Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
35
Đức Phật giảng kinh cho các đệ tử. Bấy giờ có người thợ săn vác nỏ và mang hơn mười con chim chết, qua đến xem Phật, với ý tinh thành, nguyện nghe giảng kinh, lòng muốn nghe nhận. Phật bèn ngưng, không giảng nữa. Người thợ săn bỏ đi, nói: “Nếu ta thành Phật, sẽ vì hết thảy mọi người thuyết pháp, không trái ý ai”.
A Nan hỏi Phật: “Người này dọn lòng, muốn nghe giáo lý, sao làm trái ý?” Phật dạy: “Người ấy là bậc đại Bồ tát, lập tâm kiên cố. Xưa làm quốc vương, lòng ở không đều với đám thể nữ, những kẻ không gặp sủng ái cùng nhau giết vua. Vua sinh vào nhà thợ săn. Các thể nữ đều đọa làm muông thú. Nay trả hết tội rồi, sau sẽ thành tựu. Nếu giảng kinh cho người ấy, e lòng y sợ hãi, sẽ đọa vào đường la hán, nên không giảng kinh cho y”.
36
Xưa trong chùa Phật có vạc vàng dùng để nấu thức ăn cung cấp cho các sư. Bấy giờ có người phàm vào xem, thấy vạc vàng, muốn lấy cắp, nhưng không có cách. Bèn giả vờ làm sa môn. Mặc áo tu vào ở trong các sư, nghe vị thượng tọa giảng kinh, nói về các chứng yếu của tội phước sống chết, các bằng cớ của quả báo ảnh hưởng không thể thoát được. Kẻ cắp trong lòng hiểu ra, cảm thấy hổ thẹn hối hận, dọn lòng chuyên tâm thì thấy được dấu đạo. Nghĩ đến nguyên do thì “vạc là thầy ta”, bèn đặc biệt trước đến lạy chiếc vạc, đi quanh ba vòng, rồi tự nói hết đầy đủ cho các sa môn nghe.
Phàm việc giác ngộ mỗi người đều có lý do. Lòng chuyên nhất thì không thể nào không thấy sự thật.
37
Xưa có A Na Luật đã chứng la hán thì dung nhan ông trong chúng Tỳ kheo đẹp đẽ như người con gái. Lúc ấy ông đi một mình trong cỏ. Có một thanh niên ăn chơi thấy, cho là con gái. Lòng tà nổi mạnh, muốn đến cưỡng hiếp, thì biết là đàn ông. Trông lại mình, thân hình biến thành con gái. Bèn hổ thẹn uất ức, tự đày mình vào núi sâu, không dám về nhà.
Trải hơn mấy năm, vợ con nhà anh ta không biết sống chỗ nào, cho là đã chết mất, khóc lóc không yên. (Một hôm) A Na Luật đi khất thực, đến tới nhà ấy. Người vợ khóc lóc, tự kể việc chồng mình đi không về, mong phước lực bố thí khiến chồng được sống sót. A Na Luật mặc nhiên không đáp, lòng có niềm thương. Bèn đến trong núi, tìm gặp. Người ấy hối lỗi tự trách, thân hình trở lại thành đàn ông, bèn trở về nhà, gặp lại vợ con.
Phàm người đắc đạo thì không thể dùng ý ác đối với họ, nếu không, trở lại mình chịu tai họa.
38
Xưa có Tỳ kheo ngồi dưới gốc cây trống vắng hành đạo. Trên cây có một con khỉ, thấy Tỳ kheo ăn, nó tụt xuống đứng một bên. Tỳ kheo lấy cơm dư đem cho. Khỉ được ăn, bèn đi lấy nước dùng để tắm rửa. Như vậy cả tháng. Hôm sau ăn, bỗng quên không để cơm lại. Khỉ không được ăn, rất giận, lấy cà sa của Tỳ kheo đem lên cây, xé nát hết. Vị Tỳ kheo tức con vật đó, lấy gậy đánh, lỡ trúng rớt xuống đất. Khỉ liền chết. Mấy con khỉ khác cùng đến gào khóc, khiêng con khỉ chết đến trong chùa Phật. Chúng Tỳ kheo biết tất có lý do. Họ tập hợp các Tỳ kheo tìm hỏi ý nghĩa. Vị Tỳ kheo ấy kể lại đầy đủ sự thật. Từ đó, đặt quy định: “Từ nay trở đi, Tỳ kheo mỗi khi ăn phải cắt bớt phần ăn để lại cho các loài động vật, không được ăn hết”. Đàn việt dâng cơm bắt đầu từ đó.
39
Xưa có ba ba gặp mùa khô hạn, ao đầm cạn kiệt, không thể tự mình đi đến chỗ có ăn. Bấy giờ có con cò đến đậu một bên. Ba ba đến xin thương xót, mong được cứu giúp. Cò ngậm ba ba, bay qua trên kinh đô. Ba ba không im tiếng, lại hỏi: “Đây là đâu?”. Như vậy không ngưng. Cò bèn đáp. Khi đáp thì mở miệng, ba ba liền rớt xuống đất. Người ta bắt được, làm thịt ăn.
Phàm người ngu không suy nghĩ, không giữ miệng lưỡi thì cũng ví như vậy.
Xưa có vị sa môn bảo người anh cạo đầu. Cạo xong, người anh cúi đầu sát đất làm lễ nói: “Xin cho ta đời sau, tâm ý trong sạch, trí tuệ như nhà tu”. Nhà tu nói: “Mong ông trí tuệ hơn tôi”. Người ấy làm lễ mà đi. Sau chết sinh lên trời Đao Lợi. Hết sống trên trời lại thác xuống sinh làm con nhà giàu, sau được làm sa môn có trí tuệ, thấy được dấu đạo. Đó là do lòng thành mà có.
40
Xưa có Phạm chí đến xin quốc vuơng. Quốc vương định đi săn, bảo Phạm chí chờ trên điện đợi ta về. Rồi ra đi săn, đuổi theo muôn thú, lạc mất đám bề tôi. Tới trong hang núi thì gặp quỉ. Quỉ muốn ăn thịt. Vua nói: “Hãy nghe ta nói. Sáng nay tại trong cửa hành, ta gặp một nhà tu tới xin. Ta bảo chờ trên điện đợi về. Nên nay ta xin tạm trở về cho đồ nhà tu ấy, xong sẽ đến cho ăn thịt”. Quỉ nói: “Nay ta muốn ăn ông, mà ông há chịu trở lại ư?” Vua nói: “Lành thay! Thật không có người tin là ta đang nghĩ tới nhà tu ấy sao?” Quỉ liền thả vua đi. Vua về cung, đem đồ vật cho nhà tu, giao nước cho thái tử. Vua trở lại gặp quỉ. Quỉ thấy vua đến, cảm lòng chí thành của vua, lễ tạ không dám ăn.
Thầy nói: “Vua dùng một chữ thành, mà toàn mạng cứu nước, huống nữa là người hiền giả vâng giữ năm giới, bố thí hết lòng, thì phước ấy vô lượng”.
41
Xưa vua A Dục thường thích bố thí, dâng cơm sa môn, bảo thái tử tự mình múc dọn các món ăn. Thái tử thầm giận nói: “Đến khi ta làm vua, sẽ giết hết các thầy tu”. Nhà tu biết thái tử tức giận, gọi thái tử bảo: “Ta không còn ở lâu thế gian nữa”. Thái tử kinh ngạc nghĩ: “Nhà tu sáng suốt nên mới biết tâm ý ta như vậy”. Bèn liền nghĩ ngược lại: “Khi ta làm vua, sẽ cúng dường các nhà tu hơn cha ta”. Lòng bèn thanh thản, bỏ ác theo thiện. Nhà tu nói: “Đến khi Ngài làm vua thì tôi đã sinh lên trời”. Thái tử nói: “Thánh thay vị sa môn”. Sau lên làm vua, bèn dùng năm giới mười lành làm quốc chiùnh, nước thành thái bình.
42
Xưa có nhà giàu lấy hai vợ. Vợ lớn hằng ngày đem cơm ngon cúng dường sa môn. Sa môn mỗi ngày đến lấy cơm. Vợ bé ghét cay. Hôm sau sa môn lại đến. Vợ bé liền lấy bát, đem đồ dơ bỏ trong bát, lấy cơm đặt lên trên, rồi trao bát lại cho sa môn. Sa môn đem đi, ở trong núi vừa định ăn, thấy đồ dơ, bèn đi rửa bát, sau không dám đến nữa. Từ đó trong miệng và thân thể vợ bé đều hôi. Người gặp đều chạy tránh. Sau chết đọa vào địa ngục phân sôi. Như vậy trải qua ba đường dữ mấy ngàn vạn năm, tội hết mới được làm người, thường muốn ăn phân, nếu không được thì bụng quặn đau. Sau làm vợ người ta, đêm dậy lén đi ăn phân. Như thế nhiều lần, chồng lấy làm lạ, bèn đi tìm xem, thấy vợ ăn phân. Do việc làm đời trước đưa tới.
Người có bốn việc khó được thành. Một là tháp. Hai là nhà ở cho chúng Tăng. Ba là dâng cơm cho chúng Tỳ kheo. Bốn là xuất gia làm sa môn. Làm được bốn việc đó thì phước nó vô lượng. Vì sao vậy? Ba cõi có lúc có. Đã được làm người, lại có của cải, hay nhổ được gốc bủn xỉn, bố thí đúng lúc, công nghiệp dựng thành, đó cũng là khó được. Có thể biết phước đó, chỉ đức Phật mà thôi.
Phật dạy: “Tỳ kheo không đem chuyện cơm ăn, mà gọi nhau là thân đạo. Chỉ đem kinh pháp răn dạy nhau mới là thân. Tỳ kheo đem chuyện ăn uống ngon ngọt dâng cúng nhau thì đời này Tỳ kheo có tiếng lành, nhưng đời sau không có gì đáp lại, mà đối đức Phật thì mắc lời dữ. Vì sao vậy? Ngoại đạo thấy Tỳ kheo sẽ nói: “Đệ tử Phật chỉ đem cơm ngon áo đẹp cho nhau. Ai dạy họ thế, chính là Phật”. Nên Phật mắc lời dữ. Tỳ kheo đem kinh giới đạo pháp mời dạy nhau, thì mới là rất thân hậu. Vì sao vậy? Ngoại đạo thấy Tỳ kheo, sẽ nói: “Đệ tử Phật chỉ đem kinh giới đạo pháp cho nhau, chứ không cho nhau gì khác”. Thì đối với Tỳ kheo đời này được tiếng lành, đời sau được giải thoát, còn đối với Phật thì có lời lành. Sao lại nói thế? Đức Phật là thầy của các Tỳ kheo, dạy đệ tử chỉ dùng kinh giới đạo pháp. Cho nên, không nhất thiết cho cơm ăn là ân huệ, mà chỉ đem lời lành cho nhau thôi.
Phật dạy: “Tỳ kheo nên biết đủ. Những gì là nên biết đủ? Ấy gọi là đi tìm một manh áo, một bữa ăn, thường ở chỗ kinh hành nghĩ tới điều không nghĩ, bên ngoài tìm cách ngừng lại không làm loạn ý. Đó là biết đủ. Nhưng cũng không nên kể biết đủ, ấy gọi là kinh giới cho đến được định bốn thiền và bốn không; bậc Tu đà hoàn, Tư đà hàm, thì chưa thể kể là biết đủ. Như thếø không nên kể là đủ”.
43
Có Tỳ kheo đi khất thực. Đứng giữa đường, thấy quá muốn tiểu, bèn đi tiểu. Người đi đường thấy, đều chê cười, nói: “Đệ tử Phật đi đứng có phép tắc, ăn mặc có oai nghi. Mà Tỳ kheo này đứng tiểu thì thật rất đáng chê cười”. Bấy giờ có ngoại đạo phái Ni Kiền Tử thấy người ta chê cười Tỳ kheo ấy, bèn tự nghĩ: “Chúng ta giòng Ni Kiền Tử, trần truồng mà đi không ai hỏi. Đệ tử Phật đứng tiểu thì người ta đều cười chê. Như vậy, thấy chúng ta không có phép tắc, nên người ta không cười. Chỉ riêng đệ tử Phật, phép tắc trong sạch, có lễ nghi, dễ cho người ta bàn tán vậy”. Bèn tự mình đi về chỗ Phật, xin làm sa môn, liền được quả Tu đà hoàn.
Tỳ kheo là thầy của mọi người, giống như sư tử là vua của các loài thú, nên ăn nói phải đúng phép, đi đứng nằm ngồi phải có oai nghi, để làm phép tắc cho mọi người, không được tự khinh. Tự khinh tự hủy mình là làm nhục tiên hiền.
Vua trời Đế Thích và đệ nhất Tứ thiên vương, vào ngày rằm ba lần xem thiên hạ ai trì giới, thấy ai trì giới liền vui mừng. Bấy giờ vào ngày rằm, vua trời Đế Thích ngồi tại chánh điện, tự nghĩ: “Thiên hạ nếu có ai ba lần ăn chay ngày rằm thì khi chết có thể được ngôi ta”. Các trời ngồi bên vô cùng kinh sợ, nói: “Chỉ ngày rằm ăn chay ba lần, mà được chỗ của Đế Thích ư?” Có Tỳ kheo đã chứng A la hán, biết tâm niệm của Đế Thích, bạch Phật, nói: “Há có thể đúng như lời Đế Thích nói chăng?” Phật dạy: “Lời Đế Thích nói, không thể tin, vì không nói thật. Sao vậy? Người tinh tấn ngày rằm ăn chay ba lần có thể độ được đời, sao chỉ vì ngôi của Đế Thích? Như thế là nói không thật, chưa đủ tin. Ai có thể biết được phước của việc trì trai, chỉ Phật mà thôi”.
44
Trong biển có rồng lớn. Rồng muốn làm mưa trên đất cõi Diêm phù đề, nhưng sợ đất không chịu được nước mưa. Ý rồng nghĩ: “Đất không chịu được ta làm mưa, thì ta về biển mình mà mưa”. Phật ban cho đệ tử oai đức rất lớn, muốn đem ban cho chín mươi sáu nhà ngoại đạo, nhưng sợ không thể chịu được. Nên đệ tử Phật dần dà tự ban cho nhau, giống như rồng tự trở về làm mưa trong biển mình.
45
Xưa có Phạm chí đã 120 tuổi. Trẻ không lấy vợ, không có lòng dâm, ở chốn núi sâu không người, dùng tranh làm nhà, lác làm chiếu, dùng nước suối trái rừng làm thức ăn uống, không chứa của cải. Vua mời không đến, lòng lặng ở chốn vô vi, ở trong núi đã mấy chục năm hơn (chỗ này nguyên bản viết chữ “thiên” là ngàn, nhưng so với truyện này trong Lục độ tập kinh, thì Lục độ tập kinh có chữ “thập”, chúng tôi cho chữ “thiên” là in sai của chữ “thập”, và dịch “chục”), ngày cùng cầm thú vui chơi. Có bốn con: Một là cáo. Hai là khỉ. Ba là rái. Bốn là thỏ. Bốn thú này hằng ngày ở chỗ tu nghe kinh dạy giới, như thế đã lâu, nên các trái rừng đã bị ăn sạch.
Sau nhà tu có ý muốn dời đi. Bốn con ấy rất buồn không vui, bèn cùng bàn nhau: “Chúng ta mỗi con đi tìm thức ăn để cúng dường nhà tu”. Khỉ đi đến một núi khác, lấy quả ngọt dâng nhà tu, xin ngưng đừng đi. Cáo cũng đi, hóa làm người xin ăn được một túi cơm khô, đem về dâng nhà tu có thể dùng làm lương thực cho một tháng, xin ở lại. Rái cũng lại xuống sông bắt cá lớn đem đến, để dâng nhà tu, đủ lượng một tháng, xin đừng đi. Thỏ tự nghĩ: “Ta sẽ có gì cúng dường nhà tu?” Rồi tự nghĩ: “Sẽ đem thân ta đến cúng dường”. Bèn đi lấy củi, đốt lửa để làm than, rồi đến thưa với nhà tu, nói: “Nay con là thỏ rất nhỏ bé, xin được vào nướng trong lửa, đem mình dâng nhà tu, có thể dùng làm lương thực một ngày”. Thỏ liền tự nhảy vào trong lửa, lửa vì vậy không cháy, nhà tu thấy thỏ, cảm nó nhân nghĩa, thương xót, bèn dừng ở lại.
Đức Phật nói: “Phạm chí lúc ấy là Phật Đề Hòa Kiệt. Thỏ lúc ấy là thân ta, Khỉ là Xá Lợi Phất, Cáo là A Nan, Rái là Mục Kiền Liên ấy vậy”.
46
Xưa có năm nhà tu cùng đi đường, gặp mưa tuyết, đến qua đêm trong một đền thần, trong đền có tượng thần, mà quan dân trong nước phụng thờ. Bốn người nói: “Đêm nay lạnh quá, có thể lấy tượng gỗ kia đốt để sưởi ấm”. Người còn lại nói: “Đó là tượng người ta thờ, không thể đem phá”. Bèn để lại không chẻ. Trong đền quỉ thường ăn thịt người. Chúng đang tụ nói chuyện với nhau: “Chính nên ăn người ấy vì người ấy sợ ta, còn bốn người kia dữ, không thể phạm được”. Người kêu ngưng không dám chẻ tượng, đêm nghe quỉ nói, thức dậy kêu bạn mình: “Sao không lấy chẻ tượng đó dùng để sưởi ấm”. Họ lấy đốt đi. Quỉ ăn thịt người bèn bỏ chạy.
Phàm người học đạo thường nên vững lòng, không thể khiếp nhược, để cho quỉ thần được tự tiện đối với con người.
47
Xưa có quốc vương bỏ nước đi làm sa môn, ở trong núi tịnh tu, lấy tranh làm nhà, lách làm chiếu, tự bảo là đắc chí, cười lớn nói: “Khoái thay!” Nhà tu ở gần bên hỏi: “Ngài khoái lạc, nay một mình ngồi trong núi học đạo thì có khoái lạc gì?”. Sa môn đáp: “Lúc ta làm vua lo nghĩ nhiều việc, hoặc sợ vua láng giềng cướp mất nước ta, sợ người cướp của cải ta, hoặc sợ ta vì người mà tham lợi, thường sợ đám bề tôi lợi dụng của báu của ta mà làm phản nghịch bất cứ lúc nào. Nay ta làm sa môn, người không tham lợi ta, khoái không thể nói. Vì thế, nói là khoái”.
48
Xưa có quốc vương rất thích đạo đức, thường đi nhiễu tháp trăm vòng. Chưa xong thì vua nước láng giềng đến đánh, muốn cướp nước ông. Bề tôi hầu hạ rất sợ hãi, liền đi báo vua, nói: “Có quân đến đánh, xin đại vương bỏ việc nhiễu tháp này, trở về quyền biến suy nghĩ để ngăn giặc dữ”. Vua nói: “Cho quân nó đến, ta quyết không bỏ”. Tâm ý như cũ, nhiễu tháp chưa xong thì quân giặc tan bỏ. Phàm người định ý nhất tâm, thì không gì là không diệt được.
49
Xưa có quốc vương, thường đi qua Phật làm lễ, không kể bùn mưa. Tôi hầu ghét, đem nói với nhau: “Vua nghĩ sao mà làm phiền toái quá”. Vua nghe được, trở về cung, ra lệnh cho hạ thần đi tìm một trăm đầu thú và một chiếc đầu người đem đến. Hạ thần tâu vua: “Đã đủ”. Vua sai bán ngoài chợ. Đầu thú thì mua hết, còn đầu người thì không ai mua. Hạ thần trình vua: “Bán một trăm đầu thú thì mua hết. Còn đầu người này hôi thối không ai mua”. Vua bèn nói với các thị thần: “Các người không hiểu. Trước đây ta qua chỗ Phật làm lễ Phật, các người nói: ‘Ý vua phiền toái’. Bây giờ muốn biết thì đầu ta như đầu người chết kia dơ dáy, nên đem cầu phước có thể được sinh lên trời. Các người ngu si không biết trở lại nói phiền”. Thị thần tâu: “Thật đúng như đại vương nói”. Họ cúi đầu tạ lỗi: “Chúng thần ngu si không nghĩ tới”. Vua sau đó lại ra đi. Các bề tôi đều xuống ngựa làm lễ Phật, lấy vua làm khuôn mẫu.
50
Xưa có quốc vương đi chơi, mỗi khi thấy sa môn, bèn xuống xe làm lễ sa môn. Nhà tu nói: “Đại vương ngưng, đừng xuống xe nữa”. Vua nói: “Ta lên, chứ không xuống. Sở dĩ nói lên chứ không xuống, là vì nay ta làm lễ nhà tu thì sau khi chết rồi sẽ sinh lên trời, nên nói lên chứ không xuống”.
51
Xưa có người sau khi chết rồi, thần hồn trở về tự vuốt ve bộ xương cũ của nó. Người ở bên hỏi: “Người đã chết, sao lại còn vuốt ve bộ xương khô?” Thần hồn đáp: “Đó là thân xưa của tôi, thân không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt, không tật đố, không sân hận, không si mê, sau khi chết được sinh lên trời, ước gì tự nhiên có, khoái lạc vô cùng. Cho nên yêu chuộng nó”.
52
Xưa nước ngoài có sa môn ở trong núi hành đạo. Có quỉ hóa ra làm người không đầu, đi đến trước mặt sa môn. Sa môn kêu nói: “Không có nỗi khổ của đau đầu. Mắt nhờ đầu thấy sắc, tai nhờ nghe tiếng, mũi nhờ biết thơm, miệng nhờ nhận mùi. Bây giờ hoàn toàn không đầu, một nỗi vui sao!” Quỉ lại đi mất, lại hóa người không mình, chỉ có tay chân. Sa môn nói: “Không mình, không biết đau ngứa, không ngũ tạng, không biết bệnh hoạn. Một nỗi vui sao!” Quỉ lại đi mất. Lại hóa làm người không tay chân, từ một mặt bánh xe đang chạy đến sa môn. Nhà tu nói: “Rất vui là không có tay chân thì không thể lấy của cải người khác. Vui xiết bao!” Quỉ nói: “Sa môn giữ tâm không động”. Quỉ bèn hóa là một thanh niên đẹp đẽ đến cúi đầu đảnh lễ nhà tu, nói: “Nhà tu giữ lòng vững nên mới như vậy. Nay nhà tu học đạo, không lâu nữa thì thành công”. Bèn cung kính cúi đầu đảnh lễ mà đi.
53
Xưa sa môn hành đạo trong núi, cởi áo lót rớt đất, bèn ngó phải trái, rồi từ từ lấy áo mặc lại. Thần núi hiện ra bảo nhà tu: “Ở đây không có người dân nào. Áo rớt đất, sao lại vội vàng mặc lại?” Sa môn nói: “Thần núi thấy ta, ta cũng tự thấy mình. Trên có mặt trời, mặt trăng, chư thiên thấy ta. Theo lẽ thì không thể để mình trần, mà không xấu hổ, là không phải đệ tử Phật”.
54
Xưa có sáu người làm bạn nhau đều đọa địa ngục, cùng ở trong một vạc, đều muốn kể tội mình. Một người nói sa. Người thứ hai nói na. Người thứ ba nói đặc. Người thứ tư nói thiệp. Người thứ năm nói cô. Người thứ sáu nói đà la. Phật thấy vậy, cười. Mục Kiền Liên hỏi Phật: “Vì sao vậy?” Phật nói: “Có sáu người làm bạn đều đoạ địa ngục cùng ở trong một vạc, mỗi người muốn kể lại tội mình, nhưng nước sôi sùng sục, không thể nói tiếp, mỗi người chỉ nói một chữ, rồi bị nhận chìm xuống lại. Người nói sa là sáu mươi ức vạn năm ở thế gian là một ngày ở địa ngục thì bao giờ mới hết được. Người thứ hai nói na là không có hạn, cũng không biết bao giờ mới được thoát. Người thứ ba nói đặc là khốn khốn, buôn bán để làm gì như vậy mà không thể ngăn lòng, cướp mất phần năm của nhà cúng dường Tam bảo, ngu tham không biết đủ, nay hối ích gì? Người thứ tư nói thiệp là nói buôn bán không chí thành, tài sản ta thuộc người khác, thành ra bị đau đớn. Người thứ năm nói cô là ai sẽ bảo lãnh ta ra khỏi địa ngục thì không còn phạm giới cấm, được sinh làm trời người sung sướng. Người thứ sáu nói đà la là việc đó gốc gác không được lòng tính toán, ví như người đánh xe lạc đường, đi vào đường tà, gãy trục xe, hối không còn kịp nữa”.
SAO BẢY TRUYỆN THÍ DỤ BẺ GÃY LA HÁN
55
Xưa đức Phật sai Xá Lợi Phất đi về phía Tây nước Trang Nghiêm của Phật Duy Vệ, hỏi đức Phật kia ba việc: “Thân thể Phật an ổn không? Thuyết pháp như thường không? Người nghe có tăng lên không?”
Xá Lợi Phất liền nhờ oai thần của Phật đi đến nước kia, nói lời như vậy. Đức Phật kia trả lời: “Tất cả đều an ổn”. Bấy giờ, đức Phật kia quay bánh xe Bất thối chuyển, để thuyết pháp cho Bồ tát của trụ thứ bảy. Xá Lợi Phất nghe, rồi từ nước ấy trở về, mặt mày rạng rỡ, đi đứng khác thường.
Đức Phật hỏi Xá Lợi Phất: “Con đến cõi kia về, sao đi đứng vui vẻ thế?” Xá Lợi Phất bạch Phật: “Ví như người nhà nghèo đói rét được trân báu như núi Tu Di, há không vui mừng sao?” Đức Phật nói: “Rất hay!” Xá Lợi Phất thưa: “Con đến cõi kia, được nghe đức Phật kia giảng điều bất thối chuyển sâu xa, nên con hớn hở không thể kìm chế”. Đức Phật nói: “Lành thay như lời con nói!” Đức Phật bèn bảo Xá Lợi Phất: “Ví như trưởng giả Đại Ca La Việt rặt lấy vàng tử ma và châu ma ni làm của báu, trong cho quét dọn đồng sắt chì thiếc quăng vào sọt phân ở ngoài. Có người nghèo kiết xác vui được mang về, nói: Ta được của báu của Đại Ca La Việt, thì đó há có phải là của báu trân diệu của trưởng giả chăng? Đáp: Chẳng phải”. Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: “Điều con nghe cũng giống như người nghèo ấy. Đức Phật kia chỉ dạy lẽ mười trụ và thanh tịnh trong hành động. Nên điều con nghe không đáng nói”. Xá Lợi Phất liền buồn bã, nói: “Ta tưởng được báu, ngược lại là chì thiếc”. Khi Xá Lợi Phất nói điều ấy, vô số người phát lòng giác ngộ vô thượng, vô số người đạt được trụ A duy nhan.
56
Xưa Ma Ha Mục Kiền Liên ngồi dưới gốc cây tự thử mắt đạo, thấy được 8000 cõi Phật. Lòng tự nghĩ nói: “Chỗ đức Như Lai thấy, còn không bằng ta”. Bèn làm dáng đi sư tử đến chỗ Phật. Đức Phật bảo Mục Liên: “Con là giống thanh văn, nay sao lại làm dáng đi sư tử?” Mục Liên bạch Phật: “Con tự thấy tám phương tám ngàn cõi Phật, nghĩ chỗ Phật thấy chắc không bằng con, nên làm dáng đi sư tử”. Đức Phật nói: “Lành thay Mục Liên! Chỗ thấy rộng lớn nên mới như vậy”. Đức Phật bèn bảo Mục Liên: “Chỗ thấy của ông giống như ánh sáng cây đèn so với viên ma ni vuông, cách nhau nhiều lắm”. Đức Phật nói tiếp: “Chỗ mắt ta thấy là mười phương, mỗi phương có cõi Phật như cát mười sông Hằng. Mỗi hạt cát là một cõi Phật, ta thấy hết tất cả những gì có trong đó, từ chuyện từ trời Đâu Suất xuống vào trong bụng mẹ, rồi sinh ra, chuyện xuất gia học đạo, chuyện hàng phục ma vương, chuyện trời Đế Thích và Phạm Vương đến khuyến trợ, chuyện chuyển pháp luân thuyết pháp cho hết thảy, chuyện muốn nhập Niết bàn, chuyện Niết bàn rồi đốt Xá lợi. Những chuyện như vậy không thể kể xiết. Ta mang con mắt đó thì là thấy hết cả”.
Đức Phật phóng hào quang giữa hai mi mắt chiếu suốt phương trên, phóng thân quang chiếu khắp tám phương, phóng túc quang chiếu thông phương dưới, mỗi phương một trăm ngàn cõi. Lúc ấy mười phương các cõi sáu lần rung chuyển. Ánh sáng vĩ đại không gì ngăn cản. Bấy giờ Mục Liên liền ở trước Phật, thấy vô số hằng sa vô biên cõi, trong đó có những gì Phật đã nói trên, bèn bạch Phật: “Phật ban nãy nói ra mười hằng sa cõi, nay Phật hiện ra có phải thế không?” Đức Phật bảo Mục Liên: “Sợ con không tin, nên nói ít. Nay ta hiện ra như vậy, so lại thì không thể kể hết”.
Ma Ha Mục Kiền Liên nghe nói việc ấy rồi, mình xỉu xuống đất như núi lớn vỡ, lên tiếng khóc lớn: “Ta nhờ biết Phật có công đức ấy, nay mới thấy như vậy, há khiến thân ta đọa địa ngục lớn”. Người thấy bên hông phải thì qua trăm kiếp không nhận quả la hán. Mục Liên bèn nói: “Những ai ở hội này, đức Thế Tôn đều nói ta là thần thông số một. Điều ấy không còn đáng nói nữa. Công đức làm được, không bì kịp (đức Phật về sự) biết điều đó, huống nữa là chưa được gì cả sao? Phát tâm làm gì, nên có chí như Phật, chứ đừng bắt chước ta thành ra giống hư”. Tất cả những người dự hội, rồng thần nhân dân, số ngàn không thể kể, đều phát lòng vô thượng chánh đẳng chiùnh giác. Những ai phát lòng đạo lớn liền được bất thối chuyển. Những ai đã được bất thối chuyển thì thảy đạt được trụ A duy nhan.
57
Xưa có vua rồng, tên là Bạt Để, oai thần rộng xa, nhiều người cảm phục. Nhưng tính tình nóng nảy, làm nhiều điều bạo ngược, nhiều lần họp rồng, cùng làm chuyện phi pháp, mưa gió sấm sét đánh chết nhân dân chim thú côn trùng, nhiều không số kể. Có một la hán đáng kính, cùng tự bàn luận: “Nếu giết một người thì đọa địa ngục một kiếp, chết đến trăm lần, tội còn không hết. Nay rồng này tàn hại chúng sinh, trước sau khôn kể, thế mà không ngưng, sợ thành khó độ, mong nên cùng đến can ngăn”. Bấy giờ, đức Phật biết vậy, có lời khen: “Lành thay! Các con xuất gia cầu đạo vô vi, muốn cứu hết thảy chúng sinh nguy ách, độ cho người có tội, rất tốt, nên thế, đó là báo ơn”.
Bấy giờ, các la hán bảo nhau: “Không cần phải khiến cả vạn người cùng đi”. Do đó, mỗi một người tự đi, đều bị ách lại, không thể tự tiến lên, về nói nhau: “Nếu đi riêng thì không thể hàng phục khuất chiết con rồng này, khiến nó cải làm lành. Nên thử tập hợp công đức của muôn người, đồng lúc cùng đi”. Họ lại đến. Rồng phóng gió mưa bão sấm sét. Muôn người kinh sợ, không biết đi đâu, lại bị làm nhục, cúi đầu trở về.
A Nan bạch Phật: “Rồng này tàn sát người và các súc thú đến thế, tội nó rất nhiều, đã không kể hết. Nay lại làm thêm bão tố kinh sợ muôn la hán, làm ướt áo họ giống như người chết trôi, thì tội lại sâu nặng, không thể kể xiết!”. Bấy giờ đức Phật ở núi Kỳ Xà Quật cùng với muôn Bồ tát và vạn la hán, đi đến núi kia, tới chỗ rồng ở.
Rồng bèn giận dữ, gây mưa lớn sấm vang, sét xẹt. Bèn làm mưa đá, khiến mỗi viên vuông vức bốn mươi dặm, nếu xuống đất thì vào sâu bốn thước, ý muốn hại Phật và chúng Bồ tát. Bấy giờ mưa đá vừa xuống, thì dừng lại giữa không trung, hóa thành hoa trời. Đức Phật phóng hào quang chiếu khắp những gì đang có. Những người thợ săn, đi đường trong núi, gặp mây mưa tối tăm, bị lạc đường không biết đông tây, gom hơn vạn người, đều nhắm theo ánh hào quang mà đến chỗ Phật ở. Rồng lại sấm sét, phóng xuống đá lớn vuông bốn mươi trượng. Nếu đá rơi xuống đất, lún sâu vào đất phải bốn mươi trượng. Đá rớt đến trên đầu Phật lại hợp với hoa trước hóa thành lọng hoa. Rồng nhỏ phóng đá, mỗi viên một trượng, cũng đều như vậy. Các vị la hán trước thấy rồng gây tai biến, mỗi người đều cảm thấy sợ hãi, đi đến trước để dựa gần Phật.
Rồng ở trong mây tự thấy mưa đá và đá hóa thành lọng hoa, lửng lơ giữa hư không mà không rơi xuống, lại tự nghĩ nói: “Ta phải đem thân mình, tự cuốn chắc lại tới bốn mươi trượng để phủ lên trên Phật và chúng tăng”. Bèn tức khắc tự quăng mình, nhưng không thể trúng gì hết, cả mình đau đớn, rớt xuống đất rất lâu, ngẩng đầu, mở mắt, ngó lên thì thấy Phật, (tự nghĩ): “Việc ta làm đều không như ý, nghi đó là người thần vô thượng tôn diệu”. Nhân đó, các rồng nhỏ cũng đến quăng mình, nhưng không động đậy được một chút gì. Lúc ấy, vua rồng hết số, sinh lên làm trời. Các rồng nhỏ cũng chết theo, được làm con trời, đều hạ xuống đứng bên Phật.
Đức Phật hỏi A Nan: “Con biết vị trời này từ đâu đến không?” Đáp: “Không biết kịp”. Đức Phật dạy: “Các rồng ban nãy nổi ác ý, con có nói tội lớn không thể kể xiết. Tự quăng mình xuống đất, phát được một lòng thiện, biết Phật là đáng kính, thì khi chết làm trời. Chuyện đó chính là đây”. Vị trời nghe Phật nói, bèn cùng với các con trời đều phát lòng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bấy giờ thợ săn và những người ở trong núi đến chỗ Phật, đều tự nghĩ nói: “Tội của con rồng đó còn được giải thoát. Chỗ ta làm hại so với rồng đó cũng không bao nhiêu”. Họ định phát tâm đạo, nhưng còn do dự.
Đức Phật bảo A Nan: “Một vạn la hán ấy muốn độ các tội của rồng, nhưng sức không thể gánh nổi. Nếu không có ta thì đã bị rồng chế ngự. Đã không thể độ được cái ác của nó, mà trở lại làm tội nó thêm lên. Muốn độ hết thảy, nên trước phải thiền định suy nghĩ có thể độ được hay không, sau đó mới làm. Người các con không thể độ, đức Như Lai có thể độ, độ mà không độ”. Bấy giờ những người thợ săn nghe nói như vậy, đều phát lòng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Trời rồng nhân dân những ai ở tại hội này được Phật giảng kinh, đều được bất thối chuyển.
Xưa vua rồng Bạt Để với Phật Thích Ca Văn đều là Bà la môn. Lúc ấy, đệ tử của Bạt Để có tới vạn người, thấy đức Thích Ca Văn là nhân tài, họ mạnh mẽ bỏ thầy mình đến thờ đức Thích Ca Văn. Bạt Để lòng giận, mang tội đến làm rồng. Đức Phật đã thành đạo, phần lớn độ hết thảy. Đệ tử muôn người đều chứng la hán. Lòng ác của rồng càng lớn rộng, muốn làm hại. Muôn người kia xót thương, muốn đến độ. Rồng từng làm thầy, nên bốn đạo tuy đủ, họ vẫn bị nhục. Nếu là Bồ tát, rồng muốn gia ác, rốt cuộc cũng không dám.
58
Xưa có một nước, nhân dân thịnh vượng, trai gái lớn nhỏ, rộng làm việc ác, tính hạnh ngang ngược, hung bạo khó dạy. Phật đem đệ tử đến nước láng giềng. Năm trăm la hán, lòng tự cống cao. Ma Ha Mục Kiền Liên đến trước bạch Phật nói: “Con muốn đi độ các nhân dân”. Đức Phật liền đồng ý. Mục Kiền Liên bèn đến giảng kinh đạo, nói nên làm điều lành, nếu làm các điều ác thì tội khó lường. Người cả một nước đều cùng đánh chửi, không theo lời dạy. Do đó, bèn trở về.
Xá Lợi Phất bảo Mục Kiền Liên: “Muốn dạy các người đó, phải dùng trí tuệ, không thì sao bị hủy báng?” Xá Lợi Phất bèn bạch Phật: “Con muốn đến kia khuyên độ nhân dân”. Đức Phật lại đồng ý. Bèn đến giảng dạy kinh giới, lại không được nghe theo, mà còn bị nhục mạ.
Ma Ha Ca Diếp với các đệ tử đáng kính hợp lại năm trăm người tuần tự đi đến, cũng không thể độ được, mà lại bị khinh hủy.
A Nan bạch Phật: “Người nước kia hung dữ, không nhận lời dạy lành, phần lớn bị họ bẻ gãy làm nhục. Làm nhục một la hán, tội nó khôn tả, huống nữa là làm trái lời dạy của chừng ấy người thì mắc tội nặng hư không cũng không thể chứa”. Đức Phật dạy: “Tội ấy tuy là sâu nặng, Bồ tát xem đó vắng lặng, không có tội”.
Đức Phật sai Văn Thù Sư Lợi đến độ thoát họ. Văn Thù liền đến nước đó. Ai nấy đều ca ngợi, nói: “Việc làm của hiền giả, sao mà nhanh thế!” Bèn đến chỗ vua, vua khen ngợi trước mặt, mỗi khiến mọi người lớn nhỏ đều nghe biết, nói: “Tôi dũng kiện, tôi lại nhân hiếu, tôi có can đảm và trí tuệ”. Tùy mỗi chỗ họ ở, ưng ý ca ngợi, đều vui mừng khôn xiết, nói: “Điều con người vĩ đại này nói rất thần diệu, biết chí tháo của ta, sao thích thú thế!” Họ mỗi người mang vàng báu hương hoa, tung lên trên Bồ tát, đem áo gấm đẹp đôi có thêu hoa và những thức ăn uống ngon lành, ngọt ngào đến cúng dường Bồ tát, phát lòng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Văn Thù Sư Lợi bảo nhân dân: “Ngươi cúng dường ta không bằng cúng dường thầy ta, thầy ta gọi là Phật, có thể đến cùng cúng, phước gấp vô lượng”. Hết thảy họ rất vui lòng theo Văn Thù Sư Lợi đi đến chỗ Phật. Phật giảng kinh cho họ thì đều được bất thối chuyển. Ba ngàn quốc độ vì thế rung chuyển lớn. Núi rừng cây cối đều ca ngợi nói: “Hoan hô Văn Thù Sư Lợi khéo độ người như vậy”.
Đức Phật bảo A Nan: “Tội sâu lớn nay đang còn đấy”. Năm trăm la hán xỉu xuống đất, rơi lệ nói: “Oai thần của Bồ tát dạy dỗ như vậy, huống nữa là đức Như Lai có thể kể tả hết sao? Chúng ta là giống hư, vô ích đối với hết thảy”.
59
Xưa lúc đức Phật ngồi dưới gốc cây, đức Phật đã thuyết pháp cho vô số người, trong đó có người chứng Tu đà hoàn, có người chứng Tư đà hàm, có người chứng A na hàm, có người chứng A la hán. Những người như vậy, số không thể kể hết. Bấy giờ sắc mặt Phật không có rạng rỡ, dáng vẻ như buồn. A Nan sâu biết ý Phật, quỳ xuống bạch Phật: “Lễ hầu Phật tám năm, con chưa từng thấy tôn nhan Phật không có rạng rỡ như hôm nay. Có thay đổi gì khiến Phật như vậy? Hôm nay có ai mất đại hạnh? Có ai làm ác đọa địa ngục? Có ai rời xa bờ gốc của mình?”
Đức Phật bảo A Nan: “Ví như khách buôn phần nhiều mang trân báu đến số ngàn muôn, đi xa cầu lời. Giữa đường gặp cướp, mất sạch của báu, thân thể trần truồng, không có gì để tự sống. Thế có buồn lo không?” A Nan bạch Phật: “Họ buồn ghê lắm”. Đức Phật bảo A Nan: “Ta từ vô số kiếp đến nay, thương khó hành đạo, là muốn cứu độ hết thảy nhân dân, đều khiến thành Phật. Ta nay đã tự mình được thành Phật, mà không có một người nào làm công đức, nên không vui, sắc mặt thay đổi”. A Nan bạch Phật: “Nay đệ tử Phật chứng được la hán trong quá khứ, hiện tại và tương lai, số không thể kể xiết. Số người chứng A na hàm, Tư đà hàm, Tu đà hoàn cũng vậy, không thể kể. Sao nói không có người nhờ công đức để được độ?” Đức Phật bảo A Nan: “Ví như hai ông bà già sinh mười đứa con gái thì có đứa nào nắm giữ việc cửa nhà không?” A Nan đáp: “Không thể có”. Đức Phật dạy: “Tuy có la hán vô số ngàn nhờ giác pháp của ta mà sinh ra, thì cũng chẳng phải con ta, rồi cũng không thể ngồi dưới gốc cây của Phật, giống như sinh con gái tuy đông nhiều, đi lấy chồng đến nhà người, thì cha mẹ cô độc. Ta cũng vậy”.
Bấy giờ đức Phật khóc, rơi xuống ba giọt nước mắt. Ba ngàn thế giới vì thế rung chuyển lớn. Vô số trời, rồng, thần, nhân dân phát lòng giác ngộ vô thượng. Lúc ấy mặt mày Phật đẹp đẽ vui vẻ, vô số ánh sáng ngàn ức muôn lần chiếu suốt mười phương, khác hơn lệ thường. Những ai thấy ánh sáng đều được độ. A Nan bạch Phật: “Vì sao lại phát ra ánh sáng thần biến đẹp đẽ tuyệt vời như thế?”. Đức Phật bảo A Nan: “Ví như hai ông bà già, cầu trời khẩn đất cầu xin sinh con, cuối cùng sinh được một đứa con trai gầy dựng cửa nhà, há không vui vẻ mà tự khen mình sao? Nay hết thảy phát lòng Đại thừa, nên ta hớn hở vì giống Phật không mất”.
Đức Phật sai Bồ tát Tu Ma Đề lên kinh đô qua sáu muôn ức hằng sa cõi, khiến đến nước kia lấy tòa sư tử và các đồ ăn uống. Như duỗi cánh tay, trong khoảnh khắc đã trở về lại đây. Bèn trang hoàng tòa sư tử rộng lớn, mời tất cả những ai dự hội đã phát lòng giác ngộ vô thượng đều ngồi tự nhiên lên tòa sư tử ngàn cánh sen vàng. Có những người ngồi trong trướng bảy báu kết hở và dưới gốc cây bảy báu, thì đựng tràng phan bảy báu làm cột, gấm trời làm phan, lụa trời làm lọng hoa. Đức Phật bấy giờ khiến đại thiên cõi nước thành hồ tắm, hoa sen bảy báu mọc bên trong. Đức Phật tự biến thân, hiện làm Bồ tát, hoặc lại hiện hình như Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, cúng dường rộng rãi cho đại đàn hết thảy muôn thức ăn uống thơm ngon nghe khắp hết thảy mười phương. Những ai nghe mùi thơm ấy đều phát lòng giác ngộ vô thượng. Các cõi mỗi sai Bồ tát tả hữu đáng kính đến chúc mừng đức Thích Ca Văn, vì tất cả nhân dân phần lớn đã phát tâm Bồ tát. Trong đó có vị cầm hoa sen vàng ròng đến, có vị cầm hoa sen báu ma ni đến, có vị cầm hoa sen châu minh nguyệt đến, mỗi mỗi hoa sen nhiều màu quí báu, cùng tung rải lên đức Phật. Oai thần của Phật khiến các hoa tung lên hợp thành lọng hoa che khắp mười phương cùng chiếu các cõi, những chỗ tối tăm trở nên sáng sủa. Địa ngục, quỉ đói, cầm thú, lục súc đều phát lòng lớn, muốn cầu làm Phật.
Đức Phật vì tất cả những người dự hội giảng kinh. Vô số Bồ tát chứng trụ A duy nhan. Vô số trời người đều được phép nhẫn vô sinh. Lại vô số rồng, thần, nhân dân đều được bất thối chuyển. Tất cả Bồ tát, người vĩ đại đều phát tâm giác ngộ vô thượng.
60
Xưa có một người, tuổi nhỏ nghèo khổ, đi đến nước khác, được một trái ngọt, thơm ngon lại to, ở đời hiếm có. Bèn thương tiếc, không dám ăn. Lòng nghĩ đến cha mẹ, muốn đem trái dâng, liền mang trái trở về thành Tỳ Da Ly.
Bấy giờ đức Phật vào thành với các Bồ tát đại đệ tử, cùng đến nhà trưởng giả, theo lời mời đàn việt. Đức Phật vừa đi qua, người ấy chưa đến nhà, tay đem quả đến để ở chỗ Phật. Từ nhỏ tới lớn chưa từng nghe Phật, thấy vết chân Phật, dấu chân như lọng, rực rỡ long lanh không chút suy giảm, bèn đứng bên vết chân, nhìn mãi không chán, lòng tự hớn hở, hết buồn biết vui, nghĩ: “Vết chân đi đất còn như thế, huống nữa thân người này thì thật chẳng phải đời có được. Chắc thế nào người này tất phải trở về, ta sẽ cắt để phần cha mẹ lại, rồi đợi người ấy đến, đem trái dâng lên”.
Đức Phật chưa trở về. Người ngồi bên vết chân, buồn nghĩ lệ rơi. Người đi đường đến hỏi người ấy: “Vì sao ôm trái ngồi buồn ở đây?” Đáp: “Giữ vết chân vô cùng đáng kính này, đợi chờ thần nhân, mong ngài trở lại, muốn đem trái đó tự dâng lên, trễ thấy quang nhan, chưa được như nguyện, tự nghĩ bạc phước, nên buồn”. Kẻ đi đường hỏi, tụ lại xem như mây, lấy làm lạ người đó, cho là cuồng si, nói: “Biết người đi trở về chỗ nào mà định ngồi đợi?”
Đức Phật đến nhà trưởng giả đàn việt ngồi. Chúng tăng rửa xong, tuần tự đến ngồi. Trưởng giả và thủ hạ lớn nhỏ đem bày chén dĩa với các thức ăn, tất cả đầy đủ. Phật xa “đạt thẩn” kẻ đang mang trái cây giữ chân Phật ở giữa đường tha thiết mong muốn dâng Phật. Do thế, ăn xong, đàn việt tự nghĩ: “Đức Thế Tôn ‘đạt thẩn’, ban nãy không thấy kịp. Liền xa chú nguyện người mang quả ở ngoài đem đồ cúng đến, có gì không được ư?”
Đức Phật bảo A Nan: “Trưởng giả cúng dường đầy đủ, nhưng phước ra đi. Việc làm tuy rộng lớn, nhưng ý có chỗ mong cầu. Lòng mang bốn sợ, chí tại diệt độ. Bên ngoài có người trẻ tuổi, tay cầm trái ngọt, một lòng không gì khác, giữ vết chân ta, từ bi đợi ta, nghĩ muốn dâng trái dùng cho tất cả, nên phát lòng đạo lớn. Do thế, ngồi đây mà xa nhận “đạt thẩn”. Trưởng giả tự nghĩ, nói: “Người ấy cúng trái cây chứ không có món gì khác, Phật ca ngợi công đức rất là cao diệu. Ta tuy giàu có, đồ cúng phong phú, vì tính toán nặng nhẹ nên phước không bằng. Nguyện xin hầu Phật đến gặp người kia”.
Đức Phật liền đứng dậy, đến chỗ người giữ vết chân. Bồ tát, đệ tử, trưởng giả cùng những người khác lúc ấy cùng theo. Người mang trái cây xa thấy Phật đến, tướng thân đẹp đẽ, rực rỡ hơn trời trăng, liền đi đến đón Phật, cúi đầu làm lễ, nhân đó đem trái ấy quì xuống dâng Phật, phát lòng giác ngộ vô thượng.
Đức Phật phóng hào quang chiếu suốt vô cùng. Ba ngàn thế giới vì thế rung chuyển. Chư Phật và chư Bồ tát mười phương lúc ấy hiện ra như bóng trong gương, gần xa ai ai cũng thấy. Đức Phật nhận trái ấy, lại đem cúng lại cho các đức Phật, khiến một trái cây biến khắp vô cùng không hết.
Chư Phật và các Bồ tát mười phương mỗi mỗi từ nơi cà sa duỗi cánh tay vàng rực rỡ phóng ra ngàn ức tia sáng. Mỗi một đầu tia sáng tự nhiên có tòa sư tử có màn kết hở châu hoa sen báu. Trên tòa có đức Phật và các Bồ tát ngồi, đều cầm bát báu, nhận lấy trái ấy. Mỗi vị cầm một quả “đạt thẩn” một cách thần biến. Đức Phật Thích Ca Văn cũng thế, ở thế giới này chiếu sáng mười phương, hư không thần trời tất cả đầy đủ, tám phương trên dưới không có chỗ trống khuyết, đều giúp vui, khen lành, ca ngợi. Chư Bồ tát trong ba cõi đều được theo nhờ.
Bấy giờ, người dâng trái cây chứng được pháp nhẫn vô sinh. Đức Phật trao lời quyết là về sau sẽ thành Phật, hiệu là Quả Tôn Vương vô thượng chính giác, có cõi nước như cõi của Phật A Di Đà. Người ấy theo nghe đức Thế Tôn nói về cõi nước đó, tự nhiên thanh tịnh, chứng được A duy nhan. Trưởng giả cư sĩ hướng theo dấu đạo, vô số ngàn người được độ bậc bất thối chuyển. Đức của Ngài như vậy.
61
Xưa đức Phật đi lên cõi trời Đao Lợi thứ hai để giảng kinh cho mẹ. Bấy giờ có một vị trời mạng sống sắp hết, có bảy việc chứng điềm: “Một là ánh sáng quanh cổ tắt; Hai là hoa trang sức trên đầu héo; Ba là sắc mặt thay đổi; Bốn là trên áo có bụi; Năm là dưới nách ra mồ hôi. Sáu là thân hình gầy ốm; Bảy là rời chỗ ngồi. Liền tự nghĩ: Sau khi thọ chung, phải bỏ thiên tòa, cung điện bảy báu, ao hồ vườn quả, ăn uống tự nhiên, mọi thứ ca kỹ nữ nhạc, lại phải hạ sinh làm con trong bụng heo nái phung hủi ở nước Câu Di Na Kiệt. Bèn rất lo, không biết phải làm cách gì để thoát được tội đó”.
Có một vị trời nói: “Nay đức Phật ở đây giảng kinh cho mẹ Đức Phật, cứu hết thảy trong ba đời. Chỉ đức Phật mới cứu được tội ông”. Bèn đến chỗ Phật cúi đầu làm lễ. Chưa kịp hỏi, đức Phật đã bảo vị con trời: “Tất cả vạn vật đều vô thường, ông vốn biết điều đó, sao còn lo sầu?” Vị trời bạch Phật: “Tuy biết phước trời không thể được lâu, giận là phải rời ngôi trời này mà làm heo con của con nái phung hủi, cho đó là hại, chứ đi nhận thân khác thì không dám e sợ”. Đức Phật dạy: “Muốn thoát thân heo con, thì nên đọc ba trợ qui: Nam mô Pháp, nam mô Tỳ kheo tăng, Quy mạng Phật, quy mạng Pháp, quy mạng Tỳ kheo tăng, như vậy mỗi ngày ba lần”.
Vị trời theo lời Phật dạy, ngày đêm đọc ba qui y. Sau đó bảy ngày vị trời thọ chung, xuống sinh làm con nhà trưởng giả nước Tỳ Da Ly. Khi còn trong thai mẹ hằng ngày đọc ba qui y. Mới sinh rớt xuống đất cũng quì đọc ba qui y. Người mẹ khi sinh không có đồ dơ. Người hầu cạnh mẹ sợ hãi bỏ chạy. Bà mẹ cũng rất lấy làm lạ việc con rớt đất đã nói, cho là huyền hoặc, ý muốn giết đi.
Lúc về bà tự nghĩ: “Con nhỏ ta lạ lùng. Nếu giết bé này cha nó sẽ làm tội ta. Từ từ nói với trưởng giả, rồi giết cũng chẳng muộn”. Người mẹ liền ôm đứa bé, đến nói với trưởng giả: “Sinh được một trai, mới vừa rớt đất, đã chắp tay quì xuống qui y Tam Bảo”. Cả nhà lấy làm lạ, cho đó huyễn hoặc. Người cha nói: “Đừng, đừng! Đó là đứa bé phi phàm. Người ta ở đời sống tới trăm tuổi hoặc tám chín muơi, mà còn không biết qui y Tam Bảo. Huống nữa đứa bé mới sinh ra là có thể niệm Nam mô Phật. Hãy khéo chăm nuôi nó, cẩn thận đừng khinh nhờn”.
Đứa bé lớn lên, năm vừa bảy tuổi cùng bọn trẻ chơi bên vệ đường. Bấy giờ đệ tử Phật là Xá Lợi Phất và Ma Ha Mục Kiền Liên vừa đi qua bên bé, nó liền đến trước mặt làm lễ nói: “Kính lễ đức Xá Lợi Phất và đức Ma Ha Mục Kiền Liên”. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên kinh ngạc lấy làm lạ về việc đứa bé có thể kính lễ Tỳ kheo. Đứa bé nói: “Thầy không biết con sao? Đức Phật ở trên trời giảng kinh cho mẹ. Con bấy giờ là một vị trời sắp xuống làm heo, theo lời Phật dạy, đọc ba qui y, mà được làm người”. Hai thầy Tỳ kheo liền thiền định, tìm biết, bèn chú nguyện nói “Hoan hỷ”.
Đứa bé thưa với Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên: “Xin nhân danh tiếng con, mời đức Thế Tôn, chư Bồ tát tăng và hai nhân giả”. Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất đồng ý nhận lời. Đứa bé trở về nhà thưa với cha mẹ: “Ban nãy con đi chơi gặp hai đệ tử Phật đi qua, nhân đó con mời Phật và bốn chúng đệ tử Phật dâng cơm. Xin cha mẹ sửa soạn đồ ngon ngọt”. Cha mẹ thương yêu, làm theo lời xin, lấy làm lạ việc nó nhỏ tuổi, mà khai mở được lòng lớn, lại lấy làm lạ việc nói biết đời trước, nên làm những món ăn cực kỳ trân diệu, tìm chén dĩa tinh tế, vượt quá ý của đứa bé.
Đức Phật và chúng tăng, mỗi vị dùng công đức làm thần túc, đi đến nhà đứa bé ăn cơm. Cha mẹ và những người lớn nhỏ cúng dường xong, dâng nước rửa thơm, đúng pháp làm xong, đức Phật vì họ giảng kinh. Cha mẹ và đứa bé cùng thân thuộc trong ngoài lúc ấy đều được bất thối chuyển.
Phước đức của việc qui y độ được như vậy. Huống nữa là suốt đời tu đạo sao!
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.145.85.74 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.