Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Kim Cang Kinh Giải Nghĩa [金剛經解義] »» Bản Việt dịch quyển số 2 »»

Kim Cang Kinh Giải Nghĩa [金剛經解義] »» Bản Việt dịch quyển số 2

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Giải Nghĩa Kinh Kim Cang

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | Quyển cuối
Việt dịch: Nguyên Hiển

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

12- Tôn trọng chính giáo
“Lại nữa, Tu-bồ-đề ! Nơi nào giảng thuyết kinh này, cho dầu chỉ bốn câu kệ, phải biết đây là nơi tất cả người, trời, A-tu-la trong thế gian đều phải cúng dường như cúng dường tháp Phật,”
Nơi nào có người giảng thuyết kinh này, người ấy trong mỗi niệm phải thường hành vô niệm, tâm là tâm vô sở đắc, không đem tâm phân biệt năng sở mà giảng nói. Nếu có thể xa lìa các tâm chấp trước, thường căn cứ vào tâm vô sở đắc thì ngay trong thân này có kim thân xá-lợi của Như Lai, cho nên nói là như tháp Phật vậy. Người dùng tâm vô sở đắc giảng nói kinh này sẽ cảm được Thiên long bát bộ đều đến nghe thuyết giảng. Nếu người tâm không thanh tịnh, giảng nói kinh này chỉ vì danh lợi, chết sẽ đọa vào ba đường ác, nào được ích lợi chi. Nếu tâm thanh tịnh thuyết giảng kinh này, khiến người nghe trừ tâm mê vọng, ngộ được bản lai Phật tính, thường thực hành chân thật sẽ cảm được người, trời, A-tu-la đều đến cúng dường người hành trì kinh này.
“huống chi là người hoàn toàn có thể thụ trì đọc tụng.
Tu-bồ-đề ! Phải biết người này thành tựu pháp cao tột hiếm có bậc nhất. Nơi nào có kinh này là nơi đó có Phật, có các đệ tử cao trọng của Phật.”
Tự tâm tụng được kinh này, tự tâm hiểu được nghĩa kinh, tự tâm thể nhập được lý vô tướng, ở đâu cũng tu theo hạnh Phật, niệm niệm không gián đoạn thì tự tâm là Phật. Cho nên nói ở đâu là ở đó có Phật.
13- Thụ trì đúng như pháp
“Bấy giờ Tu-bồ-đề bạch Phật : –Thưa Thế Tôn, kinh này tên gì, chúng con phụng hành như thế nào ?
Phật bảo Tu-bồ-đề : Kinh này tên là Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật. các ông phải phụng trì danh hiệu ấy.
Bởi vì sao ? Này Tu-bồ-đề ! Bát-nhã Ba-la-mật Phật nói, tức chẳng phải Bát-nhã Ba-la-mật, đó mới là Bát-nhã Ba-la-mật.”
Phật nói Bát-nhã Ba-la-mật khiến người học dùng trí tuệ trừ bỏ tâm sinh diệt ngu si. Trừ hết sinh diệt là đến bờ kia. Nếu tâm còn có chỗ sở đắc tức không đến được bờ kia. Tâm không một pháp nào sở đắc là đến bờ kia. Miệng nói tâm thực hành là đến bờ kia.
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Như Lai có gì thuyết pháp không ?
Tu-bồ-đề nói :–Thưa Thế Tôn ! Như Lai không có gì thuyết pháp.”
Phật hỏi Tu-bồ-đề rằng Như Lai thuyết pháp, tâm có sở đắc không. Tu-bồ-đề biết Như Lai thuyết pháp là tâm không sở đắc, cho nên nói không có gì thuyết pháp cả. Ý Như Lai muốn người đời bỏ tâm niệm cho rằng có chỗ sở đắc, có cái mình đạt được, nên nói pháp Bát-nhã Ba-la-mật, để tất cả người nghe pháp này đều phát tâm Bồ-đề, ngộ lý vô sinh, thành tựu đạo vô thượng.
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Tất cả bụi nhỏ trong ba ngàn đại thiên thế giới là nhiều không?
Tu-bồ-đề nói : –Rất nhiều, thưa Thế Tôn.
Tu-bồ-đề ! Những bụi nhỏ Như Lai nói
chẳng phải bụi nhỏ, đó gọi là bụi nhỏ. Thế giới Như Lai nói chẳng phải thế giới, đó gọi là thế giới.”
Như Lai nói vọng niệm trong tâm chúng sinh như bụi bặm trong ba ngàn đại thiên thế giới. Tất cả chúng sinh bị bụi bặm vọng niệm khởi diệt mãi không ngừng, che lấp Phật tính, không được giải thoát. Nếu niệm niệm chân chính tu hạnh vô trước vô tướng Bát-nhã Ba-la-mật, thì hiểu rõ bụi bặm vọng niệm tức pháp tính thanh tịnh. Vọng niệm đã không còn thì cái chẳng phải bụi bặm đó là bụi bặm. Hiểu rõ chân là vọng, vọng là chân thì chân vọng đều mất, không còn một pháp nào khác, nên gọi là bụi bặm. Trong tâm không bụi bặm là thế giới của Phật. Trong tâm bụi bặm là thế giới chúng sinh. Rõ các vọng niệm là không tịch nên nói chẳng phải thế giới. Chứng được pháp thân Như Lai, hiện khắp các cõi, không phương nào không có diệu dụng, đó là thế giới.
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Có thể lấy ba mươi hai tướng mà gọi là thấy Như Lai chăng?
–Không, thưa Thế Tôn ! Không thể lấy ba mươi hai tướng mà gọi là thấy được Như Lai.
Bởi vì sao, vì Như Lai nói ba mươi hai tướng tức chẳng phải tướng, đó là ba mươi hai tướng.”
Ba mươi hai tướng là ba mươi hai hạnh thanh tịnh. Ba mươi hai hạnh thanh tịnh là trong năm căn tu sáu Ba-la-mật, trong ý căn tu vô tướng vô vi, thì gọi là ba mươi hai hạnh thanh tịnh. Thường tu ba mươi hai hạnh thanh tịnh này tức được thành Phật. Nếu không tu ba mươi hai tướng hạnh thanh tịnh thì không bao giờ thành Phật. Chỉ yêu thích chấp đắm ba mươi hai tướng của Như Lai mà tự mình không tu ba mươi hai hạnh, sẽ không bao giờ thấy được Như Lai.
“Tu-bồ-đề ! Nếu có thiện nam thiện nữ đem thân mạng như cát sông Hằng mà bố thí và lại có người thụ trì kinh này cho dầu chỉ bốn câu kệ và giảng nói cho người khác, phúc người này rất nhiều.”
Người đời quý trọng nhất không gì hơn thân mạng. Bồ-tát vì pháp, trong vô lượng kiếp xả thí thân mạng cho tất cả chúng sinh. Phúc ấy tuy nhiều cũng không bằng phúc thụ trì bốn câu kinh này. Nhiều kiếp xả bỏ thân mạng mà không rõ nghĩa không, không trừ vọng tâm thì vẫn y nguyên là chúng sinh. Còn như một niệm trì kinh, ngã nhân đều hết, vọng tưởng đã trừ, thì chỉ dưới một câu nói là thành Phật. Cho nên biết rằng nhiều kiếp xả thân, không bằng phúc thụ trì bốn câu kinh.
14- Vắng lặng lìa bỏ các tướng
“Lúc bấy giờ Tu-bồ-đề nghe Phật nói kinh này, hiểu ý nghĩa sâu xa, buồn tủi, khóc mà bạch Phật rằng : –Hiếm có thay Thế Tôn ! Phật nói kinh điển rất sâu xa như thế này. Con từ xưa đã được con mắt tuệ nhưng chưa từng nghe kinh như vậy.
Thưa Thế Tôn ! Nếu lại có người nghe được kinh này, tín tâm thanh tịnh liền sinh thật tướng, tức biết người này thành tựu công đức hiếm có bậc nhất.”
Tự tính không si mê là người có con mắt tuệ, nghe pháp tự ngộ là người có con mắt pháp. Tu-bồ-đề là một A-la-hán. Trong 500 đệ tử của Phật, Tu-bồ-đề là người hiểu rõ lý không bậc nhất, là người đã từng phụng thờ nhiều Phật trong quá khứ, lẽ nào chưa được nghe pháp sâu xa như thế này, lẽ nào nói mới nghe nơi Phật Thích-ca Mâu-ni ? Song có thể là Tu-bồ-đề chứng đắc thuở xa xưa là tuệ nhãn của Thanh văn, đến nay mới ngộ Phật ý. Nên mới nghe kinh pháp sâu xa này thì buồn khóc vì xưa kia chưa ngộ. Nghe kinh suy ngẫm chân lý của kinh, đó là thanh tịnh. Từ trong cái thể thanh tịnh phát xuất ra pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Phải biết rằng như vậy chắc chắn sẽ thành tựu công đức của chư Phật.
“–Thưa Thế Tôn ! Thật tướng ấy là phi tướng, cho nên Như Lai nói là thật tướng.”
Tuy thực hành hạnh thanh tịnh mà còn thấy có hai tướng cấu uế và thanh tịnh, thì đương nhiên đều là tâm cấu uế, không phải tâm thanh tịnh. Tâm còn có sở đắc tức chẳng phải thật tướng.
“–Thưa Thế Tôn ! Nay con được nghe kinh này, tin hiểu thụ trì, chẳng kể là khó. Nhưng nếu đời sau, năm trăm năm sau, có chúng sinh nào được nghe kinh này mà tin hiểu thụ trì, thì người ấy mới là hiếm có bậc nhất.
Bởi vì sao ? Vì người này không ngã tướng, không nhân tướng, không chúng sinh tướng, không thọ giả tướng. Vì ngã tướng tức là phi tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng tức là phi tướng.
Bởi vì sao ? Lìa tất cả các các tướng, tức là chư Phật.”
Tu-bồ-đề hiểu sâu ý Phật, trừ hết nghiệp cấu uế, tuệ nhãn bừng sáng, thì tin hiểu thụ trì không còn khó khăn. Nhưng khi Thế Tôn tại thế thuyết pháp cũng có vô lượng chúng sinh không thể tin hiểu thụ trì, hà tất phải nói năm trăm năm sau ? Có điều là ngày Phật còn tại thế, tuy có những người căn cơ bậc trung hoặc thấp, người không tin, người hoài nghi, có thể đến hỏi Phật, Phật tùy theo đó giảng nói, không ai không tỏ ngộ. Phật diệt độ năm trăm năm sau, là dần đến thời kỳ mạt pháp, thánh hiền xa vắng, chỉ còn lại kinh giáo, nếu người nghi ngờ không biết làm sao giải quyết.
Người ngu mê ôm lấy chấp trước, , không hiểu lý vô sinh, giong ruổi đuổi theo các tướng, lạc vào các nẻo luân hồi. Trong lúc đó, nếu được nghe Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, tâm thanh tịnh tin kính, ngộ lý vô sinh thì thật là hiếm có. Cho nên nói hiếm có bậc nhất. Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu lại có người đối với kinh điển Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, mà có thể tin hiểu thụ trì, tức biết rằng người này không có tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Không bốn tướng này gọi là thật tướng, tức Phật tâm, cho nên nói lìa tất cả các tướng tức chư Phật.
“Phật bảo Tu-bồ-đề : Đúng như vậy ! Đúng như vậy !”
Phật ấn khả chỗ giải thích của Tu-bồ-đề là phù hợp tâm Phật, nên nói lặp lại hai lần : Đúng như vậy, đúng như vậy.
“Nếu lại có người được nghe kinh này mà không kinh ngạc, không sợ hãi, phải biết người như vậy thật hiếm có.”
Các Thanh văn chấp pháp tướng đã lâu, chỉ biết chấp hữu, không hiểu các pháp vốn không, tất cả văn tự đều là giả lập, bỗng nghe kinh sâu xa này nói các tướng không sinh, ngay dưới câu nói tức Phật, vì vậy kinh ngạc sợ hãi. Chỉ các hàng Bồ-tát căn trí cao, nghe được lý này hoan hỷ thụ trì, mà không sợ hãi thoái lui, những hạng người như vậy rất là hiếm có.
“Bởi vì sao ? Tu-bồ-đề ! Như Lai nói đệ nhất Ba-la-mật tức chẳng phải đệ nhất Ba-la-mật, đó mới là đệ nhất Ba-la-mật.”
Miệng nói tâm không làm là phi, tức chẳng phải. Miệng nói tâm thực hành là thị, tức phải, đúng. Tâm có phân biệt năng sở là chẳng phải. Tâm không năng sở là phải.
“Tu-bồ-đề ! Nhẫn nhục Ba-la-mật, Như Lai nói chẳng phải nhẫn nhục Ba-la-mật.”
Thấy có cảnh phải nhẫn nhục là chẳng phải. Không thấy có cảnh phải nhẫn nhục là phải. Thấy có thân tướng sẽ bị người hại, là chẳng phải. Không thấy có thân tướng sẽ bị người hại là phải.
“Bởi vì sao ? Tu-bồ-đề ! Như ta xưa bị vua Ca-lợi chặt đứt thân thể. Lúc ấy ta không có ngã tướng, không nhân tướng, không chúng sinh tướng, không thọ giả tướng.
Bởi vì sao ? Lúc xưa khi ta bị chặt đứt từng khúc thân thể, nếu có ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, thì sẽ sinh giận dữ oán hận.”
Như Lai trong lúc tu nhân ở bậc sơ địa là vị tiên nhẫn nhục, bị vua Ca-lợi chặt đứt thân thể, mà không có một niệm đau buồn phiền não, vì nếu đau buồn phiền não sẽ sinh giận dữ oán hận. Vua Ca-lợi ( Kali ) là tên tiếng Phạn, đây gọi là vua vô đạo cực ác. Có một thuyết nói Như Lai trong lúc tu nhân, từng làm quốc vương. Nhà vua thường tu hành thập thiện, lợi ích chúng sinh. Nhân dân trong nước ca ngợi nhà vua, nói rằng vua Ca-lợi tu hạnh nhẫn nhục cầu vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ trời Đế-thích hóa làm kẻ khốn khổ xin thịt của vua. Vua liền cắt thịt mình mà cho, hoàn toàn không giận không sầu não. Hiện có hai thuyết đều có lý.
“Tu-bồ-đề ! Ta còn nhớ quá khứ trong năm trăm đời làm người tiên nhẫn nhục. Trong thời gian đó ta không có ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng.”
Như Lai trong lúc tu nhân, năm trăm đời tu hạnh nhẫn nhục Ba-la-mật. Được bốn tướng không sinh, Như Lai tự thuật sự tu nhân thời quá khứ để khiến tất cả những người tu hành thành tựu nhẫn nhục Ba-la-mật. Người tu hạnh nhẫn nhục Ba-la-mật thì không thấy tất cả những tội lỗi của người, oán thân bình đẳng, chẳng có thị phi, bị người đánh mắng làm hại, vui vẻ nhịn chịu mà còn tôn trọng. Người tu hạnh như vậy tức có thể thành tựu nhẫn nhục Ba-la-mật.
“Vì vậy cho nên, Tu-bồ-đề ! Bồ-tát phải lìa tất cả các tướng, phát tâm Vô thượng Bồ-đề, không nên trụ ở sắc sinh tâm, không nên trụ ở thanh, hương, vị, xúc, pháp sinh tâm, nên sinh tâm không có chỗ trụ.”
Nói không nên trụ sắc sinh tâm là nói chung, nói thanh, hương v.v… là nêu tên từng thứ. Đây là nơi sáu trần làm cho khởi tâm yêu ghét. Do các vọng tâm này tích chứa, không thể giác chiếu, càng lúc càng xa Phật hạnh.
Dầu siêng năng khổ luyện tu hành, không trừ được tâm cấu uế cũng không bao giờ giải thoát. Xét từ căn bản, đều do trụ tâm nơi sắc v.v…Nếu có thể mỗi niệm thường thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, tư duy các pháp là không, thì không sinh cố chấp, mỗi niệm thường tinh tiến, một lòng gìn giữ không buông thả phóng túng. Kinh Tịnh Danh nói : Cầu nhất thiết trí, không lúc nào không cầu. Kinh Đại Bát-nhã nói : Bồ-tát Ma-ha-tát ngày đêm siêng năng tinh tiến, thường trụ nơi pháp Bát-nhã Ba-la-mật, giống như tâm tương ưng không lúc nào rời bỏ.
“Nếu tâm có chỗ trụ, tức chẳng phải chỗ trụ.”
Nếu tâm trụ ở Niết-bàn thì đó chẳng phải chỗ trụ của Bồ-tát. Không trụ ở Niết-bàn, không trụ ở các pháp, không trụ ở tất cả mọi chỗ mới là chỗ trụ của Bồ-tát. Đó chính là trên văn kinh nói nên sinh tâm ở nơi không có chỗ trụ.
“Thế nên Phật nói tâm Bồ-tát không nên trụ ở sắc…mà bố thí.
Tu-bồ-đề ! Bồ-tát vì lợi ích tất cả chúng sinh nên bố thí như vậy.”
Bồ-tát không vì mong cầu hạnh phúc bản thân mà làm bố thí, chỉ vì trong thì phá trừ tâm tham, ngoài vì lợi ích chúng sinh mà làm bố thí.
“Như Lai nói tất cả các tướng là chẳng phải tướng. Lại nói tất cả chúng sinh là chẳng phải chúng sinh.”
Như nghĩa là không sinh. Lai nghĩa là không diệt. Không sinh là ngã, nhân ,không sinh. Không diệt là giác chiếu không diệt. Câu văn kinh ở dưới nói : Như Lai là không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai. Như Lai nói các tướng ngã nhân v.v…rốt cuộc đều có thể hư hoại, không phải là thể chân thật. Tất cả chúng sinh đều là tên giả, nếu lìa vọng tâm tức chẳng có chúng sinh nào cả cho nên nói tức chẳng phải chúng sinh.
“Tu-bồ-đề ! Như Lai là người nói đúng, nói thật, nói như lời, nói không lừa dối, nói không quái lạ.”
Nói đúng là nói tất cả hữu tình vô tình đều có Phật tính. Nói thật là nói chúng sinh tạo nghiệp ác nhất định chịu quả báo khổ. Nói như lời là nói chúng sinh tu các pháp lành nhất định có quả báo an vui. Nói không lừa dối là nói pháp Bát-nhã Ba-la-mật xuất sinh tam thế Phật chắc chắn không dối. Nói không quái lạ là những điều Như Lai thuyết giảng từ bậc sơ thiện trung thiện hậu thiện, ý chỉ đều vi diệu, tất cả thiên ma ngoại đạo không ai có thể vượt hơn cũng không thể đả phá lời Phật nói .
“Tu-bồ-đề ! Pháp Như Lai chứng đắc, pháp ấy không phải thật cũng không phải trống rỗng.”
Nói không phải thật vì pháp thể trống vắng, không có tướng chứng đắc. Nhưng trong đó có hằng sa tính đức, dùng không thiếu, nên nói không phải trống rỗng. Muốn nói pháp ấy là thật thì lại không có hình tướng có thể nắm bắt. Muốn nói pháp ấy trống rỗng, thì lại có diệu dụng vô cùng. Cho nên không thể nói không, không thể nói có. Có mà chẳng phải có, không mà chẳng phải không. Bao nhiêu ngôn ngữ, thí dụ đều bất cập, chỉ có chân trí mới đạt được thôi. Nếu không lìa tướng tu hành không sao đến được.
“Tu-bồ-đề ! Nếu Bồ-tát trụ tâm nơi pháp mà bố thí, thì như người vào trong tối chẳng thấy được gì.”
Bố thí mà tâm còn chấp trước, sẽ không hiểu được lý không, của ba cái thể của việc bố thí. Như người mù ở chỗ tối tăm, hoàn toàn chẳng thấy rõ. Kinh Hoa Nghiêm nói : Hàng Thanh văn trong pháp hội của Như Lai, nghe pháp mà như đui như điếc. Đó là vì còn trụ nơi pháp tướng.
“Nếu Bồ-tát không trụ tâm nơi pháp mà bố thí, thì như người sáng mắt, khi mặt trời chiếu sẽ thấy các sắc màu.”
Nếu Bồ-tát thường tu hạnh Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô trước vô tướng, thì như người sáng mắt, ở trong ánh sáng mặt trời chỗ nào chẳng thấy.
“Tu-bồ-đề ! Đời sau nếu có thiện nam thiện nữ, đối với kinh này có thể thụ trì đọc tụng, sẽ được Như Lai dùng trí tuệ của Phật biết rõ thấy rõ những người này đều thành tựu công đức vô lượng vô biên.”
Nói đời sau là sau khi Như Lai nhập diệt. Sau năm trăm năm là đời ác trược, tà giáo đua nhau nổi lên, chính pháp khó lưu hành. Trong lúc này, nếu có thiện nam thiện nữ, gặp được kinh này, theo thầy học tập, đọc tụng trong tâm, y nghĩa tu hành, tinh tiến không vọng niệm, ngộ nhập tri kiến Phật, tức có thể thành tựu vô thượng Bồ-đề. Do đó ba đời chư Phật đều hay biết.
15- Công đức thụ trì kinh
“Tu-bồ-đề ! Nếu có thiện nam thiện nữ, buổi sáng đem hằng sa thân mạng bố thí, buổi trưa lại đem hằng sa thân mạng bố thí, buổi chiều cũng đem hằng sa thân mạng bố thí, đem thân bố thí như vậy đến vô lượng trăm ngàn vạn kiếp; nhưng nếu lại có người nghe kinh điển này tin tưởng không sai, thì phúc người này hơn phúc người trước, huống chi còn sao chép thụ trì đọc tụng, giảng giải cho người khác.”
Phật nói thời mạt pháp được nghe kinh này, tin tưởng không sai trái, không sinh bốn tướng, thì đó là tri kiến của Phật. Công đức người này hơn công đức xả thân nhiều kiếp của người trước, trăm ngàn vạn lần không thể ví dụ. Một niệm nghe kinh được phúc còn nhiều, huống chi còn sao chép thụ trì đọc tụng và giảng giải cho người khác. Phải biết người này chắc chắn thành tựu Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì vậy dùng nhiều phương tiện để giảng nói kinh điển rất sâu xa này, giúp người lìa các tướng, được Vô thượng chính đẳng chính giác. Công đức đạt được rộng lớn vô biên.
Tuy xả thân nhiều kiếp mà không hiểu các pháp vốn không, tâm còn năng sở, chưa lìa kiến chấp chúng sinh. Nếu có thể nghe kinh ngộ đạo, nhanh chóng trừ hết ngã nhân, thì ngay dưới một câu nói là Phật rồi. Đem cái phúc hữu lậu của sự xả thân, thật không thể so sánh kịp với cái tuệ vô lậu của sự trì kinh. Cho nên dầu bố thí của báu đầy khắp mười phương hay xả thân ba đời cũng không bằng thụ trì bốn câu kệ của kinh này.
“Tu-bồ-đề ! Tóm lại kinh này là không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, công đức vô biên.”
Người thụ trì kinh, tâm không ngã sở, không ngã sở nên là Phật tâm. Công đức Phật tâm, là không biên giới nên nói không thể đo lường.
“Như Lai nói kinh này vì người phát tâm Đại thừa, vì người phát tâm Tối thượng thừa.
Nếu có ai có thể thụ trì đọc tụng, vì mọi người giảng nói rộng rãi, Như Lai đều thấy đều biết, những người này sẽ thành tựu công đức không thể đo, không thể lường, không có giới hạn, không thể nghĩ bàn. Những người như vậy là những người gánh vác pháp Vô thượng chính đẳng chính giác của Như Lai.”
Người Đại thừa là người có trí tuệ rộng lớn, có khả năng tạo dựng tất cả pháp. Người Tối thượng thừa thì không pháp cấu uế nào có thể làm ô nhiểm, cũng không tìm kiếm pháp thanh tịnh nào, không thấy có chúng sinh được độ, cũng không thấy có Niết-bàn chứng đắc, không có tâm nghĩ mình độ chúng sinh, mà cũng không phải không độ chúng sinh, Đó gọi là Tối thượng thừa, cũng gọi là Nhất thiết trí, cũng gọi Vô sinh nhẫn, cũng gọi Đại Bát-nhã. Nếu ai phát tâm cầu Phật đạo vô thượng, nghe pháp vô tướng vô vi rất sâu này, thì phải tin hiểu thụ trì và vì người giảng nói khiến giác ngộ lý sâu, không chê bai chống báng, được sức nhẫn nhục lớn, được năng lực trí tuệ lớn, được sức phương tiện lớn, mới có thể phổ biến lưu thông kinh này. Người có căn trí cao nghe kinh này hiểu sâu Phật ý, tự trì kinh trong tâm, cứu cánh thấy tính, rồi khởi hạnh lợi tha, vì người khác giảng nói, khiến người học tự giác ngộ lý vô tướng, thấy được bản tính Như Lai, thành tựu đạo vô thượng. Phải biết người nói pháp được công đức không giới hạn, không thể đo lường. Người nghe kinh hiểu nghĩa, theo giáo pháp tu hành, lại vì người khác giảng nói rộng rãi, khiến các chúng sinh được hiểu rõ, tu hành hạnh vô tướng vô trước. Do có thể thực hành hạnh này nên có được đại trí tuệ sáng suốt, ra khỏi trần lao. Tuy ra khỏi trần lao nhưng không có ý niệm thoát ly trần lao, tức là được Vô thượng chính đẳng chính giác, cho nên nói là gánh vác sứ mệnh của Như Lai. Phải biết người thụ trì kinh này, tự có công đức vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn.
“Bởi vì sao ? Tu-bồ-đề ! Vì nếu người ưa thích pháp Tiểu thừa, chấp trước ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến thì với kinh này không thể nghe, không thể thụ trì đọc tụng giảng nói cho người khác.”
Thế nào là người ưa thích pháp Tiểu thừa ? Đó là hạng nhị thừa Thanh văn, ưa thích quả nhỏ, không phát tâm rộng lớn. Cho nên với pháp sâu xa của Như Lai, không thể thụ trì đọc tụng giảng nói cho người khác.
“Tu-bồ-đề ! Bất cứ nơi nào có kinh này, tất cả trời, người, A-tu-la trong thế gian đều phải cúng dường. Phải biết nơi đây tức tháp Phật phải cung kính làm lễ, đi nhiễu dùng hương hoa tung rải nơi đây.”
Nếu ai miệng tụng Bát-nhã, tâm thực hành Bát-nhã, bất cứ ở đâu cũng thường tu hạnh vô vi vô tướng, thì nơi có người ấy như có tháp Phật, cảm được tất cả người, trời, đều đến cúng dường cung kính đỉnh lễ, không khác gì Phật vậy. Người có thể thụ trì kinh này thì trong tâm tự có Thế Tôn, cho nên nói như tháp Phật, chùa Phật. Phải biết công đức đạt được vô lượng vô biên.
16- Có khả năng làm sạch nghiệp chướng
“Lại nữa, Tu-bồ-đề ! Thiện nam thiện nữ thụ trì đọc tụng kinh này, nếu bị người khinh rẻ là vì đời trước đã tạo tội phải đọa vào đường ác. Nay vì bị người khinh rẻ mà tội nghiệp đời trước được tiêu tan và sẽ được Vô thượng Bồ-đề.”
Phật nói người thụ trì kinh đều được tất cả trời, người, cung kính cúng dường. Vì kiếp trước nghiệp chướng nặng, kiếp này tuy được thụ trì kinh điển thậm thâm của chư Phật, mà thường bị người đời khinh rẻ, không được người cung kính cúng dường. Tự mình nhờ thụ trì kinh điển nên không khởi các tướng ngã, nhân, không phân biệt oan thân, thường cung kính tôn trọng, tâm không sầu hận, vô tư không tính toán, mỗi niệm thường thực hành hạnh Bát-nhã không thoái lui. Nhờ tu hành được như vậy mà bao nhiêu tội chướng cực ác từ vô lượng kiếp đến nay đều được tiêu diệt.
Lại nữa nói theo lý, thì đời trước có nghĩa là vọng tâm của niệm trước, đời này có nghĩa là giác tâm của niệm sau. Dùng cái giác tâm của niệm sau làm giảm nhẹ cái vọng tâm của niệm trước. Cái vọng không trụ, nên tội nghiệp đời trước tiêu diệt. Vọng niệm diệt, thì tội nghiệp không thành, như vậy tức được Bồ-đề.
“Tu-bồ-đề ! Ta nhớ quá khứ vô số kiếp, trước thời Phật Nhiên Đăng, đã gặp tám trăm bốn ngàn vạn ức triệu triệu chư Phật, ta đều phụng sự cúng dường không bỏ qua một vị nào. Nhưng nếu có ai ở thời kỳ cuối sau này có thể thụ trì đọc tụng kinh này thì công đức còn hơn công đức ta đã cúng dường chư Phật. Công đức của ta so với công đức của người kia không bằng một phần trăm, phần ngàn phần vạn phần ức cho đến dùng toán số thí dụ cũng không bằng được.”
Cúng dường hằng sa chư Phật, bố thí của báu đầy ba ngàn thế giới, xả thân số như vi trần v.v… các phúc đức ấy không bằng thụ trì kinh, một niệm hiểu ngộ lý vô sinh, dứt tâm mong cầu, xa lìa các tri kiến điên đảo tức đến bờ kia, hằng ra khỏi ba cõi chứng Niết-bàn vô dư.
“Tu-bồ-đề ! Nếu thiện nam thiện nữ trong thời kỳ cuối sau này có ai thụ trì đọc tụng kinh này, mà ta nói đầy đủ hết các công đức của người ấy, người nghe sẽ hoảng loạn nghi ngờ không tin. “
Phật nói chúng sinh thời mạt pháp đạo đức mỏng manh, cấu uế nặng nề, đố kỵ sâu, tà kiến mạnh. Trong thời kỳ như vậy, nếu thiện nam thiện nữ thụ trì đọc tụng kinh này, trọn thành pháp tướng, hiểu rõ không có sở đắc, mỗi niệm thường thực hành từ bi hỷ xả, khiêm cung nhu hòa, cứu cánh sẽ thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Cũng có người không biết chính pháp của Như Lai là thường tại bất diệt, nghe nói sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau có người có thể thành tựu tâm vô tướng, thực hành hạnh vô tướng, được Vô thượng Bồ-đề, thì tâm sinh kinh sợ nghi ngờ không tin.
“Tu-bồ-đề ! Phải biết nghĩa lý kinh này là không thể nghĩ bàn, quả báo cũng không thể nghĩ bàn.”
Nghĩa lý kinh này là hạnh vô trước, vô tướng. Nói không thể nghĩ bàn là khen ngợi hạnh vô trước vô tướng có khả năng thành tựu Vô thượng chính đẳng chính giác.
17- Cứu cánh vô ngã
“Lúc bấy giờ Tu-bô-đề bạch Phật rằng :–Thưa Thế Tôn ! Thiện nam thiện nữ phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì trụ tâm như thế nào, hàng phục tâm như thế nào?
Phật bảo Tu-bồ-đề : Thiện nam thiện nữ phát tâm Vô thượng Bồ-đề phải sinh tâm như thế này : Ta phải diệt độ tất cả chúng sinh, diệt độ tất cả chúng sinh rồi, mà không thấy có một chúng sinh nào được diệt độ.”
Tu-bồ-đề hỏi Phật : Sau khi Như Lai nhập diệt rồi, năm trăm năm sau nếu có người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, thì y theo pháp nào trụ tâm, và làm sao hàng phục tâm mình ? Phật nói phải phát tâm độ thoát tất cả chúng sinh, độ thoát tất cả chúng sinh thành Phật rồi, không được thấy có một chúng sinh nào được mình độ thoát. Bởi vì sao ? Vì trừ cái tâm năng sở, trừ cái tâm thấy có chúng sinh, và cũng trừ cái tâm ngã kiến.
“Bởi vì sao ? Tu-bồ-đề ! Vì nếu Bồ-tát có ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, tức chẳng phải Bồ-tát.”
Nếu Bồ-tát thấy có chúng sinh được mình độ, đó là ngã tướng, có cái tâm thấy chúng sinh có thể độ được, đó là nhân tướng. Cho rằng Niết-bàn có thể tìm kiếm được, đó là chúng sinh tướng, thấy có Niết-bàn có thể chứng, đó là thọ giả tướng. Có bốn tướng này tức chẳng phải Bồ-tát.
“Bởi vì sao ? Tu-bồ-đề ! Vì thật chẳng có pháp gì gọi là người phát tâm Vô thượng Bồ-đề.”
Nói có pháp, đó là bốn pháp ngã, nhân, v.v…Không trừ bốn pháp, không bao giờ được Bồ-đề. Nếu nói ta là người phát tâm Bồ-đề, cũng là pháp nhân, ngã v.v… Các pháp nhân ngã là cội gốc của mọi phiền não.
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Như Lai khi ở nơi Phật Nhiên Đăng có được pháp Vô thượng Bồ-đề chăng?
–Không, thưa Thế Tôn ! Theo chỗ con hiểu ý nghĩa Phật nói, thì Phật ở nơi Phật Nhiên Đăng không được một pháp nào gọi là Vô thượng Bồ-đề.
Phật nói : Đúng như vậy, đúng như vậy !”
Phật bảo Tu-bồ-đề : Khi ta ở chỗ thầy ta, nếu không trừ bốn tướng có được thụ ký chăng ? Tu-bồ-đề hiểu rõ lý vô tướng nên trả lời không. Rất đúng ý Phật nên Phật nói : Đúng như vậy, đúng như vậy. Đó là lời ấn khả.
“Tu-bồ-đề ! Thật không có pháp gọi là Như Lai được Vô thượng Bồ-đề.
Tu-bồ-đề ! Nếu có pháp Như Lai được Vô thượng Bồ-đề, thì Phật Nhiên Đăng đã không thụ ký cho ta rằng : Đời sau ông sẽ thành Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni.
Bởi vì thật không có pháp Như Lai được Vô thượng Bồ-đề, nên Phật Nhiên Đăng thụ ký cho ta rằng : Đời sau ông sẽ thành Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni.
Bởi vì sao ? Vì Như Lai là nghĩa Như của các pháp.”
Phật nói : Thật không ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, mới được thụ ký thành Phật. Nếu ta có ý niệm phát tâm Bồ-đề, Phật Nhiên Đăng ắt không thụ ký cho ta. Bởi thật không có sở đắc, Phật Nhiên Đăng mới thụ ký cho ta. Đoạn này Phật tổng kết nghĩa vô ngã cho Tu-bồ-đề. Phật nói nghĩa Như của các pháp, nghĩa là các pháp tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Trong sáu trần này, khéo phân biệt mà bản thể vẫn thường tĩnh lặng, không nhiễm trước, không hề thay đổi, bất động như hư không, viên thông thấu suốt, thường tồn tại mãi mãi, đó gọi là nghĩa Như của các pháp. Kinh Bồ-tát Anh Lạc nói : Không động tâm trước sự khen chê là hạnh của Như Lai. Kinh Nhập Phật Cảnh Giới nói : Không nhiễm các dục nên kính lễ, quán niệm các pháp là vô sở đắc.
“Nếu có ai nói Như Lai được Vô thượng Bồ-đề, thì này Tu-bồ-đề, thật không có pháp gì gọi là Như Lai được Vô thượng Bồ-đề.
Tu-bồ-đề ! Cái Vô thượng Bồ-đề Như Lai đạt được, trong đó không có thật cũng không phải trống rỗng.”
Phật nói thật không có tâm sở đắc mà được Bồ-đề, là vì cái tâm sở đắc không sinh, cho nên được Bồ-đề. Ngoài cái tâm này, không có Bồ-đề nào có thể được, cho nên nói không thật. Tâm sở đắc tịch diệt, Nhất thiết trí là bản hữu, đầy đủ tất cả muôn hạnh và hằng sa đức tính, công dụng không thiếu, cho nên nói không phải trống rỗng.
“Vì vậy Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật pháp.
Tu-bồ-đề ! Nói tất cả pháp, tức chẳng phải tất cả pháp, đó mới là tất cả pháp.”
Đối với các pháp, tâm không chọn lấy cái này bỏ cái kia, không phân biệt năng sở chủ khách, tạo dựng tất cả pháp mạnh mẽ như lửa bốc cháy mà tâm thường trống vắng, nên biết tất cả pháp đều là Phật pháp. Sợ người mê tham đắm tất cả pháp cho là Phật pháp, nên để trừ bệnh này, mà nói tức chẳng phải tất cả pháp. Tâm không năng sở, vắng lặng mà thường chiếu soi, định tuệ song hành, thể dụng nhất trí, nên nói là tất cả pháp.
“Tu-bồ-đề ! Ví như thân người cao lớn.
Tu-bồ-đề nói :–Thưa Thế Tôn ! Như Lai nói thân người cao lớn, tức chẳng phải thân lớn, đó mới là thân lớn.
Như Lai nói thân người cao lớn, tức không phải thân lớn là để làm cho chúng sinh thấy rõ Pháp thân là không hai, không có hạn lượng, đó là thân lớn. Pháp thân vốn không có xứ sở, nên nói tức chẳng phải thân lớn. Lại nữa dầu sắc thân to lớn mà trong không có trí tuệ, tức chẳng phải thân lớn. Sắc thân tuy nhỏ mà trong có trí tuệ, được gọi là thân lớn. Tuy có trí tuệ mà không y vào trí tuệ tu hành, tức chẳng phải thân lớn. Y theo giáo pháp tu hành, ngộ nhập trí kiến của chư Phật, tâm không năng sở, không hạn lượng, đó là thân lớn.
“Tu-bồ-đề ! Bồ-tát cũng như vậy. Nếu nói mình sẽ độ thoát vô lượng chúng sinh, thì không gọi là Bồ-tát.”
Nếu Bồ-tát mà nói nhờ ta thuyết pháp nên người kia trừ được phiền não, như thế là pháp ngã. Nếu nói ta độ được chúng sinh, như thế là có ngã sở. Độ thoát chúng sinh mà tâm còn năng sở, nhân, ngã không trừ, không thể gọi là Bồ-tát. Nếu dũng mãnh dùng mọi phương tiện hóa độ chúng sinh, tâm không năng sở, như thế là Bồ-tát.
“Bởi vì sao ? Tu-bồ-đề ! Thật không có một pháp nào được gọi là Bồ-tát. Cho nên Phật nói tất cả pháp không ngã không nhân, không chúng sinh, không thọ giả.
Tu-bồ-đề ! Nếu Bồ-tát nói ta sẽ làm cho cõi Phật trang nghiêm, như vậy không được gọi là Bồ-tát.
Bởi vì sao ? Như Lai nói cõi Phật trang nghiêm, tức chẳng phải trang nghiêm, như vậy mới là trang nghiêm.”
Nếu Bồ-tát nói ta có khả năng tạo dựng thế giới, như vậy tức chẳng phải Bồ-tát. Dầu tạo dựng thế giới mà tâm có năng sở, tức chẳng phải Bồ-tát. Dũng mãnh tạo dựng thế giới, không sinh tâm năng sở, đó là Bồ-tát. Kinh Tối Thắng Diệu Định nói : Giả sử có người lập được Tinh xá bằng bạc khắp ba ngàn đại thiên thế giới, không bằng một niệm thiền định. Tâm có năng sở, tức chẳng phải thiền định. Năng sở không sinh là thiền định. Thiền định tức là tâm thanh tịnh.
“Tu-bồ-đề ! Bồ-tát thấu triệt pháp vô ngã, Như Lai nói đó đích thực là Bồ-tát.”
Thấu triệt là không trở ngại đối với tướng của các pháp. Không có ngã pháp là không cố gắng đem tâm tìm hiểu các pháp. Người không ngã pháp, Như Lai nói đích thực là Bồ-tát. Hành trì tùy theo khả năng cũng được gọi là Bồ-tát, nhưng chưa phải là Bồ-tát đích thực. Hiểu và thực hành đầy đủ trọn vẹn, dứt hết tất cả tâm năng sở, mới được gọi đích thực là Bồ-tát.
18- Đồng quán một thể
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Có đúng Như Lai có nhục nhãn không?
–Đúng vậy, thưa Thế Tôn ! Như Lai có nhục nhãn.
Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Có đúng Như Lai có thiên nhãn không?
–Đúng vậy, thưa Thế Tôn ! Như Lai có thiên nhãn.
Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Có đúng Như Lai có tuệ nhãn không?
–Đúng vậy, thưa Thế Tôn ! Như Lai có tuệ nhãn.
Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Có đúng Như Lai có pháp nhãn không?
–Đúng vậy, thưa Thế Tôn ! Như Lai có pháp nhãn.
Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Có đúng Như Lai có Phật nhãn không?
–Đúng vậy, thưa Thế Tôn ! Như Lai có Phật nhãn.”
Tất cả mọi người đều có năm loại mắt, vì mê nên không tự thấy. Vì vậy Phật dạy trừ bỏ tâm mê thì năm mắt mở sáng. Mỗi niệm tu hành pháp Bát-nhã Ba-la-mật. Mới trừ tâm mê, gọi là con mắt thứ nhất nhục nhãn : con mắt thịt. Thấy tất cả chúng sinh đều có tính Phật, khởi lòng xót thương, đó là con mắt thứ hai thiên nhãn : con mắt trời. Tâm ngu si không sinh là con mắt thứ ba tuệ nhãn : con mắt tuệ. Trừ bỏ tâm chấp các pháp, là con mắt thứ tư pháp nhãn : con mắt pháp. Vĩnh viễn hết tất cả phiền não vi tế, tròn sáng chiếu khắp, là con mắt thứ năm Phật nhãn : con mắt Phật. Cũng nói thấy Pháp thân trong sắc thân là thiên nhãn. Thấy tất cả chúng sinh đều đủ tính Bát-nhã là tuệ nhãn. Thấy tính sáng suốt, vĩnh viễn trừ năng sở, tất cả Phật pháp xưa nay vốn tự đầy đủ là pháp nhãn. Thấy Bát-nhã Ba-la-mật có thể sinh tất cả pháp trong ba đời là Phật nhãn.
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Như cát trong sông Hằng, Như Lai nói đúng là cát không?
–Đúng vậy, thưa Thế Tôn ! Như Lai nói là cát.
Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Như có số cát trong một con sông Hằng lại có số sông Hằng bằng với số cát ấy, và các cõi Phật bằng với số cát những con sông Hằng ấy, như vậy có nhiều không?
–Rất nhiều, thưa Thế Tôn !”
Sông Hằng là con sông gần Tinh xá Kì Hoàn ở nước Tây Trúc. Như Lai thuyết pháp thường lấy con sông này làm ví dụ. Phật nói cát trong sông này, cứ một hạt cát là một thế giới Phật, ông có cho là nhiều không ? Tu-bồ-đề nói : Rất nhiều, thưa Thế Tôn. Phật nêu con số nhiều các cõi nước này là muốn làm rõ rằng mỗi mỗi chúng sinh trong ngần ấy cõi nước cũng có nhiều tâm tưởng như vậy.
“Phật bảo Tu-bồ-đề rằng trong các cõi nước ấy, có bao nhiêu chúng sinh, bao nhiêu tâm tưởng, Như Lai đều biết hết.
Bởi vì sao ? Như Lai nói các tâm đều chẳng phải tâm, đó gọi là tâm.”
Trong các cõi nước ấy có bao nhiêu chúng sinh, và mỗi mỗi chúng sinh có bao nhiêu tâm tưởng. Số tâm tưởng tuy nhiều nhưng nói chung là vọng tâm. Nếu biết vọng tâm là chẳng phải tâm thì cái biết đó là tâm. Tâm này là chân tâm, tâm thường còn, tâm Phật,, tâm trí tuệ đến bờ kia, tâm thanh tịnh Bồ-đề Niết-bàn đó.
“Bởi vì sao ? Tu-bồ-đề ! Không thể có được cái tâm quá khứ, không thể có được tâm hiện tại, không thể có được tâm vị lai.”
Không thể có được cái tâm quá khứ là vì niệm trước là vọng tâm, lặng lẽ đã qua, không truy tìm đâu ra. Không thể có được tâm hiện tại là vì chân tâm thì không có tướng, dựa vào đâu mà thấy ? Không thể có được tâm vị lai là vì căn bản đã không thể có được, tập khí đã hết, không phát sinh trở lại. Hiểu rõ ba tâm đều không thể có được tức là Phật.
19- Pháp giới thông hóa
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Nếu có người đem bảy báu đầy trong ba ngàn đại thiên thế giới ra bố thí, do nhân duyên này, người ấy được phúc nhiều không?
–Đúng vậy, thưa Thế Tôn ! Do nhân duyên này người ấy được phúc rất nhiều.
Tu-bồ-đề ! Nếu phúc đức là có thật, Như Lai đã không nói được nhiều phúc đức. Vì phúc đức là không nên Như Lai nói được phúc đức nhiều.”
Phúc do bố thí bảy báu không thể thành tựu quả Phật Bồ-đề, cho nên nói không. Nói là nhiều, vì nó vô số không có giới hạn, nếu có thể vượt qua thì không gọi là nhiều.
20- Rời bỏ sắc tướng
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Có thể đem sắc thân đầy đủ mà cho là thấy Như Lai không?
–Không, thưa Thế Tôn ! Không nên đem sắc thân đầy đủ mà cho là thấy Như Lai. Bởi vì sao ? Vì Như Lai nói biết sắc thân đầy đủ tức chẳng phải sắc thân đầy đủ, đó mới là sắc thân đầy đủ.”
Ý Phật sợ chúng sinh không thấy Pháp thân mà chỉ thấy ba mươi hai tướng tốt cùng tám mươi vẻ đẹp, thân vàng rực rỡ mà cho đó là chân thân của Như Lai. Để trừ mê chấp này nên hỏi Tu-bồ-đề rằng có thể lấy cái tướng sắc thân đầy đủ mà xem đó là Như Lai không. Ba mươi hai tướng không phải là sắc thân đầy đủ. Trong đủ ba mươi hai hạnh thanh tịnh mới là sắc thân đầy đủ. Hạnh thanh tịnh tức là sáu Ba-la-mật. Trong năm căn thì tu sáu Ba-la-mật. Trong ý căn thì tu định và tu tuệ. Đó gọi là sắc thân đầy đủ. Chỉ yêu suông ba mươi hai tướng của Như Lai, trong không thực hành ba mươi hai hạnh thanh tịnh, tức chẳng phải sắc thân đầy đủ. Không yêu sắc tướng Như Lai, tự mình giữ hạnh thanh tịnh cũng được gọi là sắc thân đầy đủ.
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Có thể đem các tướng đầy đủ mà cho là thấy Như Lai không?
–Không, thưa Thế Tôn ! Không nên đem các tướng đầy đủ mà cho là thấy Như Lai. Bởi vì sao ? Vì Như Lai nói biết các tướng đầy đủ tức chẳng phải đầy đủ, đó mới là các tướng đầy đủ.”
Như Lai là Pháp thân vô tướng, không thể thấy bằng con mắt thịt, con mắt tuệ mới thấy được. Chưa đầy đủ sáng suốt của con mắt tuệ thì sinh các tướng ngã, nhân rồi lấy đó xem ba mươi hai tướng, cho đó là Như Lai, nên không gọi là đầy đủ. Mắt tuệ sáng suốt, không sinh tướng ngã, nhân, chính trí sáng suốt thường chiếu soi, đó là các tướng đầy đủ. Ba độc chưa tiêu hết, mà nói thấy chân thân Như Lai, chắc chắn không có lý như vậy. Cho dẫu có thể trông thấy, đó chỉ là hóa thân chẳng phải Pháp thân chân thật vô tướng.
21- Không nói pháp, không pháp để nói
“Ông chớ nói Như Lai có ý nghĩ này : Ta sẽ thuyết pháp. Chớ có ý nghĩ như vậy. Bởi vì sao ? Nếu ai nói Như Lai có thuyết pháp tức phỉ báng Phật, không hiểu điều ta nói.
Tu-bồ-đề ! Nói thuyết pháp tức không có pháp nào để nói, đó mới là thuyết pháp.”
Phàm phu nói pháp, tâm có sở đắc, nên Phật bảo Tu-bồ-đề rằng Như Lai thuyết pháp , tâm không sở đắc. Phàm phu nói pháp là đem cái tâm phân biệt hiểu biết ra mà nói. Còn Như Lai nói hay im lặng đều như thật. Lời nói ra, như vang ứng tiếng, tác dụng tự nhiên không dụng tâm. Không phải như phàm phu đem tâm sinh diệt ra mà nói. Nếu nói Như Lai thuyết pháp có tâm sinh diệt là phỉ báng Phật. Kinh Duy-ma nói : Thật sự thuyết pháp là không giảng nói, không chỉ bày, nghe pháp là không nghe không nhận được.
Hiểu rõ vạn pháp vắng lặng, tất cả ngôn từ đều giả lập. Từ nơi tính không, dũng mãnh tạo ra tất cả ngôn từ, diễn nói các pháp vô tướng vô vi, dắt dẫn người mê thấy được bản tính, tu chứng Vô thượng Bồ-đề, đó gọi là thuyết pháp.
“Lúc bấy giờ Tuệ mạng Tu-bồ-đề bạch Phật rằng : –Thưa Thế Tôn! Liệu có chúng sinh trong đời vị lai nghe pháp này phát sinh lòng tin chăng?
Phật bảo Tu-bồ-đề : Những người ấy không phải chúng sinh, cũng chẳng phải không phải chúng sinh.
Bởi vì sao ? Tu-bồ-đề ! Chúng sinh là gì ? Như Lai bảo không phải chúng sinh, đó là chúng sinh.”
22- Không được một pháp nào
“Tu-bồ-đề bạch Phật : –Thưa Thế Tôn ! Phật được Vô thượng Bồ-đề có phải là lúc không có gì gọi là đạt được chăng?
Phật bảo : Đúng như vậy, đúng như vậy !
Tu-bồ-đề ! Đối với pháp Vô thượng Bồ-đề, ta chẳng có tí gì gọi là đạt được. Đó mới là gọi Vô thượng Bồ-đề.
Tu-bồ-đề nói : –Hết cái tâm sở đắc, tức là Bồ-đề.
Phật bảo : Đúng như vậy, đúng như vậy ! Đối với Bồ-đề, ta thật không có tâm mong cầu, cũng không có tâm nghĩ mình đạt được, như thế nên được gọi là Vô thượng Bồ-đề.
23- Tịnh tâm thực hành thiện pháp
“Lại nữa, Tu-bồ-đề ! Pháp ấy bình đẳng , không cao không thấp, nên gọi Vô thượng Bồ-đề. Đem cái tâm không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả, tu tất cả thiện pháp thì đạt được Vô thượng Bồ-đề.”
Pháp Bồ-đề này, trên từ chư Phật, dưới đến hạng sâu bọ cũng đều có hạt giống trí, y như Phật không khác, cho nên nói bình đẳng không cao thấp. Vì Bồ-đề là không hai, nên chỉ cần lìa bốn tướng, tu tất cả thiện pháp, tức được Bồ-đề. Nếu không lìa bốn tướng mà tu tất cả thiện pháp, thì lại càng tăng thêm tâm nhân, ngã, muốn giải thoát cũng không do đâu chứng được. Nếu lìa bốn tướng, tu tất cả thiện pháp thì có thể giải thoát. Tu tất cả thiện pháp là đối với tất cả các pháp, tâm không nhiễm trước; đối với tất cả các cảnh, tâm không dao động; đối với pháp xuất thế, không tham đắm, không chấp trước, không say mê. Trong tất cả mọi nơi, thường thực hành phương tiện, tùy theo chúng sinh làm cho chúng hoan hỷ tin phục, vì chúng nói chính pháp khiến giác ngộ Bồ-đề, như vậy mới gọi là tu tất cả thiện pháp.
“Tu-bồ-đề ! Nói thiện pháp, Như Lai bảo chẳng phải thiện pháp mới là thiện pháp.”
Tu tất cả thiện pháp, mong cầu được quả báo, tức chẳng phải thiện pháp. Lục độ, vạn hạnh, dũng mãnh thực hành đầy đủ mà tâm không cầu báo đáp, đó là thiện pháp.
24- Phúc và trí không thể so sánh
“ Tu-bồ-đề ! Nếu có người đem bảy báu chất đầy như các núi chúa Tu-di trong ba ngàn đại thiên thế giới ra bố thí, và có người thụ trì đọc tụng giảng nói cho người khác, dù chỉ bốn câu kệ trong Kinh Bát-nhã Ba-la-mật này, thì phúc đức người này so với người trước, gấp trăm ngàn vạn ức lần, cho đến toán số thí dụ không nói hết được.”
Núi Đại Thiết vi cao rộng hai trăm hai mươi bốn vạn dặm. Núi Tiểu Thiết vi cao rộng một trăm mười hai vạn dặm. Núi Tu-di cao rộng ba trăm ba mươi sáu vạn dặm. Lấy đó gọi là ba ngàn đại thiên thế giới. Đứng về lý mà nói, mỗi vọng niệm tham sân si đều đủ một ngàn. Những núi như vậy đều gọi là Tu-di. Đem số bảy báu ấy bố thí, công đức đạt được vô lượng vô biên, nhưng tất cả đều là nghiệp nhân hữu lậu, nên theo lý thì không giải thoát. Bốn câu trong Kinh Bát-nhã Ba-la-mật tuy ít nhưng theo đó tu hành thì sẽ thành Phật. Phải biết phúc đức thụ trì kinh có thể làm cho chúng sinh chứng được Bồ-đề. Vì vậy mà nói không thể so sánh.
25- Hóa độ và không chỗ hóa độ
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Các ông chớ nên bảo rằng Như Lai có ý nghĩ : Ta phải độ chúng sinh.
Tu-bồ-đề ! Chớ nên có ý nghĩ như vậy. Bởi vì sao ? Vì thật chẳng có chúng sinh nào Như Lai độ. Nếu nói có chúng sinh Như Lai độ, tức Như Lai có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả.”
Tu-bồ-đề có ý nghĩ cho rằng Như Lai có tâm niệm độ chúng sinh. Phật muốn phá bỏ tâm nghi ngờ đó, nên nói chớ nghĩ như vậy. Tất cả chúng sinh vốn tự là Phật, nếu nói Như Lai độ chúng sinh thành Phật, tức vọng ngữ. Vì vọng ngữ cho nên tức là ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Câu này là để trừ cái tâm niệm có ngã sở. Tuy tất cả chúng sinh đều có Phật tính, nhưng nếu không nhân chư Phật thuyết pháp, không do đâu giác ngộ được, không dựa vào đâu tu hành thành tựu Phật đạo.
“Tu-bồ-đề ! Như Lai nói có ngã, tức chẳng phải có ngã, mà phàm phu cho là có ngã.
Tu-bồ-đề ! Phàm phu, Như Lai nói tức chẳng phải phàm phu, đó gọi là phàm phu.”
Như Lai nói có ngã, ngã đó là tự tính thanh tịnh, là ngã của thường, lạc, ngã, tịnh, không như cái ngã tham sân, vô minh, hư vọng không thật của phàm phu. Cho nên nói phàm phu cho là có ngã. Có ngã, nhân, là phàm phu. Không sinh ngã, nhân, tức chẳng phải phàm phu. Tâm có sinh diệt là phàm phu. Tâm không sinh diệt tức chẳng phải phàm phu. Không hiểu ngộ Bát-nhã Ba-la-mật-đa là phàm phu. Hiểu ngộ Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức chẳng phải phàm phu. Tâm có năng sở là phàm phu. Tâm không năng sở tức chẳng phải phàm phu.
26- Pháp thân không hình tướng
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Có thể lấy ba mươi hai tướng quan sát Như Lai không ?
Tu-bồ-đề nói : –Đúng như vậy, đúng như vậy ! Có thể lấy ba mươi hai tướng quan sát Như Lai.
Phật bảo : Tu-bồ-đề ! Nếu lấy ba mươi hai tướng quan sát Như Lai, thì Chuyển luân thánh vương tức là Như Lai.
Tu-bồ-đề bạch Phật : –Thưa Thế Tôn ! Theo chỗ con hiểu nghĩa Phật nói, thì không thể lấy ba mươi hai tướng quan sát Như Lai.”
Thế Tôn đại từ sợ Tu-bồ-đề chưa trừ được bệnh chấp tướng nên hỏi thế. Tu-bồ-đề chưa hiểu ý Phật nên đã trả lời như vậy. Nói đúng như vậy, là tâm mê từ trước, lại nói lấy ba mươi hai tướng quan sát Như Lai, là thêm một tầng mê tâm nữa, rời tâm chân thật càng xa, cho nên Như Lai nói để trừ mê tâm này. Nếu lấy ba mươi hai tướng quan sát Như Lai thì Chuyển luân thánh vương tức Như Lai sao ? Chuyển luân thánh vương tuy có ba mươi hai tướng, lẽ nào được đồng với Như Lai. Thế Tôn đưa ra câu nói này để trừ cái bệnh chấp tướng của Tu-bồ-đề, để cho chỗ hiểu ngộ được triệt để. Tu-bồ-đề bị hỏi như vậy, tâm mê liền lập tức được cởi mở. Cho nên nói : Như chỗ con hiểu ý nghĩa Phật nói, thì không nên lấy ba mươi hai tướng quan sát Như Lai.
Tu-bồ-đề là bậc Đại A-la-hán đã hiểu ngộ sâu sắc, được phương tiện không sinh vào đường mê là nhờ Thế Tôn tẩy trừ các mê hoặc vi tế, làm cho chỗ thấy của chúng sinh đời sau không sai lầm.
“Bấy giờ Thế Tôn nói bài kệ rằng :
Trông ta bằng sắc tướng,
Cầu ta bằng âm thanh,
Là người tu tà đạo,
Không thấy được Như Lai.”
Sắc là hình tướng. Nhìn thấy là nhận thức. Ngã là nói cái tự tính thanh tịnh trong thân tất cả chúng sinh, là cái thể chân thường vô vi vô tướng. Không thể cất tiếng lớn niệm Phật mà được thành Phật. Niệm phải chính niệm rõ ràng mới được hiểu ngộ. Nếu dùng sắc tướng âm thanh để tìm Phật, ắt không thể gặp được. Phải biết quán tưởng Phật bằng sắc tướng, cầu pháp Phật trong âm thanh, là tâm còn sinh diệt, không liễu ngộ Như Lai.
27- Không đoạn không diệt
“Tu-bồ-đề ! Nếu ông nghĩ rằng Như Lai không tu đầy đủ các tướng tịnh hạnh mà được Bồ-đề, thì này Tu-bồ-đề, ông chớ nên nghĩ như vậy. Chớ nghĩ rằng Như Lai không tu đầy đủ các tướng thanh tịnh mà được Bồ-đề.
Tu-bồ-đề ! Nếu ông nghĩ rằng người phát tâm Vô thượng Bồ-đề nói tướng các pháp là diệt mất, thì chớ nghĩ như vậy ! Bởi vì sao ? Vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề không nói tướng các pháp là diệt mất.”
Tu-bồ-đề nghe nói chân thân là lìa tướng, liền cho rằng không tu ba mươi hai tịnh hạnh cũng được Bồ-đề. Phật bảo Tu-bồ-đề chớ nên nói Như Lai không tu ba mươi hai tịnh hạnh cũng được Bồ-đề. Nếu ông nói không tu ba mươi hai tịnh hạnh cũng được Bồ-đề, tức làm dứt mất chủng tính Phật, không có chỗ như vậy.
28- Không nhận, không tham
“Tu-bồ-đề ! Nếu Bồ-tát đem bảy báu đầy khắp thế giới như cát sông Hằng ra bố thí, và lại có người biết tất cả các pháp là vô ngã, thành tựu nhẫn lực, thì công đức vị Bồ-tát sau hơn vị Bồ-tát trước.
Bởi vì sao ? Tu-bồ-đề ! Vì chư Bồ-tát không nhận phúc đức.
Tu-bồ-đề bạch Phật : –Thưa Thế Tôn ! Vì sao Bồ-tát không nhận phúc đức ?
Tu-bồ-đề ! Bồ-tát làm các phúc đức mà không tham đắm nên nói không nhận phúc đức.”
Thấu triệt tất cả pháp, không có tâm năng sở, gọi là nhẫn. Người như vậy được phúc đức hơn phúc đức người bố thí bảy báu ở trước. Bồ-tát làm việc phúc đức không vì mình, vì lợi ích tất cả chúng sinh nên nói không nhận phúc đức.
29- Uy nghi vắng lặng
”Tu-bồ-đề ! Nếu có ai nói Như Lai nào đến, đi, ngồi, nằm, người đó không hiểu ý nghĩa ta nói.
Bởi vì sao ? Như Lai nghĩa là không từ đâu đến, cũng không đi đâu, mới là Như Lai.”
Như Lai là chẳng phải đến, chẳng phải chẳng đến, chẳng đi, chẳng phải chẳng đi, chẳng ngồi, chẳng phải chẳng ngồi, chẳng nằm, chẳng phải chẳng nằm. Trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng vắng lặng, tức là Như Lai.
30- Lý về tướng hợp nhất
“Tu-bồ-đề ! Nếu có thiện nam thiện nữ đem ba ngàn đại thiên thế giới nghiền nát thành vi trần, ý ông nghĩ sao, các vi trần ấy nhiều không?
–Rất nhiều, thưa Thế Tôn ! Bởi vì sao ? Nếu các vi trần ấy là thật có, Phật đã chẳng nói là các vi trần.
Bởi vì sao ? Phật nói các vi trần, tức chẳng phải vi trần, đó mới là vi trần.”
Phật nói ba ngàn đại thiên thế giới để ví dụ cho tính của tất cả chúng sinh như số vi trần trong ba ngàn thế giới. Vi trần vọng niệm trên tính của tất cả chúng sinh, tức chẳng phải vi trần. Nghe kinh pháp hiểu ngộ đạo lý, trí tuệ giác ngộ thường chiếu soi, thẳng đến Bồ-đề mỗi niệm không dừng trụ, thường ở trong thanh tịnh. Như thế là vi trần thanh tịnh, gọi là các vi trần.
“ –Thưa Thế Tôn ! Ba ngàn đại thiên thế giới Như Lai nói, tức chẳng phải thế giới, đó gọi là thế giới.”
Nói ba ngàn là ước về lý mà nói, tức là vọng niệm tham sân si mỗi thứ đều đủ ba ngàn. Tâm là gốc của thiện ác, có thể là phàm, cũng có thể trở thành thánh. Động tĩnh của tâm không thể lường được, rộng lớn vô biên, nên gọi đại thiên thế giới.
“Bởi vì sao ? Nếu thế giới là thật có, đó là tướng hợp nhất. Như Lai nói tướng hợp nhất, tức chẳng phải tướng hợp nhất, đó gọi là tướng hợp nhất.”
Trong tâm sáng rõ, không gì hơn hai pháp từ bi và trí tuệ. Do hai pháp này được Bồ-đề. Nói tướng hợp nhất, là tâm còn sở đắc. Tức chẳng phải tướng hợp nhất, là tâm không có sở đắc. Đó là tướng hợp nhất. Tướng hợp nhất , là không được lấy giả danh mà luận bàn thật tướng.
“Tu-bồ-đề ! Tướng hợp nhất, là chân lý không thể dùng ngôn ngữ giảng nói, mà kẻ phàm phu thì tham đắm vào sự tướng.”
Thành tựu Phật quả Bồ-đề do hai pháp từ bi và trí tuệ. Đây là chân lý không thể nói hết, vi diệu không thể diễn tả bằng ngôn từ. Thế nhưng phàm phu tham đắm vào văn tự, sự tướng, không tu hai pháp từ bi trí tuệ. Nếu không thực hành hai pháp này mà cầu Vô thượng Bồ-đề, làm sao đạt được?
31- Tri kiến không sinh
“Tu-bồ-đề ! Nếu có ai bảo rằng Phật nói ngã kiến nhân kiến chúng sinh kiến thọ giả kiến, Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao, người ấy có hiểu nghĩa ta nói không?
–Không, thưa Thế Tôn ! Người ấy không hiểu ý nghĩa Như Lai nói.
Bởi vì sao ? Thế Tôn nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến, tức chẳng phải ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến, thế gọi là ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh, kiến thọ giả kiến.”
Như Lai nói kinh này là để khiến chúng sinh tự giác ngộ trí tuệ Bát-nhã, tự tu hành quả Bồ-đề. Phàm phu không hiểu ý Phật liền cho rằng Như Lai nói có ngã kiến, nhân kiến v.v…, không biết Như Lai nói pháp Bát-nhã Ba-la-mật sâu xa vô tướng vô vi. Cái ngã kiến, nhân kiến, v.v…Như Lai nói, không như cái ngã kiến, nhân kiến v.v…của phàm phu nói. Như Lai nói tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đó là tri kiến về chân ngã. Nói tất cả chúng sinh có trí tuệ vô lậu, tính vốn đầy đủ, đó là tri kiến về nhân. Nói tất cả chúng sinh vốn tự không phiền não, đó là tri kiến về chúng sinh. Nói tất cả chúng sinh, tính vốn không sinh không diệt, đó là tri kiến về thọ giả.
“Tu-bồ-đề! Người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, đối với các pháp phải biết như vậy, thấy như vậy, tin hiểu như vậy, mà không sinh pháp tướng.
Tu-bồ-đề ! Như Lai nói pháp tướng, tức chẳng phải pháp tướng, đó là pháp tướng.”
Người phát tâm Bồ-đề phải thấy tất cả chúng sinh đều có Phật tính, phải thấy tất cả chúng sinh vốn tự đầy đủ giống trí vô lậu, phải tin rằng tất cả chúng sinh tự tính vốn không sinh diệt. Tuy thực hành tất cả trí tuệ phương tiện lợi ích chúng sinh mà không có tâm phân biệt năng sở. Miệng nói pháp vô tướng mà tâm có năng sở, tức chẳng phải pháp tướng. Miệng nói pháp vô tướng, tâm thực hành hạnh vô tướng, mà tâm năng sở diệt, đó là pháp tướng.
32- Ứng hóa chẳng phải chân thật
“Tu-bồ-đề ! Nếu có người đem bảy báu đầy cả vô lượng vô số thế giới ra bố thí, và nếu có thiện nam thiện nữ phát tâm Bồ-đề thụ trì đọc tụng kinh này, vì người khác giảng nói, dù chỉ bốn câu kệ, phúc của người này hơn người trước.
Sao gọi là vì người diễn nói ? Là diễn nói mà không chấp tướng, y nhiên vững vàng chẳng chút động tâm.”
Phúc bố thí bảy báu tuy nhiều, nhưng không bằng người phát tâm Bồ-đề thụ trì bốn câu kinh này và vì người giảng nói. Phúc này hơn phúc bố thí kia trăm ngàn vạn ức, không thể ví dụ. Khéo léo dùng phương tiện thuyết pháp, quán sát căn cơ, ứng theo tâm lượng tùy trường hợp, đó gọi là vì người diễn nói. Với người nghe pháp, có rất nhiều đối tượng khác nhau, không nên đem tâm phân biệt, chỉ cần hiểu rõ cái tâm y nhiên vắng lặng, tâm không sở đắc, tâm không hơn thua, tâm không trông mong điều gì, tâm không sinh diệt, đó gọi là y nhiên bất động.
“Bởi vì sao ? Vì tất cả pháp hữu vi, như giấc mộng, như ảo hóa, như bọt nước, như bóng hình, như sương mai, như điện chớp. Phải có cái nhìn như vậy.”
Mộng là cái thân dối giả, huyễn là vọng niệm, bọt nước là phiền não, bóng hình là nghiệp chướng. Các nghiệp trên đây là pháp hữu vi. Chân thật thì lìa bỏ danh nghĩa hình thức. Giác ngộ thì không còn các nghiệp.
“Phật nói kinh này xong, trưởng lão Tu-bồ-đề cùng các Tì-kheo, Tì-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả trời, người, A-tu-la trong thế gian được nghe những điều Phật nói đều rất vui mừng tin tưởng, lĩnh thụ phụng hành.”

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 2 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.145.108.43 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập