Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Quá Khứ Hiện Tại Nhơn Quả Kinh [過去現在因果經] »» Bản Việt dịch quyển số 3 »»

Quá Khứ Hiện Tại Nhơn Quả Kinh [過去現在因果經] »» Bản Việt dịch quyển số 3

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (1) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.84 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.99 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Nhân Quả Quá Khứ Hiện Tại

Kinh này có 4 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 |
Việt dịch: Nguyên Lộc - Nhất Nghiêm

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

[0636b] Khi phái quốc sư và các vị đại thần đi rồi, vua Bạch Tịnh liền mang chuỗi bảy báu trao cho Ma-ha-ba-xà-ba-đề và nói:
- Đây là chuỗi bảy báu của thái tử nhờ Xa-nặc mang về trao cho ái khanh.
Ma-ha-ba-xà-ba-đề thấy chuỗi càng thêm đau buồn, nghĩ: “Người trong bốn châu thiên hạ thật là bạc phước, mất một vị Chuyển luân thánh vương thông minh trí tuệ”. Vua lại mang các thứ trang sức khác trao cho Gia-du-đà-la và nói:
- Những vật trang sức này thái tử thường đeo trên thân, nay bảo Xa-nặc mang về trao lại cho con.
Gia-du-đà-la vừa thấy những vật ấy thì mê ngất ngã xuống đất. Vua lại sai người đến khuyên bảo Gia-du-đà-la hãy thương yêu chính mình, chớ để tổn hại đến thai nhi.
Bấy giờ, quốc sư và các vị đại thần đến chỗ tiên nhân Bạt-già trong rừng Khổ hạnh, liền bảo các thị vệ lui ra, bỏ hết nghi phục, vào gặp tiên nhân. Tiên nhân mời mọi người ngồi, cùng nhau thăm hỏi. Quốc sư nói với tiên nhân:
- Tôi là quốc sư của vua Bạch Tịnh. Sở dĩ hôm nay tôi đến đây, là vì đức vua tôi có một vị thái tử đầy đủ tướng tốt, nhưng chán ghét các khổ sinh, già, bệnh, chết nên xuất gia học đạo. Trên đường đi, Ngài có ngang qua khu rừng này, đại tiên có thấy chăng?
Tiên nhân Bạt-già đáp:
- Gần đây tôi có gặp một vị đồng tử, dung mạo đoan chính, đầy đủ tướng tốt, đến khu rừng này cùng tôi bàn luận, nghỉ lại một đêm, nhưng tôi không biết đó là con của vua Bạch Tịnh. Sau đó, thái tử xem thường đạo của chúng tôi tu tập, nên đã đi về phía bắc, đến chỗ hai vị tiên nhân A-la-la và Ca-lan[48].
Nghe nói thế, quốc sư, đại thần liền nhanh chóng đến chỗ tiên nhân A-la-la và Ca-lan. Đi được nửa đường, bỗng từ xa họ trông thấy thái tử ngồi ngay thẳng bên gốc cây tư duy, tướng tốt chói sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng, tất cả đồng xuống ngựa. Quốc sư bảo các thị vệ cởi bỏ nghi phục và lui ra, [0636c] còn mình đến ngồi bên thái tử thăm hỏi:
- Thưa thái tử! Đại vương sai tôi đến tìm thái tử, ngài có điều muốn nói.
Thái tử hỏi:
- Phụ vương sai ngài tìm ta muốn nói điều gì?
Quốc sư liền thưa:
- Từ lâu đại vương đã biết thái tử rất thích xuất gia, chí nguyện này khó chuyển đổi. Nhưng đại vương đối với thái tử ân tình sâu nặng, nên thường lo buồn, lòng như lửa đốt, chỉ cần thái tử trở về là nỗi buồn kia sẽ chấm dứt. Xin thái tử lên xe trở về hoàng cung. Ở hoàng cung tuy có nhiều việc, nhưng chúng thần không để thái tử bỏ tu đạo nghiệp. Nơi tĩnh tâm không nhất thiết phải trong núi rừng. Ma-ha-ba-xà-ba-đề, Gia-du-đà-la và quyến thuộc trong ngoài đều bị chìm đắm trong biển lớn khổ não, mong thái tử trở về cứu vớt họ!
Nghe quốc sư nói thế, Thái tử trầm giọng:
- Lẽ nào Ta không biết phụ vương đối với Ta ân tình sâu nặng? Nhưng Ta sợ các khổ sinh, già, bệnh, chết. Vì muốn chấm dứt các khổ ấy, nên Ta đến nơi này. Nếu được đoàn tụ trong tình yêu thương mà không có các khổ sinh, già, bệnh, chết thì Ta còn đến đây làm gì nữa! Sở dĩ hôm nay ta rời xa phụ vương là muốn đời sau được đoàn tụ. Phụ vương và Ta tuy bị đau khổ thiêu đốt, nhưng chỉ trong đời này, đời sau vĩnh viễn không còn khổ não nữa.
Nếu như lời Ngài, bảo ta ở trong hoàng cung tu tập đạo nghiệp, cũng giống như ngôi nhà bảy báu, lửa cháy khắp nơi, có người nào chịu ở trong ấy không? Lại như thức ăn có độc, dù người đang đói cũng không dám ăn.
Ta đã bỏ đất nước xuất gia học đạo, tại sao bảo Ta trở về hoàng cung tu tập đạo nghiệp? Người thế gian khổ nhiều, vui ít mà còn đam mê không thể tạm bỏ, huống gì Ta ở nơi này rất yên tĩnh, không có các khổ nạn mà lại bỏ để trở về nơi ô uế ư? Lúc xưa các vị vua vào núi tu học, không ai nửa chừng trở về hưởng thụ ngũ dục cả. Nếu phụ vương nhất định muốn Ta trở về là trái với phép tắc các vị tiên vương.
Quốc sư thưa:
- Thật đúng như lời thái tử nói. Nhưng các vị tiên nhân kia, người nói đời sau sẽ có quả báo, người nói đời sau không có. Hai vị tiên nhân đó còn không biết rõ đời sau có quả báo hay không, [0637a] vậy tại sao thái tử muốn bỏ niềm vui hiện tại mà cầu quả báo chưa hẳn có ở đời sau? Quả báo sinh tử còn không thể biết chắc có hay không, tại sao muốn cầu quả giải thoát? Mong thái tử hãy trở về hoàng cung!
Thái tử đáp:
- Hai vị tiên nhân kia nói về quả báo đời sau, một vị nói có, một vị nói không, đều từ tâm nghi ngờ, chẳng phải lời quyết định. Nay ta sẽ không tu theo giáo pháp ấy, ngươi không nên lấy điều đó mà vấn nạn Ta. Vì sao? Ta nay không phải do mong cầu quả báo mà đến đây, mà vì chính mắt ta thấy các khổ sinh, già, bệnh, chết ai cũng sẽ trải qua, nên ta tu tập cầu giải thoát các khổ ấy. Không bao lâu nữa ngài sẽ thấy Ta thành tựu đạo nghiệp. Chí nguyện này, Ta không bao giờ thay đổi. Ngài hãy trở về tâu phụ vương ta như thế!
Nói xong, Thái tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy từ biệt quốc sư và các vị đại thần, đi về hướng bắc, đến chỗ tiên A-la-la. Quốc sư và các vị đại thần thấy thái tử ra đi, đau buồn rơi lệ, thầm nghĩ: “Thứ nhất là nghĩ thái tử tình nghĩa sâu nặng, thứ hai là vâng lệnh vua đến đây mà không thể làm thái tử đổi ý‎.” Mọi người đứng bên đường do dự, không dám trở về. Sau đó, họ cùng nhau bàn bạc: “Chúng ta vâng lệnh vua mà không làm tròn, trở về trả lời với ngài sao đây? Hay là chúng ta chọn ra năm người thông minh trí tuệ, tâm ý nhu hòa, tính tình cương trực, thuộc dòng tộc hùng mạnh, âm thầm đi theo, quan sát hành động của thái tử”. Nói rồi, họ quay nhìn bên cạnh, thấy năm người như: Kiều-trần-như v.v.., một vị hỏi:
- Các ông ở lại được không?
Năm người kia đáp:
- Được lắm! Chúng tôi xin vâng lệnh.
- Các ông phải âm thầm quan sát mọi cử chỉ hành động của thái tử.
Năm người liền từ biệt đến chỗ thái tử. Quốc sư và các đại thần cùng trở về hoàng cung.
Bấy giờ, thái tử vượt sông Hằng, đi ngang thành Vương Xá, đến chỗ tiên A-la-la và Ca-lan. Vào thành, tất cả nhân dân trông thấy thái tử dung mạo, tướng tốt đặc biệt, họ đều vui mừng kính mến, cả nước rầm rộ kéo nhau đến xem. Vua Tần-tì-sa-la nghe vậy, kinh ngạc hỏi:
- Tiếng ồn gì vậy?
Quần thần tâu:
- Tâu đại vương! Thái tử con của vua Bạch Tịnh, tên là Tát-bà-tất-đạt. Ngày trước, các thầy tướng đoán thái tử ở đời sẽ làm Chuyển luân vương, thống lãnh bốn châu thiên hạ; [0637b] nếu xuất gia, sẽ thành tựu Nhất thiết chủng trí. Hôm nay, thái tử đã đến thành này, người dân bên ngoài đua nhau đến xem, nên ồn ào như vậy.
Nghe nói thế, vua Tần-tì-sa-la rất vui mừng, toàn thân phấn khởi, liền sai người quan sát nơi ở của thái tử. Sứ giả vâng lệnh đi tìm, thấy thái tử ngồi tư duy trên một tảng đá trong núi Bát-trà-bà, liền trở về trình với vua.
Nghe xong, vua ra lệnh chuẩn bị ngự giá để cùng thần dân đến chỗ thái tử. Vừa đến núi Bát-trà-bà, từ xa trông thấy thái tử, tướng tốt chói sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng, vua liền xuống ngựa, cởi bỏ nghi phục và bảo các thị vệ lui ra, một mình đến bên thái tử, ngồi xuống thăm hỏi:
- Này thái tử! Bốn đại ngài được điều hòa chăng? Thấy thái tử tôi vô cùng hoan hỉ, nhưng có một điều khiến tôi buồn, vì thái tử vốn thuộc dòng Nhật Chủng, trải qua nhiều đời nối tiếp làm Chuyển luân vương, thái tử có đủ tướng ấy, sao lại bỏ đất nước vào chốn rừng sâu, bước đến vùng đất cát xa xôi này? Thấy thế, nên tôi buồn. Nếu thái tử vì sự hiện diện của phụ vương, nên không muốn lên ngôi Chuyển luân thánh vương, thì tôi sẽ chia nửa đất nước cho thái tử cai trị. Nếu ngài thấy ít, thì tôi sẽ nhường hết đất nước và các quan hầu cận cho ngài. Nếu ngài không nhận, thì tôi sẽ cung cấp bốn binh, có thể tự đánh chiếm nước khác. Thái tử muốn gì tôi đều sẽ thuận theo.
Nghe vua Tần-tì-sa-la nói thế, thái tử rất cảm động, liền thưa:
- Đại vương vốn thuộc dòng tộc Minh Nguyệt, bản tính thanh cao, không làm việc tầm thường. Mọi hành động, việc làm đều luôn trong sạch thù thắng. Nay ngài nói ra những điều này Ta cũng không lấy làm lạ. Nhưng Ta thấy vua chí thành khẩn thiết hơn lúc bình thường, nên Ta khuyên ngài nên tu tập ba pháp bền chắc[49] đối với thân mạng và tài bảo và không nên khuyên người khác tu pháp không bền chắc. Ta đã bỏ ngôi vị Chuyển luân vương thì lý do gì mà nhận lấy đất nước của ngài? Tuy vua có thiện ý trao đất nước cho Ta, Ta còn không nhận, huống gì đem binh đánh chiếm nước khác? Sở dĩ Ta rời xa đất nước, từ biệt cha mẹ, cạo bỏ râu tóc là vì muốn đoạn trừ các khổ sinh, già, bệnh, chết, chẳng phải cầu sự vui thích thụ hưởng năm dục.
[0637c] Năm món dục lạc ở thế gian như đống lửa lớn thiêu đốt chúng sinh không thể tự ra khỏi. Cớ sao ngài khuyên Ta tham đắm ngũ dục? Sở dĩ Ta đến đây là tìm tiên A-la-la và Ca-lan, vì cầu giải thoát tối thượng. Vì muốn đến nơi đó cầu đạo giải thoát, nên Ta không thể ở đây lâu. Ta đã phụ lòng tốt của ngài, mong ngài hoan hỉ chớ giận trách. Nay đại vương nên dùng chính pháp để trị quốc, không nên để nhân dân bị oan uổng.
Nói xong, thái tử đứng dậy từ biệt vua.
Thái tử ra đi, vua Tần-tì-sa-la vô cùng buồn bã, chắp tay rơi lệ, nói:
- Khi mới gặp thái tử, lòng tôi rất hớn hở vui mừng. Giờ, thái tử ra đi, tôi vô cùng đau buồn. Nhưng thái tử vì cầu đạo giải thoát mà ra đi thì tôi không dám giữ lại, chỉ mong thái tử sớm thành đạo quả. Nếu thái tử thành đạo thì xin hãy độ tôi trước.
Thái tử từ biệt ra đi. Vua cung kính đưa tiễn, đứng bên đường nhìn theo đến khi khuất dạng mới trở về.
Thái tử đến chỗ tiên A-la-la. Khi ấy, các vị trời nói với tiên nhân:
- Tát-bà-tất-đạt rời bỏ đất nước, từ biệt cha mẹ vì cầu đạo Vô thượng chân chính, muốn nhổ tất cả các khổ cho chúng sinh, nay sắp đến đây.
Tiên nhân kia nghe nói thế, lòng rất vui mừng. Một lát sau, từ xa trông thấy thái tử, tiên nhân liền ra nghinh đón, khen:
- Hay thay! Thái tử đã đến.
Họ cùng nhau trở về trụ xứ, mời thái tử ngồi. Tiên nhân thấy thái tử dung mạo đoan chính, đầy đủ tướng tốt, dáng vẻ điềm tĩnh, sinh lòng cung kính, liền hỏi:
- Thái tử đi đường có mệt chăng? Từ lúc thái tử đản sinh, xuất gia và hôm nay đến nơi này, tôi đều biết rõ. Thái tử đang ở trong đống lửa mà tự tỉnh giác vượt ra, giống như voi lớn bị trói mà tự thoát khỏi. Ngày xưa, các vị vua lúc tuổi còn trẻ hưởng thụ năm dục, đến lúc già mới bỏ đất nước và các thứ dục lạc xuất gia học đạo, viếc ấy chưa phải kì lạ. Nay, thái tử đang còn trẻ, lại bỏ năm dục, từ xa đến đây, thật là đặc biệt. Thái tử phải siêng năng tinh tấn để mau đến bờ giải thoát.
Nghe xong, Thái tử nói:
- Nghe tiên nhân nói, lòng Ta rất vui mừng. Ngài có thể vì ta mà nói pháp đoạn trừ các khổ sinh, già, bệnh, chết được chăng?
[0638a] Tiên nhân đáp:
- Hay thay! Này thái tử! Khởi đầu của chúng sinh là do niệm vô minh, từ vô minh khởi ngã mạn, từ ngã mạn sinh tâm si, từ tâm si sinh nhiễm ái, từ nhiễm ái sinh năm loại khí vi trần, từ năm loại khí vi trần sinh năm đại[50], từ năm đại sinh ra các thứ phiền não, tham dục, sân hận v.v… Do đó, trôi lăn mãi trong sinh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não. Nay tôi vì thái tử mà lược nói như thế.
Thái tử lại hỏi:
- Ta đã hiểu lời ngài nói, nhưng phải dùng pháp gì để đoạn trừ tận gốc của sinh tử?
Tiên nhân đáp:
- Nếu muốn đoạn trừ được gốc của sinh tử, trước hết phải xuất gia tu học, giữ gìn giới hạnh, khiêm cung nhẫn nhục, ở nơi vắng lặng tu tập thiền định, lìa các pháp dục ác bất thiện, hữu giác hữu quán[51], đắc Sơ thiền[52]. Khi bỏ được giác, quán thì định phát sinh, nhập vào tâm hỉ, đắc Nhị thiền. Xả bỏ tâm hỉ được chính niệm, các căn an lạc, đắc Tam thiền. Xa lìa khổ lạc, được niệm thanh tịnh, nhập vào xả căn, đắc Tứ thiền, được quả báo Vô tưởng.
Có một vị thầy khác nói:
- Cảnh giới này gọi là giải thoát. Nhưng khi xuất định rồi mới biết cảnh giới ấy chẳng phải là giải thoát. Cần phải lìa sắc tưởng, nhập vào Không xứ; diệt hữu đối tưởng, nhập vào Thức xứ; diệt vô lượng thức tưởng, chỉ còn quán một thức, nhập vào Vô sở hữu xứ; lìa tất cả các tưởng nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cảnh giới này gọi là giải thoát rốt ráo, là bờ giác của người tu học. Nếu thái tử muốn đoạn trừ các khổ sinh, già, bệnh, chết thì nên tu theo hạnh này.
Thái tử nghe tiên nhân nói thế trong lòng không vui, liền suy nghĩ: “Sự thấy biết đó chẳng phải là pháp cứu cánh, cũng không phải là pháp đoạn trừ hết các phiền não”. Liền nói:
- Pháp của tiên nhân nói có chỗ ta chưa hiểu, nên muốn thưa hỏi.
Tiên nhân nói:
- Xin thái tử cứ hỏi.
Thái tử liền hỏi:
- Phi tưởng phi phi tưởng xứ là hữu ngã hay vô ngã? Nếu nói vô ngã thì không nên gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Còn nói là hữu ngã thì ngã là hữu tri hay vô tri? Nếu ngã là vô tri thì như gỗ đá; nếu ngã là hữu tri thì có phan duyên, đã có phan [0638b] duyên thì có nhiễm trước, vì có nhiễm trước nên chẳng phải là giải thoát. Ngài mới diệt được phiền não thô mà không biết phiền não vi tế vẫn còn. Vì cho đó là cứu cánh, nên phiền não vi tế dần dần tăng trưởng, trở lại thụ sinh. Do đó mà biết, đây chẳng phải đến bờ giải thoát. Nếu trừ hết tất cả ngã và ngã tưởng mới gọi là chân giải thoát.
Nghe thái tử nói như vậy, Tiên nhân im lặng suy nghĩ: “Lời của thái tử nói thật là vi diệu”.
Thái tử lại hỏi tiếp:
- Ngài xuất gia và tu khổ hạnh đến nay được bao nhiêu năm rồi?
Tiên nhân đáp:
- Tôi xuất gia năm mười sáu tuổi, tu khổ hạnh đến nay đã được mười bốn năm.
Thái tử nghe rồi, nghĩ: “Xuất gia đã lâu như vậy, mà chỗ chứng đắc chỉ thế thôi ư?”.
Bấy giờ, thái tử vì cầu pháp thù thắng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy từ biệt tiên nhân.
Tiên nhân nói với thái tử:
- Tôi tu tập khổ hạnh đã lâu mà chỗ chứng đắc chỉ được như vậy. Thái tử là dòng tộc vua chúa, làm sao có thể tu khổ hạnh được?
Thái tử đáp:
- Pháp ngài tu chưa phải là khổ, có một pháp tu khác khổ hơn, khó thực hành hơn.
Tiên nhân thấy thái tử có trí tuệ, ý chí vững chắc khó lay chuyển, nên biết nhất định sẽ thành bậc Nhất thiết chủng trí, liền thưa thái tử:
- Nếu thái tử thành đạo xin độ tôi trước.
Thái tử đáp:
- Được!
Sau đó, thái tử đến chỗ tiên Ca-lan, bàn luận, hỏi đáp cũng như trước, rồi từ biệt ra đi. Hai vị tiên nhân thấy thái tử ra đi, đều suy nghĩ: “Trí tuệ của thái tử rất kì diệu đặc biệt, khó ai bằng”. Bèn chắp tay đưa tiễn, nhìn theo đến lúc khuất dạng mới trở vào.
Điều phục được hai vị tiên A-la-la và Ca-lan rồi, thái tử liền lên đường đến núi Ca-xà trong rừng Khổ hạnh, là nơi ở của năm anh em Kiều-trần-như v.v… Thái tử liền đến bờ sông Ni-liên-thiền ngồi thẳng tư duy, quan sát căn cơ chúng sinh. Xét thấy phải tu khổ hạnh sáu năm mới độ được họ. Tư duy, quán xét như thế, Ngài bắt đầu tu khổ hạnh, các vị trời thay nhau dâng cúng mè, gạo. Vì cầu đạo chân chính, nên thái tử tịnh tâm giữ giới, mỗi ngày ăn một hạt mè hoặc một hạt gạo. Nếu có ai đến xin, Ngài đều ban cho tất cả.
[0638c] Bấy giờ, năm người như Kiều-trần-như v.v… thấy thái tử ngồi thẳng tư duy, tu khổ hạnh, mỗi ngày ăn một hạt mè hoặc một hạt gạo, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày cũng ăn như thế, cũng theo tu khổ hạnh, và luôn ở bên cạnh cung phụng thái tử. Thấy thái tử như vậy, họ liền sai một người trở về trình bày rõ sự tu tập của thái tử cho quốc sư và các vị đại thần. Nghe xong, quốc sư và các đại thần trở về hoàng cung, nét mặt buồn bã, thân hình tiều tụy giống như vừa chôn người thân, cố nén nỗi đau trở về cung. Người giữ cửa vào tâu vua:
- Tâu đại vương! Quốc sư và các đại thần đang ở ngoài cửa.
Vua vừa nghe, hơi thở dồn dập, giọng nói đứt quảng, toàn thân bất động. Người giữ cửa hiểu ý của vua, liền cho mời vào.
Gặp họ, vua buồn bã không nói nên lời. Hồi lâu, vua hỏi nhỏ:
- Thái tử là tính mạng của trẫm, nay các khanh trở về một mình thì tính mạng của trẫm làm sao tồn tại?
Quốc sư thưa:
- Tôi vâng lệnh đại vương đi tìm thái tử, đến chỗ tiên nhân Bạt-già hỏi thăm. Tiên nhân kể lại mọi việc và chỉ chỗ ở của thái tử. Chúng thần liền đi tìm. Đi được nửa đường, gặp thái tử đang ngồi bên gốc cây tư duy, tướng tốt chói sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng, thần liền đến bên thái tử trình bày rõ sự sầu não của đại vương, Ma-ha-ba-xà-ba-đề và Gia-du-đà-la. Thái tử trầm giọng đáp: “Lẽ nào Ta không biết ân tình sâu nặng của phụ vương và quyến thuộc? Nhưng vì sợ các khổ sinh tử và xa lìa người thân. vì muốn đoạn trừ khổ ấy, Ta mới đến nơi này!”. Ngôn từ lời lẽ, ý chí của thái tử vững chãi như núi Tu-di không thể lay chuyển. Nói xong, Ngài bỏ chúng thần ra đi, như bỏ cỏ rác.
Thần bèn chọn ra năm người đi theo cung cấp hầu hạ, đồng thời xem xét chỗ ở của thái tử. Có một người trở về thưa: “Thái tử đang đến chỗ tiên A-la-la và Ca-lan”. Trên đường đi qua sông Hằng, do thần lực của chư thiên, nên thái tử vượt qua sông, đến thành Vương Xá. Lúc ấy, vua Tần-tì-sa-la đến gặp thái tử, dùng những lý lẽ và tìm cách khuyên ngăn thái tử không nên xuất gia, hứa sẽ phân đôi đất nước cùng thái tử cai trị, thậm chí nhường toàn bộ đất nước, hoặc giao cho bốn binh đánh chiếm nước khác, nhưng thái tử đều từ chối tất cả.
Thái tử lại lên đường đến chỗ tiên nhân thuyết pháp, [0639a] hàng phục tâm họ. Sau đó, thái tử đến núi Ca-xà trong rừng Khổ hạnh, ngồi bên bờ sông Ni-liên-thiền tư duy, mỗi ngày ăn một hạt mè hoặc một hạt gạo.
Nghe quốc sư và các vị đại thần kể lại lời của sứ giả, Vua Bạch Tịnh rất sầu não, toàn thân run rẩy, lông tóc dựng đứng, liền nói với quốc sư và các đại thần:
- Thái tử bỏ ngôi vị Chuyển luân vương, cha mẹ, quyến thuộc, niềm vui ân ái, vào tận chốn rừng sâu tu tập khổ hạnh. Ta thật bạc phước, mất đi người con trân quí như thế.
Vua lại đem lời của người sứ kia, thuật cho Ma-ha-ba-xà-ba-đề và Gia-du-đà-la, đồng thời ra lệnh chuẩn bị năm trăm cỗ xe. Ma-ha-ba-xà-ba-đề và Gia-du-đà-la cũng sắp đặt năm trăm cỗ xe chứa đầy đủ tất cả vật thực nuôi sống, rồi gọi Xa-nặc đến nói:
- Ngươi đưa thái tử vào chốn rừng sâu, nay hãy hướng dẫn một trăm cỗ xe này chở lương thực đến cho thái tử, theo thời mà cung cấp đầy đủ chớ để thiếu thốn, hết thì về lấy thêm.
Xa-nặc vâng lệnh, liền dẫn một trăm cỗ xe nhanh chóng lên đường. Đến nơi, thấy thái tử thân hình gầy ốm, da bọc xương, gân mạch hiện rõ như hoa ba-la-xa, Xa-nặc liền cúi đầu đỉnh lễ dưới chân thái tử và ngất xỉu, lát sau tỉnh dậy rơi lệ nói:
- Đại vương ngày đêm thương nhớ thái tử, người sai tôi dẫn một trăm cỗ xe chở đầy lương thực đến cho thái tử.
Thái tử bảo Xa-nặc:
- Ta trái lời cha mẹ và rời bỏ đất nước đến nơi xa xôi này, vì cầu đạo Vô thượng, tại sao phải thụ nhận những vật thực này?
Nghe thái tử nói thế, Xa-nặc suy nghĩ: “Thái tử không chịu thụ nhận những vật thực này, ta sẽ tìm một người dẫn một trăm cỗ xe trở về hoàng cung còn ta ở lại hầu hạ thái tử”. Xa-nặc liền sai một người dẫn đoàn xe trở về còn mình ở lại âm thầm hầu hạ thái tử, sớm tối không rời.
Bấy giờ, thái tử nghĩ: “Mỗi ngày, Ta chỉ ăn một hạt mè hoặc một hạt gạo, cho đến bảy ngày cũng như thế, thân hình gầy ốm giống như cây khô, khổ hạnh suốt sáu năm mà không được giải thoát, nên biết đó chẳng phải là đạo vậy. Không giống như ngày trước ở bên gốc cây Diêm-phù, Ta tư duy đạt đến sự lìa dục, vắng lặng, đây mới là đạo chân chính tối thượng. [0639b] Nếu ta để thân hình gầy ốm mà tu tập thì những ngoại đạo sẽ nói nhịn đói là nhân niết-bàn. Dù toàn thân Ta có sức mạnh như trời Na-la-diên, Ta cũng không thể lấy đó mà tu đạo quả. Ta phải ăn uống khoẻ mạnh, tu tập mới thành đạo quả”. Nghĩ vậy, thái tử liền đứng dậy, đến sông Ni-liên-thiền tắm rửa. Tắm rửa xong, vì thân thể quá ốm yếu nên Ngài không thể tự bước lên được. Các vị trời liền đè cành cây xuống cho thái tử vịn bước lên.
Ngoài bìa rừng, có một cô gái chăn bò tên Nan-đà-ba-la. Trời Tịnh Cư hiện xuống khuyên cô:
- Thái tử đang tu tập ở trong rừng, ngươi nên đến cúng dường.
Nghe nói vậy, cô gái rất vui mừng. Ngay lúc ấy, bỗng từ dưới đất mọc lên một hoa sen nghìn cánh, trên đài hoa có cháo sữa. Cô gái hết sức kinh ngạc, liền lấy cháo sữa ấy mang đến chỗ thái tử, cúi đầu đỉnh lễ dâng lên cúng dường. Thái thụ nhận sự cúng dường của cô gái rồi chú nguyện: “Thức ăn cúng dường này là giúp cho người thụ thực có đủ sức khỏe. Ta nguyện cho gia đình của cô được vui vẻ, an lạc không bệnh tật, trường thọ, trí tuệ đầy đủ. Ta vì muốn thành thục tất cả chúng sinh mà thụ nhận thức ăn này”.
Chú nguyện, thọ thực xong, thân thể thái tử tươi tỉnh, khí lực dồi dào, có thể chứng đạo Bồ-đề.
Thấy việc này, năm anh em Kiều-trần-như vô cùng kinh ngạc, cho là thái tử thối tâm, liền bất mãn trở về chỗ của mình. Còn bồ-tát một mình đi đến gốc cây tất-bát-la, phát nguyện: “Ta ngồi dưới gốc cây này, nếu không thành đạo quả, quyết chẳng bao giờ đứng dậy”. Đức hạnh của bồ-tát sâu nặng, đất cũng không thể chịu nổi, nên mỗi bước đi của Ngài đều làm đất chấn động, phát ra âm thanh lớn.
Khi ấy, có con rồng mù nghe đất chấn động, tâm rất hoan hỉ, hai mắt sáng lại, tự nghĩ: “Ta từng thấy các Đức Phật quá khứ cũng ứng hiện điềm lành này”. Nghĩ vậy, rồng liền từ dưới đất bay lên, đỉnh lễ dưới chân bồ-tát. Lúc ấy, có năm trăm con chim xanh bay trên hư không, nhiễu quanh bên phải của bồ-tát, mây lành nhiều màu sắc rực rỡ và gió thơm cũng quyện bay theo. Bấy giờ, rồng mù dùng kệ khen Ngài:
Bồ-tát đến nơi này
Đất chấn động sáu cách
Phát ra âm thanh lớn
Ta nghe, mắt bừng sáng.
Lại thấy trên hư không
[0639c] Chim xanh nhiễu quanh Ngài
Mây lành sáng rực rỡ
Gió thơm rất mát mẻ.
Tướng lành của bồ-tát
Đều giống Phật quá khứ
Do đó biết bồ-tát
Nhất định sẽ thành Phật.
Bấy giờ, bồ-tát suy nghĩ: “Chư Phật đời quá khứ lấy gì làm tòa để thành đạo Vô thượng?”. Bồ-tát liền tự biết dùng cỏ làm tòa. Lúc ấy, Thích-đề-hoàn-nhơn hóa làm một người phàm, ôm bó cỏ sạch mềm mại.
Bồ-tát hỏi:
- Ông tên gì?
Người kia liền đáp:
- Tôi tên Cát Tường.
Bồ-tát nghe tên, lòng rất hoan hỉ, nói:
- Ta phá điều chẳng lành để thành tựu điềm lành. Ông có thể cho tôi bó cỏ trong tay được không?
Cát Tường liền trao bó cỏ cho bồ-tát và phát nguyện: “Nếu bồ-tát thành đạo xin độ tôi trước”.
Bồ-tát nhận cỏ trải tòa rồi ngồi kiết già trên ấy, giống như pháp của chư Phật đời quá khứ và phát nguyện: “Nếu không thành Chính giác quyết không rời khỏi tòa này. Nay Ta cũng phát nguyện giống như thế”. Lúc bồ-tát phát nguyện, trời, rồng, quỷ, thần thảy đều hoan hỉ, gió mát thổi từ khắp nơi đến, cầm thú im lặng, cây cối ngừng rung, mây bụi lắng trong. Nên biết, đây là tướng lành bồ-tát nhất định sẽ thành đạo.
Lúc bồ-tát ở dưới gốc cây phát nguyện, tám bộ trời, rồng thảy đều hoan hỉ, ở trên hư không vui mừng khen ngợi. Khi đó, cung điện ma vương ở tầng trời thứ sáu tự nhiên chấn động. Ma vương vô cùng sầu não, tinh thần tán loạn, không màng đến việc ăn uống vui chơi, suy nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm xả bỏ ngũ dục, đang ngồi dưới gốc cây, tịnh tọa tư duy, không bao lâu nữa sẽ thành đạo Vô thượng Chính đẳng chính giác. Thành tựu đạo này, ông ta sẽ độ khắp tất cả chúng sinh, vượt xa cảnh giới của ta. Nhân lúc ông ta chưa thành đạo, ta sẽ đến phá hoại!”.
Con của ma vương tên là Tát-đà, thấy cha sầu khổ, đến thưa:
- Thưa phụ vương! Chẳng hay phụ vương lo buồn điều gì?
Ma vương đáp:
- Sa-môn Cù-đàm hiện đang ngồi dưới gốc cây tất-bát-la, sắp thành Chính giác, vượt hẳn đạo ta, nay ta muốn đến phá hoại.
Tát-đà can ngăn:
- Bồ-tát là bậc đã đạt được thanh tịnh, vượt ngoài ba cõi, thần thông, trí tuệ đều thấu triệt, tám bộ trời, rồng đều khen ngợi, phụ vương không thể chế phục được. Xin Phụ vương đừng tạo nghiệp ác mà chuốc lấy tai họa.
Ma vương có ba người con gái, dung nghi tướng mạo rất đoan chính, xinh đẹp mê người, [0640a] thường dùng hương thơm xông ướp, đeo chuỗi bảy báu, là bậc nhất trong các thiên nữ. Người thứ nhất tên Nhiễm Dục, người thứ hai tên Năng Khoái Nhân, người thứ ba tên Khả Ái Lạc. Ba người này cùng đến thưa ma vương:
- Thưa phụ vương! Hôm nay, phụ vương có điều chi lo buồn vậy?
Ma vương liền đem hết nỗi lòng nói với các cô con gái:
- Nhân gian xuất hiện một sa-môn tên Cù-đàm, thân mặc áo giáp pháp, cầm cung tự tại, dùng tên trí tuệ, muốn hàng phục chúng sinh, phá hoại cảnh giới của ta. Nếu ta không sánh bằng thì tất cả chúng sinh sẽ tin phục qui kính sa-môn kia. Như vậy thì cõi nước ta sẽ trống rỗng, ta lo quá. Nhân lúc Cù-đàm chưa thành đạo, ta muốn đến phá hoại.
Nói xong, ma vương cầm cung cứng và năm mũi tên, cùng quyến thuộc nam nữ đến dưới cây tất-bát-la. Thấy bồ-tát ngồi yên bất động, muốn vượt qua biển sinh tử ba cõi, ma vương tay trái cầm cung, tay phải lắp tên, nói với bồ-tát:
- Ngươi thuộc dòng Sát-đế-lợi, đối với cái chết rất đáng sợ, tại sao không mau đứng dậy? Ngươi nên trở về làm Chuyển luân vương, bỏ pháp xuất gia, lập nhiều hội bố thí để được sinh lên cõi trời, pháp này thù thắng hơn pháp của ngươi nhiều. Ngươi thuộc dòng Sát-đế-lợi, sẽ Chuyển luân vương mà đi ăn xin, là việc không thể chấp nhận. Nếu ngươi không đứng dậy, không bỏ nguyện xưa mà cứ ngồi yên trên tòa, ta sẽ bắn ngươi một mũi tên nhọn. Các vị tiên tu khổ hạnh, khi nghe âm thanh mũi tên ta bắn, không ai không sợ hãi, tinh thần tán loạn, huống gì là ngươi, sao có thể chịu được mũi tên độc này! Nếu ngươi nhanh chóng đứng dậy thì sẽ được an toàn tính mạng.
Mặc cho ma vương nhiều lời đe doạ, bồ-tát vẫn an nhiên, không kinh hãi hoặc dao động. Ma vương bèn giương cung bắn, đồng thời đưa các thiên nữ đến. Khi Ma vương bắn, bồ-tát không nhìn mũi tên bay, tên dừng trên hư không, sau đó rơi xuống đất biến thành hoa sen.
Bấy giờ, ba thiên nữ thưa bồ-tát:
- Nhân giả đức hạnh cao tột, là bậc tôn kính của trời người, cần phải có người hầu hạ. Chúng tôi đang tuổi thanh xuân, đều là thiên nữ, đoan chính không ai sánh bằng. Nay, vua trời sai chúng tôi xuống đây hầu hạ Ngài sớm tối, chăm sóc ngủ nghỉ.
Bồ-tát nói:
- Các ngươi đều có chút căn lành, mới được làm thân trời, lại không nghĩ đến vô thường, cứ làm yêu mị mê hoặc hại người. Thân thể các ngươi tuy đẹp nhưng tâm không ngay thẳng, dâm dục, làm điều ác, sau khi chết sẽ bị đọa vào trong ba đường ác, thụ thân chim thú, khó mong thoát khỏi. Ta biết các ngươi muốn nhiễu loạn Ta, khiến tâm của ta không thanh tịnh. Các ngươi hãy đi đi, ta không cần!
Nghe vậy, ba thiên nữ kia bỗng nhiên biến thành ba bà lão, [0640b] tóc bạc mặt nhăn, răng rụng, nước dãi chảy ra, da bọc lấy xương, bụng to như trống, chống gậy lần dò từng bước, không thể trở lại hình tướng như ban đầu được.
Thấy tâm bồ-tát vững chãi như thế, ma vương suy nghĩ: “Ngày xưa, ta ở trong núi Tuyết, mỗi khi bắn cung, trời Ma-hê-thủ-la còn kinh sợ, lui sụt tâm thiện, mà nay không thể làm sa-môn Cù-đàm dao động. Với ông ta, chẳng những cung tên vô hiệu lực, mà ba người con gái của ta cũng không làm gì được”. Ma vương tức giận, tìm cách khác. Hắn ta bèn hạ giọng dùng lời nhu hòa khuyên dụ bồ-tát:
- Nếu ngươi không thích những dục lạc ở thế gian, thì lên cõi trời, ta sẽ nhường ngôi vị và tất cả các thứ ngũ dục cho ngươi.
Bồ-tát nói:
- Đời trước, nhờ có gieo chút nhân bố thí, nên đời này, ông được làm vua cõi trời Tự-tại. Nhưng phước này có hạn, khi hết thụ sinh trở lại, chìm đắm trong ba đường ác, rất khó ra khỏi. Đây là nhân tội lỗi, chẳng phải điều ta cần.
Ma vương nói:
- Quả báo của ta ngươi biết, còn quả báo của ngươi ai biết?
Bồ-tát đáp:
- Quả báo của ta chỉ có đất này biết.
Khi bồ-tát nói như thế, đại địa bỗng chấn động sáu cách.
Lúc ấy, địa thần cầm bình bảy báu đựng đầy hoa sen, từ dưới đất vọt lên, bảo ma vương:
- Ngày xưa, bồ-tát dùng đầu, mắt, tủy, não bố thí cho người khác, máu chảy thấm ướt cả đại địa; lại đem đất nước, vợ, con, voi, ngựa, châu báu bố thí không thể tính kể, chỉ vì cầu đạo Vô thượng chân chính. Vì thế, ông không nên nhiễu loạn bồ-tát.
Nghe vậy, ma vương vô cùng sợ hãi, lông tóc dựng đứng. Địa thần đỉnh lễ dưới chân bồ-tát, dùng hoa cúng dường, bỗng nhiên biến mất.
Ma vương suy nghĩ: “Ta dùng cung mạnh, tên nhọn, ba người con gái và lời nói ngọt ngào để khuyên dụ mà vẫn không thể làm loạn tâm của Cù-đàm. Ta sẽ tìm cách khác, ta sẽ nhóm họp tất cả binh chúng, dùng sức mạnh bức hiếp Cù-đàm. Lúc ma vương nghĩ, các chúng trời bỗng nhiên nhóm đến, đầy khắp hư không, hình tướng mỗi vị đều sai khác, có người cầm kích, kiếm, hoặc đầu đội cây lớn, hoặc tay cầm chày vàng, hoặc trang bị đầy đủ các thứ vũ khí chiến đấu, hoặc thân người mà đầu heo, cá, lừa, ngựa, sư tử, rồng, gấu, hổ, tê giác và đầu các loài thú khác…, hoặc một thân có nhiều đầu, hoặc trên mặt có một mắt, hoặc nhiều mắt; có người thân cao bụng lớn, [0640c] hoặc gầy ốm không có bụng, hoặc chân dài đầu gối lớn, hoặc chân to béo phì, hoặc móng dài răng nhọn, hoặc đầu nằm trước ngực, hoặc có hai chân mà nhiều thân, hoặc mặt lớn, hoặc mặt nằm một bên, hoặc sắc mặt như tro đất, hoặc thân phát lửa cháy. Hoặc thân vác núi, hoặc tóc tai rối bời, thân thể trần truồng, hoặc sắc mặt nửa đỏ nửa trắng, hoặc môi trề xuống tận đất, hoặc lấy chéo áo che mặt, hoặc thân mặc áo da hổ, hoặc da rắn, sư tử, hoặc rắn quấn khắp thân, hoặc trên đầu lửa cháy, hoặc trợn mắt vung tay, hoặc chạy nhảy hai bên, hoặc bay vòng trên hư không, hoặc đuổi chạy kêu gào. Các loại hình tướng ác như thế không thể tính kể vây quanh bồ-tát. Hoặc muốn cắt thân bồ-tát, hoặc bốn phía lửa cháy cao ngút tận trời, la hét cuồng loạn, chấn động cả núi rừng; gió, lửa, khói, bụi bay mù mịt, nước bốn biển lớn cùng lúc phun lên.
Bấy giờ, hộ pháp, trời, rồng, quỉ thần v.v... thảy đều tức giận quân ma đến nỗi máu từ các lỗ chân lông chảy ra. Thấy ác ma quấy nhiễu bồ-tát, chúng trời Tịnh cư khởi tâm từ bi thương xót chúng, liền hiện xuống khắp cả hư không. thấy vô số quân ma, vây quanh bồ-tát, nói những lời ác độc, chấn động cả trời đất, nhưng tâm bồ-tát vẫn an định, dung mạo không thay đổi, giống như sư tử ở giữa đàn nai, họ đều khen ngợi:
- Kì lạ thay, thật chưa từng có! Bồ-tát nhất định sẽ thành tựu Chính giác.
Quân ma cùng nhau hò hét thúc giục, người nào cũng dốc hết uy lực để phá hoại bồ-tát. Kẻ trừng mắt nghiến răng, người bay nhảy loạn xạ. Bồ-tát vẫn an nhiên xem chúng như trẻ em đang đùa giỡn. Quân ma tức giận, càng ra sức chiến đấu. Bô-tát dùng sức từ bi khiến cho người ôm đá không thể đưa lên, người đưa lên thì không thể hạ xuống; kẻ vung dao múa kiếm liền bỗng dừng lại trên hư không. Điện chớp, sét đánh, trời mưa, lửa cháy đều biến thành hoa năm sắc; nọc độc rồng dữ biến thành gió thơm, các loại hình hung ác, muốn làm hại bồ-tát đều không thể cử động được.
Ma vương có người chị tên Di-già, người em tên Ca-lợi, mỗi người tay cầm vũ khí bằng đầu lâu, ở trước bồ-tát làm các hình trạng khác nhau để nhiễu loạn. Quân ma hiện ra các thân hình xấu xí, muốn làm cho bồ-tát kinh sợ, nhưng hoàn toàn không thể chạm đến một sợi lông của Ngài, nên quân ma càng thêm sầu não. Bấy giờ, trên hư không có một vị thần, tên là Phụ-đa, ẩn thân nói:
- Nay ta thấy tâm bồ-tát an nhiên vắng lặng, lòng không oán giận. [0641a] Quân ma này khởi tâm ác độc đối với bồ-tát. Đối với bậc không oán thù mà vọng sinh phẫn nộ, thật là ác ma ngu si, tự mình làm mệt nhọc mà hoàn toàn không được gì. Nay các ngươi nên bỏ tâm oán giận và hãm hại. Miệng ngươi có thể thổi núi Tu-di nghiêng đổ, lửa có thể làm cho lạnh, nước có thể khiến cho nóng, tính của đất cứng rắn có thể làm cho mềm mại, nhưng các ngươi không thể phá hoại bồ-tát đã trải qua nhiều kiếp tu tập thiện quả, chính tư duy định, tinh cần phương tiện, tịnh trí tuệ quang. Bốn công đức này không thể đoạn dứt được, nếu bị ngăn ngại thì không thành Chính giác. Giống như nghìn mặt trời chiếu ắt sẽ tiêu tan bóng tối. Như dùi cây được lửa, đào đất được nước, tinh cần phương tiện, không cầu thì chẳng được. Chúng sinh ở thế gian đang chìm đắm trong ba độc, không người cứu vớt, bồ-tát từ bi, tìm thuốc trí tuệ, vì trừ các bệnh cho thế gian. Nay tại sao các ngươi lại nhiễu loạn bồ-tát?
Chúng sinh ở thế gian ngu si không có trí tuệ, thảy đều rơi vào tà kiến. Nay bồ-tát lập ra pháp nhãn muốn dẫn dắt chúng sinh tu tập theo con đường chân chính. Vì sao ngươi nhiễu loạn bậc Đạo sư, đây là điều không nên làm. Giống như ở giữa đồng trống mà muốn dối gạt người dẫn đường đoàn buôn vậy. Chúng sinh rơi vào chỗ tối tăm, mờ mịt không biết nơi an trú, bồ-tát thắp ngọn đèn trí tuệ, tại sao ngươi muốn thổi tắt? Nay chúng sinh đang chìm đắm trong biển sinh tử, bồ-tát vì họ mà làm thuyền báu trí tuệ, tại sao ngươi muốn nhận chìm? bồ-tát lấy nhẫn nhục làm mầm, kiên cố làm gốc, pháp lớn vô thượng làm quả, tại sao ngươi muốn chặt phá? Tham, sân, si là xiềng xích trói buộc các chúng sinh, bồ-tát tu khổ hạnh là muốn giải thoát cho họ; hôm nay quyết định ngồi kiết già dưới gốc cây này thành đạo Vô thượng. Nơi đây là tòa kim cang của chư Phật quá khứ, những nơi khác rung chuyển mà chỗ này vẫn bất động. Bồ-tát đã vào chính định vi diệu, ngươi không thể phá hoại được, mà phải nên sinh lòng vui mừng, bỏ tâm kiêu mạn, cần nhớ nghĩ phụng sự bồ-tát.
Khi ấy, Ma vương nghe tiếng nói trên hư không, lại thấy bồ-tát điềm nhiên không biến đổi, trong lòng hổ thẹn, bỏ tâm kiêu mạn, tức qui phục, trở về thiên cung. Quân ma thảy đều tan rã, trong lòng lo buồn chán nản không còn uy lực, các vũ khí chiến đấu bỏ ngổn ngang trong rừng. Lúc ác ma đang phân tán, rút lui, tâm bồ-tát thanh tịnh, vắng lặng không lay động, trời quang mây tạnh, gió ngừng thổi, mặt trời đã lặn, nhưng ánh sáng gấp bội. [0641b] Mặt trăng và các vì sao cũng chiếu sáng rực rỡ, những nơi tối tăm không còn ngăn che, các vị trời trên hư không rải hoa báu như mưa, đồng thời trỗi các kĩ nhạc để cúng dường bồ-tát.
Đêm mùng bảy tháng hai, bồ-tát vận sức từ bi hàng phục ma quân rồi, phóng ánh sáng rực rỡ, nhập định tư duy chân đế. Đối với các pháp, thiền định tự tại, biết rõ tất cả nghiệp thiện, ác của mình đã tạo đời quá khứ, từ nơi này sinh qua chỗ kia, cha mẹ quyến thuộc, giàu nghèo, sang hèn, thụ mạng dài ngắn cho đến tên tuổi, dòng họ. Bồ-tát đối với chúng sinh, khởi tâm đại bi, tự suy nghĩ: “Tất cả chúng sinh không có người cứu giúp, luân hồi mãi trong năm đường chẳng biết lối ra. Hết thảy đều hư ngụy không chân thật, mà chúng sinh ở trong đó vọng sinh khổ vui”. Bồ-tát tư duy như thế đến hết canh một.
Đến canh hai, bồ-tát chứng được thiên nhãn, quán sát thế gian, thấy rõ tất cả như thấy bóng mình trong gương sáng. Ngài lại thấy các loài chúng sinh nhiều vô lượng, chết đây sinh kia, tùy theo nghiệp thiện hoặc ác mà thụ quả báo khổ vui. Lại thấy chúng sinh bị tra khảo trong địa ngục như: rót nước đồng sôi vào miệng tội nhân, hoặc ôm cột đồng cháy, hoặc nằm giường sắt nóng, hoặc dùng vạc sắt mà nấu, hoặc bị thui nướng trên lửa, hoặc làm thức ăn cho loài hổ, lang, chim ưng, chó, hoặc tránh hầm lửa nương vào gốc cây, lá rụng xuống đều biến thành dao kiếm, cắt xẻ thân thể. Hoặc dùng cưa, búa lóc xẻ các chi trên thân, hoặc quăng vào sông tro sôi, hoặc ném vào hầm phẩn tiểu. Chịu các khổ sở như thế, nhưng do nghiệp báo nên phải chết đi sống lại muôn lần. Bồ-tát thấy những việc như thế, trong lòng suy nghĩ: “Những chúng sinh này vì thích tạo nghiệp ác ở thế gian, ngày nay chịu quả báo vô cùng khổ sở. Nếu người nào thấy quả báo khổ này sẽ không dám nghĩ đến điều ác nữa”.
Bấy giờ, bồ-tát lại quán loài súc sinh, tùy theo hạnh nghiệp của mỗi loài mà thụ các thân hình xấu xí. Hoặc làm những loài có thịt, xương, gân, sừng, da, răng, lông, cánh bị người giết hại; hoặc mang vác vật nặng cho người, đói khát cơ cực mà người không nghĩ đến; hoặc bị xỏ mũi, hoặc bị móc đầu, thường đem thịt thân mình cung cấp cho con người, lại cùng đồng loại ăn nuốt lẫn nhau, chịu những sự thống khổ như thế. [0641c] Bồ-tát thấy vậy khởi tâm đại bi, tự suy nghĩ: “Các chúng sinh này thường dùng sức của mình để phục vụ cho con người, lại chịu khổ sở, đói khát đánh đập đều do quả báo ác đã tạo đời trước”.
Thứ đến, bồ-tát quán loài ngạ quỷ, thấy chúng thường ở chỗ tối tăm, chưa từng thấy ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, không nhìn thấy đồng loại. Thọ thân hình cao lớn, bụng to như núi Thái, cổ nhỏ như cây kim; trong miệng thường có lửa đốt, luôn bị sự đói khát bức bách, trăm ức vạn năm không hề nghe nói đến tiếng ăn uống. Giả sử gặp trời mưa rơi trên thân cũng biến thành lửa, hoặc lúc đi qua ao, hồ, sông, biển thì nước hóa thành đồng sôi, than đỏ; mỗi khi động thân cất bước âm thanh phát ra như đoàn người kéo năm trăm cỗ xe đi qua, toàn thân như bị lửa đốt. Bồ-tát thấy loài ngạ quỷ chịu các đau khổ như thế, khởi tâm đại bi, tự suy nghĩ: “Loài ngạ quỷ này do tạo các nghiệp keo kiệt, tham lam, tích chứa của cải, không chịu bố thí, nên hôm nay chịu tội báo này. Nếu ai thấy những sự đau khổ kia thì nên bố thí chớ sinh lòng tham tiếc. Giả sử không có của cải, cũng nên cắt thịt mình để bố thí”.
Tiếp đến, bồ-tát lại quán loài người, thấy lúc thân Trung ấm mới gá vào thai. Nhân lúc cha mẹ giao hợp, do vọng tưởng điên đảo khởi tâm ái nhiễm, liền lấy chất bất tịnh làm thân mình. Lúc ở trong thai thân thể bị nóng đốt như ở địa ngục, đủ mười tháng mới sinh. Khi mới sinh ra bị người bên ngoài bồng bế, xúc chạm sự thô nhám khiến đau đớn như bị dao kiếm cắt. Không được bao lâu lại trở về bị già, chết, rồi sinh trở lại làm đứa trẻ, cứ xoay chuyển mãi trong năm đường, không tự tỉnh ngộ. Bồ-tát thấy vậy khởi tâm đại bi, tự suy nghĩ: “Tất cả chúng sinh đều có cái họa như thế, tại sao cứ đắm chìm trong năm dục vọng cho là vui, không thể đoạn trừ gốc rễ của điên đảo”.
Bồ-tát lại quán đến chư thiên, thấy các vị thiên tử kia, thân thể thanh tịnh, không dính bụi nhơ, giống như lưu ly, thân có ánh sáng rực rỡ, hai mắt không máy động. Hoặc có chư thiên ở trên đỉnh núi Tu-di, hoặc ở bốn phía, hoặc ở trên hư không, tâm thường vui vẻ, mọi việc đều vừa ý, tấu nhạc trời để tự vui chơi quên cả đêm ngày, nơi nơi đều tuyệt đẹp, nhìn về hướng Đông đắm trước nhiều năm quên quay lại, nhìn về hướng Tây say mê nhiều năm không trở về. [0642a] Cho đến hướng nam, bắc cũng đều như thế. Y phục, ăn uống vừa nghĩ liền có. Tuy có những việc vừa ý như thế nhưng vẫn bị lửa dục thiêu đốt. Lại thấy lúc phước trời hết năm tướng chết hiện ra:
1. Hoa trên đầu héo.
2. Mắt máy động.
3. Ánh sáng trên thân biến mất.
4. Mồ hôi nách tiết ra.
5. Tự nhiên muốn lìa khỏi tòa của mình.
Các quyến thuộc thấy thân thiên tử có năm tướng chết hiện ra, tâm sinh luyến mộ. thiên tử cũng tự biết thân mình hiện ra năm tướng chết, lại thấy quyến thuộc luyến mộ mình trong lòng vô cùng khổ não. Bồ-tát thấy các vị thiên tử có những việc như thế, khởi tâm đại bi, tự nghĩ: “Các thiên tử này vốn có tu một ít điều thiện, được hưởng niềm vui ở cõi trời, quả báo sắp hết vô cùng khổ não. Sau khi mạng chung, xả bỏ thân trời sẽ đọa vào trong ba đường ác. Kiếp trước làm những việc thiện, nhưng vì cầu quả báo vui mà ngày nay được vui ít khổ nhiều. Giống như người đói ăn các thứ có độc, lúc đầu tuy ngon, sau đó bị họa lớn. Tại sao người trí phải tham đắm dục lạc này?”.
Các vị trời ở cõi Sắc và Vô sắc thấy tuổi thọ lâu dài, nên cho rằng dục lạc là thường hằng. Khi thấy biến hoại thì vô cùng sầu não, liền khởi tà kiến, phỉ báng nhân quả, do việc này mà bị luân hồi trong ba đường chịu các khổ não. Bồ-tát dùng thiên nhãn quan sát trong năm đường, khởi tâm đại bi, tự nghĩ: “Trong ba cõi không có một pháp nào vui”. Suy nghĩ như thế đến hết canh hai.
Đầu canh ba, bồ-tát quán căn tính của chúng sinh do nhân duyên gì mà có “già, chết,” liền biết “già, chết” do “sinh” làm gốc, nếu lìa được “sinh” thì không còn “già, chết”. Hơn nữa, sinh này không phải tự nhiên sinh, cũng chẳng từ tự sinh mà đều do nhân duyên sinh. Vì từ nhân duyên sinh, nên sinh các nghiệp dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Bồ-tát lại quán nghiệp trong ba cõi từ đâu mà sinh, liền biết nghiệp trong ba cõi từ tứ thủ[53] sinh. Lại quán tứ thủ từ đâu sinh ra, liền biết tứ thủ từ ái mà sinh. Lại quán ái từ đâu sinh ra, liền biết ái từ thụ sinh. Lại quán thụ từ đâu sinh ra, liền biết thụ từ xúc sinh. Lại quán xúc từ đâu sinh ra, liền biết xúc từ lục nhập sinh. [0642b] Lại quán lục nhập từ đâu sinh ra, liền biết lục nhập từ danh sắc sinh. Lại quán danh sắc từ đâu sinh, liền biết danh sắc từ thức sinh. Lại quánt từ đâu sinh ra, liền biết thức từ hành sinh. Lại quán hành từ đâu sinh ra, liền biết hành từ vô minh sinh.
Nếu diệt được vô minh thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thụ diệt, thụ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì dinh diệt, dinh diệt thì già, chết, lo buồn khổ não diệt. Bồ-tát quán mười hai nhân duyên theo chiều thuận nghịch như thế, đến hết canh ba thì phá được vô minh. Khi trời gần sáng, đạt được ánh sáng trí tuệ, đoạn trừ các tập chướng, thành tựu Nhất thiết chủng trí.
Lúc bấy giờ, Đức Như Lai tự nghĩ: “Tám con đường chân chính là pháp tu hành của chư Phật trong ba đời, là con đường đến niết-bàn. Nay ta đã trải qua, trí tuệ thông đạt không còn chướng ngại”. Lúc ấy, đại địa chấn động mười tám cách, mây bụi lắng trong, trống trời tự nhiên phát ra âm thanh vi diệu, gió thơm thổi nhẹ êm dịu mát mẻ, mây lành nhiều sắc, trời mưa cam lộ; trong vườn cây, hoa quả sum suê không tùy thuộc vào thời tiết. trời lại mưa hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, hoa sen bảy báu, hoa vàng, hoa bạc, hoa lưu ly v.v… rơi quanh, cây bồ-đề rộng khắp ba mươi sáu do-tuần. Lúc ấy, các vị trời trỗi kĩ nhạc, rải hoa, đốt hương, ngâm vịnh khen ngợi, cầm tràng phan và bảo cái trời đứng khắp cả hư không cúng dường Đức Như Lai. Tám bộ là rồng, thần… cúng dường cũng giống như thế.
Ngay lúc ấy, tất cả tâm chúng sinh bỗng trở nên từ ái, không còn sân hận và ý sát hại, ngược lại, còn hoan hỉ vui mừng như gặp được thánh tích; trong lòng không còn sợ hãi, tâm được nhu hòa, dứt ý kiêu mạn, không còn keo kiệt, ganh ghét, nịnh hót, dối trá. trời Ngũ Tịnh cư vốn đã lìa sự hỉ lạc, cũng đều vui mừng, không thể tự kiềm chế. Những hình phạt đau khổ trong địa ngục cũng tạm dừng, khiến cho tội nhân nơi đây vô cùng vui mừng. Tất cả loài súc sinh vốn ăn nuốt lẫn nhau, nay đều không còn tâm hung ác. Loài ngạ quỷ được no đủ không còn nghĩ đến đói khát. Trong thế giới, những chỗ tối tăm, ánh sáng mặt trời, mặt trăng không thể chiếu đến, mà nay đều được sáng rực. Các chúng sinh ở trong đó đều thấy được nhau và tự nghĩ: [0642c] “Trong đây tại sao bỗng sinh ra chúng sinh?”. Bậc Đại Thánh Pháp vương xuất hiện ở đời, dùng ánh sáng đại pháp phá bóng tối phi pháp, khiến cho tất cả đều được sáng tỏ. Các vị vương dòng tộc Cam Giá bỏ nước xuất gia học đạo, đắc năm pháp thần thông của tiên, lại tu thập thiện, được sinh lên cõi trời. Họ đều nương vào thần thông bay đến chỗ cây bồ-đề, trụ trên hư không, vui mừng chắp tay khen ngợi:
- Trong dòng tộc Cam Giá của ta, Ngài là người đoạn được các lậu hoặc, thành tựu Nhất thiết chủng trí, là con mắt cho thế gian, thật là kì diệu!
Tất cả chúng sinh đều hoan hỉ vui mừng, chỉ có ma vương ôm lòng sầu não.
Bảy ngày đầu, Sau khi thành Phật, Đức Như Lai nhiếp tâm tư duy, quán cây bồ-đề, tự nghĩ: “Ta ở nơi đây đoạn hết các lậu hoặc, việc làm đã xong, bổn nguyện đã thành tựu viên mãn. Pháp của ta chứng đắc rất sâu xa khó hiểu, chỉ có Phật với Phật mới hiểu được. Tất cả chúng sinh ở trong đời năm trược bị tham dục, sân hận, si mê, tà kiến, kiêu mạn nịnh hót ngăn che, phước mỏng, căn tính ám độn, không có trí tuệ, làm sao có thể hiểu được pháp của ta đã chứng đắc! Nay nếu ta chuyển pháp luân thì họ mê muội không thể tín thụ, trở lại sinh lòng phỉ báng, sẽ đọa vào đường ác, chịu các sự đau khổ, thà ta im lặng mà nhập Niết-bàn!”.
Lúc ấy, Đức Như Lai liền nói kệ:
Thánh đạo rất khó chứng
Trí tuệ thật khó được
Đối với việc khó này
Ta đều đã làm xong.
Trí tuệ của Ta chứng
Là vi diệu bậc nhất
Các chúng sinh độn căn
Dục lạc, si che mờ.
Thuận theo dòng sinh tử
Không thể quay về nguồn
Các loài chúng sinh ấy
Làm sao mà độ được?
Thấy Đức Như Lai thành tựu Thánh quả rồi mà vẫn ngồi im lặng không chuyển pháp luân, Đại Phạm thiên vương buồn bã, tự nghĩ: “Ngày xưa, Đức Thế Tôn trải qua vô lượng ức kiếp vì chúng sinh mà ở lâu trong sinh tử, xả bỏ đất nước, vợ con, đầu, mắt, tủy, não, chịu các sự đau khổ, hôm nay mới thành tựu sở nguyện, được Vô thượng Chính đẳng chính giác, tại sao lại im lặng không thuyết pháp? [0643a] Chúng sinh ở mãi trong đêm dài, chìm đắm trong sinh tử, nay ta sẽ đến thỉnh Ngài chuyển pháp luân”. Nghĩ như thế liền rời khỏi cung trời, nhanh chóng giống như thời gian người tráng sĩ duỗi cánh tay đã đến chỗ Phật, cúi đầu đỉnh lễ, nhiễu quanh trăm nghìn vòng, rồi lui qua một bên, quì xuống chắp tay, bạch Đức Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Ngày xưa Ngài vì chúng sinh mà ở lâu trong sinh tử, xả bỏ thân mạng, đầu mắt để bố thí, chịu các sự đau khổ, tu tập công đức sâu dày, hôm nay mới thành đạo Vô thượng, tại sao lại im lặng không nói pháp? Chúng sinh ở mãi trong đêm dài, chìm đắm trong sinh tử, rơi vào bóng tối của vô minh, rất khó ra khỏi. Tuy vậy, nhưng trong đó cũng có những chúng sinh, đời quá khứ, đã gần gũi bạn lành, gieo trồng các công đức, nên có nghe pháp mà lãnh thụ thánh đạo. Xin Đức Thế Tôn vì những người này, vận sức từ bi chuyển pháp luân vi diệu.
Thích-đề-hoàn-nhân cho đến trời Tha hóa tự tại cũng khuyến thỉnh Đức Như Lai vì các chúng sinh chuyển đại pháp luân.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với Đại Phạm thiên vương và Thích-đề-hoàn-nhân v.v… :
- Ta cũng muốn vì tất cả chúng sinh mà chuyển pháp luân. Nhưng pháp của ta chứng đắc sâu xa vi diệu, khó hiểu, ta sợ các chúng sinh không thể tin thụ, trở lại sinh lòng phỉ báng, đọa vào địa ngục. Vì thế mà ta im lặng.
Đại Phạm thiên vương v.v… thưa thỉnh ba lần. Đến ngày thứ bảy, Đức Như Lai mới im lặng nhận lời. Đại Phạm thiên vương v.v… biết Phật đã chấp nhận lời thỉnh cầu, liền cúi đầu đỉnh lễ dưới chân Đức Phật, sau đó mỗi người trở về trú xứ của mình.
Đức Thế Tôn nhận lời thỉnh cầu của Đại Phạm thiên vương v.v… rồi, bảy ngày kế tiếp, Ngài dùng Phật nhãn quan sát căn cơ của chúng sinh, thấy có ba bậc thượng, trung, hạ và các loại phiền não cũng có ba bậc hạ, trung, thượng. Trải qua mười bốn ngày, Đức Thế Tôn lại suy nghĩ: “Nay ta sẽ khai mở pháp môn cam lộ, ai là người được nghe trước đây?”. Ngài liền nghĩ đến tiên A-la-la thông minh, dễ lãnh ngộ, vả lại lúc trước đã phát nguyện khi thành đạo sẽ độ ông ta đầu tiên. Lúc nghĩ như thế, trên hư không có giọng nói: “Tiên A-la-la mới mạng chung hôm qua”. Đức Thế Tôn liền đáp lại: “Ta cũng đã biết điều đó”.
Đức Thế Tôn lại nghĩ đến tiên Ca-lan cũng là người căn tính lanh lợi sáng suốt, đáng được nghe trước. Trên hư không lại nói: “Tiên Ca-lan cũng mạng chung hôm qua”. Đức Thế Tôn lại đáp: “Ta cũng đã biết việc đó”.
[0643b] Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nghĩ: “Năm anh em Kiều-trần-như v.v… được quốc sư và các vị đại thần sai ở lại chăm sóc Ta, họ đều rất thông minh; hơn nữa vào đời quá khứ, đã ở trước Ta phát nguyện được nghe pháp đầu tiên. Nay Ta sẽ vì năm người này mà giảng nói chính pháp. Đức Thế Tôn lại suy nghĩ: “Ngày xưa, các Đức Phật chuyển pháp luân đều ở chỗ các vị tiên nhân, trong vườn Lộc uyển, tại nước Ba-la-nại. Hơn nữa, đây cũng là chỗ ở của năm người kia. Nay ta sẽ đến đó chuyển đại pháp luân”. Suy nghĩ như thế rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến nước Ba-la-nại.
Lúc bấy giờ, có năm trăm thương buôn, trong đó có hai người dẫn đầu tên Bạt-đà-la-tư-na và Bạt-đà-la-lê đi ngang qua đồng vắng. Bỗng có vị thiên thần đến bảo với họ: “Hiện nay có Đức Như lai, Ứng cúng, Chính biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian, Vô thượng sĩ, Điều ngự Trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế tôn xuất hiện ở đời, là ruộng phước tối thượng, các ngươi nên đến đó cúng dường trước tiên”.
Nghe thiên thần nói thế, các vị thương buôn đáp:
- Hay thay! Chúng tôi sẽ đến. Nhưng hiện giờ, Đức Thế Tôn đang ở đâu?
Thiên thần đáp:
- Không bao lâu nữa, Đức Thế Tôn sẽ đến đây.
Bấy giờ, Đức Như Lai cùng vô lượng chư thiên, thứ lớp đến thôn Đa-vị-sa-bạt-lợi. Các thương buôn kia thấy Đức Như Lai tướng tốt trang nghiêm, lại thấy các vị trời vây quanh, lòng càng hoan hỉ, liền đem gạo rang và mật dâng lên cúng dường Đức Phật.
Thế Tôn suy nghĩ: “Chư Phật thời quá khứ dùng bát-đa-la để đựng thức ăn”. Bốn vị thiên vương biết ý nghĩ của Phật, mỗi người mang một bình bát dâng lên cúng dường. Đức Thế Tôn lại nghĩ: “Nếu ta nhận bát của vị vua này thì các vị vua khác nhất định sẽ oán giận”. Ngài liền quyết định nhận tất cả bát của bốn vị vua, đặt chồng lên lòng bàn tay rồi ấn xuống thành một cái, nhưng trên miệng bát vẫn còn hiện ra bốn ngấn.
Đức Thế Tôn liền chú nguyện: “Vật cúng dường hôm nay là muốn cho người thụ thực có đủ sức khỏe. Ta nguyện cho người cúng dường khí lực sung mãn, tinh thần vui vẻ, không bị bệnh tật, trường thọ, các vị thiện thần thường theo ủng hộ. Nhờ phước cúng dường thức ăn mà đoạn trừ tận gốc của ba độc. Đời sau, sẽ được ba pháp bền chắc, thông minh trí tuệ, tin sâu Phật pháp, sinh ở nơi nào cũng được chính kiến không mê muội. [0643c] Cha mẹ, vợ con, thân bằng, quyến thuộc đời hiện tại đều được thịnh vượng, không có các tai ương và việc chẳng lành. Trong dòng tộc, nếu có người mạng chung rơi vào đường ác, nhờ phước của người cúng dường khiến cho người ấy sinh làm trời, người, không khởi tà kiến, vun bồi công đức, thường gần gũi phụng sự các Đức Như Lai, được nghe chính pháp, thấu được chân lý, chứng đắc đạo quả, thành tựu sở nguyện”.
Chú nguyện xong, Đức Thế Tôn thụ thực. Thụ thực, súc miệng, rửa bát xong, Ngài truyền pháp Tam qui cho hai vị thương nhân:
1. Qui y Phật.
2. Qui y Pháp.
3. Qui y Tăng tương lai.
Truyền pháp Tam qui xong, Thế Tôn từ biệt họ lên đường. Bước đi của Ngài uy nghi an tường như ngỗng chúa. Trên đường đi, Ngài gặp một ngoại đạo tên Ưu-ba-già. Thấy Đức Như Lai có tướng tốt trang nghiêm, các căn an định, Ông ta hết sức khen ngợi và nói kệ:
Chúng sinh ở thế gian
Đều bị ba độc trói
Các căn lại thô phù
Rong ruổi theo ngoại cảnh.
Nay tôi thấy nhân giả
Dáng vẻ rất điềm tĩnh
Ắt đã được giải thoát
Chắc chắn không còn nghi.
Thầy nhân giả là ai
Và tên họ là gì?
Đức Thế Tôn liền dùng kệ đáp:
Ta nay đã vượt thoát
Ngoài tất cả chúng sinh
Pháp vi diệu sâu xa
Nay Ta đều biết rõ.
Cảnh tam độc, ngũ dục
Ta hoàn toàn chấm dứt
Như hoa sen trong nước
Không nhiễm bởi bùn dơ
Tự ngộ bát chính đạo
Không thầy không bạn lữ.
Dùng trí tuệ thanh tịnh
Hàng phục đại lực ma
Nay thành bậc Chính giác
Là thầy của trời, người
Thân, miệng, ý thanh tịnh
Nên hiệu là Mâu-ni.
Muốn đến Ba-la-nại
Chuyển pháp luân cam lộ
Mà trời, người, ma, phạm
Đều không thể chuyển được.
Nghe Phật nói kệ, lòng Ưu-ba-già vô cùng hoan hỉ, khen là việc chưa từng có, cung kính chắp tay, nhiễu quanh Đức Phật rồi từ biệt ra đi, vừa đi vừa quay lại nhìn đến khi khuất bóng.
[0644a] Đức Thế Tôn tiếp tục lên đường. Đến bờ sông A-xà-bà-la thì trời vừa tối, Ngài nghỉ qua đêm ở đây và an trú trong chính định. Bấy giờ, ở nơi này trời mưa gió suốt bảy ngày. Trong dòng sông có đại long vương tên là Mục-chân-lân-đà, thấy Đức Phật nhập định, liền dùng thân mình quấn quanh bảy vòng để che mưa gió cho Phật. Qua bảy ngày, Đại long vương hóa làm thân người, đỉnh lễ dưới chân Đức Phật, bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn! Suốt bảy ngày qua, Ngài không quá sợ mưa gió chứ?
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:
Chư thiên và thế gian
Đều vui thích năm dục
So với thiền định này
Không có gì sánh được.
Nghe Đức Phật nói kệ, long vương vô cùng hoan hỉ, đỉnh lễ dưới chân Ngài rồi trở về trú xứ của mình.
Đức Thế Tôn tiếp tục đi đến chỗ ở của năm người là Kiều-trần-như, Ma-ha-na-ma, Bạt-ba, A-xã-bà-xà, Bạt-đà-la-xà nơi nước Ba-la-nại. Từ xa, trông thấy Đức Phật, họ bảo nhau: “Sa-môn Cù-đàm bỏ tu khổ hạnh, vui thích ăn uống, không còn tâm đạo. Nay ông ta trở lại, chúng ta không cần đứng dậy đón tiếp, cũng chẳng cần cung kính đỉnh lễ. Nếu Cù-đàm có hỏi chỗ trải tòa, chúng ta hãy nói muốn ngồi đâu tùy ý”. Nói xong, mỗi người đều ngồi im lặng. Thế nhưng, khi Đức Thế Tôn vừa đến nơi thì tự nhiên năm người đồng đứng dậy cung kính đỉnh lễ nghinh đón, cùng nhau làm các việc, người đỡ y bát, người lấy nước rửa tay, người mang nước rửa chân v.v… tất cả đều trái với lời thỏa thuận trước đó, nhưng vẫn còn gọi Phật là Cù-đàm.
Đức Thế Tôn nói:
- Các ông cùng nói với nhau, khi thấy ta đến không đứng dậy, nay tại sao làm trái với lời hứa, lại kinh sợ đứng dậy làm mọi việc giúp ta?
Nghe Đức Phật nói thế, năm anh em Kiều-trần-như vô cùng hổ thẹn thưa:
- Cù-đàm hành đạo có mệt nhọc chăng?
Đức Thế Tôn nói đáp:
- Tại sao các ông tỏ lòng cao ngạo, gọi tên họ bậc Vô thượng tôn như thế? Tâm Ta rỗng rang như hư không, đối với sự khen chê không còn phân biệt, nhưng các ngươi khởi lòng kiêu mạn sẽ tự chuốc lấy quả báo ác. [0644b] Cũng như người con gọi tên của cha mẹ, đối vơi phép tắc ở thế gian còn không được, huống gì nay Ta là cha mẹ của tất cả chúng sinh.
Nghe Phật nói thế, năm anh em Kiều-trần-như vô cùng hổ thẹn bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con ngu si, không biết Ngài đã thành Chính giác. Vì sao? Vì ngày trước chúng con thấy Đức Như Lai tu khổ hạnh, mỗi ngày ăn một hạt gạo hoặc hạt mè, sau này trở lại ưa thích thụ nhận thức ăn. Do đó, chúng con nghĩ Ngài không thể thành đạo.
Đức Thế Tôn đáp:
- Các ông chớ dùng trí tuệ nông cạn để xét ta đã thành đạo hay không thành đạo. Vì sao? Vì thân khổ thì tâm phiền não, còn thân vui thì tâm lại đắm trước, vì thế, vui khổ chẳng phải là nhân của đạo. Ví như dùi cây mồi lửa mà lại rưới nước vào, chắc chắn sẽ không có được ánh sáng để phá bóng tối. Cũng vậy, muốn khơi ngọn lửa trí tuệ lại lấy nước khổ lạc rưới lên thì ánh sáng trí tuệ không bao giờ phát sinh. Vì ánh sáng trí tuệ không sinh, nên không thể diệt được bóng tối sinh tử. Nếu các ông bỏ được hai trạng thái khổ và lạc, thực hành trung đạo, tâm được vắng lặng mới có thể tu theo con đường bát chính, xa lìa các họa sinh, già, bệnh, chết. Ta đã thực hành theo trung đạo và đã thành tựu quả vị Vô thượng Chính đẳng chính giác.
Nghe Đức Như Lai nói thế, năm anh em Kiều-trần-như vô cùng vui mừng, chiêm ngưỡng tôn nhan của Đức Như Lai mắt không tạm rời.
Đức Thế Tôn bèn quán sát căn cơ của năm anh em Kiều-trần-như, thấy họ khả năng lĩnh hội chính pháp, liền nói:
- Này Kiều-trần-như,…! Các ông nên biết năm ấm quá thạnh là khổ; sinh, già, bệnh, chết, là khổ; người thân xa lìa là khổ; oán ghét gặp nhau là khổ; cầu không toại ý là khổ; cho đến mất vinh và lạc. Này Kiều-trần-như! Loài có hình không hình, không chân một chân, hai chân, bốn chân hoặc nhiều chân, đều chịu các sự đau khổ như thế. Giống như lấy tro lấp lên lửa than, nếu gặp cỏ khô thì sẽ bốc cháy. Cũng vậy, các khổ đều do ngã làm gốc, nếu có chúng sinh nào khởi ngã tưởng vi tế vẫn phải chịu khổ như thế. Tham lam, sân hận, ngu si cũng đều từ gốc ngã mà phát sinh.
Lại nữa, ba độc là nhân của các khổ, cũng như hạt giống có thể nảy mầm, chúng sinh do đó mà bị luân hồi trong ba cõi. Nếu diệt được ngã tưởng và tham, sân, si thì các khổ kia cũng chấm dứt. Thực hành theo con đường bát chính, cũng như lấy nước rưới vào lửa cháy mạnh. [0644c] Tất cả chúng sinh vì không biết nguồn gốc của các khổ nên bị luân hồi sinh tử.
Này Kiều-trần-như! Đây là khổ, các ông nên biết. Đây là tập, các ông nên đoạn. Đây là diệt, các ông nên chứng. Đây là đạo, các ông nên tu. Này Kiều-trần-như! Khổ, ta đã biết. Tập, ta đã đoạn. Diệt, ta đã chứng. Đạo, ta đã tu. Ta đã thành tựu quả vị Vô thượng Chính đẳng chính giác. Vì thế, các ông phải biết khổ, phải đoạn tập, phải chứng diệt và phải tu đạo. Nếu người nào không hiểu bốn thánh đế, các ông nên biết, người đó sẽ không được giải thoát.
Bốn thánh đế là chơn là thật. Khổ thật là khổ; tập thật là tập; diệt thật là diệt; đạo thật là đạo. Này Kiều-trần-như! Các ông hiểu chưa?
Kiều-trần-như đáp:
-Bạch Đức Thế Tôn! Con đã hiểu rõ.
Do hiểu bốn thánh đế nên được gọi là A-nhã Kiều-trần-như.
Đức Phật ba lần chuyển tứ đế thành mười hai hành pháp luân, A-nhã Kiều-trần-như ở trong các pháp xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn tịnh[54].
Khi ấy, tám vạn na-do-tha chư thiên trên hư không cũng lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn tịnh. Thấy Đức Như Lai chuyển pháp luân ở cõi này, Địa thần rất hoan hỉ, cao giọng xướng: “Đức Như Lai chuyển pháp luân vi diệu nơi cõi này!”. Nghe nói thế, các thiên thần trên hư không sinh lòng vui mừng, lần lượt xướng lên như thế. Các vị thiên ở cõi trời A-ca-nị-tra nghe vậy cũng vô cùng vui mừng, cao giọng xướng: “Hôm nay, Đức Như Lai ở chỗ tiên nhân nơi vườn Nai, nước Ba-la-nại, chuyển đại pháp luân mà tất cả trời, người, ma, phạm, sa-môn, bà-la-môn trong thế gian không thể chuyển được!”.
Lúc ấy, đại địa chấn động mười tám cách. Trên hư không, tám bộ trời rồng trỗi các kĩ nhạc, đốt các thứ hương thơm, rải nhiều hoa đẹp, cầm tràng phan, bảo cái, ca ngâm tán thán; trống trời tự phát ra âm thanh, trong cõi nước bỗng nhiên sáng rực.
A-nhã Kiều-trần-như là người ngộ đạo đầu tiên, nên được xem là đệ tử thứ nhất. Đức Phật chuyển pháp luân xong, chỉ thấy A-nhã Kiều-trần-như ngộ đạo, bốn người như Ma-ha-na-ma v.v… tự suy nghĩ: “Nếu Đức Thế Tôn vì chúng ta mà nói pháp thì chúng ta cũng sẽ ngộ đạo”. Nghĩ vậy, họ liền chiêm ngưỡng tôn nhan của Đức Phật mắt không tạm rời.
Đức Thế Tôn biết được ý nghĩ của bốn người kia, liền vì họ mà giảng rộng bốn đế. Khi ấy, bốn người kia cũng ở trong các pháp xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn tịnh. [0645a] Năm anh em Kiều-trần-như ngộ đạo rồi, đỉnh lễ dưới chân Đức Phật bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con đã thấy được đạo, chứng được đạo, nay chúng con muốn ở trong pháp của Phật xuất gia học đạo, cúi xin Đức Thế Tôn thương xót chấp nhận.
Đức Thế Tôn liền gọi:
- Thiện lai tì-kheo!
Năm anh em Kiều-trần-như râu tóc tự rụng, thân mặc ca-sa, trở thành sa-môn. Đức Thế Tôn hỏi:
- Này các tì-kheo! sắc, thụ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường, khổ hay phi khổ, không hay phi không, hữu ngã hay vô ngã?
Nghe Phật nói pháp năm ấm, năm vị tì-kheo dứt sạch các lậu, tâm ý thông suốt, chứng quả A-la-hán, liền bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Sắc, thụ, tưởng, hành, thức thật là vô thường, khổ, không, vô ngã.
Đó là sáu vị a-la-hán đầu tiên ở thế gian. Phật là Phật bảo; pháp luân bốn đế là Pháp bảo, năm vị a-la-hán là Tăng bảo. Như vậy, ở thế gian lúc này đã đầy đủ ba ngôi báu, là ruộng phước bậc nhất cho hàng trời người.


Chú thích:
[48] A-la-la, Ca-lan, 阿羅邏迦蘭 (S: Ārāḍa, Kālāma): hai vị tiên người thành Tì-xá-li, Ấn Độ (có thuyết nói ở gần thành Vương Xá). Họ là những học giả phái Số Luận nổi tiếng nhất trong sáu thủ lĩnh ngoại đạo đương thời; cũng là vị tiên nhân ngoại đạo mà Đức Thích Tôn đến hỏi đạo đầu tiên khi vừa mới ra khỏi vương cung.
[49] Tam kiên pháp 三堅法: ba pháp bền chắc: thân bền chắc, mạng bền chắc, tài sản bền chắc.
Người tu đạo đạt được pháp thân tối thắng, huệ mạng vô cùng, pháp bảo vô tận. Gọi đó là ba pháp bền chắc:
1. Thân bền chắc: người tu tập giữ gìn năm giới thanh tịnh vô nhiễm, tu tập đạo Vô thượng bồ-đề, chứng Pháp thân kim cương bất hoại.
2. Mạng bền chắc: người tu tập rõ biết được tứ đế, tu tập chính pháp, siêu việt sinh tử để thường trụ mãi mãi, tuệ mạng không dứt mất.
3. Tài sản bền chắc: người tu tập bố thí tài vật cho người phạm hạnh thanh tịnh để cầu niết-bàn an lạc vô thượng, hoặc cầu quả vui cõi trời, người ở đương lai được pháp tài bền chắc.
Trong chú giải phẩm Bồ-tát, kinh Duy-ma, ngài Tăng Triệu giải thích: “Cho dù trời đất có bị thiêu cháy, nhưng ba pháp này vẫn không bị đốt cháy; kiếp số dẫu cùng tận, nhưng ba pháp ấy vẫn không cùng tận. Cho nên gọi là ba pháp bền chắc”.
[50] Ngũ đại 五大 (S: pañca mahā-bhūtāni): năm yếu tố có thể tính rộng lớn, sinh thành ra vạn pháp: đất, nước, gió, lửa và không. Thể chất của năm đại theo thứ tự là: cứng, ướt, động, nóng và vô ngại, tác dụng là nâng đỡ, giữ gìn, thu nhiếp, thành thục, tăng trưởng, không chướng ngại.
[51] Hữu giác hữu quán tam-muội 有覺有觀三昧: một trong ba tam-muội. Sơ tâm tại thiền gọi là giác, tế tâm phân biệt thiền vị gọi là quán. Không, vô tướng, vô tác tương ứng với tâm, nhập vào Sơ thiền thì tất cả các giác quán đều phải chính trực, do vậy gọi là Hữu giác hữu quán tam-muội.
[52] Sơ thiền thiên 初禪天: tầng trời thứ nhất trong bốn tầng trời cõi Sắc. Thiên chúng các tầng trời không dùng thức ăn nấu nướng như nhân gian, nên không có tỉ thức và thiệt thức, chỉ có nhãn, nhĩ, thân, ý thức sinh khởi hỉ thụ, lạc thụ.
[53] Tứ thủ 四取: bốn chấp thủ, gồm: 1. Dục thủ: tham chấp sinh khởi đối với cảnh ngũ dục của cõi Dục; 2. Kiến thủ: chấp trước kiến giải tà tâm, phân biệt là chân thật, cũng tức là chấp lấy tứ kiến; 3. Giới cấm thủ: chấp trước phi chính nhân, phi chính đạo, cũng tức là chấp lấy giới cấm thủ trong ngũ kiến; 4. Ngã ngữ thủ: ngã chấp khởi lên do duyên tất cả nội thân.
[54] Pháp nhãn tịnh 法眼淨 (S : Dharmacakṣu-viśuddha): pháp nhãn có năng lực quan sát chân lý các pháp mà không bị chướng ngại và nghi hoặc.
Theo Duy-ma kinh lược sớ 4 của ngài Cát Tạng: Sơ quả Tiểu thừa thấy lí tứ thánh đế. Bậc Sơ địa Đại thừa được pháp chân thật vô sinh, đều gọi là pháp nhãn tịnh.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 4 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Cẩm nang phóng sinh


Hai Gốc Cây


Giảng giải Cảm ứng thiên - Tập 2


Thiếu Thất lục môn

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.188.183.21 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập