Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Kim Cang Kinh Giải Nghĩa [金剛經解義] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Kim Cang Kinh Giải Nghĩa [金剛經解義] »» Bản Việt dịch quyển số 1

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Giải Nghĩa Kinh Kim Cang

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 |
Việt dịch: Nguyên Hiển

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính. Chỉ vì người đời không thấy tự tính nên lập pháp môn kiến tính, nếu thấy được bản thể chân như thì chẳng cần lập pháp môn.
Kinh Kim Cương Bát-nhã này được vô số người đọc tụng, vô biên người xưng tán, có hơn tám trăm nhà luận giải. Sự tạo luận tùy theo cái thấy của mỗi người. Năng lực thấy đạo dầu không đồng, nhưng chân lý thì không hai.
Những người thượng căn một lần nghe liền liễu ngộ. Những người độn căn dầu đọc tụng nhiều nhưng không thông đạt Phật ý. Đó là lý do cần giải thích nghĩa lý của Thánh nhân để đoạn trừ nghi lầm. Nếu hiểu được ý chỉ của kinh, không còn nghi lầm, thì không cần giải thích.
Như Lai từ ngàn xưa thuyết giảng thiện pháp là để diệt trừ tâm xấu ác của phàm phu. Kinh là lời dạy của Thánh nhân để người đời nghe lĩnh hội mà vượt qua thân phận phàm phu , thấy thánh đạo, vĩnh viễn diệt trừ mê tâm.
Một quyển kinh văn này, tự tính chúng sinh đều có mà không thấy bởi chỉ đọc tụng lời văn. Nếu ngộ được bản tâm thì biết ngay rằng kinh chẳng ở nơi văn tự. Có khả năng thấy rõ tự tính mới có thể tin rằng tất cả chư Phật đều từ kinh này mà ra.
Nay sợ người đời tìm Phật ngoài thân, hướng ra ngoài mà kiếm kinh, không khai phát nội tâm, không gìn giữ cái ý nghĩa kinh trong tâm của mình, vì vậy mới phải tạo luận, giải quyết nghi lầm để người tu học biết giữ lấy kinh trong tâm của mình, thấu rõ Phật tâm thanh tịnh vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn.
Nếu kẻ hậu học đọc kinh còn nghi ngờ, đọc lời giải thích này các nghi vấn sẽ tan dứt. Mong người tu học biết có vàng trong quặng và dùng lửa trí tuệ nấu chảy quặng để được vàng.
Đức Bản sư Thích-ca nói Kinh Kim Cương tại nước Xá-vệ ( Shravasti ) là do Tu-bồ-đề ( Subhuti ) thưa thỉnh. Phật từ bi tuyên thuyết, Tu-bồ-đề nghe pháp tỏ ngộ xin Phật đặt tên kinh để người sau theo đó mà thụ trì. Vì vậy trong kinh có nói : “Phật bảo Tu-bồ-đề kinh này tên là Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật ( Vajra-Prajñapāramitā ), ông nên phụng trì như vậy !”
Như Lai nói Kinh Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật là ẩn dụ cho chân lý. Nghĩa ấy thế nào ? Kim cương là báu vật của thế giới, tính cứng sắc bén có thể làm vỡ nát các vật.
Kim loại tuy rất cứng, sừng linh dương có thể phá hoại. Kim cương dụ Phật tính, sừng linh dương dụ phiền não. Kim loại tuy cứng, sừng linh dương vẫn có thể phá hoại. Phật tính tuy kiên cố, phiền não vẩn có thể não loạn. Phiền não tuy cứng chắc, trí Bát-nhã vẫn phá được. Sừng linh dương tuy cứng chắc nhưng sắt thép có thể cắt được.
Người ngộ lý này tức thấy được Phật tính.
Kinh Niết-bàn nói : “Người thấy được Phật tính, không gọi là chúng sinh, không thấy Phật tính, gọi là chúng sinh.” Như Lai ví dụ kim cương vì người đời tính không kiên cố, tuy miệng tụng kinh mà ánh sáng tuệ giác không phát. Nếu ngoài tụng trong hành trì, ánh sáng tuệ giác sẽ phát sinh. Nếu nội tâm không kiên cố thì định tuệ liền mất. Miệng tụng tâm hành định tuệ đồng đẳng, như vậy là rốt ráo.
Vàng ở trong núi, núi không biết vàng là báu. Báu vật không biết núi, núi không biết báu vật. Vì sao ? Vì vật là vô tính.
Con người là hữu tính, biết sử dụng của báu. Nếu tìm được thợ mỏ, đục núi phá đá, lấy quặng đúc luyện thành vàng ròng, tùy ý sử dụng không còn nghèo khổ.
Cũng thế, Phật tính ở trong thân tứ đại này. Thân dụ thế giới, nhân ngã dụ núi cao, phiền não dụ quặng mỏ. Phật tính dụ vàng, trí tuệ dụ thợ mỏ, tinh tiến dũng mãnh dụ cho sự công phá đúc luyện.
Trong thế giới của thân có núi nhân ngã, trong núi nhân ngã có quặng mỏ phiền não, trong quặng mỏ phiền não có báu vật Phật tính, trong báu vật Phật tính có thợ trí tuệ.
Dùng thợ trí tuệ công phá núi nhân ngã, sẽ thấy có quặng mỏ phiền não. Dùng lửa giác ngộ luyện rèn, sẽ thấy được Phật tính kim cương của mình trong sạch chiếu sáng.
Vì vậy kim cương được dùng làm ví dụ và đặt tên kinh là như thế.
Nếu chỉ hiểu suông mà không thực hành, tức chỉ có tên không có thực chất. Nếu có trí có hành, tức có tên và bản chất đầy đủ. Không tu là phàm phu, tu là tương đồng với Thánh trí, nên gọi là kim cương.
Bát-nhã là gì ? Bát-nhã ( Prajñā ) là danh từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa là trí tuệ. Người trí không khởi tâm mê, người tuệ có phương tiện khéo léo. Tuệ là thể của trí, trí là dụng của tuệ.
Nếu trong thể có tuệ thì dụng trí không ngu. Thể mà không có tuệ thì dụng ngu không trí. Vì ngu si chưa ngộ nên tu trí tuệ để diệt trừ, cho nên gọi là Ba-la-mật.
Ba-la-mật ( Pāramitā ) là gì ? Tiếng Trung Hoa nghĩa là đến bờ kia. Đến bờ kia nghĩa là thoát ly sinh diệt. Vì người đời tính không kiên cố, đối với tất cả vạn vật đều khởi ý tưởng sinh diệt, trôi lăn trong các nẻo, chưa đến bờ Chân như, nên gọi là bờ bên này. Điều thiết yếu là có đại trí tuệ đối với tất cả pháp, hoàn toàn xa lìa ý tưởng sinh diệt, tức là đến bờ kia.
Vậy nên nói tâm mê là bờ này, tâm ngộ là bờ kia. Tâm tà là bờ này, tâm chính là bờ kia. Miệng nói tâm hành tức tự Pháp thân có Ba-la-mật. Miệng nói tâm chẳng hành, tức không có Ba-la-mật.
Sao gọi là kinh ? Kinh là con đường để thành tựu Phật đạo. Phàm người muốn phát tâm thành tựu Phật đạo, trong tâm phải tu hạnh Bát-nhã cho đến chỗ rốt ráo. Còn như chỉ miệng tụng niệm suông mà tâm không y theo đó hành trì thì tự tâm không có kinh. Thấy đúng, thật hành đúng là tự tâm có kinh. Vì vậy Như Lai đặt tên kinh này là Kinh Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật./.

I- Nhân duyên pháp hội
“ Tôi nghe như vầy.”
Chữ “như” chỉ ý nghĩa, chữ “vầy” là tiếng xác định. Ý A-nan ( Ananda ) nói như sau : Tôi nghe pháp này từ đức Phật, rõ ràng không phải tự tôi nói ra. Vì vậy nói :"Tôi nghe như vầy"
Lại nữa chữ tôi là tính. Tính tức là ngã. Nội ngoại khởi động đều do tính. Vì nghe đầy đủ tất cả nên nói là “Tôi nghe”.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ vườn ông Cấp cô độc, cây của Thái tử Kì-đà,”
Một thời, là chỉ vào lúc người thuyết pháp và người nghe pháp cùng hội họp đầy đủ. Phật là người thuyết pháp. Thành Xá-vệ ( Shravasti ) là nơi khai pháp hội này. Thành Xá-vệ của vua Ba-tư-nặc ( Prasenajit ) thuộc vương quốc Kosala. Vì tôn kính đức Phật nên Thái tử Kì-đà ( Jeta ) đã hiến cúng toàn bộ cây trong vườn, khi trưởng giả Cấp cô độc ( Sudatta ) mua khu vườn cúng dường đức Phật.
Phật ( Buddha ) là danh từ tiếng Phạn, dịch nghĩa tiếng Trung Hoa là Giác giả. Giác có hai nghĩa, một là ngoại giác tức quán các pháp là không, hai là nội giác tức tâm vắng lặng không bị sáu trần nhiễm ô. Ngoài không thấy lỗi người, trong không bị mê hoặc nên gọi là giác. Giác tức là Phật.
“ cùng một ngàn hai trăm năm mươi đại Tì-kheo.”
“Cùng” nghĩa là Phật cùng với chúng Tì-kheo đồng ở tại đạo tràng Kim cương Bát-nhã vô tướng. Chúng đại Tì-kheo là các vị đại A-la-hán. Tì-kheo ( Bhikshu ) tiếng Phạn có nghĩa là phá lục tặc nên gọi là Tì-kheo. Chúng là nhiều. Một ngàn hai trăm năm mươi người, số ấy đều ở trong pháp hội bình đẳng.
“Bấy giờ đến giờ ăn, Thế Tôn mặc y cầm bát vào khất thực trong thành Xá-vệ,”
Lúc bấy giờ gần đến buổi trưa, giờ ngọ trai, Phật đắp y cầm bát là để hiển bày thân giáo. Nói vào là từ ngoài thành vào. Thành lớn Xá-vệ là thành giàu có và phúc đức của vua Ba-tư-nặc. Nói khất thực là nói Như Lai có thể hạ tâm chiếu cố đến tất cả chúng sinh.
“tuần tự khất thực trong thành rồi trở về chỗ ở, ăn uống xong, thu xếp y bát, rửa chân, trải tọa cụ mà ngồi.”
Tuần tự là chẳng chọn giàu nghèo, bình đẳng hóa độ. Sau khi khất thực không quá bảy nhà, không nhiều hơn, thì trở về chỗ ở, vì đức Phật có ý ngăn các Tì-kheo, không nên vào nhà người nếu không được mời thỉnh.
Trong câu có chữ rửa chân, đó là đức Phật thị hiện giống như người thường. Lại nữa, trong Đại thừa, rửa chân tay chưa đủ để gọi là thanh tịnh, không bằng thanh tịnh tâm mình. Nhất niệm tâm tịnh, tất cả tội lỗi tiêu trừ.
Nay Như Lai muốn thuyết pháp, lập đàn bố thí, nên nói trải tọa cụ mà ngồi.
2- Tu-bồ-đề thưa hỏi
“Lúc ấy trưởng lão Tu-bồ-đề”
Sao có tên gọi trưởng lão ? Đức hạnh cao trọng và tuổi lớn gọi là trưởng lão.
Tu-bồ-đề tiếng Phạn là Sabhuti, tiếng Trung Hoa dịch là Giải không, hoặc Thiện hiện.
“trong các đại Tì-kheo, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay cung kính bạch Phật :”
Theo chúng mà ngồi nên nói liền từ chỗ ngồi đứng dậy. Đệ tử trước khi khởi thỉnh có 5 động tác : một là từ chỗ ngồi đứng dậy, hai là sửa sang y phục, ba là trịch vai áo bên phải, gối phải quỳ xuống, bốn là chấp tay chiêm ngưỡng tôn nhan mắt chẳng tạm rời, năm là nhất tâm cung kính thưa thỉnh.
“ –Thưa Thế Tôn !Thật là hiếm có.”
Hiếm có, nói tóm có ba nghĩa. Hiếm có thứ nhất là có thể lìa ngôi vị kim luân vương. Hiếm có thứ hai là thân vàng một trượng sáu với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, ba cõi không ai bằng. Hiếm có thứ ba là tính năng hàm chứa tám vạn bốn ngàn pháp môn, ba thân đầy đủ.
Đủ ba nghĩa trên đây nên nói thật là hiếm có. Thế Tôn trí tuệ siêu việt ba cõi không ai sánh bằng, đạo đức cao vô thượng, tất cả thế gian đều cung kính nên gọi là Thế Tôn.
“Như Lai khéo hộ niệm các Bồ-tát, khéo dặn bảo các Bồ-tát.”
Hộ niệm là Như Lai dùng trí Bát-nhã Ba-la-mật giúp đỡ các Bồ-tát, dặn bảo là Như Lai lấy pháp Bát-nhã Ba-la-mật dặn bảo Tu-bồ-đề và các đại Bồ-tát.
Khéo hộ niệm còn có nghĩa khiến các vị tu học dùng trí tuệ Bát-nhã tự hộ niệm thân tâm, không cho khởi ý niệm yêu ghét, ngoài nhiễm sáu trần, rơi xuống biển khổ sinh tử. Tự tâm bên trong, mỗi niệm mỗi niệm thường chân chính, khiến tâm không khởi việc tà. Tự tính Như Lai tự khéo hộ niệm.
Nói khéo dặn bảo là dặn dò giữ niệm trước thanh tịnh, niệm sau cũng phải thanh tịnh, không gián đoạn, cứu cánh giải thoát.
Như Lai cặn kẽ dặn bảo chúng sinh cùng chúng hội hiện tiền thường thực hành như vậy, nên nói khéo dặn bảo.
Bồ-tát tiếng Phạn Bodhisattva dịch nghĩa là chúng sinh có đạo tâm, cũng có nghĩa là người đã tỉnh thức. Đạo tâm là thường hành cung kính tôn trọng, cho đến sâu bọ cũng đều đem lòng kính yêu không khinh mạn, nên gọi là Bồ-tát.
“ –Thưa Thế Tôn ! Thiện nam thiện nữ”
Thiện nam là người có tâm bình thản, có tâm chính định, có khả năng thành tựu tất cả công đức không gì trở ngại.
Thiện nữ là người có tâm chính tuệ, do tâm chính tuệ nên có khả năng xuất sinh tất cả công đức vô vi.
“đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, làm sao có thể an trụ, làm sao hàng phục được tâm mình ?”
Tu-bồ-đề hỏi Phật rằng với những người phát tâm Bồ-đề, làm sao có thể an trụ làm sao có thể hàng phục tâm. Vì Tu-bồ-đề thấy tất cả chúng sinh tâm loạn động không ngừng, như bụi bay xao động, nổi lên như gió cuốn, niệm niệm nối nhau không dừng nghỉ nên xin Phật chỉ dạy làm sao an trụ và hàng phục tâm mình khi tu tập.
“Phật nói : Hay lắm Tu-bồ-đề! Thật đúng như ông nói, Như Lai khéo hộ niệm các Bồ-tát, khéo dặn bảo các Bồ-tát.”
Đây là lời Phật khen Tu-bồ-đề đã hiểu được tâm của Phật, đã hiểu được ý của Phật.
“Nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông nói.”
Trước khi thuyết pháp Phật thường răn dạy thính chúng nhất tâm nghe cho rõ.
“Thiện nam thiện nữ phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nên an trụ và hàng phục tâm mình như thế này.”
A là vô, Nậu-đa-la là thượng, Tam là chính, Miệu là biến, Bồ-đề là trí ( Anuttara Samyak Sambodhi ). Vô là không cấu nhiễm, thượng là ba cõi không thể sánh, chính là chính kiến, biến trí là nhất thiết trí, biết tất cả hữu tình đều có Phật tính, chỉ cần năng tu hành cuối cùng sẽ thành Phật. Phật tức vô thượng thanh tịnh Bát-nhã Ba-la-mật.
Vì vậy tất cả thiện nam thiện nữ muốn tu hành phải biết đạo vô thượng Bồ-đề, phải biết pháp vô thượng thanh tịnh Bát-nhã Ba-la-mật để chế ngự tâm mình.
“–Thưa vâng Thế Tôn, chúng con xin muốn được nghe.”
Thưa vâng là lời đáp. Xin muốn là xin Phật nói rộng rãi cho hạng căn cơ vừa và thấp đều được khai ngộ. Muốn là muốn nghe pháp sâu xa. Muốn nghe là khao khát những lời dạy từ bi của Phật.
3- Đại thừa chính tông
“Phật bảo Tu-bồ-đề : Các Bồ-tát Ma-ha-tát phải hàng phục tâm mình như vầy.”
Niệm trước thanh tịnh niệm sau thanh tịnh gọi là Bồ-tát. Niệm niệm không thoái lui, tuy ở trong trần lao nhưng tâm thường thanh tịnh là Ma-ha-tát. Lại nữa từ bi hỷ xả, dùng mọi phương tiện hóa độ chúng sinh là Bồ-tát. Tâm không chấp trước việc mình hóa độ ai, ai được mình hóa độ, gọi là Ma-ha-tát. Tôn trọng tất cả chúng sinh chính là chế ngự tâm mình. Chân là bất biến, như là không đổi khác. Gặp các cảnh giới tâm vẫn không biến không đổi gọi là Chân như. Cũng nói ngoài không giả là Chân, trong không loạn là Như. Niệm niệm không sai, chính là chế ngự tâm mình.
“Có tất cả bao nhiêu chúng sinh, nào sinh trứng, nào sinh thai, nào sinh nơi ẩm ướt, nào hóa sinh, nào có hình sắc, nào không hình sắc, nào có tưởng, nào không có tưởng, nào chẳng phải có tưởng, nào chẳng phải không có tưởng, ta đều khiến nhập Niết-bàn vô dư,”
Sinh trứng là tính mê, sinh thai là tính tập khí, sinh nơi ẩm ướt là tính theo tà, hóa sinh là tính chỉ thấy nẻo đến. Vì mê nên tạo các nghiệp, vì tập khí nên thường lưu chuyển, vì theo tà nên tâm bất định, vì chỉ thấy nẻo đến nên phần nhiều thiên lệch mà đọa lạc.
Tu tâm mà khởi tâm thấy điều thị phi, trong không phù hợp với lý vô tướng, gọi là có hình sắc. Giữ nội tâm ngay thẳng mà không làm việc cung kính cúng dường, cứ nói tâm ngay thẳng là Phật, rồi không chịu tu phúc tuệ, gọi là không hình sắc. Không hiểu lý trung đạo, mắt thấy tai nghe, tâm tưởng tư duy, yêu đắm pháp tướng, miệng nói Phật hạnh mà tâm không làm theo Phật hạnh, gọi là có tưởng. Người mê, ngồi thiền chỉ lo trừ vọng không tu học từ bi hỷ xả trí tuệ phương tiện, thì cũng như gỗ đá chẳng có tác dụng, đó là không có tưởng. Không chấp trước cái tưởng hai pháp, nên gọi là chẳng phải có tưởng. Cầu lý tại tâm, nên gọi là chẳng phải không có tưởng. Muôn vàn phiền não sai biệt đều là cấu uế của tâm. Hình loại vô số đều là chúng sinh. Như Lai đại bi giáo hóa tất cả khiến nhập Niết-bàn vô dư.
“mà diệt độ chúng.”
Như Lai chỉ bày chúng sinh trong ba cõi chín bậc, tất cả đều có Niết-bàn diệu tâm, khiến tự ngộ nhập Niết-bàn vô dư.
Vô dư là không còn tập khí phiền não.
Niết-bàn là viên mãn thanh tịnh.
Diệt hết tất cả tập khí phiền não khiến vĩnh viễn không sinh khởi trở lại.
Độ là vượt khỏi biển lớn sinh tử.
Tâm Phật bình đẳng, muốn tất cả chúng sinh cùng nhập viên mãn thanh tịnh Niết-bàn vô dư, cùng vượt khỏi biển lớn sinh tử, cùng chứng được như chư Phật.
Có người dầu ngộ dầu tu mà khởi tâm có chứng có đắc, sinh ý tưởng chấp ngã, nên gọi là pháp ngã. Chỉ khi nào không còn pháp ngã mới được gọi là diệt độ.
“Diệt độ vô lượng vô số chúng sinh như vậy đó, mà thật không thấy có chúng sinh nào được diệt độ.”
Như vậy đó, là chỉ cái pháp nói ở trước. Diệt độ nghĩa là đại giải thoát. Đại giải thoát là tất cả phiền não và tập khí, tất cả nghiệp chướng đều tiêu diệt không còn thừa sót, nên gọi là đại giải thoát. Vô lượng vô số vô biên chúng sinh vốn đều tự có tất cả phiền não tham sân ác nghiệp, nếu không đoạn trừ thì không bao giờ được giải thoát. Cho nên nói : Diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sinh như vậy đó.
Khi tất cả những người mê tỏ ngộ được tính mình thì mới hiểu rằng Phật chẳng thấy có tướng riêng mình, chẳng có trí tuệ riêng mình, thì sao lại nói độ thoát chúng sinh ? Chỉ vì phàm phu không thấy bản tâm, không hiểu ý Phật, chấp trước các tướng, không thấu triệt đạo lý vô vi, không dứt trừ ngã nhân, nên gọi là chúng sinh. Nếu lìa bỏ căn bệnh này thì thật không có chúng sinh được diệt độ. Cho nên nói không có chỗ cho vọng tâm, tức là Bồ-đề. Sinh tử Niết-bàn vốn bình đẳng, làm gì có diệt độ!
“Bởi vì sao ? Tu-bồ-đề ! Nếu Bồ-tát còn chấp tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả tức chẳng phải Bồ-tát.”
Chúng sinh và Phật tính vốn không khác nhau. Vì có bốn tướng nên không nhập được Niết-bàn vô dư.
Có bốn tướng tức là chúng sinh.
Không bốn tướng tức là Phật.
Mê thì Phật là chúng sinh.
Ngộ thì chúng sinh là Phật.
Người mê cậy có tiền của, học vấn, danh phận, khinh chê mọi người, nên nói là có ngã tướng.
Tuy thực hành nhân nghĩa lễ trí tín mà còn có ý tưởng cao ngạo tự phụ, không cung kính đều khắp, cứ nói ta biết hạnh nhân nghĩa lễ trí tín nên ta không cần tôn kính. Đó gọi là nhân tướng.
Việc tốt đem về mình, việc xấu đẩy cho người. Đó là chúng sinh tướng.
Đối cảnh thì phân biệt, lấy cái này bỏ cái kia, gọi là thọ giả tướng.
Trên đây là bốn tướng của kẻ phàm phu.
Người tu hành cũng có bốn tướng. Tâm còn phân biệt năng sở chủ khách,
khinh chê người khác gọi là ngã tướng.
Nhàm chán ba đường khổ, ước nguyện sinh về các cõi trời là chúng sinh tướng.
Siêng tu phúc để cầu sống lâu mà không bỏ các chấp trước là thọ giả tướng.
Có bốn tướng tức là chúng sinh.
Không bốn tướng tức là Phật.
4- Hạnh vô trụ
“Lại nữa Tu-bồ-đề ! Bồ-tát phải làm bố thí mà không trụ ở một chỗ nào. Nghĩa là không trụ ở sắc mà bố thí, không trụ ở thanh, hương, vị xúc, pháp mà bố thí.”
Phàm phu khi bố thí chỉ mong cầu thân tướng đoan trang, năm dục khoái lạc, nên khi phúc báo hết lại đọa ba đường ác.
Thế Tôn đại từ, dạy hạnh vô tướng bố thí là không cầu thân tướng đoan trang, năm dục khoái lạc, chỉ khiến trong thì phá tâm tham lam, ngoài thì làm lợi ích chúng sinh. Tương ưng khế hợp như vậy gọi là không trụ sắc bố thí.
“Tu-bồ-đề ! Bồ-tát phải không trụ tướng mà bố thí như vậy.”
Nên bố thí với tâm không trụ tướng tức là không có cái tâm thấy mình là người bố thí, không thấy có vật mình bố thí, không phân biệt người nhận của bố thí, đó gọi là bố thí không trụ tướng.
“ Bởi vì sao ? Nếu Bồ-tát bố thí không trụ tướng thì phúc đức ấy không thể lường hết.”
Bồ-tát hành bố thí, tâm không mong cầu thì sẽ đạt được phúc đức to lớn như mười phương hư không, không thể lường hết. Theo một luận giải thì bố là ban bố khắp cả, thí là tung tán. Nếu có thể tung tán hết tất cả vọng niệm tập khí phiền não trong tâm mình thì bốn tướng sẽ tiêu diệt không còn tích chứa trong lòng, đó gọi là chân thật bố thí.
Lại nữa nói bố thí là do không trụ ở cảnh giới sáu trần, cũng không có những phân biệt hữu lậu, chỉ cần quay về thanh tịnh là hiểu được muôn pháp vắng lặng. Nếu không rõ ý nghĩa này thì chỉ tăng thêm các nghiệp. Cho nên trong thì phải trừ tham ái, ngoài phải hành bố thí. Trong ngoài ứng hợp nhau sẽ được phúc đức vô lượng. Thấy người làm ác mà không thấy lỗi người, tự tính không sinh phân biệt, gọi là lìa tướng. Y theo giáo pháp tu hành, tâm không năng sở chủ khách, đó là thiện pháp.
Tu hành mà tâm còn năng sở, chẳng gọi là thiện pháp.
Chưa dứt trừ tâm phân biệt năng sở, chưa được giải thoát.
Niệm niệm thường thực hành trí Bát-nhã, phúc đức ấy vô lượng vô biên. Y theo đây tu hành sẽ cảm được tất cả, trời người cúng dường cung kính. Đó là phúc đức.
Nếu thường thực hành bố thí không trụ tướng, tôn trọng tất cả chúng sinh, công đức ấy vô biên không thể kể hết.
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Hư không ở phương Đông có thể lường được chăng?
–Không, thưa Thế Tôn !”
Do bố thí không trụ tướng, công đức đạt được nhiều không thể lường. Phật dùng hư không của phương Đông làm thí dụ, nên hỏi Tu-bồ-đề hư không phương Đông có thể lường được chăng. Tu-bồ-đề đáp : Không, thưa Thế Tôn, hư không phương Đông không thể lường được.
“Tu-bồ-đề ! Hư không ở phương Tây, Nam, Bắc, bốn phương trên dưới có thể lường được chăng?
–Không, thưa Thế Tôn.
Tu-bồ-đề ! Bồ-tát bố thí không trụ tướng, phúc đức cũng nhiều như vậy, không thể lường được.”
Phật bảo hư không không có giới hạn, không thể đo lường. Bồ-tát bố thí không trụ tướng, được công đức cũng như hư không, không thể đo lường, không có giới hạn. Trong thế giới, không cái gì lớn hơn hư không. Trong tất cả tính, không tính nào hơn Phật tính. Vì sao vậy ? Vì tất cả những gì có hình tướng đều không được gọi là lớn. Hư không không có hình tướng nên gọi là lớn. Tất cả các tính đều có hạn lượng nên không gọi là lớn, Phật tính không hạn lượng nên gọi là lớn. Trong hư không vốn không có Đông Tây Nam Bắc, nếu thấy có Đông Tây Nam Bắc đó là trụ tướng, không được giải thoát. Phật tính vốn không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, nếu thấy có bốn tướng này tức là chúng sinh, không phải Phật tính. Cũng giống như bố thí mà trụ tướng vậy.
Tuy với vọng tâm nói có Đông Tây Nam Bắc, nhưng trong chân lý thì nào có phương hướng ? Gọi Đông Tây là không đúng, Nam Bắc nào có gì khác. Tự tính xưa nay vắng lặng, dung hòa không phân biệt. Vì vậy Như Lai rất ca ngợi pháp không sinh phân biệt.
“Tu-bồ-đề ! Bồ-tát chỉ nên trụ nơi điều ta dạy.”
Nên như điều Phật dạy trên đây, đó là trụ nơi vô tướng bố thí. Như thế là Bồ-tát.
5- Thật thấy như lý
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Có thể thấy Như Lai bằng thân tướng chăng?
–Không, thưa Thế Tôn ! Không thể thấy Như Lai bằng thân tướng.”
Sắc thân có tướng mạo, Pháp thân không có tướng mạo. Sắc thân do bốn đại hòa hợp, do cha mẹ sinh, mắt trần có thể trông thấy. Còn Pháp thân thì không hình dáng, không xanh vàng đỏ trắng, không có tất cả tướng mạo, mắt trần không thể nhìn thấy, chỉ mắt tuệ mới thấy được.
Phàm phu chỉ thấy sắc thân Như Lai không thấy Pháp thân Như Lai. Pháp thân đồng như hư không. Vì vậy Phật hỏi Tu-bồ-đề : Có thể thấy Như Lai bằng thân tướng chăng ? Tu-bồ-đề biết phàm phu chỉ thấy sắc thân Như Lai nhưng không thấy được Pháp thân chân thật của Như Lai nên trả lời : Không, thưa Thế Tôn. Không thể thấy Như Lai bằng thân tướng.
“Bởi vì sao? Vì Như Lai nói thân tướng, tức chẳng phải thân tướng.”
Sắc thân là tướng, Pháp thân là tính. Tất cả thiện ác đều do Pháp thân, chẳng do sắc thân. Pháp thân nếu làm ác, sắc thân chẳng sinh xứ lành. Pháp thân làm lành, sắc thân chẳng đọa nẻo ác. Phàm phu chỉ thấy sắc thân không thấy Pháp thân, chẳng thể thực hành bố thí không trụ tướng, chẳng thể thực hành hạnh bình đẳng cùng khắp, chẳng thể tôn trọng tất cả chúng sinh khắp mọi nơi.
Thấy Pháp thân tức có thể thực hành bố thí không trụ tướng, có thể tôn trọng tất cả chúng sinh khắp mọi nơi, có thể tu hạnh Bát-nhã Ba-la-mật, và mới tin rằng tất cả chúng sinh đồng một chân tính, xưa nay không nhiễm ô, đầy đủ vô lượng diệu dụng.
“Phật bảo Tu-bồ-đề : Tất cả những gì có tướng đều giả dối. Nếu thấy các tướng là không phải tướng, tức thấy Như Lai.”
Như Lai muốn chỉ bày Pháp thân, nên nói tất cả các tướng đều hư dối. Nếu thấy tất cả các tướng là hư dối không thật, tức thấy lý Như Lai vô tướng.
6- Hiếm có lòng tin chân thật
“Tu-bồ-đề bạch Phật : –Bạch Thế Tôn ! Liệu có những chúng sinh nghe pháp này mà phát sinh lòng tin chân thật chăng ?”
Tu-bồ-đề hỏi Phật rằng pháp này rất sâu khó tin khó hiểu. Đời mạt pháp phàm phu trí tuệ yếu kém làm sao tin được ? Phật đáp như sau.
“Phật bảo Tu-bồ-đề : Chớ nói vậy ! Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau có người giữ giới, làm phúc tu tuệ thì với pháp này có thể sinh tín tâm cho đây là chân thật. Ông nên biết rằng những người như vậy không phải chỉ gieo trồng căn lành nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba bốn năm đức Phật mà chính là đã gieo trồng căn lành nơi vô số ngàn vạn đức Phật. Những người như vậy khi nghe được pháp này, chỉ một niệm cũng đã phát sinh lòng tin thanh tịnh.”
Năm trăm năm sau khi Phật nhập diệt, nếu có người có khả năng tu trì giới vô tướng Đại thừa, chẳng vọng chấp các tướng, chẳng tạo nghiệp sinh tử, trong mọi lúc tâm thường vắng lặng, chẳng bị các tướng trói buộc, tức là tâm không trụ trước. Đối với pháp sâu xa nhiệm mầu của Như Lai người ấy có thể tin là chân thật.
Bởi vì sao, vì người này không phải trong một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, bốn năm kiếp gieo trồng căn lành, mà đã trồng căn lành từ vô lượng ngàn vạn ức kiếp. Vì vậy Như Lai nói sau khi Như Lai Niết-bàn, năm trăm năm sau có người có thể tu hạnh lìa tướng. Ông nên biết, người ấy không phải đã gieo trồng căn lành chỉ ở nơi một hai ba bốn năm đức Phật.
Thế nào là gieo trồng các căn lành ? Lược nói như dưới đây. Đó là đối với chư Phật , một lòng cúng dường, tùy thuận giáo pháp. Đối với các Bồ-tát, thiện tri thức, chư tăng, cha mẹ, các bậc tôn trưởng cao niên, thường cung kính cúng dường, thuận theo sự dạy dỗ chẳng dám trái nghịch. Đó là trồng các căn lành.
Đối với tất cả chúng sinh nghèo khổ thì khởi từ tâm, không sinh lòng khinh chê chán ghét, tùy sức bố thí, có cầu xin điều gì thì tùy khả năng làm cho thỏa mãn. Đó là trồng các căn lành.
Đối với các người hung ác thì nên nhu hòa nhẫn nhục, vui vẻ tiếp đón, không nghịch ý, làm sao cho sinh tâm hoan hỷ từ bỏ hung ác. Đó là trồng các căn lành.
Đối với chúng sinh trong sáu đường, không gây giết hại, không khinh khi lừa dối, không mắng nhiếc nhục mạ, không cỡi, không đánh roi, không giết thịt, thường làm việc lợi ích. Đó là trồng các căn lành.
Tín tâm là tin rằng trí tuệ Bát-nhã có khả năng thành tựu tất cả công đức, tin Bát-nhã Ba-la-mật có thể xuất sinh chư Phật, tin trong người mình có Phật tính, xưa nay thanh tịnh, không nhiễm ô, cùng Phật tính của chư Phật là bình đẳng không hai.
Tin chúng sinh trong sáu đường, từ xưa nay là vô tướng, tin tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật. Đó gọi là tín tâm thanh tịnh.
“Tu-bồ-đề ! Như Lai biết hết, thấy hết, các chúng sinh ấy được vô lượng phúc đức.
Bởi vì sao ? Vì các chúng sinh ấy không còn tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, không pháp tướng cũng không phi pháp tướng.”
Nếu có người sau khi Như Lai nhập diệt, phát tâm Bát-nhã Ba-la-mật, tu hạnh Bát-nhã ba-la-mật, tu tập hiểu ngộ được thâm ý của Phật, chư Phật đều biết hết.
Nếu có người nghe pháp môn thượng thừa, nhất tâm thụ trì, tức có thể thực hành hạnh Bát-nhã Ba-la-mật vô tướng, không chấp trước, hiểu rõ không có bốn tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Không có ngã là không có sắc thụ tưởng hành thức. Không có nhân là hiểu rõ bốn đại không thật, chung quy trở về với đất, nước, lửa, gió. Không chúng sinh nghĩa là không có tâm sinh diệt. Không thọ giả là bản thân ta vốn không thì đâu có ai thọ?
Một khi bốn tướng diệt rồi thì pháp nhãn sáng suốt, chẳng chấp có không, xa lìa hai thái cực, tự tâm là Như Lai, tự ngộ tự giác, hằng xa lìa trần lao vọng niệm, tự nhiên được phúc vô biên.
Không pháp tướng là không còn tướng về pháp, lìa tên gọi, tuyệt chẳng có hình tướng, không cố chấp văn tự.
Còn không phi pháp tướng là không thể nói không có pháp Bát-nhã Ba-la-mật. Nếu nói không có Bát-nhã Ba-la-mật là phỉ báng Phật pháp.
“Bởi vì sao ? Vì các chúng sinh này nếu giữ lấy tướng tức chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, nếu giữ lấy pháp tướng tức chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Bởi ví sao ? Vì nếu giữ lấy phi pháp tướng tức chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả.”
Giữ lấy ba tướng này và chấp trước tà kiến đều là người mê, không hiểu ý kinh. Cho nên người tu hành không được yêu thích đắm đuối ba mươi hai tướng của Như Lai, không được nói ta hiểu pháp Bát-nhã Ba-la-mật, cũng không được nói là không thực hành pháp Bát-nhã Ba-la-mật mà có thể thành Phật.
“Vì vậy không nên giữ lấy pháp, không nên giữ lấy phi pháp.
Do ý nghĩa này Như Lai thường nói : Các Tì-kheo phải biết giáo pháp ta nói ví như chiếc bè. Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.”
Pháp là giáo pháp Bát-nhã Ba-la-mật.
Phi pháp là các giáo pháp thực hành để cầu sinh về cõi trời.
Giáo pháp Bát-nhã Ba-la-mật có khả năng khiến tất cả chúng sinh vượt biển lớn sinh tử. Một khi đã vượt thoát rồi còn không nên an trụ ở đó huống chi là vui thích pháp sinh về các cõi trời.
7-Không chứng đắc, không thuyết pháp
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Như Lai có chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề chăng ? Như Lai có thuyết pháp chăng?
Tu-bồ-đề thưa : –Theo chỗ con hiểu ý Phật dạy, không có một pháp nhất định nào được gọi là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cũng không có một pháp nhất định nào để Như Lai thuyết pháp.”
A-nậu-đa-la không phải được từ bên ngoài, chỉ cần tâm không có ngã sở, tùy bệnh cho thuốc, tùy nghi thuyết pháp, nào có pháp gì là cố định?
Như Lai nói vô lượng chính pháp, tâm vốn không có gì chứng đắc nhưng cũng không nói là không chứng đắc. Chỉ vì chúng sinh chỗ thấy biết không đồng nhau, nên Như Lai tùy theo căn tính mà khai mở chỉ bày các phương tiện khiến xa lìa chấp trước, chỉ cho chúng sinh thấy vọng tâm sinh diệt không dừng, loạn động theo cảnh. Niệm trước vừa khởi niệm sau đã biết. Mà cái biết không dừng lại thì cái thấy cũng không tồn tại. Vậy lẽ nào có pháp cố định để Như Lai có thể thuyết giáo?
A là tâm không vọng niệm.
Nậu-đa-la ( Nuttara ) là tâm không kiêu mạn.
Tam ( Sam ) là tâm thường tại chính định.
Miệu ( Yak ) là tâm thường tại chính tuệ.
Tam-bồ-đề ( Sambodhi ) là tâm thường không tịch.
Một niệm tâm phàm dứt là thấy Phật tính.
“Bởi vì sao ? Vì pháp Như Lai nói đều không thể chấp giữ, không thể nói là phi pháp mà cũng chẳng phải phi pháp.”
Sợ người chấp trước các thuyết giảng, như văn tự chương cú của Như Lai, không rõ lý vô tướng, vọng sinh kiến giải nên nói là không thể chấp giữ. Như Lai vì hóa độ các loại chúng sinh, ứng cơ duyên, tùy trường hợp, đâu có pháp nào là cố định.
Người học không rõ thâm ý của Như Lai, chỉ đọc tụng lời của Như Lai mà không rõ bản tâm.
Không rõ bản tâm, chẳng bao giờ thành Phật. Cho nên nói là không thể nói. Miệng tụng, tâm chẳng thực hành, tức là phi pháp. Miệng tụng tâm thực hành, hiểu rõ ý nghĩa của cái gọi là không có chỗ chứng đắc tức chẳng phải phi pháp.
“Bởi vì sao ? Vì tất cả hiền thánh đều do pháp vô vi mà có những khác biệt.”
Kiến giải của căn tính ba thừa không đồng nhau, có sâu có cạn nên nói có khác biệt.
Phật nói pháp vô vi tức là vô trụ. Vô trụ là vô tướng. Vô tướng thì không khởi. Không khởi thì không diệt, rỗng rang vắng lặng, soi chiếu ứng dụng đều như nhau, quán sát hiểu biết vô ngại. Đó mới là Phật tính chân thật giải thoát.
Phật là giác, giác là quán chiếu, quán chiếu là trí tuệ, trí tuệ là Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Lại nữa hiền thánh thuyết pháp, đầy đủ Nhất thiết trí. Vạn pháp đều ở nơi tính, tùy câu hỏi khác nhau mà làm cho nhân tâm khai ngộ để mỗi người tự thấy tính của mình.
8- Y pháp xuất sinh
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Nếu có người đem bảy báu đầy cả ba ngàn đại thiên thế giới ra bố thí, phúc đức người ấy có nhiều không ? Tu-bồ-đề nói : -Rất nhiều, thưa Thế Tôn ! Phúc đức ấy là tính phi phúc đức. Vì vậy Như Lai nói phúc đức nhiều.”
Đem bảy báu đầy trong ba ngàn đại thiên thế giới ra bố thí, tuy được nhiều phúc đức, nhưng trên bản tính thì chẳng có một lợi ích nào. Y theo Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa tu hành khiến tự tính không đọa vào các nẻo sinh tử, đó là tính của phúc đức.
Tâm có năng sở tức chẳng phải tính của phúc đức. Năng sở trong tâm diệt, là tính của phúc đức.
Tâm y theo lời Phật dạy, tu hành như hạnh Phật, là tính của phúc đức. Không y theo lời Phật dạy, không làm theo hạnh Phật, là chẳng phải tính của phúc đức.
“Nếu lại có người thụ trì chỉ bốn câu kệ trong kinh này và giảng nói cho người khác, phúc của người này hơn cả người kia.”
Đại ý toàn bộ giáo pháp trong mười hai bộ kinh đều ở trong bốn câu. Làm sao biết ? Vì trong các kinh đều ca ngợi bốn câu kệ là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức đại trí tuệ đến bờ kia. Vì đại trí tuệ là mẹ của chư Phật. Chư Phật ba đời đều y kinh này tu hành mới được thành Phật.
Bát-nhã Tâm Kinh nói : Ba đời chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên được vô thượng chính đẳng chính giác.
Theo thầy học đạo là thụ, hiểu nghĩa tu hành là trì. Tự mình hiểu, tự mình tu hành là tự lợi. Vì người khác diễn nói là lợi tha. Công đức này rộng lớn vô biên.
“Vì sao vậy Tu-bồ-đề ? Vì chư Phật và pháp A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề của chư Phật đều từ kinh này sinh ra.”
Hai chữ kinh này là ý nói không phải chỉ có một quyển kinh này, mà điều quan trọng là chỉ rõ Phật tính, để từ thể tính khởi diệu dụng, làm lợi ích rộng lớn.
Bát-nhã tức trí tuệ. Trí là biết dùng phương tiện để tác nghiệp, tuệ là lấy quyết đoán để ứng dụng. Tức cái tâm giác chiếu, luôn luôn soi sáng trong tất cả mọi thời gian. Đó là tất cả chư Phật và pháp A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề đều phát sinh từ giác chiếu, nên nói là từ kinh này sinh ra.
“Tu-bồ-đề ! Nói Phật pháp tức chẳng phải Phật pháp.”
Tất cả văn tự chương cú đều như bảng dấu hiệu, như ngón tay. Dựa vào bảng dấu hiệu mà lấy được vật, từ ngón tay chỉ mà thấy mặt trăng. Mặt trăng không phải ngón tay, bảng dấu hiệu không phải đồ vật.
Chỉ nhờ kinh mà lĩnh thụ được pháp, kinh không phải là pháp. Văn kinh mắt thường có thể đọc, còn pháp nghĩa thì mắt tuệ mới thấy được. Nếu không có mắt tuệ chỉ thấy văn kinh không thấy pháp nghĩa. Không thấy pháp nghĩa thì không hiểu ý Phật. Không hiểu ý Phật thì tụng kinh cũng chẳng thành tựu Phật đạo.
9- Một tướng vô tướng
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Tu-đà-hoàn có thể nghĩ rằng mình đắc quả Tu-đà-hoàn chăng?
Tu-bồ-đề nói : –Không, thưa Thế Tôn !”
Tu-đà-hoàn ( Srota-āpanna ) tiếng Trung Hoa dịch là Nghịch lưu, nghĩa là ngược dòng, ngược dòng sinh tử, không nhiễm sáu trần, một hướng chuyên tu vô lậu nghiệp, các phiền não thô nặng không còn sinh khởi, quyết định không thụ thân các loài địa ngục, súc sinh, A-tu-la nên gọi là quả Tu-đà-hoàn.
Nếu rõ pháp vô tướng thì tâm không thấy có gì gọi là đắc quả. Còn một chút tâm niệm cho là đắc quả tức chẳng phải Tu-đà-hoàn. Cho nên Tu-bồ-đề đáp : Không.
“Bởi vì sao ? Vì Tu-đà-hoàn nghĩa là nhập vào dòng, nhưng chẳng có chỗ nào nhập vào. Chẳng nhập vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, là Tu-đà-hoàn.”
Chữ dòng đây là chỉ dòng thánh. Tu-đà-hoàn đã lìa các phiền não thô nặng nên được nhập vào dòng thánh. Nhưng chẳng có chỗ nhập vào, nghĩa là không có tâm niệm nghĩ rằng có đắc quả. Tu-đà-hoàn là quả vị đầu tiên của người tu hành.
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Tư-đà-hàm có thể nghĩ rằng mình đắc quả Tư-đà-hàm chăng?
Tu-bồ-đề nói : –Không, thưa Thế Tôn ! Bởi vì sao, vì Tư-đà-hàm nghĩa là một lần qua lại, nhưng chẳng qua lại đâu cả, đó là Tư-đà-hàm.”
Tư-đà-hàm ( Sakṛd-āgāmin ) tiếng Trung Hoa dịch là Nhất vãng lai, xả bỏ sự ràng buộc trong ba cõi, phiền não trói buộc trong ba cõi đã hết, nên gọi là Tư-đà-hàm. Tư-đà-hàm là Nhất vãng lai, tức một lần qua lại từ cõi trời sinh về nhân gian, rồi từ nhân gian sinh lên cõi trời, cuối cùng ra khỏi sinh tử. Hết nghiệp trong ba cõi gọi là Tư-đà-hàm. Tư-đà-hàm theo quan điểm Đại thừa là mắt thấy các cảnh, tâm có một sinh một diệt, không có sinh diệt lần thứ hai, nên gọi là một lần qua lại. Niệm trước khởi vọng, niệm sau liền dứt, niệm trước có chấp, niệm sau liền lìa bỏ, nên thật sự không có qua lại.
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? A-na-hàm có thể nghĩ rằng mình đắc quả A-na-hàm chăng?
Tu-bồ-đề nói : –Không, thưa Thế Tôn ! Bởi vì sao ? Vì A-na-hàm nghĩa là không trở lại, nhưng thật chẳng có gì gọi là không trở lại, đó gọi là A-na-hàm.”
A-na-hàm ( Anāgāmin ) tiếng Trung Hoa dịch là Bất hoàn, cũng gọi Xuất dục. Xuất dục nghĩa là ra khỏi sự ham muốn, ngoài không thấy có cảnh đáng ham muốn, trong không có tâm ham muốn. Nhất định không đến Dục giới thụ sinh, nên gọi là không trở lại, và thật sự không có trở lại, cũng không trở về. Vì vĩnh viễn đã hết tham dục tập khí, quyết định không trở lại thụ sinh, nên gọi là A-na-hàm.
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? A-la-hán có thể nghĩ rằng mình được đạo quả A-la-hán chăng?
Tu-bồ-đề nói : –Không, thưa Thế Tôn ! “
Các lậu đã hết không còn phiền não gọi là A-la-hán. A-la-hán vĩnh viễn hết phiền não. Đối với vật gì cũng không tranh chấp. Nếu có ý nghĩ đắc quả tức còn tâm tranh chấp.
“Bởi vì sao ? Vì thật ra không có một pháp nào được gọi là A-la-hán. Thưa Thế Tôn ! Nếu A-la-hán có ý nghĩ rằng mình được đạo quả A-la-hán, tức là chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả.”
A-la-hán ( Arhat ) tiếng Trung Hoa dịch là Vô tránh, nghĩa là không tranh, không còn phiền não để dứt trừ, không còn tham sân để lìa bỏ, tính không nghịch thuận, tâm cảnh đều không, trong ngoài thường vắng lặng. Nếu còn có tâm niệm đắc quả, tức đồng với phàm phu, cho nên nói : Không.
“–Thưa Thế Tôn ! Phật nói con được Vô tránh Tam-muội, đứng đầu trong các người, là A-la-hán lìa dục bậc nhất. Nhưng thưa Thế Tôn ! Con không có ý nghĩ như vậy, con không cho rằng mình là A-la-hán lìa dục.”
Thế nào là Vô tránh Tam-muội ? Nghĩa là A-la-hán thì tâm không sinh diệt đến hay đi, chỉ có bản giác thường chiếu nên gọi Vô tránh Tam-muội.
Tam-muội ( Samādhi ) đây gọi là chính thụ, cũng gọi chính kiến. Xa lìa 95 thứ tà kiến là chính kiến. Nhưng trong không trung, cũng có tranh tối tranh sáng, trong tính cũng có tranh nhau chính tà. Mỗi niệm mỗi niệm thường chính, không một niệm có tâm tà, tức là Vô tránh Tam-muội. Tu Tam-muội này là đứng nhất trong các người. Nếu có một tâm niệmđắc quả, tức không phải Vô tránh Tam-muội.
“Thưa Thế Tôn ! Nếu con nghĩ rằng mình được đạo quả A-la-hán thì Thế Tôn đã không bảo rằng Tu-bồ-đề là người thích hạnh A-lan-nhã. Bởi Tu-bồ-đề thật chẳng có gì là sở hành cả, vì vậy mà Tu-bồ-đề được gọi là thích hạnh A-lan-nhã.”
Tiếng Phạn A-lan-nhã ( Araṇya ) tiếng Trung Hoa là Vô tránh hạnh, hạnh không tranh là hạnh thanh tịnh. Hạnh thanh tịnh là trừ bỏ cái tâm cho rằng có chứng đắc. Nếu còn tâm chứng đắc, tức còn tranh chấp. Có tranh chấp là không phải đạo thanh tịnh. Thường được cái tâm không sở đắc, thì đó là hạnh không tranh chấp.
10- Trang nghiêm Tịnh độ
“Phật bảo Tu-bồ-đề : Ý ông nghĩ sao ? Xưa Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng có được pháp gì chăng ?
–Không, thưa Thế Tôn ! Xưa Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng thật không được pháp gì cả.”
Phật sợ Tu-bồ-đề có tâm niệm đắc pháp, nên Phật trừ nghi bằng câu hỏi như vậy. Tu-bồ-đề biết pháp là vô sở đắc nên bạch Phật : Không. Phật Nhiên Đăng là vị thầy thụ ký cho Phật Thích-ca, nên đức Thế Tôn hỏi Tu-bồ-đề : Ta có đắc pháp gì nơi thầy ta không ? Tu-bồ-đề liền thưa rằng nhờ thầy khai thị nhưng kỳ thật không có gì là sở đắc. Chỉ có tỏ ngộ tự tính vốn thanh tịnh, vốn không trần lao, tịch nhiên thường chiếu, là tự thành Phật. Nên biết rằng Thế Tôn khi ở nơi Phật Nhiên Đăng, thật sự không có gì là sở đắc. Giáo pháp của Như Lai như ánh sáng mặt trời thường chiếu soi, không có giới hạn nhưng không thể bắt lấy.
“Tu-bồ-đề ! Ý ông nghĩ sao ? Bồ-tát có làm cho cõi Phật trang nghiêm không?
–Không, thưa Thế Tôn ! Bởi vì sao ? Vì nói trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm, thế mới là trang nghiêm.”
Cõi Phật là thanh tịnh, không hình không tướng, có cái gì có thể làm cho trang nghiêm ? Chỉ dùng vật báu tạm gọi là trang nghiêm. Nói về sự lý, có ba điều trang nghiêm : Thứ nhất trang nghiêm cõi Phật ở thế gian là cất chùa, chép kinh, bố thí cúng dường. Thứ hai trang nghiêm thân Phật là thấy tất cả mọi người đều tôn trọng cung kính. Thứ ba trang nghiêm tâm Phật là tâm thanh tịnh tức cõi Phật thanh tịnh, mỗi niệm mỗi niệm thường thực hành tâm Phật.
“Bởi vậy, Tu-bồ-đề ! Chư Bồ-tát Ma-ha-tát nên sinh tâm thanh tịnh như vậy. Không nên sinh tâm ở sắc , không nên sinh tâm ở thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nên sinh tâm ở nơi không trụ một chỗ nào.”
Người tu hành không nên bàn chuyện thị phi của người khác. Tự nói ta có khả năng, ta hiểu rõ, đem tâm khinh chê người chưa học, đó không phải tâm thanh tịnh. Tự tính thường sinh trí tuệ, tâm từ bi bình đẳng, tôn trọng tất cả chúng sinh, đó là tâm thanh tịnh của người tu hành.
Nếu không thanh tịnh tâm mình mà yêu đắm nơi thanh tịnh, tức là tâm có chỗ dừng lại. Như vậy là chấp trước pháp tướng. Thấy sắc chấp trước sắc, sinh tâm nơi sắc là người mê. Thấy sắc lìa sắc, không sinh tâm nơi sắc là người ngộ. Trụ ở sắc mà sinh tâm như mây che trời, không trụ sắc sinh tâm như trời quang mây tạnh, mặt trời mặt trăng thường chiếu sáng. Trụ sắc sinh tâm là vọng niệm, không trụ sắc sinh tâm là chân trí. Vọng niệm sinh thì tối, chân trí chiếu thì sáng. Sáng suốt thì phiền não không sinh, mê mờ thì sáu trần đua nhau nổi dậy.
“Tu-bồ-đề ! Ví như có người thân hình như núi chúa Tu-di, ý ông nghĩ sao, thân ấy lớn không?
Tu-bồ-đề nói : –Rất lớn, thưa Thế Tôn. Bởi vi sao ? Vì Phật nói chẳng phải thân mới là thân to lớn.”
Sắc thân dầu lớn mà tâm lượng bên trong nhỏ hẹp, không gọi là thân lớn. Tâm lượng to rộng như hư không mới gọi là thân lớn. Sắc thân cao to như núi Tu-di cũng chẳng cho là to lớn.
11- Phúc vô vi vượt trội
“Tu-bồ-đề ! Giả sử có số sông Hằng nhiều như cát của sông Hằng, ý ông nghĩ sao, cát của những sông Hằng ấy nhiều không ?
Tu-bồ-đề nói : –Rất nhiều, thưa Thế Tôn ! Chỉ mỗi số lượng sông Hằng đã là vô số, huống chi số cát của những sông Hằng ấy.
Tu-bồ-đề ! Hôm nay ta bảo cho ông một sự thật : Nếu có thiện nam thiện nữ đem bảy báu đầy cả số ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như số cát những sông Hằng kia, dùng để bố thí, sẽ được phúc nhiều chăng?
Tu-bồ-đề nói : -Rất nhiều, thưa Thế Tôn !
Phật bảo Tu-bồ-đề : Nếu có thiện nam thiện nữ thụ trì cho dầu bốn câu kệ trong kinh này và giảng nói cho người khác, phúc đức này hơn cả phúc đức trước.”
Bố thí bảy báu được phúc báo giàu sang trong ba cõi. Giảng thuyết kinh điển Đại thừa khiến người nghe phát sinh trí tuệ lớn, thành tựu đạo vô thượng. Phải biết phúc đức của sự thụ trì hơn phúc đức bố thí bảy báu .

« Kinh này có tổng cộng 2 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Chuyện Vãng Sanh - Tập 2


Lược sử Phật giáo


Bát-nhã Tâm kinh Khảo luận


Nghệ thuật chết

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.140.198.3 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập