Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt,
luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác.
Kinh Pháp cú
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Quyển hạ
Lại nữa Đại Vương! Với Sa Môn Cồ Đàm thành tựu 18 pháp bất cộng. Đại Vương! Thế nào là 18 pháp bất cộng. Nầy Đại Vương! Đó là Phật Như Lai không lẫn lộn. Miệng không nói những lời không đáng nói. Không bị mất chánh niệm. Không có tư tưởng khác. Không lúc nào là tâm không định. Không lúc nào là không biết về mình. Bỏ dục không giới hạn. Luôn luôn tiến bước không bao giờ lùi. Chánh niệm không thay đổi. Tất cả thân nghiệp đều do trí huệ dẫn đầu mà làm việc. Tất cả khẩu nghiệp cũng đều do trí huệ dẫn đầu mà thực hiện. Tất cả ý nghiệp cũng đều do trí huệ dẫn đầu mà thực hiện. Nhìn thấy quá khứ một cách thông suốt. Nhìn thấy vị lai một cách thông suốt. Nhìn thấy hiện tại một cách vô ngại thông suốt. Nầy Đại Vương! Đây có tên là Như Lai thành tựu 18 pháp bất cộng. Do vậy nên không ai có thể qua được. Cho nên nói kệ rằng :
Thế Tôn chẳng lầm lẫn
Miệng luôn nói lời ngay
Niệm nầy chẳng thể mất
Cho nên chẳng ai trên
Chẳng có tưởng nào khác
Biết ngay tâm chẳng loạn
Tùy thời chẳng cho sanh
Tất cả trí chẳng trên
Muốn luôn được giảm theo
Việc tốt luôn chẳng ngừng
Niệm nầy chẳng để mất
Kia chẳng thể sanh khởi
Huệ chẳng bao giờ giảm
Hiểu không thể giới hạn
Nghĩa hiểu biết không dừng
Trí kia chẳng có buồn
Tất cả các thân nghiệp
Khẩu nghiệp và ý nghiệp
Tất cả đều tự lực
Tự biết chẳng mất được
Biết rằng trong quá khứ
Trí kia chẳng chướng ngại
Vị lai cũng chẳng sao
Hiện tại chẳng có gì
Những công đức như thế
Đó Sa Môn Cồ Đàm
Lại chẳng có gì hơn
Ta chẳng thể nói cùng.
Lúc ấy Bàn Trà Bát Thụ Đề Vương nghe qua công đức bất khả tư nghì công đức của Như Lai rồi, thấm nhuần hiểu biết, hoan hỷ ca tụng kính ngưỡng. Rồi đến chỗ Tát Giá Ni Kiền Tử được rất nhiều hoan hỷ, được bất khả tư nghì ý tưởng, được niệm nơi Thế Tôn, được ý tưởng của Thiện Tri thức. Lại có thêm tư tưởng giác ngộ. Được qua bên kia tất cả tri kiến. Được tư tưởng khải thỉnh. Được niệm tưởng, lại được ý tưởng bất khả tư nghì của Bồ Tát giải thoát. Sau khi được những ý tưởng như thế từ tâm rồi, lại dùng trăm ngàn trân châu anh lạc giá trị cùng các loại y phục vô giá cúng dường Tát Giá Ni Kiền Tử rồi mới thán lên lời rằng:
Lành thay! Lành thay! Tát Giá Ni Kiền Tử đã vì phương tiện mà thuyết pháp theo thứ lớp. Lại nói rằng: Tát Giá nói những việc ấy tất cả đều thuận theo trí tuệ. Việc thuyết pháp kia tất cả đều đạt đến tất cả trí. Việc thuyết pháp kia cốt thoát ly sanh tử.
Nên biết rằng việc thuyết pháp kia làm cho các kiết sử không còn nữa. Nhờ việc thuyết pháp ấy mà phá được những tật đố. Việc thuyết pháp ấy như đánh trống lớn. Việc thuyết pháp như thế hay phá hoại những ma đại kiêu mạn cao như núi. Việc thuyết pháp kia làm khô đi biển ái dục. Việc thuyết pháp kia như ánh sáng chiếu vào đường ngu si. Việc thuyết pháp ấy nhằm giáo hóa chúng sanh không mất đi chánh niệm.
Sau khi vua nói lời ấy rồi Tát Giá Ni Kiền Tử đáp lại lời Đại Vương như vầy:
Bồ Tát uy nghi chẳng thể chẳng điều phục được chúng sanh, chẳng có sự thuyết pháp nào mà nghịch với Đại Thừa. Nếu chẳng phải vì tăng trưởng tất cả trí. Nếu chẳng phải vì trừ các kiết sử. Nếu chẳng phải vượt qua biển sanh tử. Nếu chẳng phải nên đến Niết Bàn. Nếu chẳng phải gần gũi các Bồ Tát. Nếu chẳng phải vì tự lợi lợi tha và đầy đủ cho kẻ khác thì chẳng có nơi nào như vậy cả.
Nầy Đại Vương! Nếu có một ý tưởng gì đó mới phát sanh cho đến việc tự lợi lợi tha nầy được đầy đủ vậy. Sau khi Tát Giá Ni Kiền Tử nói lời ấy rồi Bàn Trà Bát Thụ Đề Vương được đoạn khỏi nghi ngờ lòng tin được bất hoại. Cả 16 vương tử khác cũng sinh tâm hoan hỷ kính tin. 8.000 Thiên Tử được Tam Muội có tên là Trang Nghiêm Phật Hạnh. Trong vương cung ấy có 13.000 Ni Kiền Tử đang ngồi, phát ư vô thượng tâm chánh giác. Tất cả đều cởi áo để cúng dường Ni Kiền Tử, sau đó mới nói lời rằng:
Chúng tôi hôm nay được nhiều lợi ích. Vì thấy được Tát Giá Đại Thiện Nam Tử. Lại nghe diễn thuyết theo pháp mà tùy thuận. Lại nói rằng: Tát Giá! Thật đầy đủ, nếu muốn thấy Thế Tôn thì Như Lai hiện tại đang ở nơi vườn của ta.
Tát Giá đáp rằng: Tất cả đồng đến vậy.
Lúc bấy giờ Đại Vương cùng với tất cả quyến thuộc đại thần nhân dân rất là cung kính. Từ ngoài thành, Đại Vương nói lớn rằng:
Ngoại trừ những kẻ phạm tội sát, trong thành tất cả các nam tử và nữ nhơn, đồng nam đồng nữ sau khi nghe lệnh của vua rồi hãy tắm gội sạch sẽ, tẩm hương hoa vào tóc vào mình sau đó ra khỏi thành, hướng về nơi vườn và chờ Đức Vua.
Lúc ấy thì Bát Thụ Đề Vương cùng với Tát Giá Ni Kiền Tử cùng với các Đại Thần, Vương tử, binh lính; nội cung dâm nữ cùng với nhân dân lên ngựa đi quanh. Đại Vương oai đức. Vua có thần lực lớn. Nhà vua biến hóa, nhà vua vui tươi, kích động bảo cái phan lọng với trăm ngàn âm nhạc ca múa xướng lên, ống tiêu, ống địch phát ra nhiều tiếng hay lạ. Hằng trăm thớt voi ngựa dẫn đoàn ra đi. Dùng những loại vàng bạc để trang trí xe voi xe ngựa. Có 98 ức người vây quanh vượt qua và hướng về nơi Đức Thế Tôn. Đến rồi đảnh lễ dưới chân Đức Phật rồi đi nhiễu bên phải ba vòng, đoạn đứng lại nhìn thẳng. Tát Giá Ni Kiền Tử cùng với quyến thuộc cũng đảnh lễ dưới chân Phật rồi đi nhiễu qua phía phải rất nhiều vòng như thế, đứng yên chắp tay nhìn Phật không động. Lúc ấy Đại Đức Xá Lợi Phất thấy Tát Giá Ni Kiền Tử đến trước Phật và dùng mắt để chiêm ngưỡng Phật không cử động; sau khi thấy việc ấy rồi liền mới suy nghĩ rằng:
Vì lý do gì mà Tát Giá Ni Kiền Tử lại đến đây vậy? Sau khi nghĩ như vậy rồi mới hỏi Tát Giá Ni Kiền Tử:
Nầy Tát Giá! Vì lý do gì mà đến nơi Như Lai vậy?
Tát Giá Ni Kiền Tử đáp rằng: Vì muốn nghe thấy Như Lai thuyết pháp vậy.
Đại Đức Xá Lợi Phất nói: Tôi chẳng thấy Phật cũng chẳng hề nghe pháp. Đại Đức tiếp: Tôi nay chẳng dùng tất cả pháp để thỉnh cầu nơi Như Lai.
Vì sao vậy ?
Ngài tiếp: Thấy sắc chẳng phải thấy. Đó là Như Lai. Thấy thọ tưởng hành thức lại chẳng có tên, thì mới thấy được Như Lai. Chẳng thấy đất nước gió lửa, mới có thể thấy Như Lai. Chẳng thấy có cái ta, mới thấy được Như Lai. Chẳng thấy chúng sanh, chẳng thấy thọ mạng, chẳng thấy dưỡng dục, mới có thể thấy Như Lai. Chẳng thấy trượng phu, mới có thể thấy Như Lai. Chẳng thấy chỗ ta được, chỗ được thuộc về ta, mới có thể thấy Như Lai. Chẳng thấy nơi tướng, mới có thể thấy Như Lai.
Ngài Xá Lợi Phất tiếp: Chẳng thấy tất cả tướng, mới có thể thấy Như Lai. Chẳng thấy sự chấp trước, mới có thể thấy Như Lai. Thấy chẳng có một vật nào, mới có thể thấy Như Lai. Thấy được bản tánh của chính mình, tức thấy Như Lai. Thấy nhãn sắc lìa ham muốn, mới thấy được Như Lai. Thấy việc tai nghe không còn lời nói, mới thấy được Như Lai. Thấy mùi thơm nơi mũi không hòa hợp, mới thấy được Như Lai. Thấy mùi vị nơi lưỡi không còn nữa, mới thấy được Như Lai. Thấy thân khi va chạm không còn cảm giác nữa, mới thấy được Như Lai. Thấy ý không còn phân biệt nữa, lúc ấy mới thấy Như Lai.
Ngài Xá Lợi Phất nói: Nầy Tát Giá! Đó là cách thấy Như Lai vậy. Thế nào là thấy Như Lai vậy ?
Tát Giá đáp rằng: Đại Đức Xá Lợi Phất, chẳng có loại nào thấy hết, tức thấy Như Lai. Cũng chẳng phải tánh mà thấy Như Lai. Phi tướng phi vô tướng, phi pháp phi vô pháp, phi thật phi bất thật, phi cảnh giới phi bất cảnh giới. Phi tư duy phi bất tư duy. Chẳng phân biệt cũng chẳng phải chẳng phân biệt. Chẳng phải hữu vi cũng chẳng phải vô vi. Chẳng phải vật cũng chẳng phải chẳng vật. Chẳng nhóm họp, chẳng chia ly. Chẳng sắc, chẳng thọ, chẳng tưởng, chẳng hành, chẳng thức. Chẳng giữ lấy, chẳng phải chẳng giữ lấy. Tức là có thể thấy Như Lai.
Ngài Xá Lợi Phất nói: Nầy Tát Giá! Những việc như thế có thể thấy Như Lai. Nầy bậc trượng phu! Thế nào là việc có thể thấy được Như Lai ư ?
Tát Giá đáp rằng: Đại Đức Xá Lợi Phất! Tôi chẳng dùng sắc để thấy Như Lai; cũng chẳng lìa sắc để thấy Như Lai. Lại cũng chẳng làm cho sắc mất đi để thấy Như Lai. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế. Chẳng dùng thức để thấy Như Lai. Chẳng lìa thức để thấy Như Lai. Lại chẳng hoại thức để thấy Như Lai. Chẳng phải phân biệt hiện tại để thấy Như Lai. Chẳng phải phân biệt đời trước để thấy Như Lai. Chẳng phải phân biệt cõi âm để thấy Như Lai. Chẳng phải phân biệt cảnh giới để thấy Như Lai. Tôi đã thấy Như Lai như vậy đó.
Tôi thấy tất cả lời nói chẳng phải lời nói, tức thấy Như Lai. Tôi chẳng thấy lại chẳng phải chẳng thấy. Chẳng phải có mà cũng chẳng phải chẳng có. Chẳng phải phân biệt mà cũng chẳng phải chẳng phân biệt. Chẳng suy nghĩ, chẳng tranh luận, chẳng não phiền, chẳng khởi lên, chẳng giữ, chẳng bỏ, chẳng hí luận. Chẳng làm sự suy nghĩ mà cũng chẳng phải chẳng làm sự suy nghĩ. Chẳng tạo nên vật mà cũng chẳng phải chẳng tạo nên vật. Chẳng phải có động tác mà cũng chẳng phải chẳng có động tác. Chẳng thấy việc có làm mà cũng chẳng thấy chẳng có việc có làm. Chẳng thấy không có cảnh giới mà cũng chẳng phải chẳng thấy không có cảnh giới. Chẳng có ngôn ngữ mà cũng chẳng phải chẳng có ngôn ngữ. Ấy là thấy Như Lai vậy. Lìa tất cả lời nói đàm luận, âm thanh, tức thấy Như Lai vậy. Lại cũng chẳng thấy gì cả. Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát thấy Như Lai như thế, thì tôi cũng lại thấy Như Lai như vậy.
Ngài Xá Lợi Phất nói rằng: Ta đây cũng thấy Như Lai như vậy đó. Nhưng ngươi vì sao muốn nghe thuyết pháp vậy ?
Tát Giá đáp rằng: Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Nếu tôi nghe được Như Lai thuyết pháp. Từ pháp ấy sẽ sinh ra tưởng hoặc chẳng tưởng.
Vì sao vậy ?
Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát đều từ lời nói ấy mà sinh ra pháp. Cũng chẳng chấp trước lại chẳng sanh suy nghĩ.
Vì sao vậy ?
Vì lìa pháp suy nghĩ vậy.
Ngài Xá Lợi Phất nói rằng: Nầy Tát Giá! Chẳng phải vì muốn nghe pháp mà đến Như Lai sao ?
Tát Giá đáp rằng: Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Tôi chẳng cầu pháp mà cũng chẳng phải chẳng cầu pháp nên mới đến Như Lai.
Vì sao vậy ?
Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Phàm kẻ cầu pháp có nghĩa chẳng cầu tất cả pháp. Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Phàm kẻ cầu pháp chẳng đến trước Phật để cầu chẳng đến pháp để cầu, chẳng đến trước Tăng để cầu. Chẳng biết khổ công để cầu. Chẳng mất niềm tin mà cầu. Chẳng phải vì tu đạo mà cầu. Chẳng phải không còn sự hiểu biết mà cầu. Chẳng qua khỏi dục giới, qua khỏi sắc giới, qua khỏi vô sắc giới mà cầu. Chẳng cầu sanh tử. Chẳng cầu Niết Bàn. Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Hãy nên biết rằng: Tôi chẳng phải cầu một pháp nào cả mà đến nơi Như Lai.
Ngài Xá Lợi Phất bảo: Vì nhân duyên gì mà nói lời như thế ?
Tát Giá đáp rằng: Lại tánh của pháp giới chẳng có nhân duyên; chẳng phải chẳng có nhân duyên, lại cũng chẳng được vậy.
Ngài Xá Lợi Phất nói rằng: Nay ngươi đang lưu chuyển vào con đường nào ?
Tát Giá thưa rằng: Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Nếu có con đường nào đó tức có tôi lưu chuyển. Nếu có sự sanh ra nào đó; tức tôi có sanh. Nếu có việc ra đi nào đó; tức tôi có chết. Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Tất cả các pháp đều chẳng đến cũng chẳng phải mất còn.
Ngài Xá Lợi Phất nói rằng: Nầy Tát Giá! Như Phật đã dạy: Nầy các Tỳ Kheo! Sanh già bệnh chết vậy.
Tát Giá đáp rằng: Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Tất cả chúng sanh đều nương vào con đường hay nơi kiêu mạn. Phá hoại sự nương nhờ đó, Đức Như Lai Thế Tôn mới dạy như thế. Phật Pháp, Như Lai tánh chẳng có sự sanh già bệnh chết như thế.
Ngài Xá Lợi Phất đáp rằng: Lành thay! Lành thay! Tát Giá! Nay ngươi đang nói Đại Thừa hay phân biệt nghĩa vậy.
Tát Giá đáp rằng: Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Nay tôi muốn biết nghĩa ấy là thế nào? Vì sao gọi là phân biệt ?
Ngài Xá Lợi Phất nói rằng: Nầy Thiện Nam Tử! Ta đã chẳng nói ta nay muốn nghe. Nầy Thiện Nam Tử! Ta đang diễn thuyết. Nghĩa nầy thế nào ? Phân biệt những gì ?
Tát Giá đáp rằng: Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Nghĩa là chẳng có lời nào để nói nữa. Nếu có lời nói tức có phân biệt. Lại cũng có nghĩa là chẳng thể nói gì cả. Nếu có lời nói tức có phân biệt. Lại cũng có nghĩa chẳng nói lời nào, mà có lời nào tức có phân biệt. Lại cũng có nghĩa, chẳng có sự động tịnh, không có những hí luận, chẳng có phân biệt, chẳng có trang nghiêm. Chẳng có vật nào, chẳng có điều tôi nghĩ đến. Chẳng dũng mãnh, chẳng thể lấy, chẳng thể thấy. Chẳng thể ở yên, lìa xa tất cả những lời nói về nơi ở yên. Lại có kẻ phân biệt rằng: Sự suy nghĩ nhiều, đến đi nơi tâm người khác. Lại có nghĩa rằng vì tên gọi mà có sự phân biệt. Kẻ phân biệt có nghĩa là lời nói pháp ấy vui hay không vui. Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Đây là nói tóm lược nghĩa ấy về phân biệt.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn tán thán Ni Kiền Tử. Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện Nam Tử! Như ta đã nói: Khi nói pháp nầy có 3.000 Thiên Tử chứng được vô sanh pháp nhẫn. Hai vạn chúng sanh khi nghe được việc biện luận nầy phát ư vô thượng chánh giác đạo tâm.
Lúc bấy giờ Ngài Đại Đức Mục Kiền Liên bạch Phật rằng:
Kính bạch Đức Thế Tôn! Có phải Tát Giá Thiện Nam Tử nầy là giả trang y phục của Ni Kiền Tử hóa hiện thành chúng sanh chăng ?
Phật bảo Ngài Mục Kiền Liên rằng:
Hãy nghe việc nầy: Tất cả trời người đều đang mê hoặc. Tuy nhiên chỉ trừ các vị Đại Bồ Tát. Mục Liên hãy lắng nghe ta nay nói đây. Tát Giá Ni Kiền Tử có nhiều loại hình tướng uy nghi cũng đã có một ít phận sự giáo hóa chúng sanh.
Nầy Mục Liên! Nay Tát Giá mặc y áo ngoại đạo; nhưng đã giáo hóa chúng sanh rất nhiều như núi Tu Di. Nay lại phát tâm vô thượng chánh chân, mặc y phục như thế để hóa hiện ra trong 4 châu thiên hạ nhiều vô số chúng sanh phát ư vô thượng chánh chân, làm hình tướng xuất gia ngoại đạo để hóa độ 84 Hằng Hà Sa chúng sanh và khiến các chúng sanh ấy phát tâm vô thượng đạo. Hiện ra hình tướng Thanh Văn hóa hiện cho 10 Hằng Hà Sa chúng sanh. Khi qua Thanh Văn thừa rồi lúc ấy mới hiện trở lại để giáo hóa chúng sanh phát tâm cầu vô thượng đạo. Làm hình tướng của bậc Duyên Giác giáo hóa chúng sanh nhiều vô số. Khi mặc y phục của Bồ Tát cũng đã giáo hóa chúng sanh nhiều vô số kể. Cũng có lúc hiện thân Đế Thích, thân Phạm Vương, thân Chuyển Luân Vương, thân Hộ Thế. Lại cũng có thân của Khẩn Na La, cũng có thân A Tu La, Ca Lâu La, Ma Hầu La. Lại có thân người, thân chẳng phải người. Thân nam tử, thân nữ nhơn, thân đồng nam, thân đồng nữ; thân trời lại sanh lên Trời làm chư Tiên. Lại có hình tướng thiếu niên của Bà La Môn. Lại làm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di.
Nầy Mục Liên! Tát Giá Thiện Nam Tử giáo hóa chúng sanh nhiều như thế đó.
Lúc bấy giờ Ngài Mục Liên mới bạch Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Có phải Tát Giá Ni Kiền Tử đã phụng sự chúng dường bao nhiêu Đức Như Lai nên mới được như vậy ?
Phật bảo Ngài Mục Liên rằng:
Nếu mà hư không có biên giới thì không ai có thể được như Tát Giá Ni Kiền Tử đây. Vì đã cúng dường nhiều loại khác nhau lên chư Phật Như Lai nên mới được như vậy.
Nầy Mục Liên! Nếu mà biên giới của đất đai, nước non, gió lửa và biên giới của chúng sanh có, thì không ai có thể được như Tát Giá Thiện Nam Tử đây. Vì đã phụng sự cúng dường chư Như Lai nên mới được như vậy.
Lúc bấy giờ Ngài Đại Ca Diếp nghe việc Tát Giá Thiện Nam Tử nên mới nói rằng: Thiện Nam Tử nầy nhờ đã cúng dường nhiều Đức Phật nên với công đức nầy mà thành tựu được như vậy. Nhưng tại sao không thành được vô thượng đạo ?
Tát Giá đáp rằng: Thưa Đại Đức Ca Diếp! Nếu có bồ đề thì có kẻ giác ngộ bồ đề. Ta nay đương giác ngộ đây.
Đại Đức Ca Diếp nghe Tát Giá nói hằng hà sa đẳng Bồ Tát Ma Ha Tát đã phát nguyện thành chánh giác, giác ư vô thượng đạo, đã giác, nay giác và sẽ giác.
Tát Giá đáp rằng: Thưa Đại Đức Ca Diếp! Vì chúng sanh kiêu mạn cho nên mới như vậy. Trong nghĩa thứ nhứt nầy không có Bồ Đề cũng chẳng có giác Bồ Đề.
Vì sao vậy ?
Thưa Đại Đức Ca Diếp: Bồ Đề là vô vi, lìa tất cả sự đếm số. Bồ Đề chẳng có hình tướng, chẳng thế thấy được. Bồ Đề chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ,chẳng phải trắng, chẳng phải tím, chẳng phải nâu,chẳng có hình tướng. Không có gốc, không có hình, qua khỏi các tướng, chẳng có nơi dừng nghỉ; lìa tất cả nơi dừng nghỉ. Chẳng có và lìa tất cả có. Phi tướng, lìa tất cả tướng, không có sự nói năng, khẩu nghiệp cũng không còn nữa. Chẳng thấy chẳng gom lại cũng chẳng có vật gì cả. Chẳng tối, chẳng sáng, chẳng có hình cũng chẳng có cốt. Chẳng thể nói được và cũng chẳng thể nói được. Chẳng va chạm, chẳng biết, chẳng nghe, chẳng có tiếng, chẳng có câu; chẳng trói, chẳng buộc, chẳng mở ra, chẳng nhiễm vào: chẳng sân, chẳng si, chẳng tất cả mọi việc. Chẳng phải giả danh mà cũng chẳng phải phải chẳng giả danh. Thưa Đại Đức Ca Diếp! Tánh Bồ Đề lại có kẻ Bồ Đề. Chẳng có thân để mà giác. Lại nơi Bồ Đề chẳng có tâm để giác.
Vì sao vậy ?
Thưa Đại Đức Ca Diếp! Thân nầy si vô trí giống như cây cỏ bị tường đất đè lên cho nên không thể giác được. Nhưng ở đây Bồ Đề Tâm là không có sắc lại cũng chẳng thể thấy, cho nên không thể giác được Bồ Đề. Lại cũng chẳng có chúng sanh nào có thể giác được Bồ Đề. Thưa Đại Đức Ca Diếp! Tất cả pháp tánh đều như vậy cả. Lại nói lời rằng làm sao chẳng thành vô thượng đạo ư ?
Lúc bấy giờ Bồ Tát, Đại Thanh Văn chúng, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di và Thích Phạm Hộ Thế mới suy nghĩ như thế nầy và liền bạch Phật. Nếu Ngài biết rõ tâm nghi của chúng con thì xin giải nghi và làm cho tâm nghi của chúng con tiêu trừ đi. Nay noí về Tát Giá Thiện Nam Tử một thời nọ sẽ thành vô thượng chánh giác. Thế giới ấy có tên gì ? Chứng Bồ Đề rồi danh hiệu như thế nào ? Trụ thọ được bao lâu ? Đại chúng được bao nhiêu ?
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn biết được các Bồ Tát Thanh Văn, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di các vị Phạm Hộ Thế về tâm niệm ấy nên mới bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: Tát Giá Thiện Nam Tử ấy trong Hiền Kiếp đã qua và trong vô lượng kiếp về sau, người ấy sẽ thành Phật hiệu là Thật Ý Tướng Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Thế giới của vị Phật ấy tên là Thiện Quán. Kiếp tên Diệt Lạt. Văn Thù Sư Lợi! Thế giới Thiện Quán ấy đoan nghiêm ái lạc; có bảy loại báu trang nghiêm chung quanh nước ấy nhiều ngàn lần. Tường vách cũng làm bằng bảy báu. Có trăm ngàn ao hào, trong ấy có 7 loại mùi hương và nước trong đó lúc nào cũng đầy. Lại cũng có trăm ngàn nơi cao ráo; nơi ấy cũng được làm bởi bảy chất lưu ly mà thành tựu. Có trăm ngàn vạn Diêm Phù Đàn làm võng và làm trang nghiêm nơi ấy. Lại cũng có trăm ngàn bảo châu Ma Ni làm đài. Có trăm ngàn vạn ức Sư Tử Ma Ni bảo châu trang nghiêm làm lan can. Có trăm ngàn vạn ức phan lọng hình Sư Tử bằng Ma Ni bảo châu trang nghiêm nơi chỗ ngồi. Có trăm ngàn vạn những tràng phan bảo châu lớn, chiếu sáng tất cả. Trăm ngàn vạn chuông báu thoát ra những âm thanh vi diệu, tràn đầy trong hư không. Lại cũng có trăm ngàn vạn trân châu vàng bạc quý báu làm võng. Có hàng trăm ngàn loại phan lọng khác nhau.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Đó là Thế Giới Thiện Quán vậy. Nơi đó đất bằng phẳng. Cây quý bao bọc chung quanh, sanh ra cây cỏ mềm mại; những cỏ nầy đều mọc về phía bên phải, giống như màu sắc của Nan Đề Bạt Đán Khổng Tước; giống như áo trời. Cỏ nầy mọc đầy cả Thế Giới Thiện Quán nầy; làm trang nghiêm cả trăm ngàn vườn như thế tại đây. Cứ mỗi một vườn như thế lại có trăm ngàn vườn cây chung quanh rất trang nghiêm. Cũng có trăm ngàn vạn ao báu vây quanh trang nghiêm. Cứ mỗi ao như thế đều có 8 loại Lăng Ma Ni nơi đáy ao. Trên ao có những cây Diêm Phù Đàn. Dưới đáy ao toàn bằng cát vàng. Nơi đó có nước 8 công đức, hoa quý bao bọc. Có Thiên Nga bơi lội và múa hát.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế giới tên là Thiện Quán kia có trăm ngàn vạn nước thành ấp thôn xóm làng mạc được bao vây chung quanh. Cứ mỗi một thành lớn như thế có trăm ngàn thành vây quanh trang nghiêm; các thôn ấp tụ lạc cũng lại như vậy. Trong tất cả các nước, thành, ấp, thôn, tụ lạc ấy nam nữ đều đầy đủ.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Trong thế giới tên là Thiện Quán đó là 4 châu thiên hạ. Tên là Thích Ý Kiến, rất là đặc biệt. Nơi ấy thật là trang nghiêm, thật là phong phú vui vẻ; nam nữ cũng nhiều. Nơi đó có Thật Ý Tướng Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri đang sanh ở đó.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Vị Thật Ý Tướng Vương Như Lai ấy xuất sanh từ dòng dõi Bà La Môn. Mẹ tên là Dũng Mãnh cũng giống như tên của mẹ ta bây giờ gọi là Ma Ya vậy. Cha tên là Phạm Ma Bà Tú, cũng giống như cha ta tên gọi là Tịnh Phạn. Ông ta có một người con tên là Biến Thinh cũng giống như ta có con tên gọi là La Hầu La vậy. Có người vợ tên là Đại Ý cũng như ta có vợ tên Da Du Đà La. Cũng có dì tên là Đại Xứng cũng như ta có dì tên là Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm Di. Vị Phật Thế Tôn ở xứ ấy có đệ tử tên là Thường Thuận Hạnh cũng giống như ta có đệ tử tên là Siển Đà. Vị Phật Như Lai kia có một con ngựa lớn tên là Đại Lực. Thật Ý Tướng Vương khi xuất gia cũng giống như nay ta có con ngựa tên là Kiền Trắc. Vị Phật Như Lai kia có đạo tràng tên là Pháp Dũng. Vị Phật Như Lai ở nơi đạo tràng ấy đang thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đang có 80 ức cây Bồ Đề vây chung quanh rất trang nghiêm.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Lúc bấy giờ Đức Phật ấy không có ma mà cũng không có Thân chúng ma. Nầy Văn Thù Sư Lợi! Vị Phật tương lai ấy Thật Ý Tướng Vương thành vô thượng chơn đạo rồi thế giới của Phật kia các chúng sanh mới dùng hoa hương và nhiều loại kỷ nhạc cùng những người ở đó đến Pháp Dũng đạo tràng cho đến trời A Ca Nị Tắc thân chúng cũng tụ họp; Rồng, Dọa Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già tất cả cũng đều vân tập. Đông Tây Nam Bắc các Đại Bồ Tát cũng đều đến đó. Nầy Văn Thù Sư Lợi! Vị Thật Ý Tướng Vương nầy sau khi đã chứng Bồ Đề rồi tại đại chúng ấy nói kinh nầy gọi là "Bồ Tát Hành PhươngTiện Cảnh Giới Thần Thông Biến Hóa" có rất nhiều kinh điển khác vây chung quanh. Nầy Văn Thù Sư Lợi! Khi Đức Như Lai Thật Ý Tướng Vương thuyết kinh ấy rồi hằng hà sa chúng sanh chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề không thối chuyển.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Vị Như Lai Thật Ý Tướng Vương ấy không nói pháp tam thừa. Vì thế giới Phật ấy không có Thanh Văn Duyên Giác. Nơi ấy chỉ có một thừa để hướng dẫn chúng sanh. Khi sanh về thế giới ấy. Văn Thù Sư Lợi! Vị Như Lai Thế Tôn Thật Ý TướngVương kia khi nói pháp hội lần đầu có hằng hà sa Bồ Tát chứng được bất thối chuyển. Khi pháp hội thứ hai có 80 Na Do Tha Bồ Tát chứng được nhứt sanh. Khi pháp hội thứ ba có 60 Tần Bà La (khoảng 10 triệu) Bồ Tát từ đó trở đi có rất nhiều Bồ Tát không thể đếm được, an trụ chẳng thoái, thành vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Vị Phật Thật Ý Tướng Vương kia sau khi thành đạo rồi, thọ mạng có 60 trung kiếp. Sau khi Phật nhập Niết Bàn chánh pháp trụ ở đời 80 ức, trăm ngàn Na Do Tha tuổi. Xá Lợi của Phật kia cũng rộng rãi lưu bố khắp nơi giống như số lượng chúng sanh bên trên. Nầy Văn Thù Sư Lợi! Khi vị Phật kia thị tịch Niết Bàn đã giữ lấy tướng của Bồ Tát mà diệt độ và Đại Tướng Bồ Tát ấy sau tu sẽ thành vô thượng chánh đẳng chánh giác hiệu là Đại Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Lúc ấy đại chúng tâm sinh nghi hoặc, ai là Đại Tướng Bồ Tát lúc ấy mà sau Phật lại thành được bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiệu là Đại Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Lúc ấy Đức Thế Tôn biết tâm của đại chúng nên tức thời bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: Đó là Tát Giá Thiện Nam Tử ngồi phía trước với thân hình là tiểu đồng tử của ngoại đạo, tên thật là Thật Hoan Hỉ, trên tất cả các đồng tử khác. Ông ta sẽ thành Phật, hiệu là Đại Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Thế giới của Đức Phật kia cũng trang nghiêm như vị Như Lai Thật Ý Tướng Vương ấy không có gì sai khác cả. Khi đại chúng nghe vị Phật kia có công đức trang nghiêm như thế ở trong hội chúng 60 ức, trăm ngàn Na Do Tha các Bồ Tát cũng đều phát tâm nguyện sanh thế giới của Đức Phật kia. Các vị ấy bạch Phật rằng:
Kính bạch Đức Thế Tôn! Khi Đức Phật Thật Ý Tướng Vương thành Phật rồi chúng con sẽ sanh về thế giới của Phật ấy. Thế Tôn liền thọ ký cho sanh nước kia.
Có 80 ức Ni Kiền Tử cũng đồng xướng lên rằng:
Kính bạch Thế Tôn! chúng con lại cũng muốn sanh nơi nước của Phật kia. Phật đã thọ ký cho tất cả sanh sang nước kia.
Từ trên không trung có 90 ức, trăm ngàn Na Do Tha cùng chư Thiên Tử v.v... nói lời như thế nầy:
Kính bạch Đức Thế Tôn! Khi Phật Thật Ý Tướng Vương thành Phật rồi chúng con sẽ sanh nơi kia và vào nơi thế giới Thiện Quán ấy và sẽ thấy những công đức trang nghiêm. Sau khi Phật thọ ký rồi, tất cả Thiên
Tử lại cũng được sanh vào thế giới Thiện Quán ấy và phụng sự Phật kia.
Khi các Thiên Tử phát nguyện sanh vào thế giới Thiện Quán ấy, thành được Vô Thượng Đạo. Các vị ấy đều có tên khác nhau và cùng một thọ mệnh. Tức thời 3 ngàn đại thiên thế giới 6 loại chấn động. Từ nơi đất tự nhiên mọc lên trăm ngàn Na Do Tha hoa sen quý. Diêm Phù Đàn làm lá, lấy Lưu Li Ma Ni làm đài. Xa Cừ làm lá, Lưu Ly làm cọng. Trong các hoa sen nầy có Bồ Tát thị hiện ngồi kiết già phu tọa tướng hảo trang nghiêm cung kính lễ Phật. Sau đó dùng nhiều anh lạc lọng võng để cúng dường Đức Phật. Tất cả đều nói: Tất cả chúng con tại thế giới của Đức Phật khác giao động khi nghe nói kinh bất khả tư nghì Bồ Tát công đức nầy, cho nên chúng con sang đây, gặp Đức Thế Tôn đảnh lễ và đi nhiễu về phía phải. Lại cũng thấy được Tát Giá Thiện Nam Tử và các đại chúng. Lại thưa Phật rằng: Có bất khả tư nghì các nước Phật, có vô số chúng sanh khi nghe kinh nầy rồi liền chứng được vô thượng đạo. Lúc ấy Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa nầy mà nói kệ rằng :
Ta nghe nói nghĩa nầy
Nhất tâm chớ loạn niệm
Như Lai nói chẳng dối
Điều Ngự chẳng nói khác
Tát Giá Phật ra đời
Nhiều ức kiếp về sau
Hiệu Thật Ý Tướng Vương
Kiếp sạch chẳng dơ nhớp
Chẳng có dâm dục thảy
Cũng chẳng có lỗi lầm
Lại cũng chẳng ngu si
Kiếp đó chẳng tham đắm
Thế giới tên Tịnh Quán
Nhiều màu sắc trang nghiêm
Người trời vui xem nghe
Điều Ngự ở trong đời
Từ đài quí nhìn xem
Đang có nhiều nghiêm tịnh
Diêm Phù vàng vây quanh
Tiếng hay nghe vừa ý
Hiện Sư Tử bảo tràng
Sắc trân bảo quý giá
Tường vách đều trân bảo
Nơi ấy có đức trời
Nơi ấy có ao hồ
Tất cả đều trang nghiêm
Hoa sen xanh trắng khắp
Nước tám mùi đầy cả
Nơi ấy bốn Thiên Vương
Tên là Thích Ý Kiến
Thiện thệ sanh thành ấy
Từ dòng Bà La Môn
Mẹ tên là Dũng Mãnh
Cha Phạm Ma Bà Tú
Tên con Biến Danh Thinh
Như con ta La Hầu
Hoàng hậu vị vua kia
Tên gọi là Đại Ý
Như vợ ta Da Du
Dì ruột tên Đại Xứng
Như nay dì của ta
Tên gọi Kiều Đàm Di
Thị giả tên Thuận Hạnh
Đang làm thị giả Phật
Cùng với Đức Phật ấy
Như ta có Siển Đà
Ngựa quý của vua kia
Có tên là Đại Lực
Đưa Đức Phật xuất gia
Như ngựa Kiền Trắc vậy
Đạo tràng Như Lai kia
Có tên là Pháp Dũng
Tám mươi ức trăm ngàn
Cây báu vây chung quanh
Đức Phật ngồi nơi ấy
Thật Ý chẳng ai bằng
Vô Thượng chánh đẳng giác
Dưới cây kia giác ngộ
Chẳng tà ma quấy nhiễu
Cuối cùng chẳng nghiệp ma
Nơi đất Phật chẳng hại
Lại chẳng có phàm phu
Nơi ấy có chúng sanh
Làm người trời công đức
Hoa báu cùng kỷ nhạc
Vang lên lời Thế Tôn
Điều Ngự biết chúng hội
Biết tâm họ thanh tịnh
Mới nói kinh tột nầy
Có ức kinh chung quanh
Nghe qua kinh nầy rồi
Đức Thế Tôn nói pháp
Nhiều ức chúng hằng sa
Chẳng thể thoái Phật trí
Chẳng có nghe thừa thốp
Lại cũng chẳng Duyên Gaíc
Chỉ toàn những Bồ Tát
Thế giới của Phật kia
Hội đầu của Thế Tôn
Có đến hằng hà sa
Công đức hải chẳng lùi
Bồ Tát cũng rất nhiều
Lần hai tám mươi Na Do Tha
Tất cả được sanh chỉ một đời
Lần ba sáu mươi Tần Bà La
Hết thảy Bồ Tát nhiều lợi ích
Hết sáu mươi bốn kiếp
Đức Thiện Thệ thọ mệnh
Khi Điều Ngự Niết Bàn
Chánh pháp rộng lưu truyền
Tám mươi ức ngàn năm
Pháp trụ Na Do Tha
Xá Lợi có khắp nơi
Nhằm điều phục chúng sanh
Thế Tôn diệt độ rồi
Thọ ký Tướng Bồ Tát
Nay thành Điều Ngự đây
Tên là Đại Trang Nghiêm
Nơi trang nghiêm cõi ấy
Làm lợi ích chúng sanh
Làm cho đời giác ngộ
Vô thượng đạo Niết Bàn
Ta thấy nghe vô thượng
Biết trong vô lượng kiếp
Hà huống việc bây giờ
Tất cả biết chẳng ngại
Nên tin lời ta nói
Như Lai chẳng nói hư
Giáo lý nơi ta dạy
Lấy từ lời ta nói
Nghe Thiện Thệ nói rồi
Đại chúng sanh hoan hỷ
Phát nguyện sanh nước kia
Những người sanh nơi đó
Nghe Phật thuyết pháp rồi
Sanh tâm chẳng nhàm chán
Nay ta chỉ đường tốt
Vì phổ độ chúng sanh
Nên nói kinh vương nầy
Đại địa sáu loại động
Trong hoa có Bồ Tát
Chắp tay lễ Điều Ngự
Lành thay độ phàm phu
Hay nói pháp chẳng nghỉ
Phật nói pháp ta nghe
Xa lại cũng pháp nầy.
Lúc bấy giờ tất cả đại chúng đều một lòng hoan hỷ tung hô vui mừng thọ trì, chỉ giữ lại một áo, ngoài ra đều dâng lên cúng Phật rồi nói lời rằng:
Thế Tôn xuất thế tái chuyển pháp luân, nơi Ba La Nại mà nói pháp. Nay cũng thế chuyển đại pháp luân. Chúng con mong Đức Thế Tôn làm cho chúng con đừng lìa những pháp báu như thế. Cũng đừng xa lìa tướng phàm phu nầy.
Lúc ấy trên không trung nổi lên nhiều loại nhạc trời, mưa xuống những hoa sen xanh vàng đỏ trắng xuống phía trước chân của Đức Phật. Chư thiên cùng thiên y từ trên không trung tự quay lại và xướng lên lời như thế nầy :
Nầy những kẻ phàm phu! Các ngươi ở đời vị lai sẽ thành tựu bất khả tư nghì công đức. Cho nên nếu có thọ trì đọc tụng kinh nầy rất được lợi lạc và nên quảng bá rộng ra.
Sau khi nói lời ấy rồi, Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng:
Kính bạch Đức Thế Tôn! Các Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn nầy nếu viết lại kinh nầy hoặc thọ trì đọc tụng được lợi ích và làm cho lan truyền mãi ra thì được những công đức nào?
Sau khi hỏi lời ấy rồi, Phật đáp rằng:
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nếu có kẻ Thiện Nam hay người Thiện Nữ nào trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy hoặc có chúng sanh nào từ có hình cho đến vô hình, có tưởng cho đến không tưởng; cho đến các chúng sanh ở các thế giới khác, chỉ có Phật mới có thể biết hết tất cả, sẽ làm cho những người nào chưa được thân người sẽ được thân người. Sau khi thành vô thượng chánh đẳng chánh giác rồi thì kẻ thiện nam người thiện nữ ấy cung kính cúng dường tôn trọng lễ bái tất các các vị Phật, làm cho được an ổn, thọ mệnh một kiếp.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ý nầy nghĩa như thế nào ? Thì kẻ thiện nam hay người thiện nữ ấy với nhân duyên nầy được phước đức nhiều chăng ?
Văn Thù Sư Lợi đáp rằng:
Kính bạch Đức Thế Tôn! Rất nhiều. Kính bạch Đức Thiện Thệ! Rất nhiều. Nhiều không thể nào đo lường và tính đếm được.
Phật bảo rằng:
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Kẻ Thiện Nam hay người Thiện Nữ kia khi viết kinh hoặc thọ trì đọc tụng làm lợi lạc quảng bá rộng ra cũng nhiều phước đức như những kẻ Thiện Nam người Thiện Nữ kia cúng dường chư Phật vậy.
Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp rằng:
Kính bạch Đức Thế Tôn! Thật hy hữu thay. Ngài đã vì lợi ích của tất cả thế gian mà nói kinh điển nầy và vì cõi Diêm Phù Đề mà lưu bố kinh nầy lúc nào thì tốt ?
Phật bảo rằng:
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Sau khi ta nhập Niết Bàn và lúc lưu bố Xá Lợi của ta, lúc ấy có 8 vì vua lấy hộp báu để đựng Xá Lợi của ta. Sau khi chia làm 8 phần rồi các vì vua nầy đều về nước của mình tạo dựng tháp báu và vua A Xà Thế sẽ lấy phần Xá Lợi thứ 8 của ta cúng dường hương hoa trang trọng và xây dựng ở phía ngoài thành Vương Xá; nơi đó yên ổn và nơi đó cũng có nhiều loại hương hoa vi diệu, làm những tràng phang bảo cái, rải hằng trăm thứ hoa, kết hằng trăm lồng đèn và tàng trữ Xá Lợi nơi ấy. Chờ vua A Thúc Ca dùng vàng lá để viết kinh nầy xong rồi. Lúc ấy, nầy Xá Lợi Phất, tức sau khi ta nhập Niết Bàn 100 năm. Có vị vua tên là A Thúc Ca. Nhà vua xuất thân từ dòng dõi Mạc Sát Lợi làm vua cõi Diêm Phù Đề được tự tại làm chuyển luân vương ở 4 châu. Lúc ấy nhà vua sẽ tu niệm những pháp của ta đã nói và từ trong Phật Pháp chứng được tâm thanh tịnh.
Lúc ấy có vị Tỳ Kheo tên Nhơn Đà Xá Ma chứng đại thần thông có đại uy đức nhiếp trì chánh pháp, trì kinh Phương Đẳng và vị nầy từ dòng dõi vua chúa xuất gia. Vào ra vương cung của vua A Thúc Ca. Nầy Văn Thù Sư Lợi! A Thúc Ca vương sau khi đã công bố rộng rãi xá lợi của ta cho nên có nhiều tướng tài và quý nhơn giúp đỡ, đại vương oai đức trang nghiêm mang đến Vương Xá Thành rất nhiều hoa hương, hương bột và các loại kỹ nhạc để thiết lễ cúng dường, đào dưới đất lên để lấy hộp xá lợi và trong 7 ngày thiết nhiều lễ để cúng dường. Dùng tất cả hoa, hương, hương bột cùng kỹ nhạc để cúng dường và sau khi cúng dường rồi lúc ấy tùy theo từng loại người, từng nơi mà cho nghinh tiếp. Mỗi ngày, mỗi giờ như thế cho đến 84.000 Đại Tháp. Lúc ấy Ngài Nhơn Đà Xá Ma Pháp Sư từ nơi hộp quý ấy mà cho xuất hiện kinh nầy và an trí nơi phương Bắc, ở đó có nhiều người cư ngụ. Kinh nầy lại cũng có rất nhiều người chưa biết đến; cũng chẳng có nhiều người giải thích; cũng có rất nhiều người chưa thọ trì; có rất ít người thọ trì kinh nầy.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Kinh nầy đã để yên nơi hộp quý ấy. Vì sao vậy? Vì không có người thọ trì vậy! Không có người biết vật quý đó vậy. Nầy Văn Thù Sư Lợi! Hãy biét rằng kinh nầy rất khó giải thích và khó tin tưởng; khó hiểu rốt ráo; kẻ bình thường thì rất khó để mà phát khởi lòng tin. Những kẻ bình thường thì ít hay trì tụng.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Sau 50 đời nếu lại có người nghe kinh điển nầy mà giải thích cung kính, thì Văn Thù Sư Lợi cũng không nên nghi ngờ mà nên biết rằng người ấy đã cúng dường rất nhiều Phật, làm những hạnh lành cho nên mới được kinh Đại Thừa nầy. Đây là pháp khí chơn thật. Nếu có ai đó biên chép, thọ trì đọc tụng kinh nầy và làm cho lợi ích thêm ra thì chúng sanh đó nên tự biết rằng sẽ gặp được hằng hà sa Phật Như Lai vậy. Phụng sự cúng dường, đi theo bên phải để lễ bái hoặc thấy ta nơi nước ấy khi nói kinh nầy và thấy đại chúng.
Lúc ấy Phật bảo Ngài A Nan rằng:
Hãy vì sự lợi ích mà ngươi nên thọ trì đọc tụng kinh nầy và hãy lưu ý không nên nói kinh nầy trước kẻ hạ liệt mà không hiểu rõ nguồn gốc vậy. Vì sao thế ? Nầy A Nan! Đó là công đức của Như Lai. Đó là bí mật của Như Lai. Đó là lời nói của Như Lai. Đó toàn là những pháp không tạp lục. Đó là ấn chỉ của Như Lai. Đó là Thắng Tài của Như Lai.
Nầy A Nan! Hãy nên kiên trì đối với người nói dối. Chỉ trừ trưởng tử của ta mới có thể gìn giữ pháp tạng, hộ trì pháp tạng của ta cho mọi người mà thôi.
Ngài A Nan bạch:
Con trì kinh nầy rồi! Bạch Thế Tôn! Tên kinh nầy gọi là gì ? Vì sao phải thọ trì ?
Phật bảo An Nan rằng:
Tên kinh nầy gọi là "Bồ Tát Hành Phương Tiện Cảnh Giới Thần Thông Biến Hóa Kinh". Cũng có tên là Như Lai Mật Xứ. Cũng có tên là Như Lai nói thuần pháp thanh tịnh. Lại cũng có tên Như Lai nói nhứt thừa. Lại cũng có tên Văn Thù Sư Lợi Sở Vấn. Cũng lại có tên Tát Giá Thọ Ký. Cũng có tên Tát Giá phẩm. Cứ như thế mà thọ trì. Sau khi Đức Như Lai nói kinh nầy xong có ba ngàn Na Do Tha chúng sanh chưa phát vô thượng đạo tâm nay liền phát tâm. Có sáu vạn Bồ Tát chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô lượng chúng sanh thành định vô thượng đạo. Khi Phật nói kinh nầy rồi; Đại Đức A Nan Đà rất hoan hỷ vừa ý. Ngài Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử cùng với tất cả Bồ Tát, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Thích Phạm hộ thế thiên cùng với người đời nghe Phật nói rồi hoan hỷ tín thọ. (Phật nói Bồ Tát Hành Phương Tiện kinh - Quyển hạ hết)
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 52.14.77.134 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.