Người Cư Sĩ          [ Trở Về         [Trang Chủ]


Ðại Tạng No. 1451

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ
- Mùla-Sarvàstivàda -

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ
- Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu -
(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)

Hán dịch: Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Ðường, Trung Quốc
Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998

 
Thành kính đảnh lễ đức Thế Tôn, Ngài là bậc Ứng Cúng, Ðấng Chánh Biến Tri.

Quyển thứ ba mươi bảy

--- ooOoo ---

Tiếp theo nhiếp tụng mười trong biệt môn tám 

(Thuyết minh bốn pháp đen, bốn pháp trắng, bốn hạng Sa-môn và ra khỏi thành Quảng Nghiêm đi về chỗ Niết Bàn)

Thế Tôn bảo A Nan Ðà:

- Như vậy nên biết sự dạy bảo có chân ngụy, kể từ hôm nay nên y vào kinh pháp chớ y theo người. Thế nào là y vào kinh pháp chứ không y theo người? Nếu có Bí-sô đến nói thế này:

- Cụ thọ! Ðích thân tôi nghe, ghi nhớ và thọ trì lời này từ đức Như Lai; đây là Kinh điển, đây là luật giáo; đây là lời Phật dạy. Khi nghe vị Bí-sô ấy nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy lắng nghe lời ấy và ghi nhớ rõ từng câu, rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong Kinh văn và Luật giáo. Nếu lời vị ấy nói trái với Kinh Luật, nên bảo vị ấy rằng:

- Này cụ thọ! Lời thầy nói không đúng lời Phật. Ðiều thầy chấp nhận là sai lầm không đúng Kinh Luật, cần phải từ bỏ.

Lại nữa, này A Nan Ðà, nếu có Bí-sô đến nói thế này:

- Tôi thấy ở trú xứ ... có đại chúng, toàn là bậc kỳ túc thông thạo Luật Tạng. Tại đó, chính tôi được nghe và ghi nhớ lời nói như vậy đều phù hợp với Kinh Luật, đúng là lời Phật dạy.

Khi nghe người kia nói như vậy, Bí-sô này không nên khen ngợi hay chê bai, hãy lắng nghe lời ấy và nhớ rõ từng câu, rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong Kinh văn và Luật giáo. Nếu lời vị ấy nói trái với Kinh Luật, nên bảo vị ấy rằng:

- Này cụ thọ! Lời thầy nói không đúng lời Phật. Ðiều thầy chấp nhận là sai lầm không đúng Kinh Luật, cần phải từ bỏ.

Lại nữa, này A Nan Ðà! Bí-sô nào đến nói thế này:- Cụ thọ! Ở trú xứ kia, tôi thấy có nhiều chúng Bí-sô đều là bậc trì Kinh, trì Luật, trì Luận. Tại đó, chính tôi được nghe và ghi nhớ lời nói thế này, đều đúng Kinh Luật phù hợp lời Phật dạy.

Khi nghe người ấy nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy lắng nghe lời ấy và ghi nhớ rõ từng câu, rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong Kinh văn và Luật giáo. Nếu lời vị ấy nói trái với Kinh Luật, nên bảo vị ấy rằng:

- Này cụ thọ! Lời thầy nói không đúng lời Phật. Ðiều thầy chấp nhận là sai lầm không đúng Kinh Luật, cần phải từ bỏ.

Lại nữa, này A Nan Ðà! Bí-sô nào đến nói thế này:

- Cụ thọ! Ở trú xứ kia, tôi thấy có một Bí-sô là bậc tôn túc trí tuệ. Tại đó, chính tôi được nghe và ghi nhớ lời nói thế này, đều đúng Kinh Luật phù hợp lời Phật dạy.

Khi nghe người ấy nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy lắng nghe lời ấy và ghi nhớ rõ từng câu, rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong Kinh văn và Luật giáo. Nếu lời vị ấy nói trái với Kinh Luật, nên bảo vị ấy rằng:

- Này cụ thọ! Lời thầy nói không đúng lời Phật. Ðiều thầy chấp nhận là sai lầm không đúng Kinh Luật, cần phải từ bỏ.

Lại nữa, này A Nan Ðà! Bí-sô nào đến nói thế này:

- Cụ thọ! Ở trú xứ kia, tôi thấy có nhiều chúng Bí-sô đều là bậc trì Kinh, trì Luật, trì Luận. Tại đó, chính tôi được nghe và ghi nhớ lời nói thế này, đều đúng Kinh Luật phù hợp lời Phật dạy.

Khi nghe người ấy nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy lắng nghe lời ấy và ghi nhớ rõ từng câu, rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong Kinh văn và Luật giáo. Nếu lời vị ấy nói trái với kinh luật, nên bảo vị ấy rằng:

- Này cụ thọ! Lời thầy nói không đúng lời Phật. Ðiều thầy chấp nhận là sai lầm không đúng Kinh Luật, cần phải từ bỏ.

Nếu có Bí-sô đến nói thế này:

- Cụ thọ! Ðích thân tôi nghe, ghi nhớ và thọ trì lời này từ đức Như Lai đây là Kinh điển, đây là Luật giáo; đây là lời Phật dạy. Khi nghe vị Bí-sô ấy nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy lắng nghe lời ấy và ghi nhớ rõ từng câu, rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong Kinh văn và Luật giáo. Nếu lời vị ấy nói đúng với Kinh Luật, nên bảo vị ấy rằng:

- Này cụ thọ! Lời thầy nói đúng với lời Phật. Ðiều thầy chấp nhận là hoàn toàn đúng Kinh Luật, cần phải thọ trì.

Lại nữa, này A Nan Ðà! Nếu có Bí-sô đến nói thế này:

- Tôi thấy ở trú xứ ... có đại chúng, toàn là bậc kỳ túc thông thạo Luật tạng. Tại đó, chính tôi được nghe và ghi nhớ lời nói như vầy đều phù hợp với Kinh Luật, đúng là lời Phật dạy.

Khi nghe người kia nói như vậy, Bí-sô này không nên khen ngợi hay chê bai, hãy lắng nghe lời ấy và nhớ rõ từng câu, rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong Kinh văn và Luật giáo. Nếu lời vị ấy nói đúng với Kinh Luật, nên bảo vị ấy rằng:

- Này cụ thọ! Lời thầy nói đúng với lời Phật. Ðiều thầy chấp nhận hoàn toàn đúng Kinh Luật, cần phải thọ trì.

Lại nữa, này A Nan Ðà! Bí-sô nào đến nói thế này:

- Cụ thọ! Ở trú xứ kia, tôi thấy có nhiều chúng Bí-sô đều là bậc trì Kinh, trì Luật, trì Luận. Tại đó, chính tôi được nghe và ghi nhớ lời nói thế này, đều đúng Kinh luật phù hợp lời Phật dạy.

Khi nghe người ấy nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy lắng nghe lời ấy và ghi nhớ rõ từng câu, rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong Kinh văn và Luật giáo. Nếu lời vị ấy nói đúng với Kinh Luật, nên bảo vị ấy rằng:

- Này cụ thọ! Lời thầy nói đúng với lời Phật. Ðiều thầy chấp nhận hoàn đúng Kinh Luật, cần phải thọ trì.

Lại nữa, này A Nan Ðà! Bí-sô nào đến nói thế này:

- Cụ thọ! Ở trú xứ kia, tôi thấy có một Bí-sô là bậc tôn túc trí tuệ. Tại đó, chính tôi được nghe và ghi nhớ lời nói thế này, đều đúng Kinh Luật phù hợp lời Phật dạy. Khi nghe người ấy nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy lắng nghe lời ấy và ghi nhớ rõ từng câu, rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong Kinh văn và Luật giáo. Nếu lời vị ấy nói đúng với Kinh Luật, nên bảo vị ấy rằng:

- Này cụ thọ! Lời thầy nói đúng với lời Phật. Ðiều thầy chấp nhận là hoàn toàn đúng Kinh Luật, cần phải thọ trì.

Này A Nan Ðà! Bốn trường hợp đầu, gọi là lời nói rất đen tối. Các Bí-sô hãy khéo tư duy, quán sát thật kỹ, biết rõ đó là ác, không phải là Kinh, đây không phải là Luật, không phải lời Phật dạy, cần phải từ bỏ. Bốn trường hợp sau, gọi là lời nói rất minh bạch. Các Bí-sô hãy khéo tư duy, quán sát thật kỹ, biết rõ đó là thiện, đúng là Kinh, đúng là Luật, đúng là lời Phật dạy, cần phải khéo thọ trì. - Này A Nan Ðà! Ðây là Bí-sô y vào Kinh giáo không y theo người; nên học như vậy. Nếu khác như thế này thì không phải lời dạy của Ta.

Thế tôn bảo A Nan Ðà:

- Ta muốn đến tụ lạc Ba Ba (nghĩa là tội ác).

Ðáp:

- Xin vâng.

Muốn đi về thành Câu Thi Na, vùng đất Tráng Sĩ, Thế Tôn đi dần đến thôn Ba Ba, trú nơi rừng Triết Lộc Ca. Nghe như vậy, mọi người bảo nhau cùng ra khỏi thôn Ba La đến gặp đức Phật. Ðến nơi, họ lạy sát chân Ngài rồi ngồi qua một bên. Ðức Phật thuyết pháp chỉ dạy làm cho họ lợi ích hoan hỷ. Trong chúng này có con người thợ rèn tên Chuẩn Ðà cũng đang ngồi nghe pháp. Sau khi nghe pháp xong, mọi người từ giã Phật, ra về.

Rời khỏi chỗ ngồi, Chuẩn Ðà sửa y phục chắp tay bạch Phật:

- Thế Tôn! Cầu mong Như Lai và Thánh chúng đến nhà con nhận bữa cúng dường đạm bạc vào ngày mai.

Phật im lặng nhận lời.

Biết Phật im lặng nhận lời, Chuẩn Ðà rất hoan hỷ từ giã ra về. Sau khi dọn các món thức ăn thơm ngon hảo hạng, bố trí chỗ ngồi, nước sạch, bột rửa, cây chà răng, Chuẩn Ðà sai sứ đến bạch Phật:

- Thức ăn đã dọn xong, xin Phật định liệu.

Vào sáng sớm, Thế Tôn mặc y mang bát cùng đại chúng đến chỗ thọ trai và an tọa. Thấy mọi người đã an tọa, Chuẩn Ðà đích thân dâng các món cúng dường lên Phật và Thánh-chúng.

Khi ấy có một Bí-sô xấu ác lén lấy cái chén đồng dấu vào dưới nách. Phật dùng thần lực làm cho mọi người không thấy việc phi pháp ấy ngoại trừ Ngài và Chuẩn Ðà. Biết Phật và Tăng đã thọ trai xong, Chuẩn Ðà dọn nước sạch, bột rửa, cây xỉa răng. Sau khi Phật và Tăng thu xếp bát và súc miệng xong, Chuẩn Ðà đặt một chỗ ngồi nhỏ trước Phật và nói kệ thỉnh Phật:

Con nghe Như Lai Nhất-thiết-trí,
Ðã qua bờ kia, hết vô-minh,
Ðạo-sư Tối-thắng bậc Ðiều-ngự,
Xin dạy có mấy hạng sa-môn?
Thế tôn nói kệ đáp:
Bốn hạng Sa-môn, không có năm,
Tuần tự, Ta sẽ dạy cho ông.
Ðó là Thắng-đạo và Thị-đạo,
Tịnh-đạo nuôi sống và Ô-đạo.
Chuẩn Ðà lại hỏi:
Thưa Ngài, thế nào là Thắng-đạo?
Với ý nghĩa gì gọi Thị-đạo?
Tịnh-đạo nuôi sống có nghĩa gì?
Và xin giảng rõ về Ô-đạo.
Thế tôn nói kệ:
Bẻ gãy tên nghi, hết phiền não,
Chỉ cầu viên-tịch, chẳng muốn gì,
Là bậc đạo-sư của trời người,
Hạng này chư Phật gọi Thắng-đạo.

Hiểu rõ ý nghĩa pháp tối thắng,
Phương tiện giảng rõ pháp vi-diệu,
Của đức Mâu-Ny phá lưới nghi,
Ðây là thứ hai: Thầy Thị-đạo,

Ai giỏi trình bày được pháp-cú,
Y theo giáo pháp sống thiểu dục,
Tu tập trọn vẹn pháp và luật,
Là hạng thứ ba sống Tịnh-đạo.
 

Mặc y giải thoát của sa-môn,
Gây xấu nhà người, không hổ thẹn,
Dối trá, không nói lời chân thật,
Là hạng thứ tư: Người Ô-đạo.

Ðối với chúng Thanh-văn chân pháp,
Những người tại gia nên xét kỹ,
Ðệ tử của Ta không như nhau,
Thế nên cần phải có chánh tín.

Vì sao vô-tội sống với tội,
Tịnh và bất tịnh ở một nơi?
Do kẻ ngu kia làm điều ác,
Làm cho bậc thiện phải nghi ngờ.

Gặp người chớ tin theo bề ngoài,
Sống chung một lúc thì giúp đỡ,
Kẻ nhiều hiểm ác giả đàng hoàng,
Thường sống dối trá trong thế gian,
Như vòng đeo tai mạ ít vàng,
Bên trong bằng đồng, không giá trị,
Trong giả, bên ngoài giống như thật,
Nhận nhiều môn đồ, loạn người thiện.

Thấy con người thợ rèn dọn thức ăn xong, Thế Tôn nói kệ chúc phước:
Ai cho, phước tăng trưởng,
Oán thù đều chấm dứt,
Ðoạn trừ được điều ác,
Hết hoặc, chứng Niết-bàn.
Sau khi thuyết pháp làm cho gia chủ lợi ích hoan hỷ, Thế Tôn đứng dậy từ giã.

Nội nhiếp tụng:

Phật xuất Quảng-Nghiêm Tây,
Hồi cố, vọng thành quách,
Kinh du thập tụ lạc,
Tối hậu chí Ba-ba.
Bấy giờ, Thế tôn bảo A Nan Ðà:

- Ta muốn đi đến thành Câu Thi Na.

Nghe Phật bảo, A Nan Ðà theo sau Phật đi về thôn Ba ba. Chưa đến sông Kim, nữa đường Thế Tôn tạm nghỉ lại, bảo A Nan Ðà:

- Ta đang đau lưng, hãy xếp y Ôn-đản-la-tăng-già của Ta làm bốn để Ta nằm nghỉ.

Nghe lời Phật dạy, tôn giả A Nan Ðà vội xếp y và thưa lại với Phật xin Ngài định liệu. Khi ấy, Thế Tôn xếp y Tăng-già-chi để gối đầu, nằm nghiêng qua bên phải, gác hai chân lên nhau, tưởng đến ánh sáng, an trú trong chánh niệm, nghĩ đến lúc sẽ thức dậy. Tác ý như thế rồi, Thế Tôn bảo A Nan Ðà:

- Ông hãy đến sông Khước Câu Ða lấy một bát nước đầy. Ta muốn uống nước và lau thân thể.

Khi A Nan Ðà mang bát đến bờ sông kia thì trước đó có năm trăm chiếc xe vừa vượt qua sông làm cho nước bị đục ngầu. Lấy nước đầy bát, đem về chỗ Phật, tôn giả thưa:

- Ðại đức! Có năm trăm chiếc xe vừa vượt qua sông này nên nước bị đục ngầu. Xin Thế Tôn dùng rửa tay chân chứ không nên uống. Sông Kim gần đây, có nước trong sạch.

Ðức Phật dùng nước này rửa chân, lau mặt. Thân thể vừa an ổn, Ngài liền ngồi dậy kiết già, ngồi thẳng chánh niệm tỉnh giác.

Có một đại-thần tráng sĩ tên Viên Mãn đi qua nơi này. Thấy đức Phật Thế Tôn đang ngồi dưới gốc cây với uy nghi nghiêm trang rất ưa nhìn, thân tâm tịch tịnh rất nhu hòa như lá phướng vàng xinh đẹp sáng chói rực rỡ, ông ta đến làm lễ sát hai chân Ngài rồi ngồi qua một bên. Phật hỏi:

- Ông ưa thích pháp thanh tịnh của Sa-môn hay pháp của Bà-la-môn?

Ðại thần đáp:

- Ðại đức, con ưa thích tịnh pháp của Ca La Ma.

Phật hỏi:

- Vì sao ông ưa thích tịnh pháp ấy?

Ðáp:

- Ðại đức! Một hôm đang đi, Ca Ma La nghỉ lại dưới gốc cây bên đường. Có năm trăm chiếc xe đi ngang qua chỗ ấy.

Một lúc sau, có người đến đó, hỏi vị ấy:

- Vừa rồi, ngài có thấy năm trăm chiếc xe đi qua đây không?

Ðáp:

- Không thấy.

Hỏi:

- Có nghe tiếng không?

Ðáp:

- Không nghe.

Hỏi:

- Hay là ngài đang ngủ?

Ðáp:

- Không ngủ.

Hỏi:

- Nếu không ngủ, năm trăm chiếc xe đi qua đây sao ngài không nghe thấy?

Ðáp:

- Tôi không ngủ say, tâm luôn luôn thức tỉnh nhưng nhờ vào định lực nên không thấy nghe.

Nghe như vậy, người kia suy nghĩ:

- Bậc thượng nhân hiếm có chú tâm tịch tịnh như vậy.

Lại nữa, khi xe chạy qua ồn ào kinh động, bụi bay mù mịt phủ đầy cả thân thể y phục nhưng vị ấy cũng không biết. Thế nên, con có lòng tin thanh tịnh và ưa mến pháp ấy.

Phật bảo đại thần:

- Ngài nghĩ sao, tiếng động do năm trăm chiếc xe chạy so với tiếng sấm trong không trung, tiếng nào lớn hơn?

Thưa:

- Ðại đức, chẳng những tiếng vang động của năm trăm chiếc xe mà đến trăm ngàn vạn chiếc đi nữa cũng làm sao so được với tiếng sấm.

Phật bảo:

- Này đại thần, trước đây ở trong giảng đường Trùng Các tại tụ lạc này, vào sáng sớm Ta mặc y mang bát vào làng khất thực, sau khi thọ trai, thu xếp y bát, rửa chân xong, vào ngồi thiền định trong giảng đường. Bỗng nhiên trời nổi sấm, phát tiếng sét lớn. Khi ấy, bốn con bò, hai người nông phu và hai anh em con trưởng giả nghe tiếng sét ấy, sợ hãi đến nỗi cùng bỏ mạng. Nhân dân trong thành kêu la vang động. Bấy giờ, sau khi xuất thiền, Ta ra khỏi giảng đường và đi kinh hành. Có một người ra ngoài thành đến chỗ Ta, làm lễ sát chân và đi kinh hành theo Ta. Ta hỏi:

- Vì sao trong thành kêu la vang dậy như thế?

Thưa:

- Vừa rồi, bỗng nhiên trời nỗi sấm, giáng sét lớn ở trong thành, làm cho bốn con bò, hai nông phu và hai anh em con trưởng giả vì quá sợ hãi nên bỏ mạng, cho nên trong thành vang động tiếng ồn.

Người ấy hỏi Ta:

- Ðại đức, chẳng lẽ Ngài không nghe tiếng sấm lớn ư?

- Ta không nghe.

Thưa:

- Thế Tôn đang ngủ phải không?

- Ta không ngủ, bên trong tỉnh giác nhưng không nghe bên ngoài.

Ðại thần suy nghĩ:

- Lạ thay, đức Như Lai Ưùng Cúng Chánh-Ðẳng Giác sống thật an tịnh, tiếng sấm lớn như thế mà Ngài không nghe, làm cho ta phát tâm tịnh tín.

Nghe xong, Viên Mãn bạch Phật:

- Ðại đức, đối với Phật như vậy làm sao không kính tín! Hiện nay con đã có lòng tin sâu xa thanh tịnh với Ngài.

Viên Mãn bảo sứ giả:

- Ngươi hãy lấy tấm vải mới tinh mềm mại thượng hạng màu hoàng kim của ta, để dâng lên đắp cho Thế Tôn.

Sứ giả mang đến, Viên Mãn bạch Phật:

- Thế tôn! Ðây là tấm vải mới thượng hạng màu hoàng kim, xin Ngài thương con mà nhận cho.

Ðể cho ông ta được lợi ích nên Thế Tôn nhận lấy. Viên Mãn lại nói:

- Ðại đức Thế Tôn! Con lại muốn cúng dường Phật và Tăng, xin Ngài chấp nhận.

Phật bảo:

- Ðấy là việc tốt.

Thấy Phật nhận lời, Viên Mãn vui mừng lạy sát chân Phật rồi từ giã.

Phật bảo cụ thọ A Nan Ðà:

- Ông hãy cắt rọc tấm vải vàng này, Ta muốn đắp.

Vâng lời Phật dạy, A Nan Ðà dùng dao cắt rọc tấm vải rồi đem dâng lên Phật. Khi Phật đắp lên, ánh sáng trên thân Ngài rực rỡ che khuất cả màu sắc tấm vải. A Nan Ðà bạch Phật:

- Con theo hầu Phật đã hơn 20 năm, chưa bao giờ thấy dung nhan của Ngài chiếu sáng rực rỡ như vậy. Vì sao ánh sáng phi thường này xuất hiện như vậy?

Phật bảo A Nan Ðà:

- Có hai trường hợp hiện ra ánh sáng như vậy khác với ngày thường. Ðó là:

Một: Vào đêm Bồ-tát chứng quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Hai: Vào đêm Như Lai nhập Vô-dư Ðại Niết Bàn.
Tướng trạng thù thắng này hiện ra vào hai lúc ấy.

- Này A Nan Ðà! Ta muốn đến sông Kim.

Nghe Phật dạy, A Nan Ðà theo Phật đến sông ấy. Ðến nơi, cổi y để trên bờ, Phật mặc y tắm xuống sông tắm rồi lên bờ lau sạch thân thể, bảo A Nan Ðà:

- Chắc Chuẩn Ðà sẽ hối hận, thầy hãy an ủi ông ấy với lời lẽ: "Này Chuẩn Ðà: Ông đang được nhiều lợi ích tốt đẹp vì đã cúng dường đức Ðại-sư vào lần sau cùng và nhận bữa cúng dường này xong, Phật sẽ nhập Vô-dư Niết-bàn; việc này thật khó gặp". Vì hai lý do ấy, Chuẩn Ðà sinh hối hận, nên giải thích cho ông ta:

- Này Chuẩn-đà, tôi đích thân nghe Phật dạy thế này, có hai trường hợp nhận cúng dường làm cho người cho được phước vô cùng. Một là khi Bồ-tát nhận bữa ăn cúng dường xong thì chứng Vô-thượng Chánh Ðẳng Giác. Hai là khi Như Lai nhận bữa ăn cuối cùng xong thì nhập Vô-dư Niết-bàn.

- Này A Nan Ðà! Hai trường hợp cúng dường này được quả báo vô cùng.

- Này A Nan Ðà! Chuẩn Ðà sẽ được hai thiện nghiệp sống lâu nhiều sức khỏe, tuấn tú, được sinh thiên, tài sản, thức ăn, giàu sang, thân thuộc đều phát triển.

Cụ thọ A Nan Ðà bạch Phật:

- Thế Tôn! Bí-sô Xiển Ðà tâm tính hung ác, sân hận, bừa bãi, thường không tùy thuận các Bí-sô mà còn phát ngôn hung dữ. Sau khi Phật diệt độ, cộng trú với vị ấy như thế nào?

Phật bảo:

- Này A Nan Ðà! Sau khi Ta diệt độ, Bí-sô nên trị ác tính của Xiển Ðà bằng cách Mặc-tẫn. Khi bị trị phạt như vậy, nếu đại chúng biết ông ấy hối hận, sinh tâm cung kính mong cầu hối cải, nên cùng nhau hoan hỷ, nói chuyện trở lại như cũ.

Thế Tôn lại bảo A Nan Ðà:

- Ta muốn đến thành Câu Thi Na.

Vâng lời, A Nan Ðà theo Phật đi đến xứ sở của Tráng Sĩ. Sau khi qua sông Kim, cách thành ấy không xa, nghỉ lại bên đường, Thế Tôn bảo A Nan Ðà:

- Ta đau lưng, thầy hãy xếp y Ôn-hằng-la-tăng-già làm bốn, Ta muốn nằm nghỉ.

Nghe Phật dạy, A Nan Ðà vội xếp y và thưa lại:

- Con đã làm xong, xin Phật định liệu.

Thế Tôn xếp y Tăng-già-chi gối đầu, nằm nghiêng bên phải ... như trước. Ngài bảo A Nan Ðà:

- Thầy hãy thuyết về pháp giác-phần.

A Nan Ðà thưa:

- Ðại đức Thế Tôn đã tự chứng, tự giác giác phần này và dạy cho con:

- Y vào yên tịnh, y vào ly dục, y vào tịch diệt mà đoạn trừ các ngoại duyên, chuyên cần tu tập Niệm, Trạch-pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh-an, Ðịnh, Xả giác phần. Pháp giác phần này, do Ðại đức Thế Tôn tự chứng, tự giác mà nói ra.

Phật bảo:

- Với bảy pháp giác phần mà thầy thuyết ra như vậy, nếu y vào yên tịnh ... mà tu tập nhiều, tinh cần tinh tấn, sẽ chứng đắc Vô-thượng Chánh-Ðẳng Bồ-đề.

Sau khi dạy như vậy, đức Phật ngồi dậy, chánh niệm tư duy ngồi thẳng.

Có Bí-sô nói kệ:

Thế Tôn tự khuyến khích,
Bảo nói pháp vi-diệu,
Hãy vì những người bệnh,
Nói bảy bồ-đề phần.

Thân Ðại-sư có bệnh,
Và vì Bí-sô bệnh,
Ðem pháp bảy Bồ-đề,
Diễn thuyết cho khai ngộ.

Lành thay, A Nan Ðà,
Ðã viên mãn pháp-trắng,
Thông minh có trí lớn,
Giỏi thuyết pháp của Phật.

Với Chánh-niệm, Trạch-pháp,
Tinh-tấn, Hỷ giác-phần,
Khinh-an và Ðịnh, Xả,
Giảng giải thật rõ ràng.
 

Vô-Thượng Ðiều-Ngự-Sư,
Ưa nghe pháp giác-phần,
Tuy thân có bệnh tật,
Vẫn nghe hết từng câu.
 

Phật là đấng vua pháp,
Ðủ khả năng hướng dẫn,
Mà còn tôn trọng pháp,
Huống chi những người khác.

Lại có những hiền Thánh,
Trong giáo pháp Mười-lực,
Giả sử thân bị bệnh,
Vẫn tinh tấn lắng nghe.

Hạng này giỏi trì Kinh,
Và thông suốt Luật, Luận,
Còn thích nghe chánh-pháp,
Người khác sao không nghe.

Pháp ly-nhiễm của Phật,
Nghe rồi làm đúng pháp,
Tinh cần chuyên niệm pháp,
Sẽ đắc được hỷ phần.

Do tâm đã có hỷ,
Làm thân này khinh an.
Do an nên lạc sinh,
Từ lạc sinh ra định.

Do diệu-định và xả,
Rõ các hành vô-thường,
Ðoạn sinh-y ba hữu,
Không sinh tâm nhiễm trước.

Nên hết khổ các hữu,
Không thích cõi trời người,
Chứng Niết-bàn Vô-thượng,
Như củi hết lửa tắt.

Ðại lợi ích như vậy,
Ðều từ nghe pháp sinh,
Nên khuyên người lâm chung,
Lắng nghe diệu-pháp này.

Thế Tôn bảo A Nan Ðà:

- Hãy lên đường đến thành Câu Thi Na.

A Nan Ðà vâng lời, theo sau Phật đi đến vùng đất Tráng Sĩ, ở tại rừng Sa La, sắp nhập Niết-bàn. Thế Tôn bảo A Nan Ðà:

- Thầy hãy bố trí chỗ nằm cho Ta giữa cây Song-thọ. Ở đó, Ta sẽ nằm hướng đầu về phía Bắc, vào nữa đêm nay Ta sẽ nhập Niết-bàn.

Sau khi thi hành theo đúng lời Phật dạy, A Nan Ðà đến gặp Thế Tôn, lạy sát chân Phật, đứng qua một bên bạch rằng:

- Con đã bố trí đúng lời Phật dạy.

Ðến chỗ nằm ấy, đức Như Lai nằm nghiêng bên phải, hai chân gác lên nhau, tưởng đến ánh sáng, tỉnh giác chánh niệm quán sát an trú vào tưởng Niết Bàn.

Khi ấy, đứng tựa vào sau lưng chỗ nằm của Phật, A Nan Ðà sụt sùi rơi nước mắt khóc lớn, nói:

- Ðau thay, khổ thay, vì sao Như Lai mau Niết Bàn như vậy, vì sao Thiện Thệ mau Niết Bàn như vậy, vì sao con mắt của thế gian diệt mau như vậy? Trước đây, mỗi khi các Bí-sô ở khắp nơi đến gặp Phật, được Ngài thuyết pháp đầu đuôi giữa đều thiện, văn và nghĩa vi diệu, thuần nhất viên mãn, tướng phạm hạnh thanh tịnh trong sạch. Nhân đó, ta được nghe pháp thâm diệu ấy. Hiện nay, nghe đức Phật đã nhập Niết-bàn, họ không còn đến nữa, làm cho diệu-pháp thù thắng như vậy chìm mất khỏi thế gian.

Phật hỏi các Bí-sô:

- A Nan Ðà đang ở đâu?

Ðáp:

- Thế Tôn! Tôn giả đang khóc lóc sau chỗ nằm của Thế Tôn, nói như thế này ... như trên ... diệu pháp thù thắng chìm mất khỏi thế gian.

Phật bảo A Nan Ðà:

- Thầy chớ ưu buồn áo não khóc lóc. Vì sao? Thầy đã phục vụ Như Lai, tạo nghiệp từ bi về thân nên được lợi ích lớn, chỉ riêng thân cũng đã được phước vô biên; tạo nghiệp từ bi về miệng và ý cũng được phước vô biên như vậy.

Này A Nan Ðà, chư Như Lai trong quá khứ đều có người thị giả cũng chỉ như là thầy đã chuyên tâm thị giả Ta. Chư Như Lai trong vị lai đều có người thị giả cũng chỉ như là thầy.

Này A Nan Ðà, tướng trạng thế gian đều vô thường, phải bị tan hoại không ngừng. Do sự thật đó, thầy không nên quá ư buồn bã khóc lóc khổ não. Ta không thấy một pháp nào do nhân duyên sinh trong thế gian mà thường trụ không bị hoại diệt. Ta đã từng dạy pháp yếu cho thầy: những sự việc gì khả ái vừa ý đều vô thường, phải biệt ly.

Thế Tôn ban bố lòng đại bi làm cho A Nan Ðà hoan hỷ, rồi Ngài bảo các Bí-sô:

- Chuyển Luân Thánh Vương thành tựu bốn việc hiếm có. Ðó là: - Khi đến gặp vua, những chúng Sát-lợi đều rất hoan hỷ; nghe được diệu-pháp lại thêm hoan hỷ. Cũng vậy, có chúng Bà-la-môn, chúng trưởng-giả, các chúng Sa-môn đến gặp vua ... như nói trên ... cho đến hoan hỷ. Các thầy nên biết, như bốn việc hiếm có của Chuyển Luân Thánh Vương, A Nan Ðà cũng có bốn việc hiếm có như vậy. Ðó là:

- Chúng Bí-sô ở bốn phương đến gặp thầy ấy đều hoan hỷ, nghe diệu pháp càng thêm hoan hỷ. Như vậy, các Bí-sô ny, cận sự nam, cận sự nữ đến gặp A Nan Ðà cũng rất hoan hỷ như vậy.

- Này các Bí-sô, A Nan Ðà lại có bốn việc kỳ diệu hiếm có. Ðó là: Khi thuyết pháp cho chúng Bí-sô, A Nan Ðà làm cho hiểu rõ không còn nghi ngờ. Chúng Bí-sô đều suy nghĩ: Lành thay, lành thay, A Nan Ðà hãy tuyên thuyết diệu pháp xin chớ im lặng, chớ từ chối vì mệt nhọc, vì những người nghe không thấy chán. Sau khi thuyết pháp, A Nan Ðà im lặng. Khi thuyết pháp cho Bí-sô ny, cận sự nam, nữ, A Nan Ðà cũng như vậy.

Nghe nói như vậy xong, A Nan Ðà vui vẻ bạch Phật:

- Thế Tôn! Trên đất này có sáu thành lớn, là Thất La Phạt, Bà Kê Ða, Chiêm Ba, Ba La Ny Tư, Quảng Nghiêm, Vương Xá, vì sao Thế Tôn bỏ qua những vùng đất nhiều phước với địa hình lớn đẹp mà đến vùng hoang dã cằn cỗi biên địa hạ liệt này để bát Niết-bàn?

Phật bảo A Nan Ðà:

- Ðừng nói thành Câu Thi Na là nơi biên địa hạ tiện không đáng ưa thích. Vì sao? - Này A Nan Ðà, ngày xưa, tại chỗ thành Câu Thi Na này có đô thành tên Câu Xa Phạt Ðể của Bậc Thánh Vương, an ổn phong phú, nhân dân thịnh vượng, dài 12 du-thiện-na, rộng 7 du-thiện-na. Thành có 7 lớp nhà làm tường bằng bốn loại báu vàng bạc lưu-ly thủy-tinh bao vây. Cửa thành cũng bằng bốn loại báu. Mỗi cửa đều có trụ lớn chạm hoa-văn bằng vật báu, cao bằng bảy người chồng lên. Hào ngoài thành sâu ba người rưỡi. Bờ hào xây bằng gạch báu. Theo trong bảy lớp nhà làm tường, đều có trồng cây đa-la bằng bốn loại báu. Cây đa-la vàng trang sức cành lá hoa quả bằng bạc. Cây bằng bạc có trang trí bằng vàng. Cây bằng lưu-ly có trang sức bằng thủy tinh. Cây thủy tinh trang sức bằng lưu-ly. Khi các cây này bị gió lay động, phát ra âm thanh rất hay thích ý mọi người. Giữa những hàng cây này, có ao tắm, các bậc cấp đi xuống đều bằng bốn loại báu. Lan can bốn bên đều bằng bốn loại báu. Trong ao có nhiều loại hoa khả ái như sen vàng, sen xanh, sen đỏ, sen trắng, hoa rất mềm, hoa rất thơm, hoa thường tươi. Những hoa này không ai quản lý, mọi người xử dụng tùy ý. Bên bờ ao lại có hoa chiêm-bát-ca, hoa ma-lị-ca, hoa mỹ-ý. Những loại hoa ấy đều nở theo mùa.

- Này A Nan Ðà! Trong rừng có nhiều cô gái đẹp trang sức nhiều chuỗi ngọc, du ngoạn tùy ý, được cung cấp các loại ăn uống tùy theo nhu cầu. Trong thành này, những người ham thích năm dục lạc du ngoạn trong rừng này, đều toại ý.

Lại thường có các loại âm nhạc, trống, tiêu sáo, ca múa phát ra những âm thanh rất hay khuyến khích về việc tu tập các phước nghiệp, giữ trai giới.

Lại nữa, này A Nan Ðà, trong thành ấy, có vua hiệu Ðại Thiện Kiến, đầy đủ bảy báu và bốn việc hiếm có. Ðó là Luân Bảo, Tượng Bảo, Mã Bảo, Châu Bảo, Nữ Bảo, Chủ Tàng Bảo, Binh Bảo. Bốn việc hiếm có của vua là:

Một: Vua sống rất lâu, đầu tiên làm vương tử, lên làm thái tử, rồi lên ngôi vua, sau cùng tu tập phạm hạnh. Mỗi một giai đoạn này kéo dài tám vạn bốn ngàn năm.
Hai: Tướng mạo nhà vua rất tuấn tú phi phàm.
Ba: Vua ít bệnh, luôn an vui, sự ăn uống thích hợp, đúng lúc.
Bốn: Nhân dân trung hiếu với vua tưởng như cha mẹ mình. Vua cũng thương yêu dân như con đỏ. Khi cỡi xe đi ra ngoài, vua ra lệnh cho người hầu:
- Ông hãy cho xe đi từ từ để dân chúng được thấy ta. Ð?i với thường dân, vua luôn thương yêu. Này A Nan Ðà! Bấy giờ dân trong nước mang các loại báu như vàng, bạc, ma-ny đến thưa với vua:

- Ðại vương, thần có vật báu này, xin dâng đại vương, mong ngài thương xót nhận cho.

Nhà vua bảo:

- Này các khanh, những vật báu như vậy, ta đã có rất nhiều nên không cần nữa.

Cầu khẩn đến ba lần nhưng vua vẫn không nhận nên mọi người suy nghĩ: "Ðem vật này đến đây, chúng ta chỉ muốn dâng vua nhưng ngài không nhận, phải làm sao đây, vậy cứ đặt trước vua rồi trở về".

Sau khi suy nghĩ như vậy, họ đặt báu trước vua rồi trở về. Vua suy nghĩ: "Những báu vật này được đúng với pháp, chẳng phải do mong cầu phi pháp vậy ta nên dùng để xây dựng pháp đường".

Khi ấy, nghe nhà vua sắp làm Pháp đường, tám vạn bốn ngàn tiểu-vương đến tâu vua:

- Xin Thánh vương chớ suy nghĩ làm mệt tinh thần, chúng thần mong muốn được xây dựng cho vua.

Vua bảo:

- Ta đủ tài vật quý báu để làm, không phiền đến các khanh.

Sau ba lần tâu như vậy nhưng vua vẫn không đồng ý, các tiểu-vương cùng đến đỡ chân vua hoặc cầm vạt áo, chắp tay tâu:

- Xin ngài nghỉ ngơi, để cho chúng thần làm.

Thấy họ ân cần như vậy nên vua im lặng chấp thuận. Biết vua đã đồng ý, các tiểu vương trở về chỗ của mình. Có người mang vàng bạc các loại báu vật đến, có người mang từng cây cột báu đến gặp vua, họ tâu:

- Thánh vương, đã đủ những vật cần dùng, không biết sẽ xây dựng nơi nào và lớn nhỏ ra sao?

Vua đáp:

- Chọn vùng đất tốt đẹp ở phía Ðông thành, ngang dọc một Du-thiện-na và xây dựng ở đó.

Nghe như vậy, đến chỗ ấy các tiểu vương xây dựng pháp đường theo đúng kích thước.

- Này A Nan Ðà! Những xà kèo cột diềm, cầu thang, lan can, hàng hiên vây quanh của ngôi nhà đều làm bằng vàng bạc lưu-ly thủy-tinh các báu vật. Những giường, chỗ ngồi, nệm gối, bàn ghế, tủ rương, y phục trong nhà đều trang trí bằng các vật báu.

- Này A Nan Ðà, ở giữa hai trụ ở dưới thềm nhà, đều có trồng cây mà cành lá hoa quả đều bằng bảy báu, các báu trang trí xen nhau như nói ở trước. Khi gió nhẹ thổi phát ra âm thanh hòa nhã như nhạc trời. Trong nhà, được trải bằng cát vàng, thường được rưới bằng nước thơm Chiên-đàn. Dây bằng vàng làm ranh giới đường đi. Bốn phía được giăng lưới báu, rũ các linh báu trang trí cực kỳ xinh đẹp.

Sau khi cùng nhau xây dựng pháp đường lộng lẫy xong, tám vạn bốn ngàn tiểu vương lại xây ao tắm vuông vức 40 dặm bên cạnh ngôi nhà này. Bờ ao đều xây dựng bằng bốn loại báu. Trong ao có bốn loại hoa. Ngoài ao, lại có các bệ trồng hoa tươi như nói ở trước. Trước nhà, có những hàng cây mà cành lá hoa quả trang trí bằng bốn loại báu xen lẫn nhau. Khi gió thổi phát ra tiếng như nói ở trước. Mặt đất ở đó được trải với cát bằng vàng và rưới bằng nước thơm. Có linh báu treo khắp nơi hòa âm với nhau.

Sau khi công việc hoàn mãn, các vị tiểu vương tâu vua:

- Thưa Thánh Vương! Pháp đường và vườn, ao đã hoàn tất rất hoa lệ, xin ngài ngự đến.

Nghe tâu, vua suy nghĩ: "Ta không nên hưởng thụ pháp đường cao đẹp này trước, nên thỉnh tất cả Sa-môn, Bà-la-môn có đức hạnh đến cúng dường đầy đủ các vật đúng pháp trong tòa nhà này".

Theo ý nghĩ ấy, nhà vua tổ chức đại hội bố thí. Sau khi cúng dường đầy đủ, vua suy nghĩ: "Trong pháp đường này, ta không nên sống phóng dật hưởng lạc.

Chỉ dùng một người phục vụ, nhà vua đích thân vào pháp đường tịnh tu phạm hạnh. Ngồi kiết già trên tòa bạc ở lầu vàng, vua chánh niệm tư duy xa lìa các pháp ác bất thiện của dục giới, đoạn trừ tầm từ, chứng sơ thiền. Ra khỏi lầu vàng lên lầu bạc, ngồi trên tòa vàng trang trí với pha-lê thủy-tinh, nhà vua tuần tự đi sâu vào thiền định trừ các nghiệp chướng.

Khi ấy, cùng nhau đến gặp Bảo-nữ, tám vạn bốn ngàn cung nhân thể nữ thưa:

- Thưa ngài! Chúng tôi đều được nhờ ân vua, nhưng từ lâu không được hầu hạ, trong lòng rất khát ngưỡng, mong được yết kiến, mong ngài cho phép.

Ðại phu nhân bảo với Chủ Binh Thần:

- Ngài biết cho, đã lâu hậu cung chúng tôi không được gặp Ðại vương, trong lòng rất luyến mộ, muốn đến triều kiến, hãy bố trí xe cộ cho.

Vị quan ấy nói:

- Nếu như vậy! Xin quý ngài ra lệnh tùy tùng trang trí tất cả đồ dùng bằng màu vàng. Chúng tôi đang ra lệnh tám vạn bốn ngàn tiểu vương tập họp đội binh.

Tuân lệnh, trước tiên các tiểu vương dàn tám mươi ngàn xe voi, với tượng vương Trưởng Tịnh dẫn đầu. Thứ đến dàn xe ngựa với mã vương Ðằng-vân làm thượng thủ. Thứ đến dàn xe kéo với đại xa Hỷ Minh làm thượng thủ. Hai loại này đều có tám mươi ngàn chiếc được trang trí cực kỳ xinh đẹp đặc biệt số một.

Ðại phu nhân và các thể nữ đều đi xe Minh Lộ. Những người đi theo đều cỡi voi ngựa, uy nghi nghiêm túc cờ trống rực rỡ, vang trời dậy đất, cùng nhau đến pháp đường.

Nghe tiếng vua hỏi:

- Vì sao xe ngựa rộn rịp ồn ào như vậy?

Người hầu đáp:

- Ðại phu nhân, và đông đảo vô số thể nữ cùng các tiểu vương trang sức với y phục, vòng hoa, cờ lọng đều màu vàng, đang đến đây để bái yết đại vương.

Vua bảo:

- Hãy bố trí tòa ngồi bên ngoài pháp đường này, ta sẽ đến xem.

Sau khi bố trí tòa ngồi bằng vàng xong, người hầu tâu vua:

- Thần đã làm xong.

Nhẹ nhàng bước xuống đài, đến nữa bậc thềm, trông thấy ngựa xe trang nghiêm vàng rực, nhà vua suy nghĩ: "Uy nghi của họ thật khả ái, trang sức thật đẹp lạ, sao mà họ rực rỡ đến như vậy".

Sau khi vua an tọa, đại phu nhân ra trước làm lễ rồi đứng qua một bên, tâu:

- Ðại vương! Xin dâng tám vạn bốn ngàn cô gái quý báu diễm lệ này lên Ðại vương, xin ngài nhận cho đừng từ chối.

Tám vạn bốn ngàn tiểu vương đều đem binh báu thượng thủ của mình, tâu vua:

- Ðại vương, xe voi, xe ngựa, xe kéo này và tám vạn bốn ngàn thành ấp với thành Câu Xa Bạt Ðể đứng đầu, có tám vạn bốn ngàn lầu đài trang trí rất đặc biệt xinh đẹp, xin ngài thương xót nhận lấy và che chở cho.

Vua nói:

- Này chị em! Trước đây ta cùng các người rất thân mật, sao hôm nay trở thành oán địch vì đem các việc phi pháp để khuyến dụ ta.

Nghe vua gọi mình là chị em, đại phu nhân và các thể nữ khóc lóc rơi nước mắt, tâu:

- Xem ý ngài như đã bỏ chúng em.

Dùng vạt áo lau nước mắt, họ thưa tiếp:

- Vì sao trước đây Ðại vương đối với chúng em cực kỳ thân mật, nay như là kẻ óan.

Nhà vua bảo:

- Các vị nên biết, mạng người ngắn ngủi, sinh phải có chết, ta cùng mọi người đều phải bị tiêu diệt. Giả như có vô số trăm ngàn cô gái đẹp thì cũng như kẻ óan thù giả làm thân thiết tất gây hại cho ta, tuy thương yêu lắm rồi cũng biệt ly. Cận thần, xe ngựa, lầu đài xinh đẹp nhiều vô số vô biên, mỗi loại có đến tám vạn bốn ngàn thì cũng bị tan hoại không thể còn mãi. Thế nên, người trí hãy mau từ bỏ thật xa, cần tu tập phạm hạnh chớ sinh nhiễm trước.

Nghe vua nói như vậy, đại phu nhân biết vua không thu nhận vì không đúng ý nguyện.

Sau khi dạy bảo đúng như pháp xong, nhà vua trở vào lầu vàng, ngồi kiết già trên tòa bạc, rãi tâm đại từ đến các loài hữu tình, hết mười phương cho đến vô biên, tu tập phổ biến như vậy rồi nhất tâm an trú, vượt qua tâm từ, phát sinh tâm bi, đại hỷ, đại xả với các hữu tình cũng như vậy. Khắp hết mười phương đều có lầu đài và tòa ngồi trang trí bằng các loại báu. Khi vua tu tập từng tâm vô lượng của bốn phạm trú, các dục đều diệt. Khi tuổi thọ sắp hết, bị cái chết bức bách, tâm vua ưu buồn; sau khi qua đời sinh lên Phạm-thiên.

Phật bảo A Nan Ðà:

- Từ thành Câu Thi Na đến bờ sông Kim, rừng Sa La, tháp Hệ Quan, thuộc vùng đất Tráng Sĩ chu vi mười hai du-thiện-na, ngày xưa Như Lai làm vua Chuyển Luân đã qua đời tại đây sáu lần, ngày nay lại nhập Niết-bàn nơi này là lần thứ bảy.

Lại nữa, đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Ðẳng Giác không còn nơi nào bỏ thân vào lần thứ tám trong mười phương thế giới. Vì sao? Ta đã chấm dứt sinh tử, đoạn sạch các hoặc nghiệp, không còn thọ thân khác nữa.

Khi ấy, Phật bảo cụ thọ Ô-Ba Ma Na đang ở trước mặt:

- Thầy không nên ở ngay trước Như Lai.

Nghe bảo, Bí-sô ấy lui qua chỗ khác.

A Nan Ðà:

- Bạch Phật!

Con đã hầu Phật hơn nai mươi năm, chưa từng nghe Thế Tôn có lời quở trách như đối với Bí-sô Ô Ba Ma Na.

Phật bảo:

- Này A Nan Ðà! Có vô lượng chư Thiên Trường Thọ cùng nhau bất mãn nói:

- Trên đời khó được gặp lúc Như Lai Ðại sư xuất thế, lâu xa mới xuất hiện một lần như hoa ô-đàm-bạt. Giữa đêm nay, nhất định Ngài sẽ vào cảnh giới Vô-dư Niết-bàn vi diệu. Do uy đức của Bí-sô đang che trước Phật, chúng ta không sao thân cận Thế Tôn để cúng dường cung kính.

A Nan Ðà thưa:

- Có bao nhiêu Chư thiên đến đây?

Phật dạy:

- Phương Nam từ sông Kim đến rừng Song Lâm thuộc thành Câu Thi Na, đến tháp Hệ Quan, trong phạm vi 12 du-thiện-na này đều có chư thiên đại uy đức chen vai nhau, không còn chỗ để dựng cây gậy.

Khi ấy, các Bí-sô đều phân vân, thưa Thế Tôn:

- Cụ thọ Ô-Ba Ma Na trước đây tạo nghiệp gì mà nay có uy đức lớn?

Phật dạy:

- Này các Bí-sô, Ô-Ba Ma Na hiện đang thụ hưởng quả của nghiệp đã gây trước kia ... nói như các nơi khác cho đến nói kệ.

- Này các Bí-sô, thời quá khứ, trong kiếp Hiền này, khi loài người thọ hai vạn năm, có đức Phật xuất thế hiệu là Ca Nhiếp Ba đầy đủ mười hiệu, trú ở rừng Thi Lộc, Tiên nhân đọa xứ, thuộc Ba La Ny Tư. Tiền thân của Ô Ba Ma Na xuất gia trong pháp Phật ấy.

Bấy giờ, các Bí-sô mặc y mang bát đi vào thành khất thực, đến lượt vị ấy ở lại giữ chùa. Khi ấy, có mưa to gió lớn nỗi lên, trời rất lạnh lẽo, vị ấy suy nghĩ: "Các vị đồng phạm hạn đang bị khổ vì gặp phải trời lạnh này, y phục chắc ướt hết. Họ sắp trở về, ta hãy chuẩn bị đầy đủ vật dụng để chờ đợi".

Sau khi suy nghĩ như vậy, vị ấy vào phòng tắm đốt lửa nấu nước nóng và bố trí chỗ ngồi, gác cây làm giá phơi trước hiên rồi đến trước chùa trông ngóng các Bí-sô. Khi các Bí-sô kia về chùa, vị này âm thầm vào phòng tắm, dùng nước giặt sạch y bị ướt rồi phơi trên giá, đưa y phục sạch cho các Bí-sô mặc. Ðược nghỉ ngơi, thân thể ấm lại, không còn khổ lạnh, các Bí-sô hoan hỷ vừa ý.

Quỳ dài chắp tay hướng về đại chúng, vị Bí-sô giữ chùa phát nguyện:

- Hôm nay, những thiện căn của con nhờ làm cho các vị đồng phạm hết khổ được an vui, như Phật Ca Nhiếp Ba Như Lai Ưùùng Cúng Chánh Ðẳng Giác thọ ký cho Ðồng-tử vào đời vị lai khi loài người thọ một trăm năm, được thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ny ; cho con được xuất gia trong giáo pháp của Phật ấy, đoạn trừ các phiền não chứng quả A La Hán, nhờ công đức đốt lửa làm cho thân thể sáng rực, chư Thiên không thể đến gần.

Các thầy nên biết, do nguyện lực nên vị ấy được xuất gia trong giáo pháp của Ta, đoạn trừ các phiền não chứng quả A La Hán, có đại uy đức. Thế nên, chư thiên không thể đến gần vị ấy.

Khi ấy, cụ thọ A Nan Ðà bạch Phật:

- Sau khi Ðại đức Thế Tôn nhập Niết bàn, con nên cung kính cúng dường pháp thân của Như Lai như thế nào?

Phật bảo A Nan Ðà:

- Ông hãy bỏ qua việc ấy đi, việc ông hỏi sẽ có các vị Bà-la-môn trưởng giả có tín tâm đứng ra làm.

A Nan Ðà lại bạch Phật:

- Những việc mà các trưởng giả làm đó như thế nào?

Phật dạy:

- Tất cả đều như phép tẩm liệm của vua Chuyển-luân.

Hỏi:

- Phép của vua Chuyển Luân như thế nào?

Phật bảo:

- Này A Nan Ðà! Sau khi vua Chuyển Luân qua đời, dùng năm trăm tấm vải trắng đẹp bó khắp thân thể và trang sức bằng năm trăm tấm y đẹp, đặt vào quan tài bằng sắt đổ đầy dầu thơm, rồi đậy lại, dùng gỗ thơm hỏa thiêu. Sau khi hỏa thiêu, rưới sữa thơm cho tắt lửa, thu lấy cốt và đặt trong bình bằng vàng, xây tháp lớn thờ ở ngã tư đường, dùng cờ phướng tàn lọng và các hương thơm hoa đẹp cung kính tôn trọng cúng dường và tổ chức đại trai hội. - Này A Nan Ðà! Sau khi Ta nhập diệt, trời người cúng Ta theo đúng như sự cung kính cúng dường vua Chuyển Luân nhưng hơn gấp bội ...

- Này A Nan Ðà! Hãy đến thành Câu Thi Na, đem lời Ta, nói với năm trăm người thuộc họ Tráng Sĩ rằng này các vị, đức Ðại sư Như Lai vào giữa đêm nay chắc chắn nhập Niết bàn Vô-dư-y, hãy làm những gì cần làm để sau này khỏi hối hận vì sao đức Ðại sư nhập Niết-bàn ở địa phương này mà chúng ta không biết cúng dường.

Vâng lời Phật dạy, cụ thọ A Nan Ðà mang theo y Tăng-già-chi và một thị giả đi đến ngôi nhà hội họp của dân chúng thành Câu Thi Na.

Bấy giờ, năm trăm tráng-sĩ đang bàn luận công việc ở đó, A Nan Ðà đem lời của đức Thế Tôn bảo các Tráng Sĩ rằng các vị đã tập họp ở đây, hãy lắng nghe, vào giữa đêm nay chắc chắn nhập Niết-bàn vô-dư-y, hãy làm những gì cần làm để sau này khỏi hối hận vì sao đức Ðại sư nhập Niết-bàn ở địa phương này mà chúng ta không được cúng dường.

Nghe như vậy, các tráng sĩ đều đưa vợ con thân quyến, bạn bè, người phục vụ cùng nhau đến rừng Sa La. Ðến nơi, họ đảnh lễ sát chân đức Phật rồi ngồi qua một bên.

Sau khi được Thế Tôn thuyết pháp làm cho được lợi ích hoan hỷ, các tráng sĩ rời chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, chừa vai phải, chắp tay cung kính, bạch Phật:

- Ðại đức Thế Tôn! Chúng con đều thuộc họ Tráng sĩ quý tộc ở thành Câu Thi Na, nguyện trọn đời quy y Phật Ðà, quy y Ðạt Ma, quy y Tăng Già và thọ trì các học xứ.

Tôn giả A Nan Ðà suy nghĩ: nếu để từng tráng sĩ ấy thọ trì học xứ cận sự của đức Thế Tôn thì kéo dài thời gian làm trở ngại sự viên tịch. Ta nên thỉnh Ngài cho họ thọ trì học-xứ một lần.

Sau khi suy nghĩ như vậy, tôn giả đứng dậy, sửa y phục, chắp tay bạch Phật:

- Ðại đức Thế Tôn! Các vị tráng sĩ cùng quyến thuộc ... có rất nhiều người với tên họ khác nhau, muốn quy y Tam bảo, cầu thọ năm giới. Thọ từng người, sợ kéo dài thời gian, cầu xin Ngài đại bi cho họ thọ một lần.

Sau đó ở trước Thế Tôn, A Nan Ðà nêu tên một lần, cho họ thọ giới.

Nghe Phật thuyết pháp, lại được thọ giới, Các tráng sĩ rất hoan hỷ đảnh lễ sát chân Phật, rồi từ giã.

Khi còn là Bồ Tát, ở cõi trời Ðỗ Sử Ða,Thế Tôn quán sát về năm việc ở thế gian. Thiên tử trời Lục Dục ba lần làm thanh tịnh bụng người mẹ. Bồ tát hiện tướng voi trắng đi vào thai mẹ. Thiên Ðế Thích bảo Thiện Ái Vua Càn Thát Bà:

- Này Thiện Ái, Bồ tát đang ở cung Ðỗ Sử Ða, quán sát về năm việc ở thế gian. Thiên tử trời Lục Dục làm sạch bụng người mẹ. Ngài hiện tướng voi trắng giáng thần vào thai mẹ, chúng ta hãy đến hộ vệ Ngài.

Vua Càn Thát Bà thưa:

- Ðại thiên hãy đi trước, chúng tôi đang bận tấu âm nhạc ở đây.

Khi Bồ-tát ra khỏi thai mẹ, Thiên Ðế Thích lại bảo vua âm nhạc:

- Này Thiện Ái! Bồ tát đang ra khỏi thai mẹ, chúng ta hãy đến hộ vệ.

Thiên Ái cũng đáp như trước.

Khi Bồ tát đang cùng các đồng tử vui chơi, Thiên Ðế Thích lại bảo vua âm nhạc:

- Này Thiện Ái, Bồ tát đang đi chơi cùng các đồng tử, chúng ta hãy đến hộ vệ.

Thiện Ái cũng đáp như trước.

Khi Bồ tát quán sát lão, bệnh, tử, trong lòng buồn bã nên đi vào rừng vắng tu tập các hạnh khổ, sau đó dùng cháo sữa được nấu qua 16 lần của hai mục nữ, sức lực phục hồi, ăn uống trở lại, taà'e1m rửa thân thể, thoa các loại dầu, Thiên Ðế Thích lại bảo thần âm nhạc đến hộ vệ.

Thiện ái cũng đáp như trước.

Khi Thế Tôn chiến thắng 36 ức quân ma, chứng trí Giác Vô-thượng, Phạm Vương thỉnh đến Ba La Ny Tư chuyển pháp luân ba lần mười hai hành, chế các học-xứ, những ai có duyên đáng được độ đều đã được Ngài độ thoát, cuối cùng đến nằm nghỉ ở thành Câu Thi Na, Thiên Ðế Thích lại báo cho thần âm nhạc biết... như trước ... nghe pháp.

Thiện Ái cũng đáp:

- Tôi đang tấu nhạc.

Thiên Ðế Thích lại bảo thần âm nhạc:

- Này thần, đức Thế Tôn đang nằm lần cuối cùng, chắc chán Niết-bàn, hãy cúng dường lần cuối cùng.

Thần cũng dáp như trước.

Khi âùy, Thế Tôn suy nghĩ: "Người mà Thanh-văn có thể độ thì Như Lai cũng độ cho họ được, nhưng người phải chờ Phật độ thì không ai có thể độ được vì phải dùng đến phương tiện thiện xảo thắng thượng. Ta hãy độ thần âm nhạc Thiện Ái".

Sau khi suy nghĩ, Thế Tôn nhập định, do định lực nên ngay tại chỗ đang nằm hóa ra một thân khác và hóa ra đàn không-hầu bằng lưu-ly có ngàn dây.

Biến mất tại chỗ nằm, tay cầm đàn không hầu, đến cõi trời Ba-mươi-ba, hóa thân Phật đi vào cửa cung thần âm nhạc Thiện Ái.

Bấy giờ, với sự kiêu mạn, tự cho mình là người giỏi vô địch về đàn không hầu, ở trong cung mình, Thiện Ái vui chơi say đắm tấu nhạc.

Thế Tôn bảo người giữ cửa:

- Ngoài cửa, có Càn Thát Bà đang muốn gặp mặt.

Ðược người giữ cửa vào báo đầy đủ sự việc, nhạc vương kiêu ngạo nói:

- Ngoài ta ra lại có Càn-thát-bà khác ư?

Ðáp:

- Họ đang ở ngoài cửa.

Nghe nói, không thể nhịn được, Thiện Ái vội ra cửa, hỏi:

- Này người kia, ngươi là Càn Thát Bà hay sao?

Ðáp:

- Chính ta là vua Càn Thát Bà, nếu ngươi có khả năng hãy tấu âm nhạc với ta.

- Thưa Ðại tiên! Rất hay, chúng ta hãy cùng chơi.

Cùng nhạc vương tấu đàn không hầu, Phật bứt đứt một sợi dây, vị kia cũng vậy nhưng âm thanh cả hai bên đều không bị suy giảm. Phật lại bứt đứt cả hai dây, vị kia cũng vậy mà âm điệu hai bên vẫn như nhau. Phật lại bứt đứt ba, bốn dây; vị kia cũng vậy, cho đến chỉ còn một dây mà âm thanh vẫn như cũ. Phật lại bứt đứt dây còn lại, vị kia cũng vậy. Phật lại đưa tay tấu vào khoảng không mà âm điệu lại hay hơn gấp bội. Không thể làm được như vậy nên vị kia rất thán phục biết khả năng âm nhạc của người siêu tuyệt hơn mình nên không còn ngạo mạn nữa.

Biết như vậy, Thế Tôn biến hình Càn Thát Bà trở lại thân Phật. Thấy Phật Thế Tôn với sắc thân vàng ròng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp chiếu sáng rực rỡ hơn một ngàn mặt trời, như núi báu chúa, ngắm mãi không chán, nhạc thần rất vui mừng kính trọng ngưỡng mộ, lạy sát chân Phật, xin nghe giáo pháp.

Quán sát căn tính, Thế Tôn tùy căn cơ thuyết pháp Tứ thánh đế làm cho vị này được khai ngộ. Dùng chày kim cương trí tuệ phá tan núi hai mươi tà kiến về thân, nhạc thần chứng quả Dự-lưu.

Sau khi kiến đế, rất vui mừng, vị này bạch Phật:

- Ðại đức Thế Tôn! Hiện nay sự chứng đắc của con chẳng phải do cha mẹ, vua, trời, quyến thuộc hay các bạn bè, Sa-môn hay Bà-la-môn ... làm cho con thành tựu được thắng sự này, chỉ nhờ Thế tôn từ bi thương xót làm cho con hôm nay được khô cạn biển máu, vượt qua núi xương, đóng nẻo đường ác, mở đường Niết-bàn, an ổn đường trời người. Hôm nay, con xin quy y Phật Pháp Tăng làm cận sự nam, từ nay cho đến trọn đời không sát sinh, cho đến không uống rượu, thọ ba quy và năm học xứ.

Sau khi lại thuyết pháp chỉ dạy làm cho nhạc thần được lợi ích an lạc, Thế Tôn nhập định biến mất khỏi thiên cung trở về chỗ nằm cuối cùng ở Song-lâm.

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ.

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

Quyển thứ ba mươi bảy hết.

-ooOoo-

Ðầu trang | 00 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 |
 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 |


 [ Trở Về ]