Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
[0645a] Bấy giờ, có chàng trai tên là Da-xá, con nhà trưởng giả, thông minh, căn tính lanh lợi, giàu có bậc nhất trong cõi Diêm-phù-đề. Anh ta thường đội thiên quan, đeo chuỗi bảy báu, mang giày quí giá. Hôm nọ, Da-xá cùng các kĩ nữ vui chơi đến nửa đêm, rồi lăn ra ngủ say sưa. Nữa đêm thức giấc, thấy các kĩ nữ, người nằm sấp, kẻ nằm ngửa, đầu tóc rối bời, nước dãi chảy ra, nhạc cụ nằm ngỗn ngang, Da-xá bỗng sinh tâm nhàm chán suy nghĩ: “Ta đang ở trong chỗ tai họa, bất tịnh mà vọng sinh là tịnh”. Khi nghĩ như thế, do thần lực của chư thiên, trên hư không bỗng sáng rực, cửa tự nhiên mở ra, Da-xá theo luồng ánh sáng thẳng đến vườn Nai. Gặp sông Hằng cản lối, Da-xá lớn tiếng nói:
[0645b] - Khổ thay! Khổ thay.
Nghe vậy, Đức Phật đáp:
- Ông hãy đến đây, Ta có pháp lìa khổ.
Da-xá nghe thế liền cởi bỏ giày báu giá trị bằng cõi Diêm-phù-đề, lội qua sông Hằng, đến chỗ Đức Phật. Thấy Đức Phật có ba mươi hai tướng quí, tám mươi vẻ đẹp, dung mạo tôn nghiêm, uy đức đầy đủ, Da-xá vô cùng vui mừng, năm vóc gieo sát đất đỉnh lễ dưới chân Đức Phật bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài cứu giúp con.
Đức Thế Tôn tùy thuận căn cơ của Da-xá mà thuyết pháp. Ngài nói:
- Hay thay! Thiện nam tử hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Sắc, thụ, tưởng, hành, thức là vô thường, khổ, không, vô ngã, ông có biết chăng?
Nghe Đức Như Lai nói thế, Da-xá xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn tịnh ngay trong các pháp.
Đức Như Lai giảng lại pháp Tứ đế, Da-xá dứt hết lậu hoặc, ý thông suốt, tâm tự tại, chứng quả A-la-hán. Ông bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn! Sắc, thụ, tưởng, hành, thức thật là vô thường, khổ, không, vô ngã.
Thấy Da-xá còn phục sức thế gian, Đức Như Lai nói kệ:
Mặc dù ở tại gia,
Thân mặc y phục báu,
Khéo thu nhiếp các căn,
Nhàm lìa năm món dục,
Nếu người được như thế,
Thật là chân xuất gia.
Tuy thân ở chỗ vắng,
Ăn mặc rất đơn sơ,
Tâm còn đắm năm dục,
Không phải người xuất gia.
Tạo tất cả thiện ác,
Đều từ tâm tưởng sinh,
Cho nên chân xuất gia,
Đều lấy tâm làm gốc.
Đức Như Lai nói kệ xong, Da-xá suy nghĩ: “ Thấy ta đang mặc đồ bảy báu, nên Đức Thế Tôn nói bài kệ này. Vậy, ta nên cởi bỏ trang phục này”. Nghĩ vậy, Da-xá liền đến đỉnh lễ Đức Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Cúi xin Đức Thế Tôn cho phép con xuất gia.
Đức Phật nói:
- Thiện lai tì-kheo!
Râu tóc Da-xá tự rụng, thân đắp ca-sa, trở thành sa-môn.
Sáng hôm sau, cha Da-xá tìm con khắp nơi. Ông vô cùng buồn bã, khóc than thảm thiết. Lần theo dấu vết, đến bên sông Hằng thấy giày của con, ông suy nghĩ: “Chắc chắn con ta đã đi qua đường này!”, liền lần theo dấu chân đến chỗ Đức Phật.
[0645c] Đức Thế Tôn biết trưởng giả đến đây tìm con, nhưng nếu gặp lại ông ta sẽ rất đau khổ đến nỗi mất mạng. Ngài liền dùng thần lực giấu Da-xá. Trưởng giả đến trước Đức Phật cúi đầu đỉnh lễ, rồi lui qua một bên. Đức Như Lai quán xét căn cơ, rồi thuyết pháp độ trưởng giả:
- Này thiện nam tử! Sắc, thụ, tưởng, hành, thức là vô thường, khổ, không, vô ngã, ông có biết chăng?
Nghe Đức Thế Tôn nói thế, cha Da-xá liền xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn tịnh ngay trong các pháp. Ông bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Sắc, thụ, tưởng, hành, thức thật là vô thường, khổ, không, vô ngã.
Biết trưởng giả đã thấy được ý đạo, tình luyến ái con đã giảm, Đức Như Lai liền hỏi:
- Vì việc gì mà ông đến đây?
Trưởng giả đáp:
- Con có một đứa con tên Da-xá, đêm qua bỗng nhiên biến mất. Sáng nay con đi tìm khắp nơi, thấy đôi giày nó bên bờ sông Hằng, con lần theo dấu chân nó mà đến nơi đây.
Đức Thế Tôn bèn thâu thần lực, khiến trưởng giả thấy được con mình. Thấy Da-xá, trưởng giả vui mừng, nói:
- Tốt lắm! Con làm việc này ta thật vui, đã tự độ mình còn có thể độ người khác. Vì con ở nơi này, nên ta mới đến đây và thấy được lý đạo.
Trưởng giả liền ở trước Phật thụ tam qui.
Trưởng giả này là vị Ưu-bà-tắc đầu tiên trong cõi Diêm-phù-đề cúng dường ủng hộ Tam Bảo.
Năm mươi người bạn của Da-xá, đều là con nhà trưởng giả, nghe Phật xuất hiện ở đời, lại nghe Da-xá xuất gia tu đạo theo giáo pháp Phật, đều suy nghĩ: “Nay ở thế gian có bậc Vô Thượng Tôn. Da-xá, con trưởng giả, thông minh, biện luận giỏi, tài nghệ hơn người, lại bỏ dòng tộc giàu có, xa lìa năm món dục lạc, hủy hình giữ chí làm sa-môn, chúng ta còn luyến tiếc điều gì mà không xuất gia?”. Nghĩ vậy, họ bèn rủ nhau đến chỗ Phật. Gần đến nơi, xa trông thấy Đức Như Lai tướng tốt kì lạ, ánh sáng rực rỡ, tất cả đều rất hoan hỉ, toàn thân mát mẻ, lòng cung kính tột cùng, liền đến trước Phật chắp tay nhiễu quanh, đỉnh lễ dưới chân Đức Phật. Những người con nhà trưởng giả này do kiếp trước đã gieo trồng công đức, nên bẩm tính thông minh dễ liễu ngộ. Đức Như Lai liền ứng theo căn cơ của họ mà thuyết pháp.
- Này Thiện nam tử! Sắc, thụ, tưởng, hành, thức là vô thường, khổ, không, vô ngã, các ông có biết chăng?
[0646a] Đức Thế Tôn nói thế, các người con nhà trưởng giả đều xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn tịnh ngay trong giáo pháp. Họ đồng thưa:
- Bạch Đức Thế Tôn! Sắc, thụ, tưởng, hành, thức thật là vô thường, khổ, không, vô ngã. Cúi xin Đức Thế Tôn cho phép chúng con được xuất gia.
Đức Phật nói:
- Thiện lai tì-kheo!
Tức thì, năm mươi người con nhà trưởng giả râu tóc tự rụng, thân đắp ca-sa, trở thành sa-môn.
Đức Thế Tôn lại vì họ giảng rộng pháp tứ đế, khiến tất cả đều dứt sạch lậu hoặc, tâm ý thông suốt, đắc quả A-la-hán. Lúc này, giáo đoàn Phật đã có 56 vị a-la-hán. Đức Như Lai bảo:
- Này các tì-kheo! Việc làm của các ông đã xong, có thể làm ruộng phước tối thượng cho thế gian, mỗi người nên đi khắp nơi giáo hóa, dùng tâm từ bi độ tất cả chúng sinh. Ta sẽ một mình đến nước Ma-kiệt-đà thành Vương Xá hóa độ chúng sinh.
Các tì-kheo thưa:
- Hay thay! Đức Thế Tôn.
Các tì-kheo cúi đầu đỉnh lễ dưới chân Đức Phật, mỗi người mang y, ôm bát của mình từ biệt ra đi.
Đức Thế Tôn nghĩ: “Ta nên độ những chúng sinh có thể làm lợi ích cho tất cả trời người. Ba anh em Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp ở nước Ma-kiệt-đà đang tu theo đạo tiên, được vua quan, nhân dân qui kính tin thụ, hơn nữa họ thông minh, căn tính lanh lợi dễ liễu ngộ, nhưng lại rất ngã mạn, cũng khó hàng phục. Nay Ta nên đến độ họ”. Nghĩ vậy, Đức Thế Tôn liền từ nước Ba-la-nại đến nước Ma-kiệt-đà. Ngài đến chỗ Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp thì trời cũng vừa tối.
Thấy Đức Như Lai đầy đủ tướng hảo trang nghiêm, Ca-diếp hoan hỉ hỏi:
- Sa-môn trẻ tuổi kia từ đâu đến đây?
Đức Phật đáp:
- Tôi từ Ba-la-nại đến. Trời đã tối, Tôi muốn xin nghỉ đêm nơi này.
Ca-diếp trả lời:
- Ông xin nghỉ qua đêm thì tôi sẵn lòng, nhưng không còn phòng trống, chỉ còn thất đá rất sạch sẽ, là nơi tôi cất giữ các vật thờ lửa. Nơi này rất yên tĩnh, nhưng có con rồng dữ, tôi sợ nó làm hại ông.
Đức Phật đáp:
- Dù có rồng dữ, Tôi vẫn xin được tá túc.
Ca-diếp nói:
- Tính rồng hung ác, tôi sợ nó làm hại ông chứ chẳng phải tôi hẹp hòi.
Đức Phật đáp:
- Ông cứ cho tôi ở nhờ, không sao đâu!
Ca-diếp nói:
- Xin tùy ý ông vậy!
Đức Phật nói:
- Tốt lắm!
[0646b] Ngài vào trong thất đá ngồi kiết già, nhập tam-muội. Bấy giờ, rồng dữ khởi tâm ác, toàn thân phun khói. Đức Thế Tôn nhập Hỏa quang tam-muội, rồng dữ phun lửa ngút trời, đốt cháy cả thất đá.
Thấy lửa cháy, đệ tử Ca-diếp đến bạch thầy:
- Sa-môn trẻ tuổi thông minh đoan chính kia, bị rồng dữ phun lửa thiêu cháy rồi.
Ca-diếp kinh hãi đến xem. Thấy rồng phun lửa, khởi niệm thương tiếc ông sa-môn trẻ kia, liền bảo đệ tử tưới nước dập lửa. Kết cục lửa không dập tắt mà lại càng cháy mạnh hơn. Thất đá bị thiêu rụi.
Bấy giờ, thân tâm Đức Thế Tôn bất động, diện mạo điềm nhiên, Ngài đã hàng phục được rồng dữ, khiến nó không còn tâm độc hại. Phật truyền tam qui cho rồng rồi bỏ nó vào bát. Sáng hôm sau, thầy trò Ca-diếp đến chỗ Phật nói:
- Sa-môn trẻ tuổi bị rồng dữ phun lửa thiêu đốt, có lẽ đã chết rồi? Hôm qua, tôi không cho mượn thất là vì việc này vậy.
Đức Phật liền nói:
- Ta ở nơi đây rất yên tĩnh, hoàn toàn không bị tai họa nào. Rồng độc kia hiện đang ở trong bát của Ta.
Phật mở bát cho Ca-diếp thấy rồng. Thấy Phật ở trong lửa lớn mà không bị thiêu cháy, lại còn hàng phục được rồng dữ nhốt vào trong bát, thầy trò Ca-diếp hết lời khen ngợi, cho là việc chưa từng có. Ca-diếp nói với các đệ tử:
- Sa-môn trẻ tuổi này tuy có thần thông, nhưng không thể sánh với đạo chân chính của ta.
Đức Thế Tôn nói với Ca-diếp:
- Ta muốn ở lại nơi này!
Ca-diếp đáp:
- Hay thay! Ông cứ tự nhiên!
Đêm thứ hai, Đức Như Lai ngồi nơi gốc cây, có bốn vị thiên vương đến nghe pháp, mỗi vị phóng ra ánh sáng rực rỡ hơn cả mặt trời, mặt trăng. Nửa đêm thức dậy, từ xa Ca-diếp trông thấy ánh sáng ở bên Đức Như Lai, liền nói với đệ tử:
- Ông sa-môn trẻ tuổi kia cũng thờ lửa.
Sáng hôm sau, Ca-diếp đến chỗ Phật hỏi:
- Này sa-môn! Ông cũng thờ lửa ư?
Đức Phật đáp:
- Không phải. Đêm qua, có bốn vị thiên vương đến nghe pháp, ánh sáng ngươi thấy là của họ đấy.
Ca-diếp nói với các đệ tử:
- Ông sa-môn trẻ tuổi kia có uy đức rất lớn, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta.
Đến đêm thứ ba, Thích-đề-hoàn-nhân đến chỗ Phật nghe pháp, phóng ánh sáng rực rỡ như mặt trời mới mọc. Từ xa, trông thấy ánh sáng bên cạnh Đức Như Lai, đệ tử Ca-diếp liền đến thưa thầy:
- Ông sa-môn trẻ tuổi kia chắc chắn thờ lửa!
Khi trời sáng, tất cả đến chỗ Đức Phật hỏi:
- Này sa-môn! Ông thờ lửa phải không?
Đức Phật đáp:
[0646c] - Không phải! Đêm qua, Thích-đề-hoàn-nhân xuống nghe pháp, ánh sáng ấy là của ông ta.
Ca-diếp nói với các đệ tử:
- Sa-môn trẻ tuổi kia uy đức tuy lớn, nhưng không thể sánh bằng đạo chân chính của ta.
Đến đêm thứ tư, Đại Phạm thiên vương đến chỗ Phật nghe pháp, phóng ánh sáng rực rỡ như mặt trời giữa trưa. Nửa đêm, Ca-diếp thức dậy, thấy có ánh sáng bên cạnh Đức Như Lai, bèn nghĩ: “Vị Sa-môn này chắc chắn có thờ lửa”. Sáng hôm sau, ông ta đến hỏi Phật:
- Ông có thờ lửa phải không?
Đức Phật đáp:
- Không phải! Đêm qua Đại Phạm thiên vương xuống nghe pháp, ánh sáng ấy là của ông ta.
Ca-diếp tự nghĩ: “Vị Sa-môn trẻ tuổi này tuy thần diệu, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”.
Năm trăm đệ tử của Ca-diếp đều thờ tam hỏa[55]. Sáng sớm, họ nhóm họp đốt lửa nhưng lửa không cháy, cùng trở về trình bày rõ việc này với Ca-diếp. Ca-diếp nghe rồi suy nghĩ: “Việc này chắc chắn là do ông sa-môn ấy làm”. Ca-diếp liền cùng đệ tử đến chỗ Phật hỏi:
- Sáng sớm, các đệ tử của tôi đến đốt tam hỏa, nhưng sao không cháy?
Đức Phật nói:
- Ông hãy về đi, lửa sẽ tự cháy!
Ca-diếp trở về, thấy lửa đã cháy, bèn nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi này, tuy có thần lực vi diệu, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”.
Cúng dường lửa xong, các đệ tử Ca-diếp muốn tắt lửa nhưng không được, liền đem việc này thưa lên Ca-diếp. Ca-diếp suy nghĩ: “Việc này chắc cũng do sa-môn ấy làm”. Ca-diếp liền cùng đệ tử đến chỗ Phật nói:
- Sáng nay, các đệ tử của tôi muốn tắt lửa cũng không được.
Đức Phật nói:
- Các ông hãy về đi, lửa sẽ tự tắt!
Ca-diếp trở về, thấy lửa tắt, liền nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi này tuy có thần thông vi diệu, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”.
Ca-diếp cũng thờ tam hỏa. Sáng sớm đến đốt lửa, nhưng lửa không cháy, liền suy nghĩ: “Nhất định là do ông sa-môn ấy làm”. Ca-diếp liền đến chỗ Phật nói:
- Sáng nay, tôi đến đốt lửa cũng không cháy.
Đức Phật nói:
- Ông hãy về đi, lửa sẽ tự cháy!
Ca-diếp trở về thấy lửa đã cháy, liền nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi này, tuy có thần thông vi diệu, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”.
Khi Ca-diếp cúng lửa xong, muốn tắt nhưng không được liền suy nghĩ: “Nhất định là do vị Sa-môn ấy làm!”.[0647a] Ca-diếp liền đến chỗ Phật nói:
- Sáng nay, tôi tắt lửa cũng không được.
Đức Phật nói:
- Ông hãy về đi, lửa sẽ tự tắt!
Ca-diếp trở về thấy lửa đã tắt liền nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi này, tuy có thần thông vi diệu, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”.
Buổi sáng sớm nọ, các đệ tử của Ca-diếp bửa củi, nhưng không nhấc búa lên được, liền trở vào thưa Ca-diếp. Ca-diếp suy nghĩ: “Đây nhất định là do sa-môn ấy làm”. Ca-diếp liền cùng các đệ tử đến chỗ Phật nói:
- Sáng nay, các đệ tử của tôi bửa củi, nhưng không nhấc búa lên được.
Đức Phât nói:
- Các ông hãy về đi, sẽ nhấc búa lên được!
Ca-diếp trở về thấy các đệ tử đều đã nhấc búa lên được, suy nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi này, tuy có thần thông vi diệu, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”.
Đệ tử nhấc búa lên được, nhưng lại không thể hạ xuống. Họ đem việc này trình bày với Ca-diếp. Ca-diếp suy nghĩ: “Việc này cũng do sa-môn ấy làm”. Ca-diếp liền cùng đệ tử đến chỗ Đức Phật nói:
- Sáng nay, các đệ tử của tôi bửa củi, đưa búa lên được nhưng không thể hạ búa xuống.
Đức Phật nói:
- Ông hãy về đi, búa sẽ hạ xuống được!
Ca-diếp trở về, thấy các đệ tử đều đã hạ búa xuống, liền nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi này, tuy có thần thông vi diệu, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”.
[0647b] Bấy giờ, Ca-diếp đến chỗ Đức Phật và nói:
- Sa-môn trẻ tuổi! Ông hãy ở đây cùng chúng tôi tu phạm hạnh, tôi sẽ cung cấp cho ông phòng xá, các thứ ăn mặc.
Đức Thế Tôn im lặng chấp nhận.
Biết Phật đã chấp nhận, Ca-diếp trở về chỗ của mình bảo đệ tử hàng ngày làm các thức ăn ngon và sắp đặt giường tòa cho Đức Phật.
Sáng hôm sau, đến giờ ăn, đích thân Ca-diếp đến thỉnh Phật. Đức Phật bảo:
- Ông hãy về trước, Ta sẽ đến sau.
Ca-diếp đi khỏi. Trong chớp mắt, Đức Thế Tôn đã đến cõi Diêm-phù-đề hái quả diêm-phù đựng đầy bát mang về. Đức Phật đã đến nơi, mà Ca-diếp vẫn chưa về đến.
Về đến nơi, thấy Đức Thế Tôn đã ngồi an định, Ca-diếp liền hỏi:
- Này sa-môn trẻ tuổi! Ông đi đường nào mà đến đây trước ta vậy?
Đức Phật lấy quả diêm-phù trong bát ra, hỏiCa-diếp:
- Ông biết quả gì trong bát này không?
Ca-diếp đáp:
- Tôi không biết quả ấy.
Đức Phật nói:
- Qua mấy vạn na-do-tha về phương nam, có một châu kia, trong đó có loại cây tên là diêm-phù. Vì có cây này nên gọi là cõi Diêm-phù-đề. Quả trong bát ta chính là quả đó. Trong một niệm, Ta đã hái quả này mang về đây, nó vô cùng thơm ngon, ông hãy ăn thử!
Ca-diếp suy nghĩ: “Từ đây đến đó rất xa vậy mà ông sa-môn này có thể đến đó rồi trở về trong chốc lát. Ông ta có thần thông biến hóa thật vô cùng nhanh chóng, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”. Ca-diếp đặt thức ăn xuống, Đức Phật chú nguyện:
Trong pháp bà-la-môn,
Thờ lửa là hơn hết
Trong tất cả các dòng,
Biển cả là lớn nhất.
Trong tất cả vì sao,
Mặt trăng sáng hơn hết
Trong tất cả ánh sáng,
Mặt trời là bậc nhất.
Trong tất cả ruộng phước,
Ruộng phước Phật tối thượng
Nếu muốn cầu quả lớn,
Nên cúng dường Đức Phật.
Đức Phật thụ thực xong, trở về trụ xứ, rửa bát, súc miệng, ngồi thiền nơi gốc cây. Đến giờ ăn hôm sau, Ca-diếp đến thỉnh Phật. Phật bảo:
- Ông hãy về trước, Ta sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa đi khỏi. Trong chớp mắt, Đức Thế Tôn đã đến châu Phất-bà-đề hái quả am-ma-la để đầy bát mang về. Ca-diếp chưa về đến mà Phật đã đến trước.
Ca-diếp trở về, thấy Đức Phật ngồi an định, liền hỏi:
[0647c] - Này sa-môn trẻ tuổi! Ông đi đường nào mà đến đây trước ta vậy?
Đức Phật lấy quả am-ma-la trong bát ra, hỏi Ca-diếp:
- Ông biết quả trong bát này chăng?
Ca-diếp đáp:
- Tôi không biết quả ấy.
Đức Phật nói:
- Ta đến châu Phất-bà-đề cách đây mấy vạn na-do-tha về phương đông hái quả này mang về đây. Quả này tên là am-ma-la, vô cùng thơm ngon, ông hãy ăn thử!
Nghe vậy, Ca-diếp suy nghĩ: “Từ đây đến đó rất xa mà ông sa-môn này có thể đến đó rồi trở về trong chốc lát. Xem ra, thần lực của ông ta thật hiếm có, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”. Ca-diếp đặt những thức ăn xuống. Đức Phật chú nguyện:
Trong pháp bà-la-môn,
Thờ lửa là hơn hết
Trong tất cả các dòng,
Biển cả là lớn nhất.
Trong tất cả vì sao,
Mặt trăng là sáng nhất
Trong tất cả ánh sáng,
Mặt trời là bậc nhất.
Trong tất cả ruộng phước,
Ruộng phước Phật tối thượng
Nếu muốn cầu quả lớn,
Nên cúng dường Đức Phật.
Thụ thực xong, Đức Phật trở về trụ xứ, rửa bát, súc miệng, ngồi thiền nơi gốc cây. Đến giờ ăn hôm sau, Ca-diếp lại đến thỉnh Phật. Phật bảo:
- Ông hãy về trước, Ta sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa đi khỏi. Trong chớp mắt, Đức Thế Tôn đã đến châu Cù-đà-ni hái quả ha-lê-lặc để đầy bát mang về. Đức Phật đã đến nơi, mà Ca-diếp vẫn chưa về đến.
Ca-diếp về, thấy Đức Phật ngồi ở đó, liền hỏi:
- Này sa-môn trẻ tuổi! Ông đi đường nào mà đến đây trước ta vậy?
Đức Phật lấy quả ha-lê-lặc trong bát ra, hỏi Ca-diếp:
- Ông biết quả trong bát này chăng?
Ca-diếp đáp:
- Tôi không biết quả đó.
Đức Phật nói:
- Ta vừa đến châu Cù-đà-ni cách đây mấy vạn na-do-tha về phương tây hái quả này mang về đây. Quả tên là ha-lê-lặc, vô cùng thơm ngon, ông hãy ăn xem!
Ca-diếp nghe rồi, trong lòng suy nghĩ: “Đường từ đây đến đó rất xa mà vị Sa-môn này có thể đến đó rồi trở về trong chốc lát. Xem ra, thần lực của ông ta rất hiếm có, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”. Ca-diếp đặt các thức ăn xuống, Đức Phật hú nguyện:
[0648a] Trong pháp bà-la-môn,
Thờ lửa là hơn hết.
Trong tất cả các dòng,
Biển cả là lớn nhất.
Trong tất cả vì sao,
Mặt trăng là sáng nhất.
Trong tất cả ánh sáng,
Mặt trời là bậc nhất.
Trong tất cả ruộng phước,
Ruộng phước Phật tối thượng.
Nếu muốn cầu quả lớn,
Nên cúng dường Đức Phật.
Thụ thực xong, Đức Phật trở về trụ xứ, rửa bát, súc miệng, ngồi thiền dưới gốc cây. Đến giờ ăn hôm sau, Ca-diếp lại đến thỉnh Phật. Phật lại bảo:
- Ông hãy về trước, ta sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa đi, Đức Thế Tôn trong chớp mắt đã đến châu Uất-đơn-việt lấy cơm gạo tự nhiên để đầy bát mang về, Ca-diếp chưa về, mà Phật đã đến trước.
Về đến nơi, thấy Đức Phật ngồi an định, Ca-diếp liền hỏi:
- Này sa-môn trẻ tuổi! Ông đi đường nào mà đến đây trước ta vậy?
Đức Phật lấy cơm trong bát ra hỏi Ca-diếp :
- Ông biết cơm trong bát này không?
Ca-diếp đáp:
- Tôi không biết cơm này.
Đức Phật nói:
- Ta đến châu Uất-đơn-việt cách đây trải qua mấy vạn na-do-tha về phương bắc lấy cơm nấu từ gạo tự nhiên này mang về đây. Cơm này vô cùng thơm ngon, ông hãy ăn thử xem!
Nghe vậy, Ca-diếp suy nghĩ: “Từ đây đến đó rất xa mà sa-môn này có thể đến đó rồi trở về trong chốc lát. Xem ra, thần lực của ông ta khó có thể lường được, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”. Ca-diếp đặt các thức ăn xuống, Đức Phật chú nguyện:
Trong pháp bà-la-môn,
Thờ lửa là hơn hết.
Trong tất cả các dòng,
Biển cả là lớn nhất.
Trong tất cả vì sao,
Mặt trăng là sáng nhất.
Trong tất cả ánh sáng,
Mặt trời là bậc nhất.
Trong tất cả ruộng phước,
Ruộng phước Phật tối thượng.
Nếu muốn cầu quả lớn,
Nên cúng dường Đức Phật.
Thụ thực xong, Đức Phật trở về trụ xứ, rửa bát, súc miệng, ngồi thiền dưới gốc cây. Đến giờ ăn hôm sau, Ca-diếp lại đến thỉnh Phật. Phật nói:
- Hay thay!
Rồi Ngài cùng đi với Ca-diếp. Đến trai đường, Ca-diếp đặt các thức ăn xuống, Phật liền chú nguyện:
[0648b] Trong pháp bà-la-môn,
Thờ lửa là hơn hết.
Trong tất cả các dòng,
Biển cả là lớn nhất.
Trong tất cả vì sao,
Mặt trăng là sáng nhất.
Trong tất cả ánh sáng,
Mặt trời là bậc nhất.
Trong tất cả ruộng phước,
Ruộng phước Phật tối thượng.
Nếu muốn cầu quả lớn,
Nên cúng dường Đức Phật.
Chú nguyện xong, Đức Thế Tôn nhận thức ăn, rồi trở về tàng cây, thụ thực. Thụ thực xong, Ngài cần nước. Biết ý của Phật, trong thời gian tráng sĩ duỗi cánh tay, Thích-đề-hoàn-nhân từ cõi trời bay xuống trước Đức Phật, cúi đầu đỉnh lễ chân Phật. Sau đó, chỉ tay xuống đất, nơi ấy liền biến thành một hồ nước trong sạch đầy đủ tám tính chất. Đức Như Lai lấy nước đó rửa tay, súc miệng rồi thuyết pháp cho Thích-đề-hoàn-nhân. Thích-đề-hoàn-nhân nghe pháp rồi vô cùng hoan hỉ, bỗng nhiên biến về thiên cung.
Sau bữa ăn, Ca-diếp đi kinh hành trong rừng suy nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi hôm nay nhận thức ăn trở về thụ thực dưới tàng cây. Ta nên đến đó xem ông ta làm gì”. Ca-diếp liền đến chỗ Phật bỗng thấy bên gốc cây có hồ nước lớn trong sạch đầy đủ tám tính chất.
Ca-diếp kinh ngạc hỏi Phật:
- Nơi đây vì sao lại xuất hiện hồ nước này?
Đức Phật đáp:
- Sáng nay, sau khi nhận thức ăn của ông cúng dường. Ta trở về chỗ này thụ thực. Khi cần nước súc miệng, rửa bát, Thích-đề-hoàn-nhân biết ý Ta liền từ cõi trời bay xuống, chỉ tay vào đất, tạo thành cái hồ này.
Ca-diếp thấy hồ nước, lại nghe Đức Phật nói như thế, trong lòng suy nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi này có uy đức rất lớn, có thể cảm đến cõi trời ứng điềm lành như vậy, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”.
Vào một hôm khác, Đức Thế Tôn đi kinh hành trong rừng, thấy trong đống rác nhơ bẩn có các tấm vải thô xấu, Ngài liền nhặt lấy muốn giặt tẩy. Ngài nghĩ cần một tảng đá. Biết ý Phật, bằng trong thời gian tráng sĩ duỗi cánh tay, Thích-đề-hoàn-nhân liền bay lên Hương sơn lấy tảng đá vuông đặt bên gốc cây rồi bạch Đức Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Ngài có thể giặt y trên tảng đá này.
Đức Phật lại nghĩ: “Phải cần có nước để giặt”.
Thích-đề-hoàn-nhân lại đến Hương sơn lấy một cái máng lớn bằng đá đựng nước sạch đặt bên tảng đá. [0648c] Làm xong việc, bỗng nhiên ông ta biến mất, trở về thiên cung.
Giặt y xong, Đức Thế Tôn trở về ngồi thiền dưới tàng cây. Khi ấy, Ca-diếp đi đến chỗ Phật, bỗng thấy bên gốc cây có tảng đá vuông và cái máng lớn bằng đá, liền suy nghĩ: “Tại sao lại có hai vật này ở đây?”. Trong lòng kinh ngạc, ông đến hỏi Phật:
- Này sa-môn trẻ tuổi! Gần gốc cây của ông có tảng đá vuông và một máng đá lớn, vật ấy từ đâu đem đến vậy?
Thế Tôn đáp:
- Ta đi kinh hành, thấy ở dưới đất có vải thô xấu, nên nhặt lấy muốn giặt tẩy, trong lòng nghĩ cần những thứ này. Thích-đề-hoàn-nhân biết được ý Ta nên đến Hương sơn lấy những vật này đem về.
Ca-diếp nghe xong, khen là việc chưa từng có, nhưng vẫn nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi tuy có sức oai thần lớn cảm đến các vị trời như thế, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”.
Vào một ngày khác, Đức Thế Tôn xuống hồ Chỉ Địa muốn tắm gội. Tắm xong, Ngài nghĩ: “Ta muốn ra khỏi hồ, nhưng không có chỗ bám”. Lúc ấy, trên bờ hồ có cây ca-la-ca, cành lá sum sê xanh tốt, vươn ra mặt hồ. Thần cây liền rủ cành xuống để Phật vịn vào bước lên. Sau đó, Thế Tôn trở về ngồi thiền dưới tàng cây.
Bấy giờ, Ca-diếp đến chỗ Phật, bỗng thấy thân cây uốn cong, cành rủ xuống. Ca-diếp kinh ngạc hỏi Phật:
- Cây này tại sao lại uốn cong rủ xuống?
Đức Phật đáp:
- Ta vừa tắm gội dưới hồ, tắm xong muốn lên nhưng không có chỗ bám. Thần cây biết được ý Ta nên khiến cành cây uốn cong như thế.
Ca-diếp trông thấy, đồng thời nghe Đức Phật nói như thế, khen là việc chưa từng có, nhưng vẫn nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi này, có uy đức lớn cảm đến Thọ thần, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”.
Bấy giờ, Ca-diếp suy nghĩ: “Ngày mai vua nước Ma-kiệt-đà và các thần dân, bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ v.v… sẽ đến chỗ ta lập hội bố thí lớn trong bảy ngày. Nếu Sa-môn trẻ tuổi này đến, quốc vương, thần dân, bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ v.v… thấy tướng tốt và sức thần thông, uy đức của ông ta, ắt sẽ bỏ ta mà phụng thờ ông ấy. Cầu mong Sa-môn này trong vòng bảy ngày không đến chỗ của ta!”.
Đức Phật biết ý của Ca-diếp, liền đi đến Bắc Uất-đơn-việt ở bảy ngày bảy đêm. Qua bảy ngày, thí hội đã xong, quốc vương từ biệt trở về. [0649a] Ca-diếp suy nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi bảy ngày gần đây không đến chỗ ta, thật vui thay! Nay trai hội đã xong, còn nhiều thức ăn thịnh soạn, ta muốn cúng dường nếu ông ta đến đúng lúc”.
Thế Tôn biết được tâm niệm của Ca-diếp, liền từ Uất-đơn-việt trở về, đến trước Ca-diếp, nhanh như khoảng thời gian vị tráng sĩ duỗi cánh tay. Ca-diếp bỗng nhiên thấy Như Lai, vừa mừng vừa sợ hãi liền hỏi:
- Bảy ngày qua ông đi đâu mà tôi không thấy?
Đức Phật đáp:
- Vua nước Ma-kiệt-đà và các thần dân, bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ v.v… đến chỗ ông lập hội bố thí trong vòng bảy ngày. Trong lòng ông nghĩ không muốn có sự hiện diện của ta. Do đó, ta đến Bắc Uất-đơn-việt để tránh. Nay ông nghĩ muốn ta đến, vì thế Ta đến gặp ông.
Ca-diếp nghe Đức Phật nói thế, vô cùng kinh sợ, lông tóc dựng ngược và nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi này biết được ý nghĩ của ta, thật là kì diệu, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”.
Vào một hôm khác, Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp căn duyên gần thuần thục, nay chính là lúc nên điều phục ông ấy”. Suy nghĩ như thế, Ngài liền đến sông Ni-liên-thiền. Khi đến bờ sông, ma vương đến chỗ Phật thưa:
- Thưa Thế Tôn! Nay Ngài nên vào Niết-bàn! Đấng Thiện Thệ nên vào Niết-bàn! Vì sao? Những người đáng độ đều được giải thoát, nay đã đến lúc Ngài nên vào Niết-bàn.
Ma vương thỉnh ba lần như thế.
Đức Thế Tôn đáp:
- Nay chưa phải lúc Ta vào Niết-bàn. Vì sao? Bốn bộ chúng của Ta: tì-kheo, tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di chưa đầy đủ. Những người đáng độ đều chưa được độ hết, các chúng ngoại đạo chưa được hàng phục.
Đức Như Lai cũng đáp ba lần như vậy. Ma vương nghe rồi ôm lòng sầu não liền trở về thiên cung.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bước xuống sông Ni-liên-thiền, vận sức thần thông khiến cho nước rẻ làm hai. Những nơi Phật đi, mỗi bước mỗi bước bụi nước dấy lên, khiến nước hai bên vọt lên. Ca-diếp từ xa trông thấy, cho là Đức Phật bị chìm, liền cùng đệ tử bơi thuyền đến. Khi đến bên sông, thấy chỗ Phật đi thảy đều dấy bụi nước, mọi người khen là việc chưa từng có. Ca-diếp lại nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi này, tuy có sức thần thông như thế, nhưng vẫn không bằng đạo chân chính của ta”.
[0649b] Lúc đó, Ca-diếp hỏi Đức Phật:
- Này sa-môn trẻ tuổi! Ông có muốn lên thuyền không?
Đức Phật đáp:
- Tốt lắm!
Khi ấy, Đức Thế Tôn liền vận sức thần thông đi xuyên qua đáy thuyền vào và ngồi kiết già. Ca-diếp thấy Đức Phật từ đáy thuyền vào mà thuyền không bị thủng, khen là điều chưa từng có, nhưng trong lòng vẫn nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi này, tuy có thần lực tự tại như thế, nhưng vẫn không bằng đạo chơn A-la-hán mà ta đã chứng”.
Đức Phật nói:
- Này Ca-diếp! Ông chẳng phải là a-la-hán, cũng chẳng phải a-la-hán hướng[56]. Nay sao ông khởi tâm đại ngã mạn như thế?
Khi Ca-diếp nghe Đức Phật nói, lòng rất hổ thẹn và sợ hãi, toàn thân lông tóc dựng đứng, suy nghĩ: “Sa-môn trẻ tuổi này biết rõ tâm ta”.
Ông ta liền bạch Phật:
- Đúng thế Sa-môn! Đúng thế Đại tiên! Ngài khéo biết tâm tôi, cúi xin Đại tiên nhiếp thụ tôi!
Đức Phật đáp:
- Nay ông đã 120 tuổi, lại có rất nhiều đệ tử, quyến thuộc, là người được quốc vương và thần dân kính trọng. Nếu ông quyết định muốn vào trong giáo pháp của ta, phải cùng đệ tử bàn bạc kĩ trước.
Ca-diếp thưa:
- Hay thay! Hay thay!
Ca-diếp liền trở về trú xứ của mình, nhóm họp các đệ tử và nói với họ:
- Từ trước đến nay, ta thấy vị sa-môn trẻ tuổi ở đây có nhiều thần thông biến hóa rất kì diệu, trí tuệ sâu xa, tính khí điềm đạm. Nay ta muốn qui y theo pháp của người ấy, các ngươi nghĩ thế nào?
Các đệ tử thưa:
- Sự hiểu biết của chúng con đều nhờ ân tôn giả mà được. Vị Sa-môn trẻ tuổi được tôn giả kính tin, đâu thể hư dối được. Chúng con cũng thấy vị sa-môn ấy có nhiều điều kì lạ. Tôn giả nếu quyết định muốn lĩnh thụ giáo pháp của vị ấy, chúng con cũng xin qui y theo.
Nói xong, mọi người liền cùng nhau đến chỗ Phật. Ca-diếp bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Nay con và các đệ tử quyết định xin qui y, cúi mong Đại tiên thu nhận!
Đức Phật nói:
- Thiện lai tì-kheo!
Ngay lúc đó, Ca-diếp râu tóc tự rụng, thân đắp ca-sa, liền thành sa-môn.
Bấy giờ, Thế Tôn tùy theo căn cơ của mỗi người giảng rộng bốn đế. Ca-diếp nghe pháp rồi, xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn tịnh, cho đến dần dần đắc quả A-la-hán.
Bấy giờ, năm trăm đệ tử của Ca-diếp thấy thầy mình được làm Sa-môn, [0649c] trong lòng ưa thích cũng muốn xuất gia, liền bạch Đức Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Thầy chúng con đã được Đại tiên thu nhận, nay thành sa-môn. Chúng con cũng muốn theo thầy tu học, cúi xin Đại tiên cho phép chúng con được xuất gia.
Đức Phật nói:
- Thiện lai tì-kheo!
Các vị ấy râu tóc tự rụng, thân đắp ca-sa, liền thành sa-môn.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì các tì-kheo chuyển pháp luân Tứ đế, năm trăm đệ tử xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn tịnh, chứng quả Tu-đà-hoàn, dần dần tu tập cho đến đắc quả A-la-hán.
Khi ấy, Ca-diếp cùng năm trăm đệ tử đem các dụng cụ thờ lửa của mình ném xuống dòng sông Ni-liên-thiền. Thầy trò cùng nhau theo Phật ra đi.
Hai người em Ca-diếp, người thứ nhất tên Na-đề Ca-diếp, người thứ hai tên Già-da Ca-diếp, mỗi vị có hai trăm năm mươi đệ tử. Lúc bấy giờ, họ đang ở bên bờ sông Ni-liên-thiền, dưới dòng nước của anh mình, bỗng thấy các dụng cụ thờ lửa của anh và đệ tử thảy đều trôi theo dòng nước, trong lòng vô cùng kinh ngạc nghĩ: “Nay anh ta có việc chẳng lành chăng? Các dụng cụ thờ lửa đều trôi theo dòng nước, phải chăng họ đã bị kẻ xấu làm hại?”.
Hai người vội vã tìm nhau bàn bạc: “Anh của chúng ta nếu chẳng phải bị kẻ xấu làm hại thì các dụng cụ thờ lửa tại sao lại trôi theo dòng nước đến đây? Thật khổ thay! Thật lạ thay! Chúng ta mau đến chỗ anh ấy”. Hai người em liền cùng nhau ngược dòng đi lên. Đến chỗ anh mình, thấy nơi đây vắng vẻ không một bóng người. Họ vô cùng buồn bã, không biết anh mình và các môn đồ ở chỗ nào, tìm kiếm khắp nơi, gặp được một người quen cũ. Họ liền hỏi vị:
- Bậc đại tiên anh tôi và các đệ tử không biết ở đâu, ông có biết chăng?
Người ấy đáp:
- Đại tiên anh của ông và các đệ tử bỏ các dụng cụ thờ lửa, đã đến chỗ Cù-đàm xuất gia học đạo rồi.
Hai người em nghe thế, lòng rất sầu não kinh ngạc, thật là việc chưa từng có. Họ lại suy nghĩ: “Tại sao anh chúng ta lại bỏ đạo A-la-hán mà đi cầu pháp với người khác?”. Hai người vội vàng đi tìm. Đến nơi, họ thấy anh mình và chúng đệ tử cạo bỏ râu tóc, thân đắp ca-sa, liền quì xuống đỉnh lễ thưa với anh: “Anh vốn là bậc Đại a-la-hán thông minh trí tuệ, không ai sánh bằng, vang danh khắp nơi, mọi người đều tôn sùng qui kính. Tại sao nay anh lại tự bỏ đạo này mà theo người khác học. Đây chẳng phải là việc nhỏ”.
Ca-diếp nói với hai em:
[0650a] - Ta thấy Đức Thế Tôn thành tựu tâm đại từ đại bi, Ngài có ba điều rất đặc biệt:
1. Thần thông biến hóa.
2. Tâm tuệ sáng suốt, chắc chắn đã thành tựu Nhất thiết chủng trí.
3. Khéo biết căn cơ của chúng sinh, tùy duyên nhiếp thụ họ.
Do những việc như vậy, mà ta xuất gia tu học Phật pháp. Nay ta tuy được quốc vương và thần dân tôn kính, tài biện luận ở thế gian không ai có thể thắng, nhưng đây chẳng phải là pháp chấm dứt sinh tử. Chỉ có pháp của Đức Như Lai nói ra mới có thể chấm dứt sinh tử. Nay ta đã được gặp bậc tối tôn trong hàng Đại Thánh như thế mà không tự khích lệ mình, cứ cho việc thờ lửa là thù thắng thì thật là không biết suy xét, có mắt cũng như mù vậy!
Hai người em thưa:
- Nếu đúng như lời anh nói, vị ấy nhất định đã thành tựu Nhất thiết chủng trí. Sự hiểu biết của em có được đều nhờ công sức của anh. Nay anh đã theo Phật xuất gia, chúng em cũng xin theo anh học đạo.
Mỗi người liền nói với các đệ tử của mình:
- Nay ta muốn cùng đại huynh xuất gia học Phật đạo, ý các ngươi thế nào?
Các đệ tử thưa:
- Sở dĩ chúng con có sự hiểu biết như ngày nay, đều nhờ ân đức của Đại sư. Nay Đại sư muốn xuất gia học Phật đạo, chúng con nguyện đi theo.
Bấy giờ, Na-đề Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, mỗi vị cùng với hai trăm năm mươi đệ tử đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đỉnh lễ dưới chân Ngài và bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài từ bi thương xót tế độ chúng con.
Đức Phật liền gọi:
- Thiện lai tì-kheo!
Các vị ấy râu tóc tự rụng, thân đắp ca-sa, liền thành sa-môn.
Bấy giờ, Na-đề Ca-diếp, Già-da Ca-diếp lại bạch Đức Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Các đệ tử của chúng con đều muốn gia học Phật đạo, cúi xin đức Thế Tôn thương xót hứa khả.
Đức Phật đáp:
- Hay thay! Hay thay!
Ngài liền gọi:
- Thiện lai tì-kheo!
Các vị ấy râu tóc tự rụng, thân đắp ca-sa, liền thành sa-môn.
Đức Thế Tôn liền vì Na-đề Ca-diếp, Già-da Ca-diếp và chúng đệ tử, hiện sức thần thông biến hóa, đồng thời ứng theo tâm họ mà thuyết pháp. Ngài dạy:
- Các tì-kheo nên biết! Thế gian bị lửa dữ tham lam, sân hận, si mê thiêu đốt. Ngày trước các ngươi phụng thờ Tam hỏa, nay đã buông bỏ, đó chỉ mới dứt trừ các thứ mê hoặc bên ngoài, nhưng lửa ba độc vẫn còn trong thân, các ngươi phải mau tiêu diệt chúng.
Các tì-kheo nghe Đức Phật dạy như thế, liền ở trong Phật pháp xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn tịnh. Đức Thế Tôn lại giảng rộng cho họ về pháp tứ đế. Tất cả đều chứng quả A-la-hán.
[0650b] Bấy giờ, Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Ngày xưa, vua Tần-tì-sa-la ở trước Ta phát nguyện, nếu Ta thành đạo thì xin độ ông trước tiên. Nay đã đúng lúc, Ta nên đến đó để ông ta tròn bổn nguyện”. Suy nghĩ như thế rồi, Đức Thế Tôn liền cùng với ba anh em Ca-diếp và một trăm tì-kheo theo thứ lớp vào thành Vương Xá, đến chỗ vua Tần-tì-sa-la.
Trước đây, vua Tần-tì-sa-la đem tụ lạc cấp cho Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp. Nay người canh giữ tụ lạc thấy ngài Ca-diếp và chúng đệ tử đều làm sa-môn, liền trở về tâu rõ với vua sự việc như trên. Vua cùng các đại thần nghe xong, lòng rất kinh ngạc, im lặng. Nhân dân ngoài thành cũng nghe nói việc này, họ cùng bảo nhau:
- Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp trí tuệ sâu xa không ai sánh bằng, tuổi tác đã già, chứng quả A-la-hán, vì sao lại làm đệ tử của ông Cù-đàm, hoàn toàn không có lí này. Phải nên nói sa-môn Cù-đàm là đệ tử của ngài mới phải chứ.
Đức Thế Tôn đi gần đến thành Vương Xá, trú ở Trượng lâm. Khi ấy, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp liền sai người đến thưa với vua Tần-tì-sa-la:
- Nay tôi xuất gia học Phật đạo, hiện đang theo Phật đến Trượng lâm. Đại vương nên đến đó đỉnh lễ cúng dường trước.
Vua nghe nói thế, mới biết chắc Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp làm đệ tử của Phật. Ngài liền ra lệnh chuẩn bị xa giá để cùng các đại thần, bà-la-môn và nhân dân đến chỗ Đức Phật. Khi đến bên ngoài Trượng lâm, vua xuống xe, cởi bỏ nghi phục và bảo cận vệ lui ra, một mình đi bộ đến trước Phật.
Lúc ấy, trên hư không có vị trời nói với vua:
- Đức Như Lai hiện nay đang ở trong rừng này, Ngài là ruộng phước tối thượng cho hàng trời người. Đại vương nên cung kính cúng dường và khuyên bảo nhân dân cả nước nên cúng dường Đức Như Lai.
Nghe vị trời nói thế, vua rất vui mừng, liền tiến vào trong rừng. Từ xa, trông thấy Đức Như Lai tướng tốt trang nghiêm, lại thấy ba anh em Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp và chúng đệ tử của họ vây quanh Đức Như Lai. Ngài giống như mặt trăng sáng tròn ở giữa các vì sao. Vua bước đi vui mừng, không thể tự kềm chế. Đến nơi, vua cúi đầu đỉnh lễ dưới chân Phật, bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn! Con tên là Tần-tì-sa-la, vua của nước Ma-kiệt-đà, dòng tộc Nguyệt Chủng, Thế Tôn biết chăng?
Phật liền đáp:
- Hay thay đại vương!
Vua Tần-tì-sa-la lui ra ngồi một bên. [0650c] Khi ấy, bà-la-môn và các vị đại thần cùng toàn thể nhân dân đều đến an tọa.
Đức Thế Tôn thấy tất cả mọi người ngồi im lặng rồi, liền dùng âm thanh vi diệu thăm hỏi vua Tần-tì-sa-la:
- Đại vương bốn đại thường an ổn chăng? Cai trị nhân dân không lao nhọc chứ?
Vua đáp:
- Nhờ ân Thế Tôn nên trẫm vẫn được an ổn.
Bấy giờ, vua Tần-tì-sa-la và các vị học sĩ bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ, đại thần, nhân dân thấy ngài Ca-diếp làm đệ tử Phật, họ bàn tán với nhau:
- Ôi! Đức Như Lai có đại thần lực, trí tuệ sâu xa không thể nghĩ bàn, mới hàng phục được người như thế làm đệ tử.
Nhưng lại có những người khác suy nghĩ: “Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp có trí tuệ rộng lớn, được người thế gian tôn quí, kính tin, tại sao phải làm đệ tử sa-môn Cù-đàm?”. Trong lòng họ rất hoài nghi.
Đức Thế Tôn biết được ý nghĩ của họ, liền bảo Ca-diếp:
- Nay ông nên hiện các thần thông biến hóa.
Ca-diếp liền bay lên hư không, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước, hoặc hiện thân lớn khắp cả hư không, hoặc hiện thân nhỏ, hoặc phân một thân thành vô lượng thân, hoặc hiện xuống dưới đất rồi lại vọt lên ở giữa hư không đi, đứng, nằm, ngồi.
Mọi người thấy vậy, khen là điều chưa từng có và xướng lên:
- Đệ nhất đại tiên!
Ca-diếp hiện sức thần thông biến hóa như thế rồi, từ trên hư không xuống, đến trước Đức Phật, cúi đầu đỉnh lễ, bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn! Ngài chính là thầy của trời người. Con nay chính là đệ tử của Ngài.
Ca-diếp bạch ba lần như thế. Đức Phật liền đáp:
- Đúng thế! Đúng thế! Ca-diếp! Ông thấy pháp của Ta lợi ích như thế nào mà bỏ các dụng cụ thờ lửa để xuất gia?
Ca-diếp liền dùng kệ đáp:
Con ở đời quá khứ,
Nhờ công đức thờ lửa,
Được sinh lên cõi trờ,i
Hưởng thụ năm món dục.
Luân chuyển mãi như thế,
Chìm đắm biển sinh tử,
Nay con thấy lỗi này,
Nên bỏ đạo thờ lửa.
Hơn nữa phước thờ lửa,
Được sinh lên cõi trời,
Tăng trưởng tham, sân, si
Cho nên con xa lìa.
Lại nữa phước thờ lửa,
[0651a] Vì cầu sinh đời sau,
Nếu đã có sinh ra,
Ắt có già, bệnh, chết
Do con thấy việc này,
Nên bỏ pháp thờ lửa.
Thí hội, tu khổ hạnh,
Và nhờ phước thờ lửa,
Tuy được sinh Phạm thiên,
Đây chẳng phải cứu cánh,
Vì nhân duyên như thế,
Nên bỏ pháp thờ lửa.
Con thấy pháp Như Lai,
Lìa sinh già bệnh chết,
Được giải thoát rốt ráo,
Cho nên con xuất gia.
Như Lai chân giải thoát,
Làm thầy của trời người,
Do vì nhân duyên này,
Qui y Đại Thánh Tôn.
Như Lai đại từ bi,
Bày vô số phương tiện,
Vận dụng sức thần thông,
Để dẫn lối cho con,
Tại sao con lại phải,
Phụng sự pháp thờ lửa.
Vua Tần-tì-sa-la và mọi người nghe Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp nói kệ rồi, tâm vô cùng hoan hỉ, lòng kính tin càng sâu sắc, biết chắc Đức Như Lai đã thành tựu Nhất thiết chủng trí và xét biết Ca-diếp là đệ tử của Phật.
Lúc ấy, các vị trời ở trên hư không, rải hoa trời như mưa, trỗi các kĩ nhạc, cùng nhau xướng rằng:
- Hay thay! Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp nói bài kệ này.
Đức Thế Tôn biết lòng tin đại chúng vững chắc, không còn nghi nghờ. Ngài lại thấy căn cơ của họ đã thành thục, liền nói pháp:
- Đại vương nên biết! Thân năm ấm này, lấy thức làm gốc, do thức mà sinh ra ý căn, do ý căn sinh ra sắc. Do vậy, sắc pháp này sinh diệt không ngừng. Nếu đại vương có thể quán xét như thế thì rõ biết thân này là vô thường. Quán thân như thế thì không bám chấp vào tướng của thân, xa lìa được “ngã” và “ngã sở”. Nếu có thể quán sắc thì lìa ngã và ngã sở, liền biết được sắc sinh là khổ sinh, biết sắc diệt là khổ diệt. Người nào có thể quán như thế thì gọi là giải thoát, nếu không thể quán như thế thì gọi là trói buộc. Pháp vốn không có ngã và ngã sở. Do tưởng điên đảo, vọng chấp có ngã và ngã sở, không có thật pháp. Nếu có thể đoạn trừ tưởng điên đảo này thì được giải thoát.
[0651b] Vua Tần-tì-sa-la suy nghĩ: “Nếu bảo chúng sinh có “ngã” thì gọi là trói buộc, còn như tất cả chúng sinh đều vô ngã, mà đã là “vô ngã” thì ai thụ quả báo?”.
Đức Thế Tôn biết được ý nghĩ của vua, liền nói:
- Những việc làm thiện ác và sự thụ quả báo của tất cả chúng sinh đều chẳng phải “ngã” tạo, cũng chẳng phải “ngã” thụ, nhưng hiện tại có người tạo nghiệp thiện ác và thụ quả báo. Đại vương lắng nghe! Ngài chỉ cần hợp căn, trần, thức thì đối với cảnh liền sinh tâm đắm nhiễm, vọng tưởng càng nhiều, vì vậy nên bị trôi lăn mãi trong sinh tử, thụ quả báo khổ. Nếu người nào đối với trần cảnh mà không sinh tâm đắm nhiễm thì vọng tưởng chấm dứt, liền được giải thoát. Vì ba nhóm căn, trần, thức cùng khởi thiện ác và thụ quả báo, nên không có cái “ngã” riêng. Giống như dùi cây lấy lửa, do tay cầm dùi cọ xát liên tục lửa mới phát sinh, nhưng tính lửa kia không từ tay mà có, cũng không phải từ đồ dùi lửa phát sinh, nhưng cũng không lìa tay và đồ dùi lửa mà được. Căn, trần, thức kia cũng lại như thế.
Lúc ấy, vua Tần-tì-sa-la lại suy nghĩ: “Nếu hòa hợp căn, trần, thức mà có người tạo nghiệp thiện ác, chịu quả báo, tức là thường hòa hợp nên không đoạn dứt. Nếu chẳng thường hòa hợp thì đó là đoạn”.
Thế Tôn biết ý nghĩ của vua, liền dạy:
- Căn, trần, thức này không “thường” cũng không “đoạn”. Vì sao? Vì hợp nên không “đoạn”, vì lìa nên không “thường”. Giống như hạt giống làm nhân, nhờ vào đất, nước làm duyên mới sinh mầm lá. Lúc hạt giống biến mất thì không thể gọi là “thường”, vì sinh ra mầm lá nên không thể gọi là “đoạn”; lìa cả “đoạn” và “thường” nên gọi là “trung đạo”. Ba nhân duyên này cũng lại như thế.
Vua Tần-tì-sa-la nghe pháp rồi, tâm ý khai thông, ở trong Phật pháp xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn tịnh. Bà-la-môn, đại thần, nhân dân trong khoảng tám vạn na-do-tha cũng ở trong Phật pháp xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn tịnh; các vị trời trong khoảng 96 vạn na-do-tha cũng ở trong Phật pháp xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn tịnh.
Lúc ấy, vua Tần-tì-sa-la liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ sát chân Phật, chắp tay bạch:
- Thật vui thay! Đức Thế Tôn có thể bỏ ngôi vị Chuyển luân thánh vương, xuất gia học đạo, thành tựu Nhất thiết chủng trí. Ngày trước, con thật ngu si muốn giữ Thế Tôn lại cai trị một nước nhỏ. Nay con thấy tôn nhan của đấng Từ Phụ và nghe chính pháp, lòng vô cùng hổ thẹn, ăn năn tội lỗi xưa, cúi mong Đức Thế Tôn đại từ bi chấp nhận sự sám hối của con. [0651c] Ngày trước, con thưa đức Thế Tôn, nếu Ngài thành đạo xin độ con trước. Hôm nay, con mới thành tựu nguyện xưa, nhờ ân của Thế Tôn mà con thấy được đạo. Từ nay, con sẽ cúng dường Đức Thế Tôn và tì-kheo tăng bốn món cần thiết, không để thiếu thốn. Cúi xin Đức Thế Tôn ở lại tinh xá Trúc Lâm, khiến cho nước Ma-kiệt-đà được an ổn dài lâu.
Đức Phật đáp:
- Hay thay đại vương! Đại vương có thể bỏ ba pháp không kiên cố cầu ba pháp kiên cố[57]. Ta sẽ khiến cho đại vương hoàn thành sở nguyện.
Vua Tần-tì-sa-la biết Phật đã chấp nhận lời thỉnh cầu ở lại tinh xá Trúc Lâm, liền đỉnh lễ sát chân Phật rồi từ biệt trở về.
Về đến hoàng cung, vua liền ra lệnh cho các vị đại thần xây dựng phòng xá, giảng đường tại rừng trúc, trang hoàng mọi thứ thật tráng lệ, treo tràng phan bảo cái, rải hoa đốt hương. Công việc xong, vua liền chuẩn bị xa giá đi đến chỗ Phật, cúi đầu đỉnh lễ dưới chân Phật và bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn! Tinh xá Trúc Lâm con đã sửa sang xong, cúi xin Đức Thế Tôn và tì-kheo tăng thương xót chúng con mà đến ở nơi ấy.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng chúng tì-kheo và vô lượng chư thiên thứ lớp vào thành Vương Xá. Lúc Như Lai vừa bước vào cổng, các nhạc cụ trong thành không đánh mà tự phát ra âm thanh; cửa hẹp trở nên rộng lớn, cửa thấp lại thành cao, tất cả gò nỗng thảy đều bằng phẳng, những thứ nhơ bẩn tự nhiên trong sạch thơm ngát; người điếc được nghe, người câm có thể nói, người mù được sáng mắt, người cuồng trở lại bình thường, người mắc bệnh hiểm nghèo đều được lành hẳn; cây khô trổ hoa, cỏ úa lại tốt tươi, ao khô cạn bỗng nước dâng đầy, gió thơm trong mát. Tất cả các loài chim khác nhau như phượng hoàng, khổng tước, phỉ thúy, le le, nhạn, uyên ương màu sắc rực rỡ tụ họp bay lượn, phát ra âm thanh hòa nhã. Có rất nhiều điềm lành như thế…
Khi đã vào thành, Đức Thế Tôn cùng vua Tần-tì-sa-la đến tinh xá Trúc Lâm. Lúc ấy, các vị trời đứng khắp hư không. Vua cầm bình bảy báu đựng đầy nước thơm ở trước Phật, bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn! Nay con đem tinh xá Trúc Lâm dâng lên Đức Như Lai và tì-kheo tăng, cúi xin Đức Thế Tôn và tì-kheo tăng từ bi thương xót thụ nhận.
Nói như thế rồi, vua liền dâng nước cúng dường.
Đức Thế Tôn im lặng nhận lời và nói kệ chú nguyện:
Nếu người hay bố thí,
Đoạn trừ được xan tham.
Nếu người hay nhẫn nhục,
[0652a] Xa lìa tâm sân giận.
Nếu người hay làm thiện,
Chấm dứt sự ngu si.
Đầy đủ ba hạnh này,
Mau đạt đến niết-bàn.
Nếu có người nghèo cùng,
Không tài vật bố thí,
Thấy người khác bố thí,
Mà sinh lòng tùy hỉ.
Phước của người tùy hỉ,
Không khác gì người thí.
Bà-la-môn, đại thần và nhân dân thấy vua dâng cúng tinh xá Trúc Lâm cho Đức Phật, thảy đều vui mừng, sinh lòng tùy hỉ.
Sau khi vua Tần-tì-sa-la dâng cúng tinh xá xong, lòng rất vui mừng, cúi đầu lễ sát chân Phật rồi lui ra trở về trú xứ. Trong số các vua ở cõi Diêm-phù, vua Tần-tì-sa-la là người thấy Phật trước hết. Trong các tăng-già-lam, tinh xá Trúc Lâm là tinh xá đầu tiên.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng chúng tì-kheo ở tinh xá Trúc Lâm. Khi ấy, trong thành Vương Xá có hai bà-la-môn thông minh tài giỏi, có đại trí tuệ, đối với các sách luận đều thông suốt, tài biện luận không ai sánh bằng. Người thứ nhất họ Câu Túc, tên Ưu-ba-thất-sa, mẹ tên Xá-lợi, nên người đời gọi ông ta là Xá-lợi-phất; người thứ hai họ Mục-kiền-liên, tên Mục-kiền-la-dạ-na. Mỗi người có một trăm đệ tử, được nhiều người trong nước tôn sùng qui ngưỡng. Hai người kết làm bạn thân, rất thương yêu nhau, họ cùng phát thệ nguyện: “Nếu người nào nghe được pháp nhiệm mầu trước thì phải chia sẻ chỉ bày cho nhau, không được che giấu”.
Lúc bấy giờ, tì-kheo A-xả-bà-kì đắp y ôm bát vào thành khất thực. Ngài khéo thu nhiếp các căn, oai nghi an tường, người đi đường thấy đều sinh lòng cung kính. Lúc ấy, Xá-lợi-phất cũng đi trên đường, bỗng thấy A-xả-bà-kì khéo thu nhiếp các căn, oai nghi an tường. Xá-lợi-phất căn lành đã thuần thục, khi thấy A-xả-bà-kì, lòng vô cùng hoan hỉ vui mừng, dừng lại ngắm nhìn, mắt không tạm rời, liền hỏi:
- Theo tôi thấy, ông dường như mới xuất gia mà có thể nhiếp phục các căn như thế. Tôi có điều muốn thưa hỏi, xin ông chỉ bảo cho. Thầy của ông tên họ là gì? Dạy những điều gì? Nói những pháp nào?
A-xả-bà-kì an nhiên đáp:
- Thầy của tôi dòng tộc Cam-giá, thành tựu Nhất thiết chủng trí, là thầy của tất cả trời người, tướng hảo, [0652b] trí tuệ và sức thần thông không ai sánh bằng. Tôi còn trẻ tuổi, lại mới học đạo, đâu dám diễn thuyết pháp mầu nhiệm của Như Lai, nhưng tôi sẽ đem sự hiểu biết của mình trình bày cho ông.
Ngài liền nói kệ:
Cội gốc của các pháp,
Duyên sinh nên không chủ,
Nếu hiểu được như thế,
Liền thấy đạo chân thật.
Xá-lợi-phất nghe A-xả-bà-kì nói kệ rồi, liền ở trong Phật pháp xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn tịnh, thấy rõ thánh đạo, lòng vô cùng vui mừng, nghĩ: “Tất cả chúng sinh đều chấp vào cái ngã nên bị luân hồi trong sinh tử, nếu dứt trừ được ngã tưởng thì đối với ngã sở cũng được xa lìa. Giống như ánh sáng của mặt trời có thể phá tan màn đêm u tối. Không có ngã tưởng cũng như thế, nó phá trừ ngã kiến mê muội. Ta từ xưa đến nay tu học pháp tà kiến, hôm nay mới thấy được đạo chân thật”. Nghĩ như thế rồi, Xá-lợi-phất đỉnh lễ dưới chân A-xả-bà-kì, sau đó trở về trú xứ của mình. A-xả-bà-kì tiếp tục đi khất thực, khất thực xong, trở về tinh xá Trúc Lâm.
Xá-lợi-phất về đến trú xứ của mình. Bấy giờ, Mục-kiền-la-dạ-na căn lành đã thuần thục, thấy Xá-lợi-phất các căn vắng lặng, oai nghi an tường, dung mạo vui vẻ, khác hẳn ngày thường, liền đến hỏi:
- Tôi thấy dung mạo của huynh khác với mọi ngày, chắc đã gặp được pháp vi diệu cam lộ chăng? Ngày xưa, tôi và huynh cùng thệ nguyện nếu ai nghe được pháp vi diệu trước thì phải chỉ bày cho nhau. Nay huynh sở đắc điều gì xin nói cho tôi nghe.
Xá-lợi-phất liền đáp:
- Hôm nay đúng là tôi được pháp cam lộ.
Mục-kiền-la-dạ-na nghe nói thế, vui mừng khôn xiết, khen:
- Hay thay! Xin huynh hãy nói cho tôi nghe.
Xá-lợi-phất kể:
- Hôm nay tôi ra đi gặp vị tì-kheo, đắp y, ôm bát vào thôn khất thực, các căn vắng lặng, oai nghi an tường. Tôi vừa trông thấy sinh lòng cung kính, liền đến thưa: “Tôi nghĩ, dường như ông mới xuất gia mà có thể nhiếp phục các căn như thế. Tôi có điều muốn hỏi, xin ông chỉ bảo cho. Thầy ông tên họ là gì? Dạy những điều gì? Nói những pháp nào?”.
A-xả-bà-kì thong thả đáp: “Thầy của tôi dòng tộc Cam-giá, thành tựu Nhất thiết chủng trí, là thầy của tất cả trời người, tướng hảo, [0652c] trí tuệ và sức thần thông không ai sánh bằng. Tôi tuổi còn trẻ, lại mới học đạo, đâu thể diễn thuyết pháp vi diệu của Như Lai, nhưng tôi đem sự hiểu biết của mình trình bày cho ông, liền nói kệ:
Cội gốc của các pháp,
Duyên sinh nên không chủ,
Nếu hiểu được như thế,
Liền thấy đạo chân thật.
Mục-kiền-la-dạ-na nghe Xá-lợi-phất kể xong, liền ở trong Phật pháp, xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn tịnh.
Bấy giờ, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-la-dạ-na mỗi vị ở trong Phật pháp, được pháp cam lộ, họ cùng bảo nhau:
- Chúng ta đã ở trong Phật pháp đều được lợi ích, nay cùng nhau đến chỗ Đức Phật cầu xin xuất gia.
Nói như thế rồi, mỗi vị gọi đệ tử đến mà bảo:
- Chúng ta đã ở trong Phật pháp, được pháp vị cam lộ, chỉ có Pháp này là con đường xuất thế. Nay huynh đệ chúng ta muốn đến chỗ Phật cầu xin xuất gia, ý các ngươi thế nào?
Các đệ tử đồng thưa:
- Sự hiểu biết của chúng con hôm nay đều nhờ công sức của đại sư. Nếu đại sư xuất gia, chúng con nguyện đi theo.
Hai vị liền dẫn hai trăm đệ tử đến tinh xá Trúc Lâm. Khi vừa bước vào cửa, từ xa, họ trông thấy Đức Như Lai tướng hảo trang nghiêm, chúng tì-kheo trước sau vây quanh, lòng vô cùng hoan hỉ vui mừng.
Đức Thế Tôn thấy Xá-lợi-phất và Mục-kiền-la-dạ-na cùng đệ tử đến, liền nói với các tì-kheo:
- Các ông nên biết! Hai người này dẫn đệ tử đến chỗ ta muốn cầu xuất gia. Một vị tên Xá-lợi-phất, một vị tên Mục-kiền-la-dạ-na sẽ ở trong pháp của ta làm đệ tử lớn. Xá-lợi-phất là trí tuệ đệ nhất, Mục-kiền-la-dạ-na là thần thông đệ nhất.
Khi đến chỗ Phật rồi, hai huynh đệ cúi đầu lễ sát chân Phật và bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn! Con ở trong Phật pháp đã được thánh đạo, nay muốn xuất gia, cúi xin Đức Thế Tôn thu nhận.
Đức Thế Tôn liền gọi:
- Thiện lai tì-kheo!
Hai vị ấy râu tóc tự rụng, thân đắp ca-sa, liền thành sa-môn.
Khi ấy, hai trăm đệ tử thấy thầy mình thành sa-môn, bèn cùng nhau bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con cũng muốn theo thầy xuất gia, cúi xin Đức Thế Tôn từ bi thương xót hứa khả.
Đức Thế Tôn lại gọi:
- Thiện lai tì-kheo!
[0653a] Râu tóc các vị ấy tự rụng, thân đắp ca-sa, liền thành sa-môn.
Thế Tôn giảng pháp tứ đế cho Xá-lợi-phất và Mục-kiền-la-dạ-na nghe, hai người liền chứng quả A-la-hán. Ngài lại giảng rộng Tứ đế cho hai trăm đệ tử, họ liền ở trong Phật pháp xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn tịnh, cho đến chứng quả A-la-hán.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng một nghìn hai trăm tì-kheo đều là bậc đại a-la-hán, ở tại nước Ma-kiệt-đà làm lợi ích chúng sinh. Trong chúng tì-kheo có nhiều người tên Mục-kiền-la-dạ-na Thế-tôn, nên mọi người gọi Mục-kiền-la-dạ-na này là Đại Mục-kiền-la-dạ-na.
Lúc đó, nước Thâu-la-quyết-xoa có vị bà-la-môn tên là Ca-diếp. Người này có ba mươi hai tướng quí, thông minh trí tuệ, làu thông bốn bộ kinh Vệ-đà và tất cả sách luận, vô cùng giàu có, hay làm việc bố thí. Vợ của ông ta đoan chính không ai sánh bằng. Hai người vốn không có tư tưởng dục vọng, cho đến không ngủ chung phòng. Nhiều kiếp trước, Ca-diếp từng gieo trồng căn lành, nên không thích đời sống tại gia hưởng thụ năm dục, ngày đêm suy nghĩ nhàm chán thế gian, siêng năng cần cầu pháp xuất gia. Ông ta tìm cầu pháp mãi mà vẫn không được, liền bỏ việc nhà, vào chốn núi rừng, tâm nghĩ miệng nói: “Chư Phật Như Lai xuất gia tu đạo, ta nay cũng sẽ theo Phật xuất gia”. Ca-diếp liền cởi bỏ áo trân bảo dệt bằng chỉ vàng, giá trị hơn trăm nghìn lượng vàng, tự cạo râu tóc, mặc áo hoại sắc. Khi ấy, các vị trời ở trên hư không thấy Ca-diếp xuất gia liền nói: “Thiện nam tử! Con vua Bạch Tịnh dòng tộc Cam-giá, tên Tát-bà-tất-đạt xuất gia học đạo, thành tựu Nhất thiết chủng trí, người đời gọi là Phật Thích-ca Mâu-ni. Hiện nay, Ngài cùng một nghìn hai trăm vị a-la-hán ở tại tinh xá Trúc Lâm trong thành Vương Xá”.
Ca-diếp nghe các vị trời nói rồi, tâm rất hoan hỉ, lông tóc dựng đứng, liền đi về hướng tinh xá Trúc Lâm. Bấy giờ, Thế Tôn biết Ca-diếp đang đến, Ngài tư duy quán xét căn lành của ông ta để đến hóa độ. Quán xét xong, Ngài liền đi ngược về hướng Tử-đâu-bà để gặp Ca-diếp. Ca-diếp thấy Đức Thế Tôn tướng hảo, oai nghi đặc biệt, liền chắp tay thưa:
[0653b] - Thế Tôn thật là bậc Nhất thiết chủng trí, là bậc đại từ bi cứu giúp chúng sinh, là nơi nương tựa của tất cả trời người.
Nói rồi, Ca-diếp liền gieo năm vóc sát đất đỉnh lễ dưới chân Phật và bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn! Ngài là thầy của con, con là đệ tử.
Ca-diếp nói ba lần như thế.
Đức Phật đáp:
- Đúng thế Ca-diếp! Ta là thầy của ông, ông là đệ tử của Ta.
Phật lại nói tiếp:
- Ca-diếp nên biết! Nếu người nào không phải là bậc Nhất thiết chủng trí mà nhận ngươi làm đệ tử thì đầu vỡ thành bảy mảnh như pha lê.
Phật lại bảo:
- Vui thay Ca-diếp! Ông nên biết, thân năm ấm là nơi nhóm họp tất cả các khổ.
Ca-diếp nghe Phật dạy như thế, liền thấy lí đạo, cho đến chứng quả A-la-hán.
Bấy giờ, Thế Tôn cùng Ca-diếp trở về tinh xá Trúc Lâm. Do Ca-diếp có uy đức lớn, thông minh trí tuệ nên gọi là Đại Ca-diếp.
Đức Thế Tôn bảo chúng tì-kheo:
- Thời Đức Phật Phổ Quang Như Lai xuất hiện ở đời, tiên nhân Thiện Huệ đâu phải người nào lạ, đó chính là thân Ta; năm trăm ngoại đạo gặp trên đường, cùng họ bàn luận và tùy hỉ nay chính là anh em Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp và một trăm tì-kheo quyến thuộc. Người nữ bán hoa lúc đó, nay chính là Gia-du-đà-la. Khi tiên nhân Thiện Huệ dùng tóc trải trên đất, bên cạnh có hai người quét đất trước Phật và hai trăm người tùy hỉ giúp đỡ, nay ở trong hội này, chính là Xá-lợi-phất, Mục-kiền-la-dạ-na và hai trăm đệ tử tì-kheo. Các vị trời trên hư không thấy tiên nhân Thiện Huệ dùng tóc trải đất thảy đều tùy hỉ mà khen ngợi, nay chính là tám vạn thiên tử, vua Tần-tì-sa-la cùng với tám vạn na-do-tha quyến thuộc và chín mươi sáu vạn na-do-tha vị trời khác khi ta chuyển pháp luân ở vườn Nai.
Các ông nên biết! Nhân gieo trồng đời quá khứ, trải qua vô lượng kiếp hoàn toàn không mất. Ngày xưa, ta siêng năng tu tập tất cả thiện nghiệp và phát đại nguyện, vì tâm không thoái chuyển nên hôm nay thành tựu Nhất thiết chủng trí. Các ngươi phải nên siêng năng tu tập đạo hạnh, không được biếng nhác.
Các tì-kheo nghe Đức Phật nói như thế, sinh lòng hoan hỉ, cung kính đỉnh lễ Phật rồi lui ra. Chú thích:
[55] Tam hỏa 三火 ba loại lửa: gia chủ hỏa, cúng dường hỏa và tổ tiên tế hỏa. Ba vật cúng này được bày trí trong các lễ tế tự của Bà-la-môn giáo và Ấn Độ giáo ở Ấn Độ.
1. Gia chủ hỏa: loại lửa được đốt trong lò hình tròn, dùng để thiêu các vật cúng dường chư thần và bà-la-môn.
2. Cúng dường hỏa: lửa dùng để thiêu vật cúng dường các vị thần, được đốt trong lò hình vuông, đặt phía tây gia chủ hỏa.
3. Tổ tiên tế hỏa: lửa dùng để thiêu các vật cúng dường tổ tiên, được đốt trong lò hình bán nguyệt. Vì đặt ở phía nam gia chủ hỏa, nên còn gọi là nam hỏa.
[56] A-la-hán Hướng 阿羅漢向: giai vị sắp đạt đến quả A-la-hán; hướng thứ tư trong tứ hướng.
[57] Thay ba pháp không bền chắc bằng ba pháp bền chắc (tam chủng bất kiên dịch tam kiên pháp 三種不堅易三堅法):
1- Bất kiên tài đổi thành kiên tài: tất cả vật ở thế gian không có tính bền chắc, tụ tán vô thường không giữ được lâu. Nếu bố thí tài vật ấy cho người phạm hạnh thanh tịnh để cầu niết-bàn an lạc vô thường, hoặc cầu quả vui cõi trời, người ở đương lai thì đó là kiên tài. (tài sản kiên cố)
2- Bất kiên thân đổi thành kiên thân: thân cha mẹ sinh ra là do bốn đại giả hợp tạm bợ không thật, chẳng có tính bền chắc, sinh diệt vô thường không giữ được lâu; nếu giữ gìn năm giới thanh tịnh vô nhiễm tu tập đạo vô thượng bồ-đề, chứng thân kim cương bất hoại thì đó là kiên thân.
3- Bất kiên mạng trở thành kiên mạng: mạng sống của con người tuy có thọ, yểu khác nhau, nhưng đều là mộng huyễn, chẳng có tính bền chắc, bỗng chốc vô thường không giữ được lâu; nếu rõ biết được tứ-đế, tu tập chính pháp siêu việt sinh tử để thường trụ mãi mãi, tuệ không dứt mất đó là kiên mạng.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.218.2.191 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.