Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Phát Bồ Đề Tâm Kinh Luận [發菩提心經論] »» Bản Việt dịch quyển số 2 »»

Phát Bồ Đề Tâm Kinh Luận [發菩提心經論] »» Bản Việt dịch quyển số 2

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (2) » Việt dịch (3) » Việt dịch (4) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.44 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.59 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Luận Phát Tâm Bồ Đề

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | Quyển cuối
Việt dịch: Quảng Minh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phẩm 7: Tỳ lê da ba la mật
Hàng bồ tát tu hành tinh tấn như thế nào? Hàng bồ tát tu hành tinh tấn là vì lợi mình, lợi người và cả hai đều lợi ích. Tinh tấn như vậy thì có thể trang nghiêm đạo bồ đề.
Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh khiến cho chúng sanh lìa xa khổ não mà tu tinh tấn. Người tu tinh tấn thì trong tất cả mọi thời thường siêng tu tập phạn hạnh 1thanh tịnh, lìa bỏ tâm biếng nhác, giữ tâm không cho phóng dật, tâm thường tinh cần trọn không thối chuyển đối với những việc khó khăn, việc không lợi ích (cho mình và người). Đây gọi là bồ tát sơ phát tâm tu tinh tấn.
Do tu tinh tấn mà thành tựu thiện pháp thế gian và quả thượng diệu xuất thế gian, gọi là lợi mình. Giáo hoá chúng sanh khiến cho họ siêng năng tu thiện, gọi là lợi người. Đem sự tu tập chánh nhân bồ đề của mình mà giáo hoá chúng sanh khiến họ đồng được lợi ích như mình, gọi là cả hai đều lợi ích.
Do chánh nhân tu tinh tấn mà thành tựu Chuyển thắng thanh tịnh diệu quả2, siêu xuất các địa3, cho đến mau thành chánh giác, gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Tinh tấn có 2 lý do để phát khởi:
Vì cầu đạo Vô thượng.
Vì rộng muốn cứu độ các khổ não của chúng sanh.
Bồ tát phải thành tựu 10 niệm mới có thể phát tâm cần hành tinh tấn. Mười niệm như thế nào?
Niệm Phật, (vì Phật có) vô lượng công đức4.
Niệm pháp, (vì pháp có công năng) giải thoát bất tư nghị5.
Niệm tăng, (vì tăng có nghĩa là) thanh tịnh, vô nhiễm6.
Niệm hành đại từ, vì an lập chúng sanh.
Niệm hành đại bi, vì cứu tế các khổ.
Niệm chánh định tụ7, vì khuyến vui tu thiện.
Niệm tà định tụ8, vì cứu chúng sanh khiến trở về bản thể.
Niệm loài ngạ quỷ đói khát, nhiệt não.
Niệm loài súc sanh chịu hoài các khổ.
Niệm cảnh địa ngục chịu đủ thiêu đốt.
Bồ tát phải tư duy 10 niệm như vậy: công đức Tam bảo ta nên tu tập; từ bi, chánh định tụ ta nên khuyên gắng; chúng sanh tà định, ba đường ác khổ ta nên cứu độ. Tư duy như vậy, chuyên niệm không loạn, ngày đêm cần tu, không có dừng bỏ. Đây gọi là khả năng phát khởi chánh niệm tinh tấn.
Bồ tát tinh tấn lại có 4 việc, nghĩa là tu hành bốn cách chánh cần:
Ác pháp chưa sanh, ngăn ngừa không cho sanh khởi.
Ác pháp đã sanh, phải sớm đoạn trừ.
Thiện pháp chưa sanh, tạo mọi phương tiện làm cho sanh khởi.
Thiện pháp đã sanh, tu tập thêm lớn đầy rộng.
Bồ tát tu bốn cách chánh cần như vậy không có dừng nghỉ, đây gọi là tinh tấn. Cần tu tinh tấn thì có thể phá trừ được tất cả phiền não giới, tăng trưởng chánh nhân Vô thượng bồ đề.
Bồ tát nếu có khả năng chịu đựng tất cả khổ lớn nơi thân tâm và vì muốn an lập chúng sanh mà tu hành không mệt mỏi, đây gọi là tinh tấn. Bồ tát xa lìa ác thời9, thói dua nịnh quanh co, tà tinh tấn để tu chánh tinh tấn, nghĩa là tu chánh tín, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ 10, từ bi hỷ xả. Những việc muốn làm, đã làm, đang làm, phải hết lòng làm, tinh cần thực thi, không có hối tiếc. Đối với các thiện pháp và việc cứu khổ chúng sanh thì coi như việc cứu lửa cháy đầu, tâm không thối chuyển, đây gọi là tinh tấn.
Bồ tát dẫu không tiếc thân mạng, nhưng nếu vì cứu vớt các khổ, cứu hộ chánh pháp thì phải cần trân qúi nó, không bỏ oai nghi, thường tu thiện pháp. Khi tu thiện pháp, tâm không giãi đãi; khi mất thân mạng, không bỏ chánh pháp. Đây gọi là bồ tát tu đạo bồ đề, cần hành tinh tấn.
Người biếng nhác thì không khi nào có thể làm được việc bố thí, không thể trì giới, nhẫn nhục các khổ, cần hành tinh tấn, nhiếp tâm niệm định, phân biệt thiện ác. Cho nên nói rằng, sáu pháp ba la mật do tinh tấn mà được tăng trưởng. Nếu hàng bồ tát ma ha tát tu tập tinh tấn làm duyên tố tăng thượng thì có thể mau đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Bồ tát phát đại trang nghiêm (bồ đề) mà phát khởi tinh tấn, có 4 nguyên do:
Phát đại trang nghiêm.
Tích tụ mạnh mẽ.
Tu các thiện căn.
Giáo hoá chúng sanh.
Bồ tát phát đại trang nghiêm như thế nào? Đối với các đường sanh tử, tâm thường kham nhẫn, không kể kiếp số. Dù trải qua vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na do tha hằng hà sa a tăng kỳ kiếp mới thành Phật đạo, thì tâm cũng không mệt mỏi. Đây gọi là hạnh không giãi đãi vì trang nghiêm (bồ đề).
Bồ tát muốn tích tụ mạnh mẽ mà phát khởi tinh tấn. Nếu lửa dữ đầy trong cõi tam thiên đại thiên thế giới, nhưng vì thấy Phật, vì nghe pháp, vì an trú chúng sanh nơi thiện pháp, thì cần phải từ trong lửa dữ kia mà vượt qua. Vì muốn điều phục chúng sanh mà tâm khéo an trú trong đại bi. Đây gọi là tinh tấn mạnh mẽ.
Bồ tát muốn tu tập thiện căn mà phát khởi tinh tấn. Tất cả thiện căn được phát khởi đều vì hồi hướng Vô thượng chánh đẳng chánh giác, vì muốn thành tựu nhất thiết trí11. Đây gọi là tinh tấn tu tập thiện căn.
Bồ tát muốn giáo hoá chúng sanh mà phát khởi tinh tấn. Chủng tánh của chúng sanh không thể tính kể, vô lượng vô biên, bằng hư không giới. Bồ tát lập thệ rằng, ta sẽ độ họ không có thiếu sót. Bồ tát vì muốn hoá độ chúng sanh mà cần hành tinh tấn. Đây gọi là tinh tấn giáo hoá chúng sanh.
Tóm lại mà nói, bồ tát tu trợ đạo công đức, trợ vô thượng trí tuệ, tu tập Phật pháp mà phát khởi tinh tấn. Những công đức của Phật thì vô lượng vô biên, bồ tát ma ha tát phát đại trang nghiêm, tu hành tinh tấn cũng lại như vậy, vô lượng vô biên. Bồ tát ma ha tát tu hành tinh tấn, chẳng rời dục tâm12 là vì cứu vớt các khổ. Đây gọi là đầy đủ Tỳ lê da ba la mật.
Phẩm 8: Thiền na ba la mật
Hàng bồ tát tu tập thiền định như thế nào? Hàng bồ tát tu tập thiền định vì lợi mình, lợi người và cả hai đều lợi ích. Tu tập thiền định như vậy thì có thể trang nghiêm đạo bồ đề.
Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh khiến chúng sanh xa lìa khổ não mà tu tập thiền định. Người tu thiền định phải khéo nhiếp tâm mình, tất cả loạn tưởng không cho vọng khởi. Khi đi đứng ngồi nằm phải buộc sự nhớ nghĩ của mình ở nơi hiện cảnh13. Quán sát thuận nghịch từ đầu lâu, cổ, xương sống, cánh tay, khuỷu tay, ngực, xương sườn, xương chậu, xương đùi, cẳng chân, cho đến mắt cá chân, tu tập An ban sổ tức. Đây gọi là bồ tát ban đầu tu tập định tâm.
Tu thiền định thì không tiếp nhận các điều ác, tâm thường an vui, gọi là tự lợi. Giáo hoá chúng sanh khiến họ tu chánh niệm, gọi là lợi tha. Do chỗ tu thanh tịnh tam muội của mình mà lìa được các ác giác quán14, giáo hoá chúng sanh khiến họ đồng lợi ích như mình, gọi là cả hai đều lợi ích.
Do chánh nhân tu thiền định mà thu hoạch được bát giải thoát15, cho đến chứng được Thủ lăng nghiêm tam muội16, Kim cang tam muội17, gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Thiền định do 3 pháp mà sanh khởi. Thế nào là ba?
Văn tuệ.
Tư tuệ.
Tu tuệ.
Từ ba pháp này dần dần sanh khởi tất cả tam muội.
Thế nào là văn tuệ? Đối với giáo pháp được nghe, tâm thường vui thích (tiếp nhận). Lại khởi niệm rằng, các pháp vô ngại giải thoát … của Phật đều do đa văn mà được thành tựu. Khởi niệm này rồi, trong tất cả thời gian cầu pháp càng thêm tinh cần, ngày đêm thường ưa nghe pháp, không có chán đủ. Đây gọi là văn tuệ.
Thế nào là tư tuệ? Suy niệm, quán sát các pháp hữu vi như thật tướng (của nó), nghĩa là các pháp thì vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, niệm niệm sanh diệt, không lâu sẽ hư hoại. Chúng sanh bị ràng buộc trong lo buồn, khổ não, yêu ghét, chỉ vì lửa tham sân si thiêu đốt, để rồi chồng chất thêm lên khổ não đời sau. Tất cả đều không có thật tánh, cũng như huyễn hoá. Thấy như vậy rồi, đối với tất cả các pháp hữu vi liền sanh tâm chán ngán muốn thoát ly, do vậy càng thêm tinh cần cầu trí tuệ Phật. Và suy nghĩ rằng, trí tuệ của Như lai không thể nghĩ bàn, không thể so lường, có thế lực lớn, không ai hơn được, như năng lực hoá làm một cái thành lớn đem đến sự không sợ, sự yên ổn, không còn muốn lui về18, như năng lực cứu vô lượng khổ não cho chúng sanh. Biết như vậy thời thấy Phật có vô lượng trí và thấy pháp hữu vi là vô lượng khổ não, vì thế phát khởi chí nguyện thẳng cầu đại thừa vô thượng. Đây gọi là tư huệ.
Thế nào là tu tuệ? Từ khi bắt đầu tu bạch cốt quán19 cho đến khi thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều gọi là tu huệ. Ly dục, ly bất thiện pháp20, có giác có quán21, hỷ lạc do ly dục sanh22, nhập vào sơ thiền. Diệt giác và quán (của sơ thiền), nội tâm thanh tịnh, định tâm lại một chỗ, không giác không quán23, với hỷ và lạc do định sanh24, nhập vào nhị thiền. Vì ly hỷ ở nhị thiền mà hành xả25, tâm niệm an nơi tuệ 26, thân cảm lạc thọ, một trạng thái mà các bậc hiền thánh tuyên bố rằng người đó có thể xả, thường sống trong chánh niệm, trú trong an lạc 27, nhập vào tam thiền. Với sự đoạn khổ đoạn lạc28, với sự diệt trừ từ trước của ưu hỷ29, bất khổ bất lạc 30, có sự thanh tịnh của niệm nhờ xả31, nhập vào tứ thiền. Vượt qua tất cả sắc tướng, diệt tất cả tướng có tính ngăn ngại32, không nghĩ nhớ tất cả tướng dị biệt, biết (thân và cảnh như) hư không vô biên, liền nhập Hư không vô sắc định xứ33. Vượt qua tất cả hư không tướng, biết không có (biên giới của) thức, liền nhập Vô sắc thức định xứ34. Vượt qua tất cả thức tướng, biết không có sở hữu35, liền nhập Vô sở hữu Vô sắc định xứ36. Vượt qua tất cả cõi không có sở hữu, biết chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng, an ổn, liền nhập Vô sắc phi hữu tưởng, phi vô tưởng xứ 37. Chỉ tuỳ thuận giáo pháp mà tu hành38 nhưng không ưa đắm39, cầu vô thượng thừa, thành tối chánh giác. Đây gọi là tu huệ.
Bồ tát từ văn, tư, tu huệ này mà tinh cần nhiếp tâm thì có thể thành tựu Thông minh thiền40, các tam muội và thiền na ba la mật.
Lại nữa, bồ tát tu định lại có 10 pháp hạnh, không giống pháp hạnh của hàng thanh văn, bích chi Phật. Những gì là 10?
Tu định là không có cái ngã “tôi đây”, vì đầy đủ các pháp thiền định của Như lai.
Tu định là không vướng mắc, vì xả ly nhiễm tâm, không cầu an vui cho mình.
Tu định là đủ các thông nghiệp41, vì biết các tâm hành 42của chúng sanh.
Tu định là biết các loại tâm tánh, vì độ thoát tất cả chúng sanh.
Tu định là thực hành đại bi, vì đoạn trừ phiền não kết.
Tu định là tu các thiền tam muội, vì phải khéo biết nhập xuất, vượt khỏi tam giới.
Tu định là thường được tự tại, vì đầy đủ hết thảy thiện pháp.
Tu định là tâm mình tịch diệt, vì hơn hẳn các thiền tam muội của nhị thừa.
Tu định là thường ngộ nhập trí tuệ, vì vượt qua các pháp thế gian đến bờ giác kia.
Tu định là có khả năng làm cho chánh pháp hưng thịnh, vì tiếp nối rạng rỡ ngôi tam bảo, không cho đoạn tuyệt.
Pháp hạnh tu định như vậy là không giống pháp hạnh tu định của hàng thanh văn, bích chi Phật.
Lại nữa, vì muốn biết tất cả phiền não, tâm tưởng của chúng sanh nên tu tập các pháp thiền định trợ thành trụ tâm, để thiền định này trụ bình đẳng tâm, gọi đó là định. Bình đẳng định như vậy tức là bình đẳng nơi không, vô tướng, vô nguyện, vô tác. Không, vô tướng, vô nguyện, vô tác bình đẳng thì chúng sanh bình đẳng. Chúng sanh bình đẳng thì các pháp bình đẳng. Thể nhập các pháp bình đẳng như vậy gọi là định.
Lại nữa, bồ tát lúc nhập thế tu hành nhưng không tạp nhiễm thế gian, khi xả thế nhập pháp thì diệt tất cả kết sử, xa lìa chỗ ồn náo, ưa ở một mình. Bồ tát tu hành thiền định như vậy thì tâm an, dừng trụ, lìa xa thế sự.
Lại nữa, bồ tát tu định được đầy đủ các pháp thông, trí, phương tiện và tuệ. Thế nào là thông? Thế nào là trí? Khi thấy sắc tướng, khi nghe âm thanh, biết được tâm người, nhớ được quá khứ, có thể đi đến khắp các thế giới chư Phật, đây gọi là thông. Biết sắc tức pháp tánh43, hiểu rõ âm thanh, tâm hành, biết tánh tướng tịch diệt, ba đời bình đẳng, biết thế giới chư Phật đồng như hư không tướng, chẳng có quả chứng diệt tận, đây gọi là trí. Thế nào là phương tiện? Thế nào là tuệ? Khi nhập thiền định, khởi đại từ bi, không xả thệ nguyện, tâm như kim cang, quán sát thế giới của chư Phật để trang nghiêm bồ đề đạo tràng. Đây gọi là phương tiện. Tâm thường vắng lặng, không thấy có ngã, không thấy có chúng sanh, tư duy thể tánh của các pháp vốn không loạn động, thấy thế giới chư Phật đồng với hư không, quán chỗ trang nghiêm đồng với tịch diệt. Đây gọi là tuệ.
Đây gọi bồ tát tu hành thiền định. Thông, trí, phương tiện, tuệ là bốn pháp sai khác, nhưng nếu cùng thực hành cả bốn thì được gần với quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ tát ma ha tát tu hành thiền định không còn thừa ác tâm44, vì biết các pháp vốn bất động. Đây gọi là đầy đủ thiền na ba la mật.
Phẩm 9: Bát Nhã Ba La Mật
Hàng bồ tát tu tập trí tuệ như thế nào? Hàng bồ tát tu tập trí tuệ vì lợi mình, lợi người và cả hai đều lợi ích. Tu tập trí tuệ như vậy thì có thể trang nghiêm đạo bồ đề.
Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh khiến lìa khổ não mà tu tập trí tuệ. Người tu tập trí tuệ tất yếu phải học tất cả việc thế gian, phải xả tham sân si, thiết lập từ tâm, thương xót làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, thường nghĩ việc cứu giúp chúng sanh mà làm người dẫn đường, có thể phân biệt nói rõ chánh đạo, tà đạo, thiện báo, ác báo. Đây gọi là bồ tát ban đầu tu tập trí tuệ.
Do tu trí tuệ mà xa lìa vô minh, trừ được phiền não chướng và trí tuệ chướng45, gọi là tự lợi. (Dùng trí tuệ) giáo hoá chúng sanh khiến họ tự điều phục tâm, gọi là lợi tha. Đem sự tu tập (trí tuệ) hướng về Vô thượng bồ đề của mình, giáo hoá chúng sanh khiến họ đồng được lợi ích như mình, gọi là cả hai đều lợi ích.
Do chánh nhân tu tập trí tuệ mà chứng được sơ địa cho đến tát bà nhã trí46, gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Bồ tát tu hành trí tuệ có 20 tâm mà có thể từ từ thiết lập. Hai mươi tâm như thế nào?
Tâm phát khởi thiện dục 47, thân cận thiện hữu.
Tâm xả ly kiêu mạn, không cho phóng dật.
Tâm tuỳ thuận giáo hoá, vui thích nghe pháp.
Tâm nghe pháp không chán, khéo léo suy tư.
Tâm hành tứ phạm hạnh48, tu tập chánh trí49.
Tâm quán bất tịnh hạnh50, ý niệm chán lìa.
Tâm quán tứ chân đế, sanh 16 thánh tâm51.
Tâm quán 12 nhân duyên, tu tập minh tuệ52.
Tâm nghe các ba la mật, nhớ muốn tu tập.
Tâm quán vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt.
Tâm quán không, vô tướng, vô nguyện, vô tác.
Tâm quán ấm, giới, nhập, có nhiều tội lỗi.
Tâm hàng phục phiền não, chẳng phải người bạn đồng hành.
Tâm gìn giữ các thiện pháp, như là người bạn đồng hành.
Tâm kiềm chế ác pháp, muốn đoạn trừ hẳn.
Tâm tu tập chánh pháp, mong thêm rộng lớn.
Tâm tuy tu pháp nhị thừa, thường ưa xả ly.
Tâm nghe bồ tát tạng, vui vẻ phụng hành.
Tâm lợi mình lợi người, tuỳ thuận tăng tiến các thiện nghiệp.
Tâm nắm giữ hạnh chân thật, cầu tất cả Phật pháp.
Lại nữa, bồ tát tu hành trí tuệ lại có 10 pháp khéo tư duy, không cùng với pháp tu của hàng thanh văn, bích chi Phật. Mười pháp như thế nào?
Tư duy phân biệt căn bản định và căn bản tuệ53.
Tư duy không có xả đoạn thường nhị biên54.
Tu duy nhân duyên sanh khởi các pháp.
Tư duy vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả55.
Tư duy các pháp không có ba đời: quá khứ, vị lai, hiện tại.
Tu duy không phát khởi gì cả, không tu hành gì cả, nhưng không đoạn nhân quả.
Tư duy các pháp vốn không nhưng phải trồng thiện căn, không biếng nhác.
Tư duy vô tướng nhưng vẫn độ chúng sanh không bỏ sót.
Tư duy vô nguyện nhưng lại cầu bồ đề không lìa xa.
Tư duy vô tác mà hiện tại thọ thân không chối bỏ.

Lại nữa, bồ tát lại có 12 pháp môn khéo nhập. Những gì là mười hai?
Khéo nhập không, vô tướng, vô nguyện tam muội56 nhưng không thủ chứng.
Khéo nhập các thiền tam muội nhưng chẳng tuỳ thiền sanh57.
Khéo nhập các thông trí nhưng không chứng pháp vô lậu.
Khéo nhập pháp nội quán nhưng không chứng quyết định58.
Khéo nhập quán tất cả chúng sanh không tịch nhưng không xả đại từ.
Khéo nhập quán tất cả chúng sanh vô ngã nhưng không xả đại bi.
Khéo nhập sanh vào ác thú nhưng chẳng phải do nghiệp lực sanh.
Khéo nhập ly dục nhưng chẳng chứng pháp ly dục.
Khéo nhập xả dục lạc nhưng không xả pháp lạc.
Khéo nhập xả tất cả hý luận59, các sự hiểu biết nhưng không xả phương tiện và các pháp quán.
Khéo nhập suy tư pháp hữu vi nhiều tội khổ, nhưng không xảhữu vi.
Khéo nhập pháp vô vi thanh tịnh viễn ly, nhưng không trụ vô vi.
Bồ tát có thể tu tập tất cả “thiện nhập pháp môn” tức là có thể khéo ngộ giải cái không, cái vô sở hữu của ba đời. Quán được như vậy gọi là quán tam thế không, là có sức trí tuệ vậy. Ở nơi ba đời chư Phật mà gieo trồng vô lượng công đức, thảy đều đem hồi hướng Vô thượng bồ đề, đây gọi là bồ tát khéo quán tam thế phương tiện.
Lại nữa, quán pháp quá khứ đã qua và không thể đi đến vị lai, nhưng thường tu thiện căn, tinh cần không giãi đãi. Quán pháp vị lai tuy chưa sanh khởi nhưng không bỏ tinh tấn, nguyện hướng bồ đề. Quán pháp hiện tại tuy niệm niệm sanh diệt nhưng không quên tâm mình, phát nguyện hướng về bồ đề. Đây gọi là bồ tát tu quán tam thế phương tiện, rằng: quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại không dừng. Quán như vậy cũng có nghĩa là quán sát về tâm vương, tâm sở luôn sanh diệt, tan hoại, nhưng thường không bỏ việc tích chứa thiện căn và các pháp trợ bồ đề. Đây gọi là bồ tát tu quán tam thế phương tiện.
Lại nữa, bồ tát quán tất cả thiện, bất thiện, ngã, vô ngã, thật, bất thật, không, bất không, thế đế, chân đế, chánh định, tà định, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, hắc pháp, bạch pháp, sanh tử, niết bàn, toàn là thể tánh như thế của pháp giới: nhất tướng, vô tướng, và trong đó không có pháp vô nào có thể gọi là vô tướng, cũng không có pháp hữu nào để làm vô tướng60. Ở đây gọi hết thảy pháp ấn là bất khả hoại ấn. Ở trong pháp ấn ấy cũng không có cái tướng của ấn, gọi là chân thật trí tuệ, phương tiện, bát nhã ba la mật. Bồ tát ma ha tát phát bồ đề tâm nên học như vậy, nên hành như vậy. Hành được như vậy liền gần với quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ tát ma ha tát tu hành trí tuệ mà tâm vô sở hành61, vì pháp tánh vốn thanh tịnh. Đây gọi là đầy đủ bát nhã ba la mật.
Phẩm 10: Như Thật Pháp Môn
Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân tu tập sáu ba la mật để cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác thì phải xa lìa bảy pháp. Những gì là bảy?
Lìa ác tri thức. Ác tri thức là người dạy ta lìa bỏ thượng tín, thượng dục, thượng tinh tấn, chỉ huân tập các tạp hạnh.
Lìa nữ sắc, tham đắm, ham muốn, những thói quen của người đời, nhưng vẫn cùng làm việc với họ.
Lìa những ác giác, không nên nhìn ngắm hình dung của mình, sanh tâm tham tiếc, quý trọng, say đắm, cố giữ gìn nó vì cho rằng có thể giữ gìn được lâu.
Lìa sự giận dữ, bốc đồng, ghen ghét, gây ra tranh cãi và làm hại loạn thiện tâm người khác.
Lìa tâm phóng dật, kiêu mạn, biếng nhác, ỷ mình có chút điều thiện mà khinh miệt người khác.
Lìa những sách luận ngoại đạo, văn chương thế tục, lời lẽ trau chuốt. Chẳng phải lời Phật dạy thì không nên ca ngợi.
Không nên gần gũi tà kiến, ác kiến.
Bảy pháp như vậy phải nên xa lìa. Đức Phật dạy rằng, sẽ không tìm thấy một pháp nào khác chướng sâu Phật đạo ngoài bảy pháp này. Cho nên bồ tát cần phải xa lìa.
Nếu muốn mau chứng Vô thượng bồ đề thì phải tu bảy pháp. Những gì là bảy?
Bồ tát nên gần gũi thiện tri thức. Thiện tri thức chính là chư Phật và chư bồ tát. Nếu có vị thanh văn hay người nào có thể dạy cho người đang tu bồ tát đạo trụ sâu vào pháp tạng (của bồ tát) và các pháp ba la mật thì cũng gọi là thiện tri thức bồ tát vậy.
Bồ tát cần phải gần gũi hàng xuất gia, cũng phải gần gũi chốn a lan nhã, lìa khỏi nữ sắc và các ham muốn. Tuy không tập nhiễm thói đời nhưng vẫn tuỳ việc cộng tác.
Bồ tát cần phải tự quán thân mình như phân đất, nhơ nhớp đủ loại, tập hợp của gió lạnh, máu nóng62, không thể tham đắm, ngày qua đến chết, nên nghĩ chán lìa, tinh cần tu đạo.
Bồ tát cần phải thường hành hoà nhẫn, cung kính, nhu thuận, cũng phải khuyến hóa mọi người trụ vào pháp nhẫn.
Bồ tát cần phải tu tập tinh tấn, thường sanh hổ thẹn, kính thờ sư trưởng, thương xót kẻ nghèo cùng hạ đẳng, thấy người bị nguy khốn đem thân chịu thay.
Bồ tát cần phải tu tập các pháp phương đẳng đại thừa và bồ tát tạng, thọ trì, đọc tụng những pháp được Phật ca ngợi.
Bồ tát cần phải gần gũi tu tập đệ nhất nghĩa đế, nghĩa là thật tướng của các pháp là nhất tướng63, vô tướng64.
Nếu hàng bồ tát muốn mau chóng chứng Vô thượng bồ đề thì phải gần gũi bảy pháp như vậy.
Lại nữa, nếu người phát bồ đề tâm, đem chỗ sở đắc của mình có được trong vô lượng a tăng kỳ kiếp tu tập các pháp như: từ bi, hỷ xả, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, thì phải biết người đó chưa lìa sanh tử, không hướng bồ đề. Vì sao vậy? Vì họ còn cái tâm thấy có sở đắc và còn cái thấy thủ đắc: thấy ấm, giới, nhập, thấy ngã, thấy nhân, thấy chúng sanh, thấy thọ mạng, thấy từ bi hỷ xả, thấy bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và các kiến chấp khác. Tóm yếu mà nói, còn cái thấy Phật pháp tăng và cái thấy niết bàn. Cái thấy có thủ đắc như vậy là còn tâm chấp trước. Chấp trước cũng gọi là tà kiến. Vì sao nói như vậy? Là vì người tà kiến bị luân chuyển trong tam giới, trọn không bao giờ ra khỏi tam giới. Người chấp trước cũng lại như vậy, trọn không bao giờ ra khỏi sự chấp tướng sai biệt, không thể thành tựu vô thượng bồ đề.
Nếu người phát bồ đề tâm thì cần phải quán sát cái tâm không tướng. Những gì là tâm? Sao gọi là vô tướng? Tâm là (tâm) ý thức, tức là thức ấm, ý nhập và ý giới65. Tâm không tướng là tâm không có tướng của tâm, cũng không có tác giả66. Vì sao vậy? Tướng của tâm là không, không có tác giả, không khiến ai là tác giả. Nếu không có tác giả thì không có tướng làm ra. Nếu bồ tát hiểu rõ pháp như vậy thì đối với tất cả các pháp không có chấp trước. Do không có chấp trước nên đối với các pháp thiện ác, hiểu rõ không có quả báo (thiện ác). Tu tập tâm từ thì hiểu rằng không có ngã. Tu tập tâm bi thì hiểu rằng không có chúng sanh. Tu tập tâm hỷ thì hiểu rằng không có mạng giả67. Tu tập tâm xả thì hiểu rằng không có nhân. Tuy hành bố thí nhưng không thấy có vật bố thí. Tuy hành trì giới nhưng không thấy tâm mình thanh tịnh. Tuy hành nhẫn nhục nhưng không thấy có chúng sanh để nhẫn nhục. Tuy hành tinh tấn nhưng không có tâm ly dục. Tuy hành thiền định nhưng không có tâm trừ ác. Tuy hành trí tuệ mà tâm vô sở hành. Ở trong tất cả duyên (tu tập) đều có trí tuệ nhưng không chấp trước vào trí tuệ, không có thủ đắc trí tuệ, không thấy mình có trí tuệ. Hành giả tu hành trí tuệ như vậy, không thấy có tu, không gì chẳng tu, vì giáo hoá chúng sanh hiện hành lục độ mà nội tâm thanh tịnh.
Hành giả khéo tu tâm mình như vậy thì trong khoảng một niệm đã trồng thiện căn, phước đức quả báo vô lượng vô biên, trăm ngàn muôn ức a tăng kỳ kiếp không thể cùng tận, tự nhiên được gần quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Phẩm 11: Không Vô Tướng
Thuở trước, bấy giờ đức Phật ở trong rừng trúc Ca lan đà cùng với hàng đại chúng nhiều vô lượng tập hội. Khi đó, đức Thế tôn tuyên bày chánh pháp, ngài bảo đại chúng rằng: Như lai đã nói về đặc tính vô tánh68, không69, vô sở hữu70 của các pháp. Tất cả thế gian đối với những đặc tính này của các pháp rất khó tin, khó hiểu. Vì sao vậy?
Sắc không trói buộc vào cái gì nên cũng không cởi mở. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không trói buộc và không cởi mở. Sắc là vô tướng71, ly các tướng72. Thọ, tưởng, hành, thức là vô tướng, ly các tướng. Sắc là vô niệm73, ly các niệm74. Thọ, tưởng, hành, thức là vô niệm, ly các niệm. Nhãn và sắc, nhĩ và thanh, tỷ và hương, thiệt và vị, thân và xúc, ý và pháp, cũng lại như vậy.
Không lấy, không bỏ, không dơ, không sạch, không đến, không đi, không trước, không sau, không tối, không sáng, không si mê, không trí tuệ, chẳng có bờ bên này, chẳng có bờ bên kia, cũng chẳng có dòng nước ở khoảng giữa hai bờ, chính gọi là không trói buộc. Vì không trói buộc, nên gọi là không. Không đó gọi là vô tướng. Vô tướng cũng không, nên gọi là không. Không đó là vô niệm. Vô niệm cũng không, nên gọi là không. Ý niệm về không cũng không, nên gọi là không75. Trong không, không có thiện, không có ác, cho đến cũng không có không tướng, nên gọi là không.
Bồ tát nếu biết như vậy tức là biết tánh của ấm, giới, nhập, thì không có thủ chấp, chính gọi là pháp nhẫn. Bồ tát do pháp nhẫn này mà được thọ ký nhẫn.
Các người con Phật, ví như có người ngữa mặt lên trời mà viết vào hư không, chép hết 12 bộ kinh76 của Như lai, trải qua vô lượng kiếp. Khi Phật pháp đã diệt, người cầu pháp không thấy, không nghe chánh pháp, mà chỉ thấy, chỉ nghe chúng sanh điên đảo, tạo tội không cùng. Lại có một người trí tuệ thanh tịnh từ phương xa, thương xót chúng sanh, muốn rộng cầu Phật pháp, nên đi đến nơi này, thấy trong hư không có văn tự chép rất rõ ràng, thì liền biết ngay, rồi đọc tụng và thọ trì. Người đó đúng theo lời kinh chép mà thật hành, giảng rộng phân biệt cho chúng sanh được lợi ích. Người chép văn tự vào hư không và người thấy biết trong hư không có văn tự mới có thể mật biết với nhau, có thể truyền thông với nhau, rồi tu tập, thọ trì mà hướng dẫn chúng sanh khiến lìa những trói buộc.
Các người con Phật, đức Phật dạy rằng, lúc ở đời quá khứ, khi còn cầu đạo bồ đề, Ngài đã được gặp 33 ức 9 vạn 8 ngàn đức Phật. Lúc bấy giờ Ngài làm Chuyển luân thánh vương, đem tất cả nhạc khí cúng dường các đức Phật và các chúng đệ tử. Vì Ngài còn thấy có chỗ sở đắc nên không được các đức Phật thọ ký. Sau đó Ngài lại gặp 8 vạn 4 ngàn ức 9 vạn Bích chi Phật, cũng đem tứ sự77 mà suốt đời cúng dường. Qua đây rồi, Ngài lại gặp 620 vạn 1261 đức Phật. Lúc bấy giờ, Ngài đều làm Chuyển luân thánh vương, đem tất cả nhạc khí mà suốt đời cúng dường. Sau khi các đức Phật diệt độ lại xây tháp bằng bảy báu để cúng dường xá lợi. Sau đó có các đức Phật ra đời, Ngài đều phụng ngưỡng, khuyến thỉnh chuyển pháp luân và cúng dường. Có trăm ngàn vạn ức đức Phật như vậy ra đời. Các đức Như lai này đều trụ trong pháp không mà nói các pháp tướng. Do Ngài còn có chỗ sở đắc nên cũng không được thọ ký. Lần lượt như vậy cho đến khi gặp được đức Phật Nhiên Đăng ra đời, thấy Phật, nghe pháp, liền chứng được hết thảy vô sanh pháp nhẫn. Được pháp nhẫn này rồi mới được Phật Nhiên Đăng thọ ký. Đức Như lai Nhiên Đăng trụ trong pháp không diễn nói các pháp tướng, độ thoát vô lượng trăm ngàn chúng sanh, nhưng không thấy có đối tượng diễn nói, không có đối tượng độ thoát.
Đức Thích Ca Mâu Ni Thế tôn hiện ra nơi đời, trụ trong pháp không, diễn nói bằng văn tự để khai thị, giáo hoá lợi ích cho chúng sanh được vui mừng, đều được tiếp nhận mà tu hành, nhưng Ngài không thấy có khai thị, không thấy có chúng sanh tiếp nhận. Phải biết pháp tánh, pháp tướng ở đây rốt ráo không. Người chép văn tự vào hư không cũng không, người biết trong hư không có văn tự cũng không. Người thuyết pháp cũng không, người hiểu pháp cũng không. Từ xưa nay là không, vị lai cũng không, hiện tại cũng không. Tuy vậy các bồ tát nhờ tích tập vạn thiện, phương tiện lực, tinh cần không giãi đãi mà thành tựu công đức viên mãn, được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Pháp không này thật rất là khó (ngộ nhập), không thể nghĩ bàn. Trụ trong pháp vô mà nói các pháp tướng, ở trong chỗ vô đắc78 mà nói pháp hữu đắc. Những việc trên đây đều là cảnh giới của chư Phật, phải dùng vô lượng trí mới có thể hiểu nổi (chút phần), chẳng phải chỗ suy lường mà biết hết được.
Bồ tát mới phát ý, hết lòng kính ngưỡng, vui thích bồ đề, do tin lời Phật mà dần dần có khả năng ngộ nhập (cảnh giới của chư Phật). Vì sao gọi là tín? Tín quán tứ đế, trừ các phiền não vọng kiến thắt buộc, đắc A la hán. Tín quán thập nhị nhân duyên, diệt trừ vô minh sanh khởi các hành, đắc Bích chi Phật. Tín tu tứ vô lượng tâm, lục ba la mật, đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đây gọi là Tín nhẫn.
Chúng sanh từ vô thỉ đến nay bị trầm luân sanh tử là do vọng tưởng, chấp trước, không thấy được pháp tánh, thì trước phải quán sát tự thân do ngũ uẩn hoà hợp, chúng sanh chỉ là giả danh; vì tự thân là vô ngã nên cũng không có chúng sanh. Vì sao vậy? Nếu thật có ngã thì ngã đó phải tự tại, nhưng chúng sanh thường bị sanh già bịnh chết nó xâm hại, không được tự tại, do đó biết rằng vô ngã. Vô ngã tức là vô tác giả. Vô tác giả thì cũng vô thọ giả. Pháp tánh là thanh tịnh, như thật thường trú. Quán sát như vậy chưa được rốt ráo thì gọi là Thuận nhẫn. Bồ tát tu Tín nhẫn và Thuận nhẫn rồi thì không bao lâu sẽ thành tựu Tối thượng pháp nhẫn79.
Phẩm 12: Công Đức Trì
Bồ tát tu hành đầy đủ tâm vô tướng, nhưng tâm chưa từng trụ nơi tác nghiệp, nghĩa là bồ tát đối với các nghiệp tướng, biết mà cố làm. Bồ tát vì tu thiện căn, cầu bồ đề nên không xả hữu vi; vì các chúng sanh tu tâm đại bi nên không trụ vô vi; vì nhất thiết chân diệu trí của Phật nên không xả sanh tử; vì độ vô biên chúng sanh khiến không còn dư nên không trụ niết bàn. Đây chính là hàng bồ tát ma ha tát thâm tâm cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Các người con Phật, bồ tát thành tựu 10 pháp sau đây thì trọn không thối thất đạo Vô thượng bồ đề. Những gì là mười?
Bồ tát thâm tín phát tâm cầu Vô thượng bồ đề, giáo hoá chúng sanh cũng phát tâm như vậy.
Thường ưa thấy Phật, đem những vật quý báu của mình dâng lên cúng dường chư Phật để sâu trồng thiện căn.
Vì cầu pháp nên đem tâm tôn kính cúng dường pháp sư, nghe pháp không chán.
Nếu thấy các thầy tỳ kheo phá Tăng80 ở hai bộ chúng81 gây chuyện, tranh cãi lẫn nhau, gây tội lỗi cho nhau, thì phải cần cầu mọi phương tiện để cho hai bên hoà hợp.
Nếu thấy quốc độ nào tà ác càng tăng, Phật pháp muốn hoại, thì phải thường đọc tụng, giải nói chánh pháp, nhẫn đến một bài kệ, để cho chánh pháp không đoạn dứt, chuyên tâm hộ pháp, không tiếc thân mạng.
Thấy các chúng sanh bị đủ kinh sợ khổ não, làm sự cứu hộ, cho sự vô uý.
Phát khởi tinh tấn tu hành để cầu các kinh pháp thậm thâm thuộc về phương đẳng đại thừa và bồ tát tạng.
Đã được các pháp này rồi thì phải thọ trì, đọc tụng, đúng như pháp mà thực hành, đúng như pháp mà an trú.
Đã an trú nơi pháp (phương đẳng đại thừa và bồ tát tạng) thì có thể khuyến khích, hướng dẫn cho nhiều chúng sanh khiến họ được dự vào trong pháp này.
Vào trong pháp này rồi, thì có thể vì chúng sanh thuyết giải, khai thị, giáo hoá, khuyến khích và tán thưởng cho họ, để rồi được ngộ nhập.
Bồ tát thành tựu được 10 pháp như vậy rồi, thì đối với đạo Vô thượng bồ đề trọn không thối thất. Bồ tát cần phải tu hành theo giáo nghĩa của kinh này. Giáo nghĩa của kinh điển (phương đẳng đại thừa và bồ tát tạng) như vậy không thể nghĩ bàn, nghĩa là nó có thể sanh khởi tất cả chủng tử đại từ bi. Kinh này có khả năng khai ngộ, dẫn dắt chúng sanh bị trói buộc đủ thứ, khiến cho họ phát bồ đề tâm. Kinh này là chánh nhân tu hành cho người hướng về bồ đề. Kinh này có khả năng thành tựu được tất cả hạnh vô động của bồ tát. Kinh này được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm cho.
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn tinh cần tu tập Vô thượng bồ đề thì phải diễn giảng rộng rãi, truyền bá kinh điển như vậy nơi Diêm phù đề không cho đoạn dứt, làm cho vô lượng vô biên chúng sanh được nghe kinh này. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào được nghe kinh này thì những người đó đều được lợi ích tức thời, được đại trí tuệ tụ không thể nghĩ bàn, được phước đức quả báo không thể so lường. Vì sao được như vậy? Vì kinh này có thể khai ngộ vô lượng huệ nhãn thanh tịnh, có thể khiến cho Phật chủng nối mãi không dứt, có thể cứu vô lượng khổ não của chúng sanh, có thể chiếu phá tất cả vô minh si ám, có thể phá trừ tứ ma82 và các ma nghiệp83, có thể làm hư hoại tất cả tà kiến của ngoại đạo, có thể diệt trừ lửa lớn phiền não, có thể làm tiêu mất nhân duyên sanh khởi các hành, có thể đoạn trừ sáu cực trọng bịnh của chúng sanh: đó là xan tham, phá giới, sân hận, giãi đãi, loạn ý và ngu si, có thể trừ nghiệp chướng, báo chướng, pháp chướng, phiền não chướng, chư kiến chướng, vô minh chướng, trí chướng, tập chướng.
Nói tóm lại, kinh này có khả năng tiêu diệt không sót tất cả ác pháp, có khả năng làm cho tăng trưởng mau chóng tất cả thiện pháp.
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này rồi hoan hỷ vui thích, sanh tâm hy hữu, phải biết người này đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, sâu trồng thiện căn. Vì sao nói vậy? Vì kinh này chính là chỗ thực thi của ba đời chư Phật, cho nên hành giả được nghe kinh này phải tự vui mừng rằng may thu hoạch sự thiện lợi lớn.
Nếu có người biên chép, đọc tụng kinh này phải biết người đó được phước báo vô lượng vô biên. Vì sao nói vậy? Vì kinh này là chỗ duyên khởi vô biên, là nơi hưng phát vô lượng đại thệ nguyện, để nhiếp thọ tất cả chúng sanh, để trang nghiêm Vô thượng đại bồ đề, cho nên được phước đức cũng lại như vậy, nghĩa là không có hạn lượng.
Nếu người nào có thể giải rõ nghĩa thú kinh này, đúng như pháp mà tu hành, thì tất cả chư Phật trong a tăng kỳ kiếp dùng vô tận trí để nói phước báo của người đó cũng không cùng tận. Nếu chỗ nào có pháp sư giảng thuyết kinh này, phải biết nơi đó liền nên xây tháp. Vì sao vậy? Vì chánh pháp chân thật từ nơi đó xuất sanh. Kinh này tuỳ ở quốc độ, thành ấp, tụ lạc, chùa miếu, tịnh xá nào, phải biết những nơi đó chính có pháp thân. Nếu có người nào cúng dường hoa hương, kỷ nhạc, lụa treo, tràng phan, bảo cái, ngâm ca, tán thán, chấp tay cung kính đối với kinh này, phải biết người đó đã nối tiếp Phật chủng, huống lại thọ trì đầy đủ kinh này. Những người đó thành tựu công đức, trí tuệ, trang nghiêm (pháp thân), ở đời vị lai được Phật thọ ký, quyết định thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác.



CHÚ GIẢI

1. Phạn hạnh: Là hạnh của Phạn thiên, có 2 nghĩa mở rộng: hạnh đoạn dâm dục gọi là phạn hạnh, hạnh đạt niết bàn gọi là phạn hạnh. Pháp số của phạn hạnh nghĩa đầu tiên là từ bi hỷ xả.
2. Chuyển thắng thanh tịnh diệu quả: Là chuyển bỏ phiền não chướng và sở tri chướng mà chuyển được đại bồ đề và đại niết bàn. Theo Duy thức là được quả Chuyển y. Được chuyển y rồi thì đối tượng không còn điên đảo; đối tượng ấy chính là thức thứ tám đã vô lậu, gọi là chân như xuất triền (ra khỏi sự trói buộc).
3. Các địa = thập địa: Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa.
4. Là xuất thế gian Phật bảo: chỉ cho đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, chư Phật trong 10 phương 3 đời.
5. Là xuất thế gian Pháp bảo: chỉ cho chánh pháp của Phật, có công năng làm cho chúng sanh giải thoát sự ràng buộc của thế gian, như pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Lục độ v.v…
6. Là xuất thế gian Tăng bảo: chỉ cho các vị thánh tăng đã thoát ra ngoài sự ràng buộc của thế gian như các ngài Ca diếp, A nan …. Phàm tăng thì ly nhiễm, nghĩa là sống trong cảnh ngộ nào cũng không nhiễm cảnh ngộ đó, là “thanh bạch giữ đạo, phạn hạnh cao xa, bủa lòng từ bi ra khắp tất cả”.
7. Chánh định tụ: Thánh giả từ địa vị kiến đạo trở về sau, đã đoạn trừ kiến hoặc, nhất định vào trạch diệt (niết bàn), gọi là chánh tánh hay chánh tánh định tụ. Nói giản dị, chánh định tụ là nhóm người bước tới địa vị thánh giả, khác với tà định tụ là nhóm phàm phu. Niệm chánh định tụ là muốn từ phàm phu mà vươn lên địa vị thánh giả, là muốn cố định trong sự phát tâm.
8. Tà định tụ: Nếu nhóm người đi theo chánh pháp gọi là chánh định tụ, thì nhóm đi theo tà thuyết gọi là tà định tụ và nhóm chưa theo bên nào gọi là bất định tụ. Niệm tà định tụ là nghĩ nhớ đến nhóm tà định tụ là những người chưa phát tâm, chưa vào dòng giống của Phật, chưa huân tập chân như, muốn giúp họ quay về với bản thể chân như.
9. Ác thời: những điều kiện, cơ hội dễ phát sanh điều ác, và những điều kiện, cơ hội cản trở sự phát sanh điều thiện.
10. Bố thí, trì giới, nhẫn nhục thuộc về giới học tăng thượng; thiền định thuộc về tâm học tăng thượng; trí tuệ thuộc về tuệ học tăng thượng. Tinh tấn bao gồm giới, tâm và tuệ học.
11. Nhất thiết trí: tuệ giác biết toàn thể, biết về bản thể. Tuệ giác thanh văn có phần tương tự tuệ giác này.
12. Dục tâm = bồ đề tâm: Dục tâm sở ở đây thuộc thiện tánh. Đó là sự ham thích, mong cầu bồ đề, làm động lực cho mọi điều thiện phát sanh. Có thể nói đây là công việc phát đại tâm, lập đại nguyện của sự phát bồ đề tâm.
13. Buộc sự nhớ nghĩ của mình ở nơi hiện cảnh: Chánh văn là hệ niệm tại tiền. Buộc niệm là đối trị cái tâm duyên cảnh quá hiện vị lai và cái tâm chỉ duyên hiện cảnh. Ở nơi hiện cảnh là chỉ cho giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, thân đâu tâm đó.
14. Ác giác quán: Tư tưởng, cái nhìn ác, như dục, sân, hại v.v… làm trở ngại việc tu tập thiền định.
15. Bát giải thoát: Tám giải thoát, gồm: 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát, 2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát, 3. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ, 4. Không vô biên xứ giải thoát, 5. Thức vô biên xứ giải thoát, 6. Vô sở hữu xứ giải thoát, 7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát, 8. Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ trụ.
16. Thủ lăng nghiêm tam muội: Phép thiền định, quán tưởng rốt ráo và kiên cố tên là Thủ lăng nghiêm. Phương pháp này căn cứ theo kinh Thủ lăng nghiêm, theo đó nhận chân rằng các pháp đều từ thực thể là Như Lai tạng tâm mà tuỳ duyên biến hiện, như huyễn như hoá. Nhờ sức của Thủ lăng nghiêm tam muội mà bồ tát được bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh của chư Phật.
17. Kim cang tam muội: Ví như kim cương, không vật nào là không bị nó phá vỡ; tam muội này cũng vậy, không pháp nào là không thông đạt. Kim cang tam muội có những năng lực rất lớn như: phá tan tất cả các pháp vì thấy các pháp là vô thường, duyên sinh, vô tướng; diệt hết các phiền não, oán thù, thu phục được tất cả pháp; biến hiện vô lượng thân hình ở khắp cõi nước mười phương; thuyết pháp vô lượng vô ngại.
18. Kinh Pháp hoa, phẩm Hoá thành dụ, thứ 7.
19. Bạch cốt quán: Một phép quán tưởng trong Bất tịnh quán, bao gồm 9 điều quán tưởng nên còn gọi là Cửu tưởng quán, đó là: 1. Thây sình trương, 2. Thây huỷ hoại, 3. Máu mủ chảy ra, 4. Thây rục rã, 5. Thây xanh chàm, 6. Thây bị giòi rúc rỉa, 7. Thây tan rả, 8. Thây còn lại đống xương, 9. Thây bị đốt tiêu. Phép quán tưởng này giúp hành giả khỏi mê tưởng những thứ ngũ dục cho là đẹp và tốt, cũng như giác ngộ biết rõ thân người là bất tịnh mà trừ bỏ tập khí tham dục.
20. Ly dục là từ bỏ cái nhân của tham, ly bất thiện pháp là từ bỏ cái nhân của si. Ly dục là thanh tịnh thân nghiệp, ly bất thiện pháp là thanh tịnh ý nghiệp.
21. Có giác có quán = có tầm có tứ. Tầm (vitkka) có nghĩa là đánh mạnh vào, có đặc tính là hướng tâm, để tâm trên đối tượng. Tứ (vicàra) là tư duy được đưa lên cao độ, có đặc tính liên tục nhấn mạnh vào đối tượng, dán chặt vào đối tượng. Sơ thiền xảy đến cùng một lúc với tầm và tứ nên gọi là “có giác có quán”, như nói một cây có hoa và trái.
22. Ly sanh hỷ lạc: Bằng tâm lý nhàm chán cái ô trược của cõi Dục và mong cầu xuất ly (Ly), sau đó bằng thiền định mà xa lìa được cái ô trược của cõi Dục, nên sanh tâm vui mừng (Sanh hỷ lạc). “Hoàn toàn ly dục, ly bất thiện pháp, vị ấy chứng và trú sơ thiền, có tầm có tứ, với hỷ lạc do ly dục sanh”.
23. Không giác không quán = Không tầm không tứ: Khi xuất sơ thiền, tầm và tứ đối với hành giả bấy giờ thành thô, trong khi hỷ lạc và nhất tâm có vẻ an tịnh. “Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, hành giả chứng và trú nhị thiền, nội tĩnh nhất tâm, không tầm không tứ, với hỷ và lạc do định sanh”
24. Định sanh hỷ lạc: Cái vui mừng ở sơ thiền làm tâm chao động, cần phải dứt trừ. Mặc dù sơ thiền cũng có định tương ưng nhưng chỉ có nhị thiền mới đáng gọi là định vì nó tuyệt đối vắng mặt sự giao động của tầm tứ, bởi vậy nhị thiền được gọi là “do định sanh”. Nhị thiền từ bỏ được hai pháp tầm và tứ, và được ba pháp là hỷ, lạc và nhất tâm. “Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, hành giả chứng và trú nhị thiền, nội tĩnh nhất tâm, không tầm, không tứ, với hỷ và lạc do định sanh”.
25. Hành xả = trú xả (upekkha), có nghĩa là ngắm nhìn sự vật khi chúng xảy ra, sự vật xảy ra như thế nào thì nhìn nó như thế ấy, tức là nhìn một cách thản nhiên, không thêm không bớt thành kiến.
26. Tâm niệm an nơi tuệ = chánh niệm tỉnh giác. Chánh niệm (tâm niệm) thuộc về định, tỉnh giác thuộc về tuệ. Chánh niệm là nhớ lại, không quên, gìn giữ. Tỉnh giác là không rối loạn, tra tầm, thăm dò. Mặc dù chánh niệm tỉnh giác vẫn hiện hữu ở hai thiền đầu, nhưng tương đối còn thô nên tâm dễ phiêu lưu. Chánh niệm tỉnh giác được nói đến ở thiền thứ ba vì những pháp thô đã được từ bỏ, và tính cách vi tế của tam thiền đòi hỏi tâm phải luôn luôn chánh niệm tỉnh giác, như người đi trên lưỡi dao cạo.
27. Ở tam thiền Ly hỷ diệu lạc thì tầm tứ phải được tịnh chỉ. Một khi từ bỏ tầm tứ thì cũng rơi rụng tâm hỷ ở nhị thiền. Ly hỷ, trú xả để được cái lạc thù thắng vi diệu. “Ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc thọ, hành giả chứng và trú tam thiền, một trạng thái mà các bậc thánh đã tuyên bố: người nào có xả và chánh niệm, người đó trú trong an lạc”.
28. Đoạn khổ đoạn lạc: Là từ bỏ lạc và khổ của thân.
29. Sự diệt trừ từ trước của ưu hỷ: Là từ bỏ vui và khổ của tâm. Từ trước là không phải ở giai đoạn tứ thiền mới xảy ra.
30. Bất khổ bất lạc: Không khổ vì vắng mặt thân khổ, không lạc vì vắng mặt thân lạc, nghĩa là có một cảm thọ thứ ba trái ngược với khổ và lạc, còn gọi là xả. Bản chất của xả là trung tính, rất vi tế, khó nắm bắt. Xả là điều kiện đưa tới tâm giải thoát.
31. Có sự thanh tịnh của niệm nhờ xả: Chánh văn là hành xả niệm tịnh, nghĩa là niệm trong thiền này là hoàn toàn thanh tịnh, và sự thanh tịnh của nó có được là nhờ xả. Tứ thiền Xả niệm thanh tịnh là: “Với sự từ bỏ lạc khổ, với sự biến mất từ trước của hỷ và ưu, vị ấy chứng và trú tứ thiền, không khổ không lạc, có sự thanh tịnh của niệm nhờ xả”.
32. Hữu đối tướng: Đối có nghĩa là ngại. Có chướng ngại thì gọi là hữu đối. Tướng có tính ngăn ngại ở đây là: 1. Cảnh giới hữu đối: 6 căn, 6 thức và các tâm sở tương ưng bị 5 cảnh và một phần của pháp cảnh câu thúc, do thủ cảnh nên chẳng được tự tại, 2. Sở duyên hữu đối: bị 6 thức và một phần pháp cảnh câu thúc, do tác dụng duyên lự nên không được tự tại.
33. Hư không vô sắc định xứ = Không vô biên xứ định.
34. Vô sắc thức định xứ = Thức vô biên xứ định.
35. Không có sở hữu: không còn thấy có tâm thức, năng sở, nhân ngã, nhưng vẫn còn tưởng. Mà còn tưởng thì còn vọng động.
36. Vô sở hữu vô sắc định xứ = Vô sở hữu xứ định.
37. Vô sắc phi hữu tưởng phi vô tưởng = Phi tưởng phi phi tưởng xứ định.
38. Tuỳ thuận pháp hành = tuỳ pháp hành: Nương theo giáp pháp mà tu hành. Chỉ cho hàng thánh giả Thanh văn thừa kiến đạo, là hạng lợi căn, để đối với hạng độn căn là tuỳ tín hành (tin theo lời dạy bảo của người khác mà tu hành). Bậc tuỳ pháp hành là người tự mình khéo quyết trạch tư duy về giáo pháp, như lý tu hành.
39. Ưa đắm là chỉ tin những khái niệm do nhận thức thác loạn. “Giáo lý chỉ như một chiếc bè, cốt dùng để qua sông chứ không phải để mà ôm giữ lấy”. (Trung bộ kinh). Giáo pháp ở đây chỉ cho sự chứng đạt tâm linh cao cả, những ý tưởng và quan niệm thanh khiết. Sự ưa đắm vào những điều cao quí này cũng phải được xả bỏ, huống chi những gì là phi pháp thì càng nên xả bỏ.
40. Thông minh thiền: Các thánh giả A la hán khi tu tập định theo thứ đệ từ tứ thiền định, tứ vô sắc định, diệt tận định đều phải quán 3 thiền pháp là hơi thở, sắc pháp và tâm pháp. Sau đó phải tu tập thông minh quán thiền, nghĩa là khi tu thiền định này thì hẳn nhiên quán thông hơi thở, sắc pháp và tâm pháp, trong đó có được cái thấy thấu triệt không chướng ngại. Tu tập định này có khả năng chứng được tam minh, lục thông, nên gọi là thông minh. Có thể dịch là: thành tựu tam minh, lục thông, các tam muội, thiền na ba la mật.
41. Thông nghiệp: Sức thần thông của nghiệp báo, còn gọi là báo thông. Có được thông nghiệp là do những phước thiện và công đức tu hành trong nhiều đời trước. Các thông nghiệp là chỉ cho ngũ thông.
42. Tâm hành: Tâm là tâm ý thức mà từng giây, từng niệm luôn luôn dời đổi, là kẻ gây ra điều thiện, điều ác, gọi là tâm hành.
43. Pháp tánh = không tánh.
44. Ác tâm = vọng tâm. Thiền định là cách thức chuyển vọng về chân.
45. Phiền não chướng và trí tuệ chướng: Phiền não chướng là những tâm lý xấu ác, làm chướng ngại cho giải thoát niết bàn. Trí tuệ chướng cũng gọi là trí chướng, sở tri chướng. Sở tri là các pháp, đối với các pháp ấy mà không biết được hay biết sai là vì ngu si, nên gọi ngu si là sở tri chướng. Lại biết chưa hoàn toàn mà tự mãn cho là đủ, thì chính sự tự mãn ấy cũng chướng ngại cho sự toàn giác, nên cũng gọi là trí chướng. Trí ở đây là là trí biết chưa hoàn toàn. Trí tuệ chướng như vậy là chướng ngại cho tuệ giác bồ đề.
46. Tát bà nhã trí = nhất thiết trí: tuệ giác biết toàn thể, biết về bản thể.
47. Thiện dục: Dục tâm sở đủ cả 3 tánh: thiện, ác và vô ký. Dục ham thích mong cầu ngũ dục là ác tánh. Dục ham thích mong cầu bồ đề và làm động lực cho mọi điều thiện là thiện tánh.
48. Tứ phạn hạnh = tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ và xả. Bốn tâm này là nghiệp hành để sanh về cõi Phạn thiên.
49. Chánh trí: 1. Là căn bản trí, thông đạt chân như, 2. Là hậu đắc trí, phân biệt tất cả tướng sai biệt.
50. Quán bất tịnh: Là quán sát một cách tỉ mỉ, cùng tột thân con người, để nhận thấy rõ ràng nó là không trong sạch. Bất tịnh có 5 thứ: chủng tử, trụ xứ, tự tướng, tự thể và chung cánh.
51. Mười sáu thánh tâm: 16 hành tướng quán sát tứ đế để vào địa vị kiến đạo, sau khi đoạn được kiến hoặc. Đó là sự kết hợp của 8 pháp nhẫn vô lậu và 8 pháp trí vô lậu: 1. Khổ pháp nhẫn, 2. Khổ pháp trí, 3. Khổ loại nhẫn, 4. Khổ loại trí, 5. Tập pháp nhẫn, 6. Tập pháp trí, 7. Tập loại nhẫn, 8. Tập loại trí, 9. Diệt pháp nhẫn, 10. Diệt pháp trí, 11. Diệt loại nhẫn, 12. Diệt loại trí, 13. Đạo pháp nhẫn, 14. Đạo pháp trí, 15. Đạo loại nhẫn, 16. Đạo loại trí.
52. Minh tuệ: Tam minh: thiên nhãn minh, thiên nhĩ minh, lậu tận minh, và tam tuệ: văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ.
53. Định tuệ căn bản: Căn bản định là 8 căn bản định từ sơ thiền đến phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Căn bản tuệ là bản giác, là tuệ giác vốn có, là tâm thể tách rời phân biệt, chính là pháp tánh đồng nhất, đồng đẳng không gian, phổ biến toàn thể, là pháp thân bình đẳng mà các đức Như lai đã chứng ngộ.
54. Vì tách rời nhị biên nên không có thủ, không có xả. Nhị biên là thấy trong, thấy ngoài, thấy hai bên.
55. Theo ngài Thế Thân, ngã là khái niệm tự ngã, chúng sanh là khái niệm sinh thể (hay khái niệm liên tục), thọ giả (thọ mạng) là khái niệm đời sống (hay khái niệm tồn tại), nhân là khái niệm tái sanh.
56. Chánh văn là không đẳng tam muội, tức chủng không tam muội: không tam muội, vô tướng tam muội, vô nguyện tam muội.
57. Chẳng tuỳ thiền sanh: Là khéo xuất nhập mà không đắm trước vào sự hỷ lạc của thiền định.
58. Quyết định: Là nhất định bất biến, là tâm mình không động, không thối lui. Tu tập trí tuệ thì được vô công dụng quyết định.
59. Hý luận: Nghĩa đen là bàn cải chơi đùa đến thảo luận vô ích. Ở đây chỉ cho những gì thuộc phạm vi tư duy (tư) mô tả (nghị), nói cách khác những gì thuộc tâm hành xứ và ngôn ngữ đạo, đều là hý luận. Vậy không hý luận là bất tư nghị, là ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt. Kinh Di giáo dạy: “Hãy từ bỏ tức khắc sự hý luận rối loạn tâm trí. Các thầy muốn thực hiện cái vui tịch diệt, thì chỉ có cách cấp tốc diệt trừ cái hoạn hý luận.”
60. Rời tất cả tướng có-không v.v… gọi là thật tướng, vì tất cả tướng: có-không v.v… đều là hư dối cả.
61. Vô sở hành: Nhậm vận tu hành, không phải tác ý và dụng công, vì pháp tánh không thể thủ đắc.
62. Phong hàn nhiệt huyết: Tập hợp của tứ đại đất nước lửa gió.
63. Nhất tướng: Chỉ cho chân như bình đẳng vô sai biệt, nghĩa là siêu việt phân biệt và đối tượng phân biệt. Thiên thai tông giải thích là “nhất thừa vô nhị, đồng nhất giải thoát”. Kinh Pháp hoa, phẩm Dược thảo dụ có ghi: “Đức Như lai nói pháp một tướng một vị, nghĩa là: tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, rốt ráo đến nhất thiết chủng trí” (Như lai thuyết pháp, nhất tướng nhất vị, sở vị giải thoát tướng, ly tướng, diệt tướng, cứu cánh chí ư nhất thiết chủng trí).
64. Vô tướng: Kinh Đại bảo tích ghi: “Bản tánh tất cả các pháp vốn không. Tự tánh tất cả các pháp là vô tánh. Nếu là không, vô tánh, thì các pháp là nhất tướng, cũng có nghĩa là vô tướng. Do vì vô tướng nên các pháp vốn thanh tịnh. Nếu là không, vô tánh, thì các pháp không thể dùng tướng để biểu thị”. Đây gọi là tất cả các pháp vô tự tánh, bản tánh là không, vô hình tướng có thể thủ đắc, nên gọi là vô tướng.
65. Chỉ cho các thức thứ 8, thứ 7 và thứ 6.
66. Tác giả: chủ thể tạo tác.
67. Mạng giả = thọ giả: chủ thể sử dụng.
68. Vô tánh = vô tự tánh: Tức nói 3 vô tánh: tướng vô tánh, sanh vô tánh và thắng nghĩa vô tánh. Tướng vô tánh là biến kế chấp tánh của các pháp, tánh ấy do giả danh thiết lập. Sanh vô tánh là y tha khởi tánh của các pháp, vì do cái khác làm duyên tố chứ không phải tự nhiên có. Thắng nghĩa vô tánh là viên thành thật tánh, vì các pháp duyên sanh, vì các pháp vô ngã mà gọi là vô tánh. Căn cứ 3 vô tánh này mà đức Phật mật ý nói các pháp toàn không.
69. Không: Là không phải hai tướng và tiêu diệt. Không như vậy là phủ nhận cái không hoàn toàn không, cái không biệt lập với cái có và cái không vì cái có tiêu diệt. Theo nghĩa thông thường, không được hiểu là ngã không và pháp không, nghĩa là cả bản ngã lẫn vũ trụ đều không.
70. Vô sở hữu = vô sở đắc: Hễ có hai tướng là hữu sở đắc, không hai tướng là vô sở đắc. Vô sở đắc hay bất khả đắc là từ ngữ biểu lộ một thực tại toàn diện siêu tuyệt mọi hai tướng, siêu tuyệt cả ý niệm khẳng định và ý niệm phủ định, vì thực tại vốn là như thế.
71. Vô tướng: Là trong pháp tánh, quán các pháp không thể thủ đắc.
72. Ly tướng: Là rời xa các tướng vốn là các tướng hý luận, những khái niệm nhị biên.
73. Vô niệm = chân như: Siêu việt khái niệm, phân biệt, là ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt.
74. Ly niệm: Là rời xa các ý tưởng, khái niệm về ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.
75. Ban đầu lấy 1 lớp không, không nơi các tướng, nên gọi rằng vô tướng. Kế lấy 2 lớp không, không nơi vô tướng, nên gọi rằng vô niệm. Sau cùng, lấy 3 lớp không, không nơi vô niệm, nên gọi rằng cái không siêu tuyệt hay tuyệt đối không, tất cánh không.
76. Mười hai bộ kinh: Thể văn và sự lý trong tất cả các kinh chia ra 12 loại (bộ = bộ phận, hay chi = thành phần), mà có bộ hay cuốn kinh đủ cả 12 loại, có bộ hay cuốn chỉ là 1 loại cho đến 11 loại. Đó là: 1. Tu đa la (Sutra = khế kinh, vì khế hợp chân lý và tâm lý) là thể văn trường hàng trong các kinh, nói thẳng pháp nghĩa, 2. Kỳ dạ (Geya = ứng tụng hay trùng tụng) là thể văn chỉnh cú ứng với văn trường hàng mà lặp lại pháp nghĩa ở trước, 3. Già đà (Gatha = phúng tụng hay cô khởi) là thể văn chỉnh cú không theo trường hàng mà tự nói pháp nghĩa, 4. Ni đà na (Nidana = nhân duyên) là thuật lại lý do thấy Phật nghe pháp, lý do và địa điểm Phật thuyết pháp giáo hoá, 5. Y đế mục đa (Itivutaka = bản sự) là Phật thuật lại nhân duyên quá khứ của đệ tử, 6. Xà đa già (Jataka = bản sanh) là Phật nói về nhân duyên quá khứ của ngài, 7. A phù đạt ma (Adbhutadharma = vị tằng hữu) là ghi lại những việc bất tư nghị của thần lực Phật thị hiện, 8. A ba đà na (Avadana = thí dụ) là nói những ví dụ, 9. Ưu bà đề xá (Upadesa = luận nghĩa) là vấn đáp thảo luận về pháp nghĩa, 10. Ưu đà na (Udana = tự thuyết) là Phật tự nói chứ không ai hỏi được, 11. Tỳ phật lược (Vaipulya = phương quảng) nói về chân lý chính xác và rộng lớn, 12. Hoà già la (Vyakarana = thọ ký) thọ ký thành Phật cho bồ tát. Tựu trung, 3 loại đầu là chia theo thể văn, 9 loại sau là chia theo sự lý của thể văn ấy.
77. Tứ sự cúng dường: là đồ ăn, đồ mặc, đồ nằm và dược phẩm.
78. Vô đắc: vô sở đắc, là không tìm thấy được thực có.
79. Tối thượng pháp nhẫn = tuệ giác tối thượng: Sự thể nhận pháp tối thượng. Nhẫn là nhẫn chịu, chấp nhận, thể nhận. Nhẫn là nhân của trí, có chỗ cho nhẫn tức là trí. Pháp tối thượng là thật tướng (= bản thể của các pháp) hay “pháp tánh thanh tịnh, như thật thường trú”. Thể nhận pháp tối thượng ấy gọi là tuệ giác tối thượng. Được tuệ giác này là được đến vị trí Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
80. Phá tăng: Là phá yết ma tăng và pháp luân tăng. Phá yết ma tăng là dù chỉ có 4 vị tỳ kheo mà một người không đồng chúng hoà hợp hay tập hợp, thì Tăng già yết ma bất thành, mọi tăng sự, kể cả sự thuyết giới, đều không thể cử hành. Phá pháp luân tăng là dù chỉ có 9 vị tỳ kheo mà 1 tỳ kheo đứng ra chia rẽ, kéo theo mình 4 tỳ kheo (để đủ số tỳ kheo làm yết ma) rồi tự xưng ra giáo pháp và lập giáo đoàn riêng, như trường hợp phá tăng của Đề bà đạt đa vào thời Phật. Phá tăng như vậy là phá hoại đạo pháp. Theo tôn giả Thế Thân, loại tội nặng nhất là năm tội vô gián, mà trong đó tội phá tăng, nhất là phá pháp luân tăng, là tội nặng nhất, vì “thương tổn pháp thân của Phật”. Phá tăng như vậy, bản thể là cuống ngữ. Kẻ phá tăng là tỳ kheo, không phải tại gia hay tỳ kheo ni mà làm được; là kẻ tịnh hạnh chư không phải người phạm giới, bởi vì phạm giới thì nói không uy tín. (Câu xá luận)
81. Hai bộ chúng: Là Thượng toạ bộ và Đại chúng bộ. Sau khi đức Thế tôn nhập niết bàn hơn một trăm năm thì đại tăng của Phật giáo bắt đầu phân hoá ra làm 2 bộ, là Đại chúng bộ và Thượng toạ bộ. Sự thể có ra sự phân hoá 2 bộ, căn bản là do ngài Ca Diếp, nhưng gây ra tranh biện và phân hoá học thuyết chính là sự hạ giá quả vị La hán của 5 sự Đại Thiên. Đó là 5 nhược điểm của quả vị La hán: 1. Vẫn còn xuất tinh nhưng không có ý tưởng dâm dục, 2. Vẫn còn sự không biết vô hại, 3. Vẫn còn sự nghi hoặc vô hại, 4. Vẫn có vị nhờ người khác giúp cho mà biết vào đạo, 5. Có vị ngộ đạo nhờ âm thanh thuyết pháp. Qua đó cho thấy La hán chưa phải Phật quả, Phật quả mới toàn hảo. Từ Đại chúng bộ phân hoá ra 7 bộ khác, từ Thượng toạ bộ phân hoá ra 11 bộ nữa, tổng cộng có 20 bộ phái. “Mười tám bộ ngọn, với hai bộ gốc, tất cả toàn là xuất từ đại thừa, không có gì phải, không có gì trái”. (Kinh Văn Thù Vấn)
82. Tứ ma: 1. Phiền não ma: tham, sân, si … não hại thân tâm, 2. Ngũ ấm ma: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là ma não hại thân tâm, 3. Tử ma: Ma chết hay cướp mạng sống, 4. Thiên ma: Ma trên cõi trời Tha hoá tự tại hay phá hoại thiện pháp, não hại người tu thiện.
83. Kinh Hoa Nghiêm: Quên mất tâm bồ đề mà tu hành các thiện pháp, thì gọi là hành động theo ma vương.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 2 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Nguồn chân lẽ thật


Hoa nhẫn nhục


Các bài tiểu luận về Phật giáo của Trần Trọng Kim


Kinh Kim Cang

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.146.206.87 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập