Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình.
Kinh Pháp cú
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
PHẨM THỨ BẢY- TỲ LÊ GIA BA LA MẬT
Bồ Tát tu hành tinh tiến như thế nào? Tinh tiến nếu là vì để tự lợi, lợi tha, cả hai cùng lợi. Tinh tiến như thế thì sẽ có thể trang nghiêm được đạo Bồ Đề.
Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sinh, khiến họ lìa xa được khổ não nên tu tinh tiến. Tu tinh tiến là bất cứ lúc nào cũng thường chăm chỉ tu tập phạm hạnh thanh tịnh, lìa bỏ tâm lười biếng kiêu mạn, không phóng dật. Đối với các việc khó khăn không ích lợi gì, tâm thường tinh cần trước sau không thối thất. Như thế gọi là sơ tâm tinh tiến của Bồ Tát. Nhờ tu tinh tiến nên có thể được các thiện pháp thượng diệu thuộc thế gian và xuất thế gian. Như thế gọi là tự lợi. Giáo hóa chúng sinh khiến họ chăm tu thiện, như thế gọi là lợi tha. Đem cái chính nhân Bồ Đề do chính mình tu ra giáo hóa các chúng sinh, khiến họ được lợi ích giống như chính mình, như thế gọi là cùng lợi. Nhờ tu tinh tiến mà đạt được diệu quả thanh tịnh hơn hết, siêu việt lên trên các địa đến mức mau thành chính giác. Như thế gọi là trang nghiêm đạo Bồ Đề.
Tinh tiến có hai loại: một là do vì cầu vô thượng đạo, hai là muốn cứu vớt hết chúng khổ mà khởi tinh tiến. Bồ Tát phải thành tựu mười niệm, mới có thể phát tâm cần hành tinh tiến. Thế nào là mười niệm?
1. một là niệm tưởng đến vô lượng công đức của Phật,
2. hai là niệm tưởng đến sự giải thóat bất tư nghì của pháp,
3. ba là niệm tưởng đến sự thanh tịnh vô nhiễm của tăng,
4. bốn là niệm tưởng đến việc thật hành đại từ để an lập chúng sinh,
5. năm là niệm tưởng đến việc thật hành đại bi để cứu vớt chúng khổ,
6. sáu là niệm tưởng đến tụ chính định, khuyến (khích chúng sinh) ưa thích tu thiện,
7. bảy là niệm tưởng đến tụ tà định, kéo (chúng sinh) ra khiến trở về với gốc (thiện),
8. tám là niệm tưởng đến các ngạ quỷ đói khát nóng cháy (nhiệt não)
9. chín là niệm tưởng đến các súc sinh chịu hòai các khổ,
10. mười là niệm tưởng đến các địa ngục chịu đủ các điều thiêu nấu.
Bồ Tát tư duy mười niệm như thế (nghĩ rằng): Công đức của Tam Bảo ta phải tu tập (đối với) từ bi và chính định ta phải khuyến khích (chúng sinh) nỗ lực, (đối với) chúng sinh tà định và khổ của ba ác đạo ta phải cứu vớt. Tư duy và chỉ niệm tưởng như thế không tán loạn, ngày đêm cần tu không hề ngưng bỏ, như thế gọi là khởi được chính niệm tinh tiến.
Bồ Tát tinh tiến lại còn có bốn sự việc, chính là tu hành đạo bốn chính cần:
1. các ác pháp chưa sinh, ngăn chận không cho khởi,
2. các ác pháp đã sinh, phải lập tức làm cho chúng được đoạn trừ,
3. các thiện pháp chưa sinh, tìm phương tiện làm cho chúng sinh.
4. các thiện pháp đã sinh, thì phải tu (thêm cho) viên mãn, (làm cho) tăng trưởng rộng rãi.
Bồ Tát tu đạo bốn chính cần như thế mà không hề ngưng nghỉ, thì gọi là tinh tiến. Sự chăm tinh tiến này có thể phá tan tất cả các phiền não giới, làm tăng trưởng chính niệm vô thượng Bồ Đề.
- Bồ Tát nếu có thể chịu tất cả các khổ lớn đối với thân tâm, là vì muốn an lập các chúng sinh mà không biết mỏi mệt, như thế gọi là tinh tiến.
- Bồ Tát sau khi lìa xa pháp ác, quanh co không thật (siểm khúc), tà tinh tiến, bèn tu chính tinh tiến, nghĩa là tu tín, thí, giới, định, huệ, từ bi hỉ xả. (Đó là) những gì muốn làm đã làm và sẽ làm (nữa), chí tâm thường hành tinh tiến không hối hận; đối với các
thiện pháp và việc cứu vớt chúng khổ, coi như cứu lửa đốt trên đầu, tâm không hề thối thất, như thế gọi là tinh tiến. Bồ Tát tuy là không tiếc gì thân mạng, song vì để cứu vớt chúng khổ, bảo hộ chính pháp, nên phải yêu tiếc (thân ấy), mà không bỏ oai nghi, thường tu thiện pháp. Khi tu thiện pháp tâm không lười biếng (giải đãi), (cho dù) có mất mạng cũng không bỏ như pháp. Như thế gọi là Bồ Tát (do) tu đạo Bồ Đề (nên) cần hành tinh tiến. Con người giải đãi không thể một lúc bố thí hết tất cả, không thể trì giới, nhẫn (nại) đối với chúng khổ. Cần hành tinh tiến, nhiếp tâm (vào) niệm và định, phân biệt thiện ác. Cho nên mới nói rằng sáu Ba La Mật do sự tinh tiến mà được tăng trưởng. Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát tinh tiến tăng trưởng, thì sẽ có thể mau đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Bồ Tát phát đại trang nghiêm mà khởi tinh tiến lại gồm có bốn điều:
1. một là phát đại trang nghiêm,
2. hai là tích tập dũng kiện,
3. ba là tu các thiện căn,
4. bốn là giáo hóa chúng sinh.
Thế nào là Bồ Tát phát đại trang nghiêm? Đối với việc sinh tử tâm có thể kham nhẫn, không kể kiếp số. Đối với việc (phải trải qua) vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na do tha hằng hà sa a tăng kỳ kiếp mới thành Phật đạo, tâm không (cảm thấy) mỏi mệt, như thế gọi là trang nghiêm tinh tiến không lười biếng.
Bồ Tát (do) tích tập dũng kiện mà khởi tinh tiến (là) nếu như lửa cháy khắp cùng tam thiên đại thiên thế giới, mà vì để gặp Phật, vì để nghe pháp, vì để đặt để (an chỉ) chúng sinh vào thiện pháp, cần phải đi qua đám lửa ấy (Bồ Tát sẽ đi qua), vì để điều phục chúng sinh nên tâm khéo đặt để vào trong đại bi, như thế gọi là dũng kiện tinh tiến.
Bồ Tát (do) tu tập thiện căn mà khởi tinh tiến (là): như tất cả các thiện căn được phát khởi, trọn đều đem chúng hồi hướng về A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, do bởi muốn thành tựu nhất thiết trí, như thế gọi là tu tập thiện căn tinh tiến.
Bồ Tát (do) giáo hóa chúng sinh mà khởi tinh tiến (là): tính của chúng sinh không thể kể ra hết, vô lượng vô biên bằng với hư không giới, (song) Bồ Tát lập thệ, ta sẽ độ hết không còn sót ai. Vì muốn hóa độ như thế nên cần hành tinh tiến, như thế gọi là giáo hóa tinh tiến.
Tóm yếu mà nói, Bồ Tát tu công đức trợ đạo để trợ giúp cho vô thượng trí huệ. Tu tập Phật pháp mà khởi tinh tiến. Công đức của chư Phật vô lượng vô biên, sự tinh tiến do Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại trang nghiêm mà thật hành cũng y như thế, vô lượng vô biên. Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành tinh tiến không có tâm lìa dục vì để cứu chúng khổ. Như thế sẽ gồm đủ hết Tỳ Lê Gia Ba La Mật. PHẨM THỨ TÁM - THIỀN NA BA LA MẬT
Bồ Tát tu tập thiền định như thế nào? Thiền định nếu là vì để tự lợi, lợi tha, cả hai cùng lợi, thiền định như thế thì sẽ có thể trang nghiêm được đạo Bồ Đề.
Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sinh, khiến họ lìa xa được khổ não nên tu thiền định. Tu thiền định là khéo nhiếp tâm mình, không để cho bất cứ loạn tưởng nào vọng tác. Đi, đứng, nằm, ngồi trói niệm vào trước mặt. Quán sát (theo hai chiều) nghịch thuận, nào là đầu lâu, đỉnh (đầu), xương sống, cánh tay, khủyu tay, ngực, sườn, xương hông, xương đùi, ống quyển, mắt cá chân, an ban đếm hơi thở, như thế gọi là sơ tâm tu định của Bồ Tát.
Do tu thiền định nên không thọ các ác pháp, tâm thường khoan khóai như thế, gọi là tự lợi. Giáo hóa chúng sinh khiến họ tu chính niệm, như thế gọi là lợi tha. Đem tam muội thanh tịnh lìa ác, với giác quán, do chính mình tu ra giáo hóa các chúng sinh, khiến họ được lợi ích như chính mình, như thế gọi là cùng lợi. Do tu thiền định nên đạt được tám giải thóat, cho đến Thủ Lăng Nghiêm, Kim Cương tam muội, như thế gọi là trang nghiêm đạo Bồ Đề. Thiền định do ba pháp mà sinh. Thế nào là ba?
1. một là huệ do văn,
2. hai là huệ do tư,
3. ba là huệ do tu.
Từ ba pháp ấy từ từ mà sinh tất cả các tam muội.
Thế nào là văn huệ ? Đúng như các pháp được nghe, tâm thường ưa thích. Lại nghĩ như sau: các pháp vô ngại giải thóat v.v…của chư Phật, phải do đa văn mà đắc thành tựu. Nghĩ như thế rồi, đối với mọi lúc cầu pháp càng thêm tinh cần, ngày đêm thường thích nghe pháp không thấy chán hay đủ, như thế gọi là văn huệ.
Thế nào là tư huệ ? Tư niệm quán sát tướng như thật của tất cả các pháp hữu vi, chính là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, niệm niệm sinh diệt, không lâu là diệt hoại. Song các chúng sinh bị ưu, bi, khổ não, thương ghét trói buộc, chỉ vì lửa tham, khuể, si thiêu đốt, làm tăng trưởng khối khổ não lớn ở đời sau. (Song, thật ra chúng) không có thật tính, y như huyễn hóa. Thấy như thế rồi, nên đối với tất cả pháp hữu vi liền sinh chán lìa, ra sức tinh cần hướng về trí huệ Phật. Tư duy về trí huệ Như Lai không thể suy lường, không thể nói hết, có thế lực lớn không ai có thể hơn được, có thể đến được thành lớn an ổn, vô uý không bị hồi lại, có thể cứu được vô lượng chúng sinh khổ não, chí nguyện tiến cầu Đại Thừa vô thượng, như thế gọi là tư huệ.
Thế nào là tu huệ ? Từ sơ quán về cốt (xương), cho đến A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đều gọi là tu huệ: lìa các pháp không thiện thuộc dục giới, có giác có quán là sinh hỉ lạc, nhập vào sơ thiền. Diệt giác và quán, bên trong thanh tịnh, tâm một chỗ, không giác không quán định sinh hỉ lạc, nhập vào nhị thiền. Lìa hỉ nên (thật) hành xả, tâm niệm (khinh) an (thuộc) huệ, thân cảm thọ lạc. Các hiền thánh thường thuyết thường xả, thường niệm thọ lạc nhập vào tam thiền. Do đoạn khổ đoạn lạc, do trước hết diệt ưu hỉ, nên không khổ không lạc hành xả, niệm, tịnh, nhập vào tứ thiền. Do vượt qua tất cả sắc tướng, diệt tất cả các tướng hữu đối, không niệm tất cả các tướng biệt dị, nên biết được hư không vô biên, thời sẽ nhập vào hư không vô sắc định xứ. Vượt qua tất cả hư không tướng, biết được thức là vô biên, thời sẽ nhập vào vô sắc thức định
xứ. Vượt qua tất cả thức tướng, biết được không có gì hết (vô sở hữu), thời sẽ nhập vào vô sở hữu, vô sắc định xứ. Vượt qua tất cả vô sở hữu xứ, biết được phi hữu tưởng phi vô tưởng an ổn, thời sẽ nhập vào vô sắc phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. (Tuy thế song) chỉ vì tùy thuận các pháp mà hành, song không thích đắm, cầu vô thượng thừa thành tối chính giác. Như thế gọi là tu huệ. Bồ Tát do văn tư tu huệ này, tinh cần nhiếp tâm, sẽ có thể thành tựu thông minh tam muội Thiền Na Ba La Mật.
Lại nữa, Bồ Tát tu định lại có mười pháp hành không cùng (hành) chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật. Mười những gì đây?
1. Một là tu định không có tôi ngã, do bởi có đủ các thiền định của Như Lai.
2. Hai tu định không đắm vị, không đắm trước, lìa bỏ nhiễm tâm không cần an lạc cho riêng mình.
3. Ba là tu định gồm đủ các nghiệp (thần) thông, do vì biết các tâm hành của chúng sinh.
4. Bốn là tu định để biết các tâm do bởi độ thóat tất cả chúng sinh.
5. Năm là tu định thật hành đại bi, do vì đoạn phiền não kết của các chúng sinh,
6. Sáu là tu định các thiền tam muội, so bởi khéo biết sự nhập xuất vượt quá ba cõi,
7. Bảy là tu định thường được tự tại, do vì có đủ tất cả các thiện pháp,
8. Tám là tu định tâm mình tịch diệt, do vì vượt hơn các thiền tam muội của nhị thừa,
9. Chín là tu định thường nhập trí huệ, do vì vượt quá các pháp thế gian đến bờ kia,
10. Mười là tu định có thể hưng khởi chính pháp, do vì tục hưng Tam Bảo khiến không đoạn tuyệt.
Định như thế không cùng có chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Lại nữa, do vì (để) biết tất cả tâm phiền não của chúng sinh, cho nên tu tập các pháp thiền định trợ thành trụ tâm, khiến cho (các) thiền định này trụ tâm bình đẳng, như thế gọi là định. Định (bình)
đẳng như thế sẽ (bình) đẳng với KHÔNG, vô tướng, vô nguyện, vô tác. (Nếu) KHÔNG, vô tướng, vô nguyện, vô tác (bình) đẳng, thời chúng sinh (bình) đẳng. (Nếu) chúng sinh (bình) đẳng, thời chư pháp (bình) đẳng. Nhập vào (bình) đẳng như thế gọi là định.
Lại nữa, Bồ Tát tuy tùy theo thế (gian) mà hành, không lìa ngoài thế (gian), song (Bồ Tát) luôn luôn xả tám pháp thế gian, diệt tất cả các kết, lìa xa thói ồn náo, thích sống một mình. Bồ Tát tu hành thiền định như thế, tâm an chỉ trụ, lìa các sự việc thế gian.
Lại nữa, Bồ Tát tu định, do (để) có đủ thông, trí, phương tiện, huệ. Thế nào là thông? Thế nào là trí? Hoặc thấy sắc tướng, hoặc nghe âm thanh, hoặc biết tâm người, hoặc nhớ (được) quá khứ, hoặc có thể đến khắp được các thế giới của chư Phật. Như thế gọi là thông. Nếu biết sắc tức pháp tính, hiểu rõ âm thanh, tâm hành, tính tướng tịch diệt ba đời đều bình đẳng; biết chư Phật giới bằng với hư không tướng song không chứng diệt tận. Như thế gọi là trí. Thế nào là phương tiện? Thế nào là huệ? Khi nhập vào thiền định thời sinh đại từ bi không bỏ thệ nguyện, tâm (thệ nguyện) như kim cương, quán xét thế giới của chư Phật để (theo đó) trang nghiêm đạo trường Bồ Đề. Như thế gọi là phương tiện. Tâm mình vĩnh viễn tịch (diệt), không có ngã, không có chúng sinh, tư duy bổn tính của chư pháp không loạn, thấy chư Phật giới đồng với hư không, quán những gì được trang nghiêm đồng với tịch diệt. Như thế gọi là huệ.
Như thế gọi là Bồ Tát tu hành thiền định, do (để có đủ) thông, trí, phương tiện, huệ. Bốn sự sai biệt này đều (hiện) hành, (nên) được gần với A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Bồ Tát Ma Ha Tát tu thiền định không còn chút ác tâm, do (như thiền định là) pháp bất động. Như thế thời sẽ gồm đủ Thiền Na Ba La Mật. PHẨM THỨ CHÍN - BÁT NHÃ BA LA MẬT
Bồ Tát tu hành trí huệ như thế nào? Trí huệ nếu vì để tự lợi, lợi tha, cả hai cùng lợi, trí huệ như thế sẽ có thể trang nghiêm được đạo Bồ Đề.
Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sinh, khiến họ lìa xa khổ não nên tu trí huệ. Tu trí huệ là phải học trọn tất cả các sự việc ở thế gian, xả tham sân si, kiến lập tâm từ, lân mẫn hữu ích cho tất cả chúng sinh, thường nghĩ tưởng (niệm) cứu vớt, vì họ làm người dẫn đạo, có thể phân biệt nói rõ về chính đạo, tà đạo, cùng thiện báo, ác báo. Như thế gọi là sơ tâm trí huệ của Bồ Tát.
Do tu trí huệ nên lìa xa vô minh, trừ (diệt) phiền não chướng và trí huệ chướng, như thế gọi là tự lợi. Giáo hóa chúng sinh khiến họ được điều phục, như thế gọi là lợi tha. Đem vô thượng Bồ Đề do chính mình tu ra giáo hóa các chúng sinh khiến họ được ích lợi y như chính mình, như thế gọi là cùng lợi. Do tu trí huệ mà đạt được sơ địa cho đến Tát Bà Nhã Trí, như thế gọi là trang nghiêm đạo Bồ Đề.
Bồ Tát tu hành trí huệ có hai mươi tâm có thể từ từ mà kiến lập. Những gì là hai mươi?
1. Tâm sẽ phát thiện, muốn gần gũi bạn tốt (thiện hữu);
2. Tâm không phóng dật, lìa bỏ kiêu mạn,
3. Tâm tùy thuận lời răn dạy, ưa thích nghe pháp,
4. Tâm nghe pháp không chán và khéo tư duy (về pháp),
5. Tâm thật hành bốn phạm hạnh và tu chính trí,
6. Tâm quán hạnh bất tịnh sinh chán lìa (yếm ly),
7. Mười sáu thánh tâm, quán bốn chân đế,
8. Tâm quán mười hai nhân duyên tu minh huệ,
9. Tâm nghe các ba la mật, nhớ tưởng và muốn tu tập,
10. Tâm quán vô thường, khổ, vô ngã, tịch diệt.
11. Tâm quán KHÔNG, vô tướng, vô nguyện, vô tác,
12. Tâm quán ấm, giới, nhập có nhiều lỗi hại,
13. Tâm hàng phục phiền não, (coi đó) không phải là bạn lữ,
14. Tâm bảo hộ các thiện pháp, tự làm bạn lữ (với thiện pháp)
15. Tâm chế ngự các ác pháp, khiến chúng đoạn trừ,
16. Tâm tu tập chính pháp, khiến cho tăng trưởng rộng lớn,
17. Tâm tuy tu nhị thừa mà thường lìa bỏ,
18. Tâm nghe tạng Bồ Tát ưa thích phụng hành,
19. Tâm tự lợi, lợi tha, tùy thuận tăng tiến các thiện nghiệp,
20. Tâm trì hạnh chân thật cầu tất cả các Phật pháp.
Lại nữa Bồ Tát tu hành trí huệ lại có mười pháp tâm thiện tư duy, không cùng có chung với Thanh Văn và Bích Chi Phật. Những gì là mười?
1. Tư duy phân biệt định huệ căn bổn,
2. Tư duy không bỏ hai biến đoạn và thường,
3. Tư duy nhân duyên sinh khởi chư pháp,
4. Tư duy không có chúng sinh, ngã, nhân, thọ mệnh,
5. Tư duy không có các pháp theo ba thời khứ, lai, trụ,
6. Tư duy không hề có pháp hành song không đoạn nhân quả,
7. Tư duy pháp KHÔNG song gieo trồng thiện pháp, không biết mệt mỏi.
8. Tư duy vô tướng song (việc) độ chúng sinh không bỏ phế,
9. Tư duy vô nguyện song không hề lìa bỏ (tâm) cầu Bồ Đề,
10. Tư duy vô tác song (thị) hiện thọ (nhậc các) thân không bỏ.
Lại nữa, Bồ Tát có mười hai pháp môn khéo nhập. Những gì là mười hai?
1. khéo nhập các tam muội KHÔNG này nọ, song không hề giữ lấy để chứng.
2. khéo nhập các thiền tam muội, song không tùy theo thiền na mà sinh (vào đó),
3. khéo nhập các thông, trí, song không chứng (lấy) pháp vô lậu,
4. khéo nhập pháp nội quán, song không chứng quyết định,
5. khéo nhập quán tất cả chúng sinh đều không tịch, song không xả bỏ đại từ,
6. khéo nhập quán tất cả chúng sinh đều vô ngã, song không xả bỏ đại bi,
7. khéo nhập sinh các ác thú, song chẳng phải do vì nghiệp nên sinh,
8. khéo nhập lìa dục, song không chứng pháp lìa dục,
9. khéo nhập xả bỏ các thứ dục lạc, song không xả bỏ pháp lạc,
10. khéo nhập xả bỏ tất cả các giác hí luận, song không xả bỏ các quán phương tiện,
11. khéo nhập tư lương hữu vi pháp nhiều lỗi hại, song không xả bỏ hữu vi,
12. khéo nhập pháp vô vi thanh tịnh lìa xa, song không trụ vô vi.
Bồ Tát có thể tu được tất cả các pháp môn khéo nhập (này), tức sẽ có thể khéo hiểu ba thời KHÔNG không có gì hết (vô sở hữu). Nếu quán như thế, do lực trí huệ quán ba đời KHÔNG, nếu đối với vô lượng công đức mà chư Phật trong ba đời gieo trồng, trọn đều đem hồi hướng về vô thượng Bồ Đề, như thế gọi là Bồ Tát khéo quán phương tiện ba đời.
Lại nữa, tuy thấy các pháp (diệt) tận ở quá khứ không (đi) đến vị lai, song thường tu thiện tinh tiến không giải đãi. Quán pháp vị lai tuy không sinh ra, (song) không xả bỏ tinh tiến, nguyện hướng Bồ Đề. Quán pháp hiện tại tuy niệm niệm diệt, (song) tâm mình không quên phát tiến đến Bồ Đề. Như thế gọi là Bồ Tát quán phương tiện ba đời: quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại không trụ. Tuy quán tâm, tâm số pháp sinh diệt tán hoại như thế, song thường không xả bỏ việc tu tập thiện căn trợ cho pháp Bồ Đề. Như thế gọi là Bồ Tát quán phương tiện ba đời.
Lại nữa, Bồ Tát quán tất cả thiện bất thiện, ngã vô ngã, thật bất thật, KHÔNG bất KHÔNG, thế đế chân đế, chính định tà định, hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu, hắc pháp bạch pháp, sinh tử Niết Bàn, như tính của pháp giới (chỉ) một tướng (thôi là) vô tướng. Trong (vô tướng) ấy không có pháp nào để có thể gọi là vô tướng, cũng không có pháp nào để lấy đó cho là vô tướng. Như thế ắt gọi là nhất thiết pháp ấn, bất khả hoại ấn. Ở trong ấn đó cũng không có tướng của ấn. Như thế gọi là chân thật trí huệ phương tiện Bát Nhã Ba La Mật.
Bồ Tát Ma Ha Tát phát tâm Bồ Đề phải học như thế, phải hành như thế. Hành như thế là sẽ gần với A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Bồ Tát Ma Ha Tát hành trí huệ (mà) tâm không có hành gì hết, do bởi pháp tính thanh tịnh, như thế ắt là đầy đủ hết Bát Nhã Ba La Mật. PHẨM THỨ MƯỜI - NHƯ THẬT PHÁP MÔN
Thiện nam tử, thiện nữ nhân, người tu tập sáu Ba La Mật cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề phải lìa xa bảy pháp. Những gì là bảy?
- Một là lìa xa ác tri thức. Ác tri thức là những ai dạy người ta xả lìa niềm tin cao thượng, ý muốn cao thượng, tinh tiến cao thượng (mà chỉ) tu tập các tạp hành.
- Hai là lìa khỏi nữ sắc, các ham mê ưa thích dục, giỡn cợt thói người đời, làm việc cho họ.
- Ba là lìa khỏi ác giác, (có nghĩa là) tự quán hình dung (của mình) rồi tham tiếc yêu mến coi nặng, nhiễm đắm giữ gìn cho là có thể giữ được lâu dài.
- Bốn là lìa khỏi sân, giận, dữ, mạn, ganh ghét, đố kỵ, phát khởi tranh tụng, hoại loạn tâm thiện.
- Năm là lìa khỏi phóng dật, kiêu mạn, giải đãi, tự thị các thiện nhỏ (của mình mà) khinh miệt người khác.
- Sáu là lìa bỏ các sách luận ngoại đạo cùng các ngôn từ chải chuốt của văn vẻ thế tục, không phải điều Phật nói, không hề ca ngợi mà tụng đọc.
- Bảy là không được gần gũi tà kiến, ác kiến.
Bảy pháp như thế cần phải lìa xa. Như Lai nói rằng: không còn thấy có pháp nào sâu chướng đạo Phật cho bằng bảy pháp này. Cho nên Bồ Tát cần phải lìa xa.
Nếu muốn mau được vô thượng Bồ Đề, phải tu bảy pháp. Những gì là bảy?
- Một là Bồ Tát cần phải gần gũi thiện tri thức. Thiện tri thức chính là chư Phật cùng chư Bồ Tát. Nếu là bậc Thanh Văn mà có thể làm
cho Bồ Tát trụ vào tạng pháp thâm sâu (tức) các Ba La Mật, thì (vị đó) cũng là thiện tri thức của Bồ Tát vậy.
- Hai là Bồ Tát cần phải gần gũi người xuất gia, cũng phải gần gũi các pháp a lan nhã, lìa khỏi nữ sắc cùng các ưa muốn, không cùng với người đời mà làm việc chung.
- Ba là Bồ Tát cần phải tự quán thân hình (của mình chỉ) như đất phân, chỉ đầy đặc xú uế, (rồi nào phải chịu) gió, lạnh, nóng, không đáng gì tham đắm, có ngày sẽ chết, cần phải nghĩ kỹ mà chán bỏ (để) tinh cần tu đạo.
- Bốn là Bồ Tát cần phải thường hành hòa nhẫn, cung kính, nhu thuận, cũng khuyến hóa người khác khiến họ trụ vào nhẫn.
- Năm là Bồ Tát cần phải tu tập tinh tiến, thường sinh tàm quý, kính phụng sư trưởng, lân mẫn kẻ bần cùng ở dưới, thấy người bị tai khổ đem thân mình ra chịu thế cho.
- Sáu là Bồ Tát cần phải tu tập phương đẳng Đại Thừa các tạng Bồ Tát, những pháp mà Phật ca ngợi phải thọ trì đọc tụng.
- Bảy là Bồ Tát cần phải gần gũi, tu tập đệ nhất nghĩa đế, chính là thật tướng (mà vốn là) nhất tướng, (đó là) vô tướng.
Nếu các Bồ Tát muốn mau được vô thượng Bồ Đề, thì phải gần gũi với bảy pháp như trên. Lại nữa, nếu người nào phát Bồ Đề Tâm, (mà) do vì có đắc được nên (cho dù) trong vô lượng a tăng kỳ kiếp tu tập từ bi hỉ xả, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ, phải biết người ấy không ra khỏi sinh tử được, (cũng) không hướng đến Bồ Đề được. Tại sao vậy? Tâm có đắc được và cái kiến đắc được (như) ấm giới nhập kiến, ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ mệnh kiến, từ bi hỉ xả thí giới nhẫn tiến định trí các kiến. Tóm yếu mà nói: Phật pháp tăng kiến và Niết Bàn kiến. Các kiến có đắc được như thế tức là (các) tâm chấp trước. Mà chấp trước thì được gọi là tà kiến. Vì sao lại là vậy? Những kẻ tà kiến luân chuyển trong ba cõi vĩnh viễn lìa xa xuất yếu, kẻ chấp
trước ở đây cũng y như vậy, vĩnh viễn lìa xa xuất yếu, rồi ra không thể nào đắc được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Nếu ai phát Bồ Đề tâm, cần phải quán sát tướng KHÔNG của tâm này. Những gì là tâm? Thế nào là KHÔNG tướng? Tâm (còn) gọi là ý thức, chính là thức ấm, ý nhập, ý giới. KHÔNG tướng của tâm là tâm không có tướng của tâm, cũng không có tác giả. Tại sao vậy? Tướng của tâm này là KHÔNG (nên) không có tác giả, không có người sai làm. Nếu không có tác giả thì sẽ không có tác tướng. Nếu Bồ Tát hiểu rõ các pháp ấy, thì sẽ không chấp trước đối với tất cả pháp. Do không chấp trước đối với các thiện ác (pháp) hiểu rõ là không có quả báo, đối với từ (tâm) mình tu tập hiểu rõ là không có ngã, đối với bi (tâm) mình tu tập hiểu rõ là không có chúng sinh, đối với hỉ (tâm) mình tu tập hiểu rõ là không có mệnh, đối với xả (tâm) mình tu tập hiểu rõ là không có người. Tuy hành bố thí mà không thấy có vật để thí, tuy hành trì giới mà không thấy có tịnh tâm, tuy hành nhẫn nhục mà không thấy có chúng sinh, tuy hành tinh tiến mà không có tâm lìa dục, tuy hành thiền định mà không có tâm trừ ác, tuy hành trí huệ mà tâm không hành gì hết, đối với tất cả các duyên đều là trí huệ, song không bám vào trí huệ, không đắc được trí huệ, không thấy có trí huệ. Hành giả tu hành trí huệ như thế, song không tu gì hết, mà cũng không phải là không tu. Vì giáo hóa chúng sinh nên (thị) hiện (thật) hành lục độ, mà bên trong (vẫn hoàn toàn) thanh tịnh.
Hành giả khéo tu tâm mình như thế (chỉ) trong một niệm thôi thời các thiện căn được gieo trồng cùng quả báo phúc đức sẽ vô lượng vô biên, trăm ngàn vạn ức a tăng kỳ kiếp cũng không cùng tận được, tự nhiên được gần gũi với A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. PHẨM THỨ MƯỜI MỘT - KHÔNG VÔ TƯỚNG
Thuở xưa có một thời Phật tại vườn trúc Ca Lan Đà cùng chư đại chúng vô lượng tập hội. Lúc ấy Thế Tôn tuyên bày chính pháp, nói cùng đại chúng “các pháp Như Lai tuyên thuyết (vốn là) không có tính, KHÔNG, không có gì hết (vô sở hữu). Rất khó tin khó hiểu đối với tất cả thế gian. Tại sao vậy? Sắc không trói buộc không cởi
mở, thọ tưởng hành thức không trói buộc không cởi mở. Sắc không có tướng, lìa (hết) các tướng, thọ tưởng hành thức không có niệm, lìa (hết) các niệm. Nhãn và sắc, nhĩ và thanh, tị và hương, thiệt và vị, thân và xúc, ý và pháp cũng y như vậy, không thủ không xả, không cấu không tịnh, không đi không lại, không hướng đến không lìa bỏ, không tối không sáng, không si không huệ, chẳng phải bờ này chẳng phải bờ kia, chẳng phải giữa dòng. Như thế gọi là không có trói buộc. Không có trói buộc nên là KHÔNG. KHÔNG (được) gọi là vô tướng, vô tướng này cũng là KHÔNG, như thế gọi là KHÔNG. KHÔNG (được) gọi là vô niệm, vô niệm (này) cũng là KHÔNG, như thế gọi là KHÔNG. KHÔNG niệm (này) cũng là KHÔNG, như thế gọi là KHÔNG. Trong KHÔNG không có thiện không có ác, cho đến cũng không có tướng KHÔNG, cho nên gọi là KHÔNG”.
Bồ Tát nếu biết được tính của ấm giới nhập (là) như thế, thì sẽ không giữ bám (thủ trước), như thế gọi là pháp nhẫn. Bồ Tát do nhẫn như thế nên đắc thọ ký nhẫn.
Chư Phật tử, ví như Bồ Tát ngước viết lên hư không, viết đủ 12 bộ kinh của Như Lai, trải qua vô lượng kiếp Phật pháp diệt rồi, những người cầu pháp không thấy không nghe được gì, (lúc ấy) chúng sinh điên đảo tạo vô biên ác. Lại có các người với trí huệ thanh tịnh ở các phương khác, thương xót các chúng sinh (muốn) cầu rộng về Phật pháp, nên đi đến phương này, thấy chữ trong hư không, nét viết rõ ràng nên (thấy là) hiểu được ngay. (Rồi) đọc tụng thọ trì, đúng như kinh nói mà thật hành, diễn nói phân biệt rộng rãi để lợi ích cho chúng sinh. (Vậy) người viết chữ trong hư không và người biết (đọc) chữ trong hư không này có dễ suy lường được chăng? (Như thế) song (còn) có thể tuyên truyền tu tập thọ trì, để dẫn đạo chúng sinh khiến họ lìa khỏi trói buộc.
Chư Phật tử! Như Lai nói rằng: Vào thời quá khứ (khi Ngài) cầu đạo Bồ Đề (Ngài) được gặp gỡ 33 ức chín vạn tám ngàn vị Phật. Vào các lúc ấy, (Ngài) đều là Chuyển Luân Thánh Vương. (Ngài) đem tất cả các đồ dùng tốt đẹp cúng dường lên chư Phật và chúng đệ tử. Do bởi vì (lúc ấy Ngài thấy) có đắc được (hữu sở đắc) cho nên không được thọ ký. Sau đó lại được gặp tám vạn bốn ngàn ức
chín vạn Bích Chi Phật, (Ngài) cũng suốt đời đem bốn sự cúng dường cho. Qua khỏi giai đoạn ấy, lại gặp sáu trăm hai mươi vạn một ngàn hai trăm sáu mươi mốt Phật. Các lúc ấy cũng đều là Chuyển Luân Thánh Vương, đem tất cả các đồ dùng tốt đẹp cúng dường suốt đời. (Lại còn) sau khi chư Phật diệt độ, dựng tháp bảy báu cúng dường xá lợi. Sau đó có Phật xuất thế là tiếp đón cầu thỉnh các Ngài chuyển chính pháp luân. Cúng dường như thế trăm ngàn vạn ức vị Phật, các đấng Như Lai này đều ở trong Pháp KHÔNG mà nói lên các pháp tướng. Do (lúc ấy Ngài thấy) có đắc được (hữu sở đắc) nên đều không được (chư Phật) thọ ký. Lần lượt như thế cho đến khi gặp được Phật Nhiên Đăng ra đời (Ngài) gặp Phật nghe pháp tức thời đắc được tất cả vô sinh pháp nhẫn. Đắc được nhẫn này rồi mới được thọ ký, Nhiên Đăng Như Lai ở trong pháp KHÔNG nói lên các pháp tướng, độ thóat vô lượng trăm ngàn chúng sinh, song không (hề) có nói gì, cũng chẳng độ ai hết.
Mâu Ni Thế Tôn xuất hiện với đời ở trong pháp KHÔNG nói ra có văn tự, dạy bày (cho được) ích lợi (mà) vui mừng, (khiến) khắp (chúng sinh) được thọ trì và thật hành, song không có dạy bày gì hết (mà) cũng không có ai thọ trì thật hành. Phải hiểu các pháp tính tướng đều trọn là KHÔNG. Người viết (chữ trong không) cũng là KHÔNG, người biết (đọc chữ trong không) cũng là KHÔNG, người nói (pháp) cũng là KHÔNG, người hiểu (pháp) cũng là KHÔNG. Từ vốn xưa nay KHÔNG (nên) vị lai cũng là KHÔNG, hiện tại cũng là KHÔNG. Song do chư Bồ Tát tích tập vạn thiện (như) lực phương tiện, tinh cần không lười mỏi, công đức thành mãn (nên) đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Điều này quả là vô cùng khó khăn không thể suy lường. Trong chỗ vô pháp (mà) nói lên các pháp tướng, trong chỗ vô đắc nói pháp có đắc. Các sự việc ấy (cũng như) cảnh giới cũa chư Phật, phải dùng đến vô lượng trí mới có thể hiểu rõ được, chứ không phải do suy lường mà có thể biết được.
Bồ Tát mới phát ý thành tâm kính ngưỡng yêu thích Bồ Đề, do tin lời nói của Phật nên từ từ được nhập vào (Bồ Đề). Thế nào là tin? Tin quán tứ đế trừ các phiền não vọng kiến kết trói đắc A La Hán (quả). Tin quán mười hai nhân duyên diệt trừ vô minh sinh khởi các hành đắc Bích Chi Phật. Tin tu bốn tâm vô lượng, sáu Ba La
Mật đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Như thế gọi là tín nhẫn.
Chúng sinh ở trong sinh tử vô thủy nắm lấy tướng mà chấp trước không thấy pháp tính, thì phải trước hết quán sát ngũ ấm của chính thân mình (chỉ là) chúng sinh giả danh. Trong (năm ấm) ấy không có ngã, không có chúng sinh. Tại sao vậy? Nếu mà có ngã, ngã phải tự tại, song các chúng sinh lại thường bị sinh lão bệnh tử xâm phạm làm hại không được tự tại, (nên) phải biết là không có ngã. Không có ngã tức không có tác giả. Không có tác giả (nên) cũng không có thọ giả. Pháp tính thanh tịnh như thật thường trụ. Quán sát như thế cũng chưa thể là cứu cánh được. Như thế gọi là thuận nhẫn. Bồ Tát tu tín, thuận nhẫn rồi, không lâu sẽ thành tối thượng pháp nhẫn. PHẨM THỨ MƯỜI HAI - CÔNG ĐỨC TRÌ
Bồ Tát tu trọn đủ tâm vô tướng, song tâm chưa từng trụ nơi tác nghiệp. Bồ Tát này biết các nghiệp tướng mà vẫn cứ làm, vì tu thiện căn cầu Bồ Đề nên không xả bỏ hữu vi, vì các chúng sinh (mà) tu đại bi nên không trụ vô vi, vì chân diệu trí của tất cả chư Phật nên không xả bỏ sinh tử, vì độ vô biên chúng sinh sao cho không còn chút sót nên không trụ Niết Bàn. Như thế gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thâm tâm cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Chư Phật tử, Bồ Tát thành tựu mười pháp, sẽ không sao thối thất vô thượng Bồ Đề. Những gì là mười?
- Một là Bồ Tát thân phát tâm vô thượng Bồ Đề, giáo hóa chúng sinh cũng khiến họ phát tâm.
- Hai là thường ưa thích được gặp Phật, đem những gì mình quý ra phụng thí cúng dường (để) gieo trồng thiện căn một cách thâm sâu
- Ba là do vì cầu pháp nên đem tâm tôn kính cúng dường pháp sư, nghe pháp không biết chán.
- Bốn là nếu thấy Tỳ kheo tăng bị phân chia thành hai bộ, tranh tụng cùng nhau, cùng gây lỗi lầm với nhau, thời cần cầu phương tiện khiến họ hòa hợp
- Năm là nếu thấy cõi nước nào tà ác tăng thượng Phật pháp muốn hoại, thời có thể đọc, tụng, nói, dù chỉ là một bài kệ khiến cho Phật pháp không dứt tuyệt, chuyên tâm hộ pháp không tiếc thân mạng.
- Sáu là thấy các chúng sinh sợ hãi khổ não, thời sẽ cứu giúp đem vô uý thí cho họ.
- Bảy là phát tinh cần tu hành, cầu các kinh pháp thậm thâm thuộc Bồ Tát tạng phương đẳng Đại Thừa.
- Tám là đắc pháp này rồi thọ trì đọc tụng thật hành y như kinh nói mà thật hành, y như kinh nói mà trụ.
- Chín là tự trụ vào pháp cũng có thể khuyến đạo khiến cho nhiều chúng sinh nhập vào pháp này.
- Mười là nhập vào pháp rồi có thể vì người mà giải nói, dạy bày (cho được) lợi ích (mà) vui mừng, khai ngộ chúng sinh.
Bồ Tát thành tựu mười pháp như thế, rồi ra sẽ không thối thất đối với vô thượng Bồ Đề. Bồ Tát cần phải tu hành (theo) kinh này như thế. Các kinh điển như thế là không thể suy lường, chính là những gì có thể sinh được tất cả các mầm đại từ bi. Kinh này có thể khai ngộ dẫn đạo các chúng sinh bị trói buộc hoàn toàn, khiến họ phát tâm. Kinh này có thể vì các người hướng về Bồ Đề mà làm sinh nhân. Kinh này có thể thành hạnh không động của tất cả các Bồ Tát. Kinh này có thể là nơi hộ niệm của chư Phật thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai.
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, muốn chăm chỉ tu tập vô thượng Bồ Đề thì phải tuyên nói rộng rãi ban hành các kinh điển như vậy, làm cho không đoạn tuyệt nơi Diêm Phù Đề, khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh được nghe kinh này. Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào nghe kinh này, thì các người ấy trọn
được khối đại trí huệ không thể suy lường hết sức ích lợi, và quả báo phúc đức không thể lường nổi. Cớ sao như vậy? Kinh này có thể khai mở vô lượng mắt huệ thanh tịnh, có thể khiến mầm Phật nối tiếp không đoạn, có thể cứu vô lượng chúng sinh khổ não, có thể chiếu sáng tất cả các vô minh si ám, có thế phá bốn ma và các nghiệp ma, có thể phá hoại tất cả các tà kiến của ngoại đạo, có thể diệt tất cả khối lửa lớn phiền não, có thể làm tiêu hết nhân duyên sinh khởi các hành, có thể đoạn tham tiếc, phá giới, sân khuể, giải đãi, loạn ý, ngu si, sáu bệnh cực nặng ấy, có thể trừ diệt nghiệp chướng, báo chướng, pháp chướng, phiền não chướng, chư kiến chướng, vô minh chướng, trí chướng, tập chướng. Tóm yếu mà nói, kinh này có thể làm cho tất cả các ác pháp tiêu diệt không còn chút nào, có thể làm cho tất cả các thiện pháp bùng lên tăng trưởng.
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh này rồi hoan hỉ ưa thích sinh tâm hi kỳ, phải biết người ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật (nên đã) trồng sâu thiện căn. Cớ sao như vậy? Kinh này là chỗ qua lại của chư Phật ba đời, cho nên hành giả nghe được kinh này, phải tự mừng vui thấy may mà đạt được thiện lợi lớn.
Nếu có ai biên, chép, đọc, tụng kinh này, phải biết phúc báo người ấy có được là vô lượng vô biên. Cớ sao như vậy? Do sở duyên của kinh này vô biên, do (kinh) hưng khởi vô lượng đại thệ nguyện, do (kinh) nhiếp thọ tất cả các chúng sinh, do (kinh) trang nghiêm vô thượng đại Bồ Đề, cho nên phúc báo có được cũng y như thế không có hạn lượng. Nếu (ai) có thể hiểu ý nghĩa của kinh, theo lời kinh nói mà tu hành, thời tất cả chư Phật trong suốt a tăng kỳ kiếp dùng vô tận trí để nói về phúc báo (của người) ấy cũng không nói tận hết được.
Nếu có pháp sư nói đến chỗ kinh này, phải biết trong (chỗ) ấy liền phải dựng tháp. Tại sao vậy? Bởi là nơi xuất sinh chân thật chính pháp. Kinh này tùy ở nước nào, thành, ấp, xóm, làng, chùa, miếu, tịnh xá, phải biết trong (các chỗ) ấy chính là có pháp thân. Nếu có ai cúng dường hương, hoa, âm nhạc, lụa treo, phan cái, ca ngâm tán thán, chắp tay cung kính (đối với kinh ấy), phải biết người ấy
đã nối tiếp giống Phật, huống gì lại thọ trì kinh một cách trọn đủ. Các người như thế thành tựu công đức, trí huệ trang nghiêm, trong đời vị lai, sẽ được thọ ký, quyết định sẽ thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.138.175.166 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.