cú nghĩa của Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu thì rất vui mừng hớn hở, rải trăm vạn ức các hoa sen báu. Ở giữa hư không, các hoa ấy hợp lại thành một tòa hoa báu, chư Phật và vô lượng đại chúng ở mười phương đều ngồi trên tòa ấy nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Các đại chúng ấy đem mười ngàn hoa sen vàng ròng rải lên trên đức Phật Thích Ca Mâu Ni rồi chúng nhập lại thành vòng xe hoa che các đại chúng.
Lại có tám vạn bốn ngàn hoa Phân-đà-lợi, ở giữa hư không chúng nhập lại thành đài mây trắng, trong đài có Phật Quang Minh Vương cùng vô lượng đại chúng ở mười phương chư Phật giảng nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Các đại chúng ấy đem hoa Mạn-đà-la rải cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật và các chúng hội. Lại rải hoa Mạn-thù-sa ở giữa hư không làm thành báu Kim-cang. Trong thành có đức Phật Sư Tử Phấn Chấn Vương cùng chư Phật và đại Bồ-tát ở mười phương giảng diễn thắng nghĩa Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Lại rải vô lượng các loại hoa ở cõi trời, ở giữa hư không biến thành lọng mây báu che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, trong lọng hoa từ hư không mưa xuống hằng hà sa hoa.
Khi ấy, vua Ba-Tư-Nặc và các đại chúng thấy sự việc này khen ngợi chưa từng có và rồi chấp tay hướng Phật thưa:
- Nguyện xin chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai thường nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nguyện các chúng sanh luôn được thấy nghe giống như tôi hôm nay không khác.
Phật dạy:
- Đúng như lời đại vương đã nói, Bát-nhã Ba-la-mật-đa này là mẹ của chư Phật, là mẹ của các Bồ-tát, là nơi sanh ra công đức thần thông bất cộng. Chư Phật đều nói làm cho nhiều lợi ích. Cho nên các ông nên luôn thọ trì.
Bấy giờ, vì các đại chúng, đức Thế Tôn hiện bất tư nghì thần thông, biến hóa một bông hoa hiện nhập vào vô lượng hoa, vô lượng hoa nhập vào một hoa. Một cõi Phật nhập vào vô lượng cõi Phật, vô lượng cõi Phật nhập vào một cõi Phật. Một trần sát cõi nhập vào vô lượng trần sát cõi, vô lượng trần sát cõi nhập vào một trần sát cõi. Vô lượng biển cả nhập vào một lỗ chân lông. Vô lượng núi Tu Di vào trong hạt cải. Một thân Phật nhập vào vô lượng thân chúng sanh, vô lượng thân chúng sanh nhập vào một thân Phật. Lớn lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn. Thanh tịnh lại hiện ô uế, ô uế lại hiện thanh tịnh. Thân Phật bất khả tư nghì, thân chúng sanh bất khả tư nghì, cho đến thế giới bất khả tư nghì.
Khi đức Phật đang hiện thần biến này thì mười ngàn người nữ hiện chuyển bỏ thân nữ, đắc thần thông tam muội; vô lượng trời người đắc Vô sanh pháp nhẫn, vô lượng A-tu-la.v.v... chứng Bồ-tát đạo, hằng hà sa Bồ-tát được chứng thành Phật.
PHẨM THỨ BẢY: PHỤNG TRÌ
Bấy giờ, thấy thần thông biến hóa của Phật, vua Ba Tư nặc hiện ngàn đài hoa che phía trên Như Lai. Hoa có ngàn cánh, trên có ngàn hóa thân Phật. Trong ngàn cánh hoa có vô lượng chư Phật đều nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vua Ba Tư Nặc thưa:
- Bạch Thế Tôn ! Vô lượng Bát-nhã Ba-la-mật-đa không thể dùng thức để nhận thức, không thể dùng trí để biết. Các thiện nam tử làm thế nào để hiểu rõ kinh này mà đem giảng nói cho người?
Phật dạy:
- Này đại vương ! Ngài hãy lắng nghe cho kỹ. Từ lúc mới tu tập nhẫn cho đến Kim-cang định, như pháp tu hành mười ba pháp môn quán đều là pháp sư, làm chỗ đứng vững chắc. Đại chúng các ông nên như thật mà cúng dường, đem trăm ngàn vạn ức hoa thơm đẹp để dâng cúng dường.
Này thiện nam tử ! Pháp sư ấy tu tập Bồ-tát thuộc ngôi chủng tánh. Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tu hành Thập trụ, gặp Phật Pháp Tăng phát tâm Bồ-đề, làm lợi lạc thương yêu chúng sanh, tự quán thân mình các căn trong sáu giới tất cả đều là vô thường - khổ - không - vô ngã, biết rõ nghiệp hành sanh tử Niết-bàn, làm lợi lạc cho mình và người được lợi ích, an lạc. Nghe ai khen Phật hay hủy báng Phật, tâm định tĩnh, không lay động. Nghe có Phật hay không có Phật, tâm bình tĩnh không thối lui, không phạm ba nghiệp, khởi sáu hòa kính, dùng phương tiện thiện xảo để thu phục chúng sanh; siêng năng học mười trí, dùng thần thông hóa hiện lợi ích.
Loại phẩm hạ tu tập tám vạn bốn ngàn ba-la-mật-đa.
Này thiện nam tử ! Tu tập nhẫn về trước trải qua mười ngàn kiếp hành hạnh thập thiện, khi lui khi tiến, ví như chiếc lông nhẹ theo gió bay tứ tung. Nếu đạt đến địa vị nhẫn thì nhập vào chánh định tụ, không tạo tội năm nghịch, không hủy báng chánh pháp, biết tướng của ngã và pháp đều là không. Trong một a-tăng-kỳ kiếp trụ vào ngôi vị giải thoát. Nếu tu tập nhẫn này thì có thể phát sanh hạnh thù thắng.
Lại nữa, Bồ-tát thuộc tánh chủng tánh, trụ mà không phân biệt. Vì tu mười huệ quán nên xả bỏ tài sản và sinh mạng. Vì giữ giới thanh tịnh nên tâm khiêm hạ. Vì làm lợi lạc mình và người nên sanh tử không loạn. Vì sự sâu xa của vô tướng nên thấu đạt có như huyễn. Vì không mong cầu quả báo nên đắc vô ngại giải. Vì mỗi niệm thị hiện thần lực của Phật, đối trị bốn điên đảo, ba căn bất thiện. Vì nghiệp cảm ba đời, mười điên đảo, những tri kiến về ngã - nhơn, mỗi niệm mỗi niệm là hư dối, thấu đạt rõ về danh là giả, thọ là giả và pháp là giả, tất cả đều không thể đắc, không có tướng của mình và người, luôn luôn quán một cách chân thật.
Loại phẩm trung: tu tập tám vạn bốn ngàn ba-la-mật-đa, ở trong hai a-tăng-kỳ kiếp tu hành các hạnh thù thắng, đắc được ngôi vị nhẫn kiên cố.
Lại nữa, Bồ-tát ở ngôi vị Đạo chủng tánh, trụ trong nhẫn kiên cố, quán các pháp tánh không sanh diệt, dùng bốn vô lượng tâm phá sạch các ám chướng, luôn gặp chư Phật thực hành hạnh bố thí ba-la-mật một cách rộng rãi, luôn học theo chư Phật, trụ tâm hồi hướng, những căn lành đã tu tập đều như thật tế. Với tam muội, làm nhiều Phật sự, hiện đủ loại thân, hành bốn nhiếp pháp, trụ tâm không phân biệt, giáo hóa làm lợi ích cho chúng sanh. Trí tuệ sáng suốt, quán sát một cách thâm sâu, tất cả hạnh nguyện đều tu tập cả, có thể làm pháp sư điều phục các hữu tình, quán hoàn hảo về năm uẩn, ba cõi, nhị đế, không còn tướng mình và người, đạt được tánh như thật. Mặc dù luôn tu tập thắng nghĩa nhưng còn thọ sanh vào ba cõi. Vì sao? - Vì quả báo do nghiệp huân tập chưa hoại tận gốc, vì ở trong trời người theo đạo mà thọ sanh.
Loại phẩm thượng: tu tập tám vạn bốn ngàn ba-la-mật-đa, ở trong ba a-tăng-kỳ kiếp tu hai lợi, thực hành rất nhiều sự lợi ích, điều phục được hoàn toàn các tam-ma-địa, trụ vào sự quán sát một cách thù thắng, tu tập hạnh xuất ly, chứng bình đẳng ngôi vị của Thánh nhơn.
Lại nữa, đại Bồ-tát ở Hoan hỷ địa vượt qua địa phàm phu, sanh vào nhà Như lai, trụ trong Bình-đẳng-nhẫn, trí vô tướng đầu tiên chiếu sáng thắng nghĩa đế, một tướng bình đẳng là phi tướng, vô tướng; đoạn trừ các vô minh, diệt sạch các tham trong ba cõi, vô lượng đời vị lai vĩnh viễn không còn trở lại dòng sanh tử, lấy đại bi làm đầu, khởi các đại nguyện, với trí phương tiện trong mỗi niệm tu tập vô lượng hạnh thù thắng, chẳng phải chứng, chẳng phải không chứng nên học hết tất cả, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ vì hướng đến Nhất thiết trí, đi trong sanh tử mà không bị quân ma làm kinh động, lìa xa ngã và ngã sở, không còn lo sợ, không có tướng mình và người, luôn giáo hóa chúng sanh, nguyện lực tự tại, sanh vào các cõi tịnh.
Này thiện nam tử ! Trí giác đầu tiên này chẳng phải Như, chẳng phải trí, chẳng phải hữu, chẳng phải vô, không có hai tướng, phương tiện diệu dụng chẳng điên đảo, chẳng an trụ, chẳng động, chẳng tịnh, hai lợi tự tại. Giống như nước với sóng, chẳng phải một chẳng phải khác. Trí sanh các ba-la-mật cũng chẳng phải một chẳng phải khác. Ở trong bốn a-tăng-kỳ kiếp tu tập đầy đủ trăm vạn hạnh nguyện. Bồ-tát ở địa này không còn nghiệp tập trong ba cõi và không tạo nghiệp mới, theo trí lực mà nguyện sanh, trong từng niệm luôn thực hành đàn ba-la-mật-đa, bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, thanh tịnh bao la, hoàn toàn an trụ làm lợi ích cho chúng sanh.
Lại nữa, đại Bồ-tát ở ngôi Ly cấu địa thì đạt bốn vô lượng tâm, tối thắng, tịch tịnh, đoạn trừ các tập khí tham.v.v..., tu hành tất cả các hạnh lành, đó là: viễn ly việc sát sanh, không cho thì không lấy, tâm không nhiễm dục, đắc lời nói chân thật, lời nói hòa thuận, lời nói dịu dàng, lời nói điều phục, thường thực hành tâm xả, luôn khởi tâm từ, trụ vào tâm ngay thẳng, tịch thịnh thuần thiện, lìa xa cấu dơ của sự phá giới, thực hành quán đại từ, mỗi niệm mỗi niệm đều hiện tiền. Qua năm a-tăng-kỳ kiếp giữ thanh tịnh đầy đủ giới ba-la-mật-đa. Ý chí dõng mãnh, lìa hẳn các cấu nhiễm.
Lại nữa, đại Bồ-tát ở ngôi Phát quang địa, trụ vô phân biệt, diệt si ám vô minh, ở trong Vô-tướng-nhẫn mà chứng đắc tam minh, biết rõ ba đời, không đến không đi, nương vào bốn tịnh lự, bốn vô sắc định trí vô phân biệt, tùy thuận theo thứ lớp, đầy đủ định thù thắng, chứng năm thần thông, hiện thân lớn nhỏ ẩn hiện một cách tự tại. Với thiên nhãn tịnh thấy rõ các cõi, với thiên nhĩ thanh tịnh nghe tất cả các loại âm thanh, với tha tâm trí biết tâm của chúng sanh, với đời trước biết vô lượng sự sai khác. Ở trong sáu a-tăng-kỳ kiếp tu hành tất cả nhẫn ba-la-mật-đa, đắc đại tổng trì, làm lợi ích an lạc cho chúng sanh.
Lại nữa, Bồ-tát ở ngôi Diệm huệ địa, tu hành Thuận-nhẫn, buông bỏ tất cả vì đoạn hẳn sự vi tế của thân kiến và biên kiến, tu tập vô biên pháp phần Bồ-đề, niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn, lực, giác đạo đầy đủ... vì muốn thành tựu lực, vô sở úy, bất cộng Phật pháp. Ở trong bảy a-tăng-kỳ kiếp tu tập vô lượng tinh tấn ba-la-mật-đa, xa lìa biếng nhác, làm lợi ích khắp chúng sanh.
Lại nữa, đại Bồ-tát ở ngôi Nan thắng địa lấy bốn vô úy tùy thuận với chơn như thanh tịnh bình đẳng, tướng vô sai biệt, dứt bỏ cái theo tiểu thừa, thích cầu Niết-bàn, tích chứa các công đức, quán hoàn hảo về các đế: đây là Khổ thánh đế, Tập, Diệt, Đạo đế. Với Thế tục thắng nghĩa mà quán vô lượng đế, làm lợi lạc cho các chúng sanh, tập theo các kỹ nghệ, văn chương, bác sĩ, ca vịnh, vui chơi, công xảo, chú thuật, ngoại đạo dị luận, xem tướng kiết hung chính xác không sai lầm. Nhưng với chúng sanh không làm cho họ bị khổ não. Vì lợi ích mà khai thị cho tất cả dần dần được an trụ vào Vô thượng Bồ-đề, biết đạo xuất ly, đạo chướng ngại trong các địa, ở trong tám a-tăng-kỳ kiếp luôn tu tập tam muội, khai sáng các hành.
Lại nữa, đại Bồ-tát ở ngôi Hiện tiền địa đắc Thuận nhẫn trên, trụ vào ba môn giải thoát, đoạn trừ các tập nhơn, tập nghiệp ở ba cõi, làm cho tướng thô hiện hành, đại bi tăng thượng, quán thấy các sanh tử do vô minh che lấp. Nghiệp tập, thức chủng, danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ, ái, thủ, sanh, già, chết... đều do nghiệp của chấp ngã và vô minh, chẳng phải có, chẳng phải không, một tướng, vô tướng nhưng không có hai. Ở trong chín a-tăng-kỳ kiếp tu tập trăm vạn tam muội không - vô tướng - vô nguyện, đạt được tất cả Bát-nhã Ba-la-mật-đa chiếu sáng vô biên.
Lại nữa, đại Bồ-tát ở ngôi Viễn hành địa, tu Vô sanh nhẫn, chứng pháp vô biệt, đoạn trừ các nghiệp quả, tướng vi tế hiện hành, trụ vào diệt định mà tu tập hạnh thù thắng. Mặc dù luôn tịch diệt nhưng giáo hóa khắp cả chúng sanh, thị hiện nhập vào hàng Thanh văn, thuận theo Phật trí, thị hiện giống như ngoại đạo, thị hiện làm ma vương, dù tùy thuận với thế gian nhưng luôn ra khỏi thế gian. Ở trong mười a-tăng-kỳ kiếp tu hành trăm vạn tam muội, dùng phương tiện thiện xảo giảng rộng pháp tạng. Tất cả trang nghiêm đều được viên mãn.
Lại nữa, đại Bồ-tát ở ngôi Bất động địa, trụ vào Vô sanh nhẫn, thể không tăng giảm, đoạn các công dụng, trong tâm luôn tịch diệt, không còn tướng về thân - tâm, nó giống như hư không. Các Bồ-tát này là tâm Phật, tâm Bồ-đề, tâm Niết-bàn, tất cả đều không phải tự phát sanh mà vì do bổn nguyện, được chư Phật gia hộ, có thể trong khoảng một niệm mà khởi lên trí nghiệp, sáng chiếu bình đẳng. Với mười lực, trí đi khắp đại thiên thế giới không thể nói, theo từng loại chúng sanh mà làm lợi ích an lạc cho tất cả. Ở trong mười ngàn a-tăng-kỳ kiếp tu đầy đủ trăm vạn đại nguyện, tâm niệm luôn hướng về Nhất thiết chủng trí, Nhất thiết trí.
Lại nữa, đại Bồ-tát ở ngôi Thiện huệ địa trụ vào Vô sanh nhẫn, ở trên diệt trừ tướng tâm của tâm, Trí chứng tự tại, phá tan chướng vô ngại, đầy đủ đại thần thông, tu tập các lực vô úy, giữ gìn hoàn hảo tạng pháp của chư Phật, đắc vô ngại giải: pháp - nghĩa - từ - biện, giảng nói chánh pháp không làm cho gián đoạn, không cho diệt tận. Ở trong các thế giới nhiều không thể nói, chỉ trong một khoảng sát-na có thể dùng một âm thanh để giải thích cho tất cả những câu hỏi khó của các chúng sanh, khiến họ rất vui mừng. Ở trong vạn a-tăng-kỳ kiếp có thể biến hiện trăm vạn hằng hà sa các thần lực của Phật, với pháp tạng vô tận làm lợi ích viên mãn.
Lại nữa, đại Bồ-tát ở ngôi Pháp vân địa có vô lượng trí tuệ tư duy quán sát, từ lúc mới phát lòng tin trải qua trăm vạn a-tăng-kỳ kiếp chứa nhóm vô lượng pháp trợ đạo, làm tăng trưởng vô biên đại phước trí, chứng nghiệp tự tại, đoạn trừ các chướng ngại của thần thông. Ở trong một niệm mà có thể đi khắp trăm vạn ức thế giới vi trần số quốc độ trong mười phương, biết tất cả tâm hành của chúng sanh là căn thượng - trung hay hạ, giảng nói cho họ về ba thừa để họ tu tập ba-la-mật-đa, thể nhập vào hành xứ, lực, vô úy của Phật, tùy thuận với tịch diệt chuyển y của Như Lai.
Này thiện nam tử ! Từ lúc bắt đầu tu tập nhẫn cho đến đắc Kim cang định thì đều gọi là chiến thắng tất cả phiền não bằng Vô tướng tín nhẫn, hiểu rõ thắng nghĩa đế, diệt trừ các phiền não, sanh giải thoát trí, dần dần chế phục diệt, dùng vô sanh diệt mà đắc vô sanh diệt. Nếu tâm này diệt thì vô minh diệt, Kim cang định hiện tiền. Tất cả thấy biết đều không gọi là thấy. Chỉ có Phật hiểu rõ vì Ngài đầy đủ Nhất thiết trí. Tất cả sự thấy biết được gọi là biết.
Này thiện nam tử ! Khi Kim cang tam muội hiện tiền mà cũng chưa có thể đồng đẳng với bậc Vô đẳng đẳng. Ví như có người lên đài rất cao nhìn xuống thấy rõ ràng tất cả, cũng vậy ở ngôi vị giải thoát dù một tướng, vô tướng, không sanh không diệt vì pháp tánh đồng đẳng với chơn tế, viên mãn tạng công đức, trụ vào ngôi vị Như Lai.
Này thiện nam tử ! Như vậy các đại Bồ-tát thọ trì giảng nói kinh này đều đi đến các cõi Phật khắp mười phương, làm lợi ích an lạc hữu tình, thấu đạt tướng chân thật như Ta ngày nay không khác.
Này thiện nam tử ! Tất cả Như lai trong mười phương pháp giới đều nương vào môn này mà được thành Phật. Nếu ai nói rằng: “Vượt khỏi môn này mà thành Phật”, thì đó là lời của ma, chứ chẳng phải Phật nói. Cho nên các ông nên biết như vậy, thấy như vậy, tin hiểu như vậy.
Bấy giờ, muốn nói lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:
- Bồ-tát ngôi Phục nhẫn
Lớn lên trong Phật pháp
Ba mươi tâm kiên cố
Gọi là bất thối chuyển.
- Mới chứng tánh bình đẳng
Sanh vào nhà chư Phật
Do mới được giác ngộ
Gọi là Hoan hỷ địa.
- Xa lìa các nhiễm ô
Các cấu sân.v.v....
Đủ giới đức thanh tịnh
Gọi là Ly cấu địa.
- Diệt sạch ám vô minh
Chứng đắc các thiền định
Nhờ huệ quang chiếu sáng
Gọi là Phát quang địa.
- Bồ-đề phần thanh tịnh
Xa lìa thân biên kiến
Lửa trí tuệ sáng rực
Gọi là Diễm huệ địa.
- Biết các đế như thật
Các kỹ nghệ thế gian
Làm lợi ích quần sanh
Gọi là Nan Thắng địa.
- Quán pháp do duyên sanh
Vô minh đến già chết
Chứng được thâm sâu ấy
Gọi là Hiện tiền địa.
- Phương tiện Tam-ma-địa
Thị hiện vô lượng thân
Thiện xảo hợp quần sanh
Gọi là Viễn hành địa.
- Trụ vào biển vô tướng
Được chư Phật gia hộ
Tự tại phá quân ma
Gọi là Bất động địa.
- Đắc bốn vô ngại giải
Một âm nói tất cả
Ai nghe đều vui mừng
Gọi là Thiện huệ địa.
- Trí huệ như mây kín
Che khắp cả pháp giới
Rưới khắp pháp cam lồ
Gọi là Pháp vân địa.
- Đầy đủ giới vô lậu
Thân thường tịnh, giải thoát
Tịch diệt không nghĩ bàn
Gọi là Nhất thiết trí.
Đức Phật dạy vua Ba Tư Nặc:
- Sau khi Ta diệt độ, lúc pháp sắp diệt thì tất cả hữu tình tạo các nghiệp ác sẽ làm cho các quốc độ xảy ra các tai họa. Vì để bảo vệ thân mình, thái tử, vương tử, hậu phi, quyến thuộc, bách quan, bách tánh, tất cả quốc độ của các quốc vương nên thọ trì Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều được an lạc. Nay Ta đem kinh này giao phó cho quốc vương, không giao cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Vì sao? - Vì nếu không có oai lực của vua thì không đứng vững được. Cho nên các ông thường phải thọ trì, đọc tụng, giải nói kinh này.
Này đại vương ! Hôm nay Ta đã hóa hiện trong đại thiên thế giới trăm ức Tu Di, trăm ức mặt trời, mặt trăng, mỗi Tu-Di có bốn thiên hạ. Thiệm Bộ Châu này có mười sáu nước lớn, năm trăm nước trung và mười vạn nước nhỏ. Trong các nước ấy nếu có xảy ra bảy nạn, để diệt trừ các nạn ấy, tất cả quốc vương thọ trì, giải nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa này thì bảy nạn liền tiêu diệt, đất nước trở lại an lạc.
Vua Ba Tư Nặc hỏi Phật:
- Bảy nạn ấy là gì?
Đức Phật dạy:
1- Mặt trời mặt trăng vận hành không đúng lúc, màu sắc mặt trời thay đổi: trắng, đỏ, vàng, đen hoặc hai, ba, bốn, năm mặt trời chiếu cùng một lúc. Màu mặt trăng biến đổi: vàng, đỏ. Mặt trời, mặt trăng nuốt nhau, hoặc vầng trăng chồng lên nhau: một, hai, ba, bốn, năm vầng chồng lên rồi hiện.
2- Tinh tú vận hành không đúng lúc. Các sao: sao Huệ, sao Mộc, sao Hỏa, sao Kim, sao Thủy, sao Thổ... bị biến đổi hoặc có khi mọc ban ngày.
3- Lửa rồng, lửa quỷ, lửa người, lửa cây, bốn lửa dữ nổi bùng lên làm thiêu rụi vạn vật.
4- Thời tiết thay đổi, lạnh nóng bất thường. Mùa Đông thì mưa sấm sét, mùa Hè sương băng tuyết. Mưa đất, đá, sỏi, cát; đổ xuống cơn mưa đá không đúng lúc với nước màu đỏ sậm, nước sông biển lênh láng làm trôi đá nổi núi.
5- Gió dữ luôn nổi lên, tối tăm che lấp mặt trời mặt trăng, làm cho tróc nhà, cây bật gốc, cát bay, đá chạy.
6- Trời đất nắng hạn, làm cho nước đê điều ao cạn, cây cối chết khô, trăm thứ lúa mạch không sanh trưởng.
7- Giặc cướp từ phương khác đến xâm lấn trong và ngoài nước, binh đao chém giết nổi lên làm cho trăm họ bỏ mạng.
Này đại vương ! Hôm nay Ta nói sơ về các nạn như vậy. Nếu có lúc ban ngày mặt trời không xuất hiện, ban đêm mặt trăng không xuất hiện, trên trời đủ các tai họa như không có mây, mưa, tuyết. Còn dưới đất cũng có các tai họa nứt lở, sụp, chấn động. Hoặc máu chảy, quỷ thần, xuất hiện những loài chim thú quái dị... Những tai họa như vậy nhiều vô lượng vô biên. Khi mỗi tai họa xảy ra đều phải thọ trì, đọc tụng, giải nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa này.
Khi nghe đức Phật nói như vậy, mười sáu quốc vương đều kinh sợ. Vua Ba Tư Nặc thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn, vì sao trời đất có những tai nạn như vậy?
Đức Phật dạy:
- Này đại vương ! Do tất cả nhân dân các nước lớn nhỏ trong Thiệm Bộ Châu bất hiếu với cha mẹ, không kính sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn. Quốc vương, đại thần không hành theo chánh pháp. Do các xấu ác này mà xảy ra các tai nạn như vậy.
Này đại vương ! Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể sanh ra tất cả các pháp của chư Phật, tất cả pháp giải thoát của Bồ-tát, tất cả pháp vô thượng của quốc vương, tất cả pháp xuất ly của hữu tình. Ví như viên châu ma-ni, thể của nó có đầy đủ các đức có thể làm đè dẹp rồng độc, các quỷ thần ác; có thể làm đầy đủ sự mong cầu của con người, có thể ứng với luân vương, gọi là viên châu như ý, có thể làm cho các đại long vương như: Nan-đà, Bạt-nan-đà,v.v... giáng xuống mưa ngọt làm thấm nhuần cây cỏ. Nếu vào ban đêm tối tăm, gắn viên châu như ý trên ngọn cờ cao thì ánh sáng của nó chiếu khắp trời đất giống như mặt trời mọc. Bát-nhã Ba-la-mật-đa này cũng vậy, các vua các ông nên làm tràng phan, cờ, lọng báu, đốt hương rải hoa cúng dường với lòng rộng lớn, làm hộp báu để đựng kinh này rồi đặt trên bàn báu. Nếu khi muốn đi thì kinh này luôn dẫn đường đi trước. Đến ở chỗ nào phải làm cờ bảy báu, dùng các châu báu làm tòa và đặt kinh này lên trên. Đem tất cả để cúng dường giống như phụng thờ cha mẹ, như chư thiên phụng thờ Đế Thích.
Này đại vơng ! Ta thấy tất cả nhân dân và vua trong các nước đều nhờ quá khứ hầu năm trăm đức Phật, cung kính cúng dường các Ngài mà được làm đế vương, tất cả Thánh nhơn đắc đạo quả rồi đến sanh vào các nước ấy để làm đại lợi ích. Nếu khi vua hết phước vô đạo thì Thánh nhơn bỏ đi, tai nạn tranh nhau xảy ra.
Này đại vương ! Nếu đời sau có các quốc vương kiến lập chánh pháp, ủng hộ Tam bảo thì Ta bảo chúng đại Bồ-tát ở năm phương đến ủng hộ đất nước của vị vua ấy:
Phương Đông có đại Bồ-tát Kim Cang Thủ, tay cầm chày Kim-cang phóng ánh sáng xanh và cùng bốn câu chi Bồ-tát đến ủng hộ nước của vị vua ấy.
Phương Nam có đại Bồ-tát Kim Cang bảo, tay cầm viên châu ma-ni Kim cang phóng ánh sáng màu mặt trời, cùng bốn câu chi Bồ-tát đến ủng hộ đất nước của vị vua ấy.
Phương Tây có đại Bồ-tát Kim Cang Lợi, tay cầm kiếm Kim cang phóng ánh sáng màu vàng ròng cùng bốn câu chi Bồ-tát đến ủng hộ nước của các vị vua ấy.
Phương Bắc có đại Bồ-tát Kim Cang Dược Xoa, tay cầm linh Kim-cang phóng ánh sáng màu lưu ly cùng bốn câu chi Bồ-tát đến ủng hộ nước của các vị vua ấy.
Phương giữa có đại Bồ-tát Ba La Mật Đa Kim Cang, tay cầm vòng Kim-cang phóng ánh sáng năm màu cùng bốn câu chi Bồ-tát đến ủng hộ nước của các vị vua ấy.
Năm đại Bồ-tát ấy đều cùng vô lượng đại chúng như vậy ở trong nước của ông làm đại lợi ích. Ông nên dựng hình tượng mà cúng dường các ngài.
Bấy giờ, các đại Bồ-tát Kim Cang Thủ.v.v... liền đứng dậy đảnh lễ sát hai chân đức Phật rồi lui ra một bên, thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn ! Bổn nguyện của chúng con là nương nhờ thần lực của Phật. Nếu tất cả quốc độ trong mười phương thế giới có nơi nào có kinh này mà thọ trì, đọc tụng, giải nói thì chúng con sẽ cùng tất cả quyến thuộc như thế ở trong một niệm liền đến nơi ấy để bảo vệ chánh pháp, gây dựng chánh pháp, khiến cho các tai nạn đao binh, tật dịch... của nước ấy đều được tiêu trừ.
Bạch Thế Tôn ! Chúng con có Đà-la-ni có thể gia trì ủng hộ, đó là môn tu hành mau chóng của tất cả các đức Phật. Nếu ai được nghe lọt vào tai thì tất cả tội chướng đều được tiêu trừ, huống chi tụng tập, học thuộc lòng. Nhờ oai lực của pháp nên khiến cho đất nước dứt hẳn các tai nạn.
Các đại Bồ-tát ở trớc Phật đồng thanh nói Đà-la-ni:
- Na mô ra đát na, đát ra, dạ dã. Na mạc a rị dạ phệ lô giả na dã đát tha bà đa, dạ ra ha đế miệu một đà dã ma mạc a rị dã tam mãn đa bạt nại ra dã mạo địa tát đát phược dã ma ha tát đát phược dã ma hạ ca lỗ ni ca dã đát nhĩ dã tha chỉ nẳng na bát ra nhĩ bố ác khất xoa dã ác thế bát ra để bà na phược để tát phược một đà phược lộ chỉ đế du ngạ phả rị nhĩ sáp phả ninh nghiêm tích ra nổ ra phược ngạ hệ để rị dã đặc phược phả ri nhĩ sáp phả ninh mạo địa chất đa tán thứ na nhĩ tát phược tỳ thô ca tỳ sắc ngật đế đạt ma sa ngạ ra tam bộ đế a mộ già thất ra phược ninh ma hạ tam mãn đa bạt nại ra bộ nhĩ niết rị dã đế vĩ dã yết ra noa bạt rị bát ra phả nhĩ tát phược tất đà na ma tắt ngật rị đế tát phược mạo địa tát đát phược tán thứ na nhĩ bà ngạ phược để một đà ma đế a la nhĩ ca sa nhĩ a ra noa ca ra na ma hạ bát la chỉ nẳng phan ra nhĩ đế ta phược.
Nghe nói vậy, đức Thế Tôn khen ngợi các Bồ-tát Kim Cang Thủ,...:
- Lành thay ! Lành thay ! Nếu có người đọc tụng, giữ gìn Đà-la-ni này, Ta và chư Phật mười phương đều luôn ủng hộ, diệt trừ các quỷ thần độc ác và kính trọng vị ấy như đức Phật, không bao lâu vị ấy sẽ chứng đắc Vô thượng Bồ-đề.
Này đại vương ! Ta đem kinh này giao phó cho các ông. Tất cả các quốc vương của nước Tỳ-xá-ly, nước Kiều-tát-la, nước Thất-la-phiệt, nước Ma-già-đà, nước Ba-la-nê-tư, nước Ca-tỳ-la, nước Câu-thi-na, nước Kiều-Diệm, nước Bát-già-la, nước Ba-sất-la, nước Mạt-thổ-la, nước Ô-thi-ni, nước Bôn-sất-bạt-đa, nước Đề-bà-đạt-da, nước Ca-thi, nước Chiêm-bà... đều phải thọ trì Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Nghe đức Phật nói những tai nạn như vậy, các đại chúng A-tu-la... đều gợn chân lông và cất cao tiếng thưa:
- Chúng con nguyện đời vị lai không sanh vào các nước ấy.
Bấy giờ, mười sáu vị vua đều bỏ ngôi vua mà tu đạo xuất gia, chứng đầy đủ tám thắng xứ, mười nhất thiết xứ, đắc Phục nhẫn, Ngôn nhẫn, Vô sanh pháp nhẫn.
Khi ấy, tất cả đại chúng trời, người, a-tu-la... rải hoa Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Bà-sư-ca, hoa Tô-mạn-na để cúng dường Phật, tùy theo căn tánh mà họ đắc ba môn giải thoát, chứng ngộ sanh không, pháp không, pháp phần Bồ-đề.
Vô lượng vô số đại Bồ-tát rải hoa Câu-vật-đầu, hoa Ba-đầu-ma để cúng dường Phật. Vô lượng tam muội đều hiện tiền, đắc trụ Thuận nhẫn, Vô sanh pháp nhẫn. Vô lượng vô số đại Bồ-tát đắc hằng hà sa các môn tam muội, chơn-tục bình đẳng, đầy đủ vô ngại giải, luôn phát sanh đại bi. Ở trong số vi trần thế giới của trăm vạn ức a-tăng-kỳ cõi Phật làm lợi ích rộng rãi cho chúng sanh và chuyển hiện thân thành Phật.
PHẨM THỨ TÁM: CHÚC LỤY
Đức Phật nói với vua Ba Tư Nặc:
- Hôm nay Ta dạy các ông: Sau khi Ta diệt độ thì chánh pháp sắp diệt. Sau năm mươi năm, năm trăm năm, năm ngàn năm thì không còn Phật, Pháp, Tăng. Kinh này là Tam bảo, Ta giao phó cho các quốc vương để gây dựng, giữ gìn; để bốn bộ chúng của Ta thọ trì, đọc tụng, hiểu nghĩa lý của kinh, đem giảng nói pháp giải thoát rộng rãi cho chúng sanh, khiến cho họ tu tập để ra khỏi sanh tử.
Này đại vương ! Đời năm trược sau này, tất cả quốc vương, vương tử, đại thần... tự ỷ mình cao quý mà phá diệt lời chỉ dạy của Ta. Với pháp chế sáng suốt, họ ngăn chận hàng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni của Ta không cho xuất gia tu hành chánh đạo, cũng không cho xây tượng tháp Phật, bạch y thì ngồi trên cao, còn hàng Tỳ-kheo thì đứng dưới đất, nó giống như pháp binh nô, chẳng khác gì cả. Ông nên biết rằng: lúc đó không bao lâu chánh pháp sẽ bị diệt.
Này đại vương ! Nhân duyên phá nước là do ông tự tạo ra, ỷ mình có oai lực ngăn cản bốn bộ chúng không cho tu tập phước đức. Còn hàng Tỳ-kheo xấu ác thì nhận pháp mời thỉnh riêng, hàng Tỳ-kheo hiểu biết thì đồng nhất tâm gần gũi thân thiện với nhau, lập trai hội để cầu phước. Đó là pháp của ngoại đạo, hoàn toàn chẳng phải giáo pháp của Ta, làm cho trăm họ tật bệnh khổ nạn vô lượng. Ông nên biết, lúc ấy đất nước bị phá diệt.
Này đại vương ! Vào đời mạt pháp, hàng quốc vương, đại thần, bốn bộ chúng đều làm những việc phi pháp, trái ngược với lời Phật dạy, tạo các tội lỗi, chẳng đúng pháp, chẳng đúng luật, trói buộc Tỳ-kheo giống như kẻ tù tội. Ông nên biết, khi ấy không bao lâu chánh pháp bị diệt.
Này đại vương ! Sau khi Ta diệt độ, bốn bộ đệ tử của Ta, tất cả quốc vương, vương tử, bách quan chính là những người có trách nhiệm giữ gìn, ủng hộ Tam bảo, nhưng lại tự phá diệt, giống như trùng trong thân sư tử tự ăn thịt sư tử, chứ chẳng phải ngoại đạo. Ai phá hoại chánh pháp của Ta, kẻ ấy mắc đại tội, làm cho chánh pháp suy dần, nhân dân không chánh hạnh, các căn dần dần tăng trưởng, tuổi thọ càng ngày giảm dần, con không còn hiếu thuận, lục thân không hòa kính, trời rồng không giúp đỡ, ác quỷ, ác rồng càng ngày đến phá hoại, tai nạn yêu quái liên tục, bị tai họa nó tung hoành, người phá hoại chánh pháp ấy sẽ đọa vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Nếu được làm người thì bần cùng, nghèo khổ, thấp hèn, các căn không đầy đủ. Như hình với bóng, như tiếng vọng lại theo âm thanh, như người viết trong đêm tối, khi lửa tắt thì chữ hiện ra, quả báo hủy phá chánh pháp cũng như vậy.
Này đại vương ! Trong đời vị lai, tất cả quốc vương, vương tử, đại thần cùng đệ tử của Ta lập ra ghi chép bừa bãi, lập ra người chủ coi sách vở, cai quản tăng lớn nhỏ, sai sử phi lý. Ông nên biết, khi đó Phật pháp không tồn tại.
Này đại vương ! Trong đời vị lai, tất cả quốc vương, bốn bộ đệ tử phải nương tựa vào tất cả chư Phật ở mười phương, luôn tu hành đạo gây dựng cho lưu thông. Nhưng ác Tỳ-kheo thì vì cầu danh lợi mà không nương vào pháp của Ta, ở trước mặt quốc vương tự nói tội lỗi làm duyên phá chánh pháp. Vị vua ấy không phân biệt được, tin theo lời nói của ác Tỳ-kheo, lập pháp chế sai lầm, không nương vào giới pháp của Phật. Ông nên biết, lúc đó không bao lâu pháp sẽ diệt tận.
Này đại vương ! Trong đời vị lai, quốc vương, đại thần, bốn bộ đệ tử tự phá chánh pháp, phá nhân duyên của quốc gia, đích thân chịu lấy, chẳng phải lỗi của Phật pháp. Trời, rồng bỏ đi, năm trược tăng dần. Nếu có nói cùng kiếp cũng không hết.
Lúc ấy, mười sáu đại quốc vương nghe nói những lời răn dạy vào đời vị lai như vậy, bèn đau buồn khóc lóc, kêu gào làm chấn động ba ngàn cõi. Trời đất tối om không có ánh sáng. Khi ấy các vị vua đều chí tâm thọ trì lời Phật dạy, không ngăn cản bốn bộ chúng xuất gia học đạo, sẽ thực hành đúng như lời Phật dạy.
Bấy giờ hằng hà sa vô lượng đại chúng đều than:
- Lúc thế gian trống không thì đời không có Phật.
Vua Ba Tư nặc thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn ! Nên đặt kinh này tên là gì? Chúng con phụng hành như thế nào?
Phật dạy:
- Này đại vương ! Kinh này đặt tên là Nhơn Vương Hộ Quốc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng gọi là Cam Lồ Pháp Dược. Nếu có ai uống vào thì khỏi các bệnh tật.
Này đại vương ! Tất cả công đức của Bát-nhã Ba-la-mật-đa giống như hư không, không thể nào đo lường được. Nếu người nào thọ trì, đọc tụng kinh này thì công đức đạt được có thể ủng hộ nhơn vương và các chúng sanh, giống như tường vách, cũng như thành tường, cho nên các ông cần phải thọ trì.
Đức Phật nói kinh này đã xong, vô lượng đại Bồ-tát: Di Lặc, Sư Tử Hống,.v.v...; vô lượng Thanh văn: Xá Lợi Phất, Tu Bồ Đề.v.v..; vô lượng trời người ở cõi Dục, cõi Sắc, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, A-tu-luân... tất cả đại chúng nghe Phật nói như vậy đều rất vui mừng, tín thọ phụng hành.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.138.135.178 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.