|
PHẨM PARIVÀRA (Trích
lục trong tạng Luật)
I. Tỳ-khưu có 5 chi, không nên ở không
có nissaya (không nương theo ông thầy) [*]
[*] trái lại thì được
phép xa ông thầy
- Tỳ-khưu không biết ngày hành
Uposatha.
- Không biết hành Uposatha.
- Không thông Pàtimokkha.
- Không thông yddesa của Pàtimokkha.
- Chưa đủ 5 hạ.
II- Tỳ-khưu có 5 chi khác nữa cũng
không nên ở không có nissaya:
- Tỳ-khưu không biết ngày
Pavàranà.
- Không biết hành Pavàranà.
- Không thông Pavàranà.
- Không thông uddesa của Pàtimokkha.
- Chưa đủ 5 hạ
III- Tỳ-khưu có 5 chi khác nữa, cũng
không nên ở có nissaya:
- Tỳ-khưu không biết có
sự phạm tội và không phạm tội.
- Không biết tội nặng hay nhẹ.
- Không biết sàvasesàpatti và anàvasesàpatti.
- Không biết dutthullàpatti và aditthullàtti.
- Chưa đủ 5 hạ
IV. Tỳ-khưu có đủ 5 chi [*] được
phép ở không có nissaya:
- Tỳ-khưu có đức tin
- Có sự hổ thẹn tội lỗi
- Có sự ghê sợ tội lỗi
- Có sự tinh tấn
- Có trí nhớ.
[*] phải có 5 chi ấy cho thiệt
nhiều, bền chắc mới nên ở xa Nissaya.
V- Tỳ-khưu cố ý phạm tội rồi,
dầu tội và chiều theo pháp tây vị (thương, ghét, si mê,
sợ sệt) như thế gọi là alajji.
VI- Tỳ-khưu có 5 chi hằng sa địa
ngục:
- Tỳ-khưu không ngay thẳng
tình thương.
- Tỳ-khưu không ngay thẳng vì ghét.
- Tỳ-khưu không ngay thẳng vì dốt
nát.
- Tỳ-khưu không ngay thẳng vì sợ.
- Tỳ-khưu dùng của tăng như của
mình [*].
[*] là cố ý bỏn xẻn không chia
cho vị khác.
VII. Tỳ-khưu không có trí nhớ, hay
quên mình, ngủ mê có 5 tội:
- Ngủ cũng khổ.
- Thức dậy cũng khổ.
- Nằm mộng thấy điều không tốt.
- Chư thiên không hộ trì.
- Di tinh.
VIII. Tỳ-khưu đi đến nhà cư sĩ,
hay chung chạ với người thế trong lúc quá giờ, hằng có
5 tội:
- thường liếc xem phụ nữ.
- khi đã đi xem phụ nữ, sẽ có
lòng quyến luyến.
- khi quyến luyến sanh sự thân
thiết.
- khi đã thân thiết sẽ bị tình
dục đè nén.
- khi đã bị tình dục đè nén,
Tỳ-khưu ấy sẽ giải đãi trong phạm hạnh hoặc phạm 1 tội
nào, hay là xin xả giới hoàn tục.
IX- 5 pháp hằng thành tựu đến Tỳ-khưu
nhất là hành đầu đà thường đi khất thực:
- đi vào xóm không cần phải
trình cho Tỳ-khưu trong xóm hay.
- Thọ thực chung nhiều vị được
(ganabhojana).
- Thọ thực paramparabhojana được.
- Không adhitthàna y cũng được.
- Không gởi y dư cũng được.
X- Người không nên hành đầu đà
có 6 hạng:
- người cố ý mong việc
xấu xa.
- người có tâm ganh gỗ.
- người giả dối.
- người chỉ thấy bụng mình hay
là chỉ tin bụng mình.
- người muốn được lễ vật.
- người mong được kẻ khác ngợi
khen.
XI- người nên hành đầu đà có 10
hạng:
- Có đức tin.
- Có trí tuệ.
- Có sự hổ thẹn tội lỗi.
- Không giả dối,phải ngay thật.
- Tinh tấn trong điều hữu ích.
- Thuần tính.
- Vui thích trong sự học hỏi.
- Làm việc chi cũng chín chắn.
- Không hay nói điều lỗi của
người.
- Có vô lượng tâm là lòng tự
ái.
XII- Tỳ-khưu hành đầu đà có 5 hạng:
- Vì dốt nát.
- Vì ham muốn xấu xa, bị sự ham
muốn đè nén.
- Vì điên, cuồng tâm.
- Vì nghĩ rằng đức Phật và chư
thinh văn ngợi khen.
- Vì ham muốn ít, nương theo sự
tri túc, mong trau dồi tâm tánh, nương theo sự yên lặng, nương
theo sự hành vi có sự lợi ích.
XIII- Người không nên làm lễ có 5
hạng:
- Tỳ-khưu đương khi vào
xóm.
- Ðương đi theo đường đi.
- Ðương ở trong nơi tối.
- Tỳ-khưu đương bận việc không
để ý đến sự làm lễ.
- Tỳ-khưu đương ngủ.
XIV- Người không nên làm lễ có 5
hạng nữa:
- Tỳ-khưu đương ăn.
- Tỳ-khưu đương ở trong nhà ăn.
- Tỳ-khưu có sự giận hờn nhau.
- Tỳ-khưu đương toan tính việc.
- Tỳ-khưu để mình trần.
XV- Người không nên làm lễ có 5 hạng
nữa:
- Tỳ-khưu đương ăn vật
ngọt.
- Ðương ăn vật mặn.
- Ðương tiểu tiện.
- Ðương đại tiện.
- Tỳ-khưu đương bị tăng phạt
cấm phòng.
XVI- Tỳ-khưu tiên cáo phải có 5 chi:
(cáo, vì).
- Có lòng thương xót (karunà).
- Mong được điều hữu ích.
- Có sự tiếp độ.
- Muốn được khỏi tội.
- Muốn duy trì tạng Luật.
XVII- Tỳ-khưu phải có 4 chi mới đáng
gọi là Tỳ-khưu:
- Phải hằng chú ý tưởng
nhớ đến ân đức của Phật (buddhànussati).
- Phải hằng có lòng từ bi (metta).
- Phải tham thiền về 10 thứ tử
thi (asubham).
- Phải hằng chủ ý tưởng nhớ
đến sự chết (maranasati).
XVIII- Sa-môn phải có đủ 4 chi, mới
đúng gọi là Sa-môn:
- Phải có tâm nhịn nhục
(khanti).
- Không dễ duôi trong việc phước
đức (appamàdo).
- Phải dứt bỏ lợi danh và phiền
não (ratipahànam).
- Không bận lòng lo những việc
vô ích (akincanam).
XIX- Tỳ-khưu không nên cho nissaya đến
Tỳ-khưu có 3 chi:
- Tỳ-khưu không biết hổ
thẹn.
- Tỳ-khưu dốt nát.
- Tỳ-khưu không phải pakatattà.
XX- Người xôm tới, đi vào đường
dữ, đi xuống địa ngục có 3 hạng:
- Người không phải hành
đạo cao thượng mà tự xưng là cao thượng.
- Người cáo gian bậc phạm hạnh
trong sạch A la hán.
- Người nói: ngũ trần không tội,
rồi hằng thọ dụng ngũ trần.
XXI- Lời nói cao thượng có 4:
- Không thấy, nói không thấy.
- Không nghe, nói không nghe.
- Nói không trúng, nói rằng nói
không trúng.
- Không biết rõ rệt, nói rằng
không biết rõ rệt
XXII. Tỳ-khưu có giới đáng tôn trọng
có 4 chi:
- Không tây vị vì thương.
- Không tây vị vì ghét.
- Không tây vị vì lầm lạc,
- Không tây vị vì sợ.
XXIII. Tỳ-khưu có 6 chi đáng làm hoà
thượng (truyền cụ túc giới), đáng cho nissaya, đáng cho Sa-di
hầu hạ:
- Tỳ-khưu có thể hộ hoặc
cho người hộ đệ tử có bịnh.
- Có thể giải sầu hoặc cho người
giải sầu đã phát sanh.
- Có thể phá nghi, hoặc cho người
phá nghi đã phát sanh.
- Biết sự phạm lỗi.
- Biết cách sám hối.
- Ðược 10 hạ hoặc trên 10 hạ.
XXIV. Tỳ-khưu có 5 chi gọi là chia
rẽ Tăng, hằng đi thọ sanh trong đường dữ, sa vào địa
ngục trọng 1 đại kiếp, hết mong sửa mình được:
- Tỳ-khưu thuyết pháp, không
phải là pháp mà nói là pháp.
- Tỳ-khưu thuyết luật, không phải
là luật mà nói là luật.
- Tỳ-khưu thuyết pháp, mà nói
không phải là pháp.
- Tỳ-khưu thuyết luật, mà nói
không phải là luật.
- Giả bộ không biết mà làm tăng
sự khác nhau.
XXV- Tỳ-khưu có 7 chi mới gọi là
luật sư.
- Biết là àpatti.
- Biết không phải là àpatti .
- Biết là tội nhẹ.
- Biết là tội nặng.
- Có giới và thu thúc trong: "Biệt
biệt giải thoát thu thúc giới".
- Có đều đủ àcàra và gocàra.
- Có sự lo sợ trong tội lỗi dầu
là nhỏ nhen chút ít.
XXVI- Trò đối với thầy có 5 điều:
- Phải hết lòng yêu thương
thầy.
- Phải hết lòng tín ngưỡng thầy.
- Phải hết lòng hổ thẹn tội
lỗi.
- Phải hết lòng tôn kính thầy.
- Phải hết lòng nhớ tưởng thầy.
XXVII- Ông thầy đáng cho trò nương
nhờ có 7 điều:
- Ông thầy phải có lòng
từ ái bình đẳng.
- Ông thầy phải có giới tinh nghiêm.
- Ông thầy phải đáng cho trò tôn
trọng .
- Ông thầy phải nhịn nhục,khi
trò bất bình, thầy tùy cơ cảm hoá trò.
- Ông thầy phải biết đạo lý
cao siêu và biết cách giảng giải theo sức của trò .
- Ông thầy phải ngăn ngừa không
cho trò làm điều vô ích tội lỗi.
- Ông thầy phải tìm phương pháp
chỉ dẫn trò cho mau được tiến hoá.
XXVIII. Bát có 2 thứ:
- Bát làm bằng đất.
- Bát làm bằng sắt.
Chỉ được dùng 2 thứ ấy thôi.
-ooOoo-
GIẢI
VỀ KATHINA (Kathina Kathà).
Vấn: - tiếng gọi Kathina nghĩa như
thế nào?
Ðáp: - tiếng Kathina là 1 tiếng
trong Phật giáo phát sanh theo lời chuẩn hành của đức Thế
Tôn, để buộc chặt 5 quả báo cho thành tựu đến Tỳ-khưu,
người thọ và người anumodanà, cho đến hạn kỳ quả báo
y.
5
QUẢ BÁO (Ànisansa)
Tỳ-khưu thọ Kathina rồi được hưởng
5 quả báo là:
1) Nếu Kathina chưa xả, Tỳ-khưu
không từ giả vị trong nhóm, rồi đi cũng được, nghĩa là
không phạm tội trong điều học càritta.
2) Tỳ-khưu không đem tam y theo mình
rồi đi cũng được, không phạm tội trong điều học asamàdànacàro.
3) Tỳ-khưu thọ thực chung nhiều
vị cũng được không phạm tội trong điều học ganabhojana.
4) Cất giữ y, dầu không àdhitthàna
không gởi cũng được không phạm tội trong điều học pathamakathina.
5) Y của Tỳ-khưu hoặc Sa-di tịch
hoặc y thọ dâng đến Tăng, y phát sanh do tài sản của Tăng.
Tỳ-khưu đã thọ Kathina được phép lãnh dùng.
Tóm lại Tỳ-khưu đã thọ Kathina được
hưởng 5 quả báo ấy.
CÁCH
THỨC THỌ KATHINA (Kathinatthàna vidhànakathà).
Vấn: - Người hạng nào mới thọ
Kathina được. Người hạng nào mới thọ Kathina không được.?
Ðáp: - Nếu nói về số người
phải có ít lắm là 5 vị trở lên [*], mới thọ Kathina được,
ít hơn 5 vị không phép thọ Kathina.
[*] nói 5 vị mới thọ
Kathina được là 4 vị làm Tăng để giao y Kathina, 1 vị làm
người thọ Kathina.
Còn nói về nhập hạ, Tỳ-khưu nhập
hạ trước (purimikavassà) Pavàranà trong ngày Pavàranà trước
(là Pavàranà trong ngày rằm tháng 9 Việt Nam) mới thọ Kathina
được. Tỳ-khưu dứt hạ hoặc nhập hạ sau (nhập hạ ngày
16 tháng 6 sau, năm nhuần) và Tỳ-khưu nhập hạ chùa khác,
thọ Kathina không được.
Vấn: - người hạng nào mới nên
dâng Kathina
Ðáp: - Một trong mấy hạng người
sau này là: chư thiên, người thiện tín, Tỳ-khưu, Sa-di dùng
được cả.
Thí chủ phải vào dâng trong hắc,
tăng ngồi hoặc đứng trong chùa nhập hạ rồi dâng, nói như
vầy: Chúng tôi xin dâng y Kathina (kathina cìvaramdema).
Vấn: - Khi thí chủ dâng y, Tăng
phải thọ bằng cách nào?
Ðáp: - Không nên thọ bằng thân
hoặc khẩu, phải cần thọ bằng tâm của Tăng, là phải thọ
bằng cách làm thinh.
Vấn: - Tỳ-khưu nào đáng thọ Kathina?
Ðáp: - Tăng giao y Kathina cho Tỳ-khưu
nào, Tỳ-khưu ấy phải thọ.
Vấn: - Tăng phải giao y Kathina cho
Tỳ-khưu nào?
Ðáp: - Tỳ-khưu nào có y cũ thì
phải giao cho Tỳ-khưu ấy.
Nếu nhiều vị có y cũ, Tăng phải
giao cho vị cao hạ hơn và thông rõ 8 pháp, có thể làm phép
thọ cho kịp trong ngày ấy.
Nếu Tỳ-khưu cao hạ không thông
thì giao cho Tỳ-khưu thấp hạ, thông hiểu phép thọ. Nhưng
Tăng nên bàn tính trước với vị trưởng lão, cầu ngài thọ
rằng: bạch ngài, xin ngài thọ đi, rồi chúng tôi giúp làm
với ngài.
Khi Tăng được Kathina rồi, hội
họp nhau, ngồi (trong hắc) trong Sìmà, chỉ định 2 vị để
tuyên ngôn trình cho Tăng rõ.
Vị thứ nhất hỏi: Bạch đại
đức Tăng, y Kathina đã phát sanh đến Tăng rồi, Tăng nên
giao Kathina này cho Tỳ-khưu nào thọ Kathina?
Vị thứ hai đáp: Tỳ-khưu nào có
y cũ, Tăng nên giao cho vị ấy.
Vị thứ nhất nói: Tỳ-khưu có
cìvaram cũ, có nhiều vị, hoặc nói trong nơi đây không có
vị nào có y cũ cả.
Vị thứ hai nói: tăng nên giao Kathina
cho vị trưởng lão.
Vị thứ nhất nói: Trong nơi đây
Tỳ-khưu nào cao hạ?
Vị thứ hai nói: Tỳ-khưu (... để
pháp danh Tỳ-khưu thọ vào đây ...).
Vị thứ nhất nói: vị trưởng
lão ấy có thế làm y được và thọ kịp trong ngày nay chăng?
Vị thứ hai nói: ngài làm được
(hoặc nói: Tăng nên tiếp độ đến vị trưởng lão).
Vị thứ nhất hỏi lại nữa rằng:
vậy ngài trưởng lão ấy có đủ 8 chi chăng? (xem phần
PAKINNAKAKATHÀ tiếp theo).
Vị thứ hai đáp: ngài trưởng lão
có đủ 8 chi rồi.
Nếu vị thứ nhất bằng lòng thì
nói: sàdhu, đúng rồi. Tăng nên giao cho ngài trưởng lão ấy.
Phải cho Tỳ-khưu thông hiểu trình cho Tăng hay.
Vấn: - Tăng hội cần giao Kathina
cho Tỳ-khưu người thọ bằng cách thức như thế nào?.
Ðáp: - tăng phải giao bằng cách
tụng tuyên ngôn 2 bận (nattidutiyakammavàcà).
Cách thức để tụng tuyên ngôn
2 bận để giao y ấy, theo lời Phật chuẩn hành [1] (buddhànunàtta)
trong phẩm Mahàvagga rằng: phải cho Tỳ-khưu thông hiểu trình
đến tăng biết như vậy:
Sunàtu me bhante sangho, idam
sanghassa kathinadussam upannam, yadi sanghassa pattakallam, sangho imam
kathinadussam (itthannàmassa) [2] bhikkhuno dadeyya kathinam attharitum,
esà natti.
Sunàtu me bhante sangho, idam sanghassa
kathinadussam upannam, sangho imam kathinadussam (itthannàmassa) bhikkhuno
deti kathinamattharitum, yassàyasmato khamati imassa kathinadussassa (itthannàmassa)
bhikkhuno dànam kathinamattharitum, so bhàseyya, dinnam imam sanghena
kathinadussassa (itthannàmassa) bhikkhuno kathinam attharitum, khamati
sanghassa, tasmà tunhi evametam dhàrayàmi
[1] cho phép thi hành
[2] để pháp danh Tỳ-khưu thọ
Kathina vào chỗ ("itthannàmassa").
Nghĩa là:
Bạch hoá đại đức tăng,
xin Tăng nghe tôi trình y Kathina này đã phát sanh đến Tăng
rồi, nếu (giờ này) vừa đến Tăng rồi, nên giao y Kathina
ấy đến cho Tỳ-khưu (... ) để thọ Kathina, ấy là lời trình.
Bạch hoá đại đức tăng, xin Tăng
nghe tôi trình y Kathina này đã phát sanh đến Tăng rồi (nay)
tăng giao y Kathina ấy đến cho Tỳ-khưu (... ) để thọ Kathina,
sự giao Kathina cho Tỳ-khưu (... ) để thọ Kathina vừa đến
ngài nào, ngài ấy phải nói lên. Y Kathina ấy, Tăng đã giao
cho Tỳ-khưu (... ) rồi để Kathina (sự này) vừa đến Tăng
rồi. Vì lẽ ấy, Tăng nên làm thinh, tôi ghi nhớ sự này do
trạng thái làm thinh ấy.
Vấn: - Nếu Tăng giao y Kathina như thế
rồi Tỳ-khưu thọ Kathina phải làm như thế nào?
Ðáp: - Tỳ-khưu thọ Kathina ấy
phải giặt, vò, phơi, đo, cắt, may, nhuộm, làm dấu cho xong
trong ngày ấy rồi thọ Kathina. Nếu thí chủ đã cắt may sẵn,
Tỳ-khưu thọ chỉ phải nhuộm hoặc làm dấu (kappabindu) thôi,
rồi thọ Kathina.
Nếu muốn thọ y 2 lớp (sanghati),
phải (paccuddhàra) xả y 2 lớp củ, adhitthàna y 2 lớp mới
rồi đọc làm lễ thọ (hoặc muốn thọ y vai trái 9 uttàràsànga),
hoặc y nội (antaravàsaka) cũng nên làm như nhau.
Vấn: - Tỳ-khưu phải thọ Kathina
bằng thế nào?
Ðáp: - trong phẩm parivàna có nói
rằng: nếu Tỳ-khưu muốn thọ y 2 lớp (sànghàti) cần (paccuddhàra)
xả y 2 lớp củ của mình, rồi adhitthàna y 2 lớp mới, rồi
đọc ra tiếng cho Tăng nghe rõ rằng: Imàya sanghàtiya kathinam
atthàràmi (tôi thọ Kathina bằng y 2 lớp này).
Nếu thọ y bằng y vai trái uttaràsanga,
phải (paccuddhàra) xả y vai trái cũ của mình adhitthàna y vai
trái mới, rồi đọc ra tiếng cho Tăng nghe rõ rằng: Iminà
uttaràsangena kathinam attharàmi (tôi thọ Kathina bằng y vai
trái này).
Nếu thọ y antaravàsaka, phải paccuddhàra
xả y nội cũ của mình, adhitthàna y mới, rồi đọc ra: tiếng
cho tăng nghe rõ rằng: Iminà antaravàsakena kathinam attharàmi
(tôi thọ Kathina bằng y nội này).
Khi Tỳ-khưu đã thọ Kathina theo
cách thức ấy rồi [1], vào gần Tăng hoặc gana hoặc pugala,
mặc y vai trái chừa một bên, ngồi chồm hỗm chấp 2 tay đọc
cho các vị ấy (anumodanà) rằng: "Atthatam bhante [2] sanghassa
kathinam dhammiko kathinatthàro anumodàna [3]".
(Bạch các đại đức, Kathina của
Tăng tôi đã thọ rồi, sự thọ Kathina ấy đúng theo pháp,
xin các đại đức anumodàna đi).
Về phần Tỳ-khưu anumodàna, phải
mặc y vai trái chừa một bên, ngồi chồm hỗm chấp hai tay
đọc anumodanà rằng: Atthatam àvuso [4] sanghassa kathinam dhammiko
kathinatthàro anumodàna [5].
(Bạch các đại đức, Kathina của
Tăng ngài đã thọ rồi, sự thọ Kathina ấy đúng theo pháp,
chúng tôi xin anumodàna).
[1] nếu không có Tỳ-khưu
anumodàna đã thọ rồi thì xong.
[2] nếu Tỳ-khưu thọ cao hạ
hơn Tỳ-khưu anumodàna thì đọc àvuso.
[3] nếu có nhiều vị anumodàna
hoặc có một vị cao hạ hơn thì vị thấp hạ đọc anumodàhi,
còn một vị anumodàna thấp hạ thì đọc anumodàhi.
[4] Nếu Tỳ-khưu anumodàna cao
hạ hơn Tỳ-khưu thọ thì đọc àvuso, bằng thấp hạ hơn
thì đọc bhante
[5] Nhiều vị thì đọc anumodàna,
một vị thì đọc anumodàhi.
Trong kinh Chú giải: Evam sabbesam atthatam
hoti kathinam (nếu một vị thì đọc Kathina, các vị khác anumodàna
như thế gọi là Kathina đủ các vị.).
GIẢI
VỀ THỂ THỨC THỌ KATHINA KHÔNG ÐƯỢC KẾT QUẢ (Anatthatakathinakathà)
Vấn; Tỳ-khưu thọ Kathina không kết
quả do 24 cách thế nào?
đáp: Tỳ-khưu thọ Kathina không
kết quả do 24 điều là:
1. ullikhitamattena; thọ Kathina
bằng vải chưa làm thành y, vải mới đo.
2. dhovana mattena; thọ Kathina bằng
vải chưa làm thành y, vải mới giặc
3. cìvaravicàrana mattena; thọ Kathina
bằng vải chưa làm thành y, vải mới sắp sửa theo cách cắt.
4. chedana mattena: thọ Kathina bằng
vải chưa làm thành y, vải mới cắt.
5. bandhana mattena: thọ Kathina bằng
vải chưa làm thành y, vải mới may lược.
6. ovattikakarana mattena: thọ Kathina
bằng vải chưa làm thành y, vải mới may bìa.
7. Kandùsakarana mattena: thọ Kathina
bằng vải chưa làm thành y, vải mới để rải khung đặng
cột.
8. Dalhìkammakarana mattena: thọ Kathina
bằng vải y thường của mình, chỉ lấy vải Kathina đến
may nhập với nhau.
9. Anuvàtakarana mattena: thọ Kathina
bằng vải y chưa may rồi, mới để biên xuôi thôi
10. Paribhandakarana mattena: thọ Kathina
bằng vải y chưa may rồi, mới để biên ngang thôi.
11. Ovatteyyakarana mattena: thọ Kathina
bằng y chưa làm rồi, mới để điều.
12. Kambalamadda na mattena: thọ Kathina
bằng y nhuộm còn non màu (nên nhuộm như màu cây mít).
13. Nimittakatena: thọ Kathina bằng
y phát sanh do Tỳ-khưu nói cách này, thế nọ (ta thọ y này
được, tốt).
14. Pàrikathàkatena: thọ Kathina bằng
y phát sanh vì Tỳ-khưu bảo thí chủ dâng (được phước lớn).
15. Kukku katena: thọ Kathina bằng
y mượn của người hoặc tự mình, bằng y của mình đã có
sẵn.
16. Sannidhi katena: thọ Kathina bằng
y để dành qua ngày sau.
17. Nissaggiyena: thọ Kathina bằng
y đang làm để qua ngày khác.
18. Akappakatena: thọ Kathina bằng
y chưa làm dấu.
19- 21. Annatra sanghàtiyà, annatra
uttaràsangena, anntra antaravàsakena: thọ Kathina ngoài y 2 lớp,
y vai trái, y nội.
22. Annatra pancakena và atirepancakena
và tadaheva sanchinnena samandalìkatena: thọ Kathina bằng y không
cắt điều may, hoặc cắt điều không đứng phép.
23. Anntra puggalassa atthàra: thọ
Kathina nhiều vị (2, 3, 4 vị trở lên).
24. Nissìmattho anumodati: Tỳ-khưu
đem y ra ngoài vòng sìmà mà mình nhập hạ. Nếu chùa ấy chưa
có bandhasìmà , chỉ ra tụng tuyên ngôn rồi trở vào thọ
Kathina trong chùa mà mình nhập hạ cũng được.
Kathina mà Tỳ-khưu làm phép thọ phạm
1 trong 24 điều ấy không thành Kathina đâu.
GIẢI
VỀ CÁCH THỨC THỌ KATHINA ÐƯỢC KẾT QUẢ ÐƯỢC (Atthatakathinakathà)
Thọ 17 thứ vải sau này được thành
Kathina:
1. Ahatena: Thọ Kathina bằng
y người chưa mặc.
2. Ahatakappena: Thọ Kathina bằng
y người mới giặc 1, 2 lần song còn như mới.
3. Polotikàya: Thọ Kathina bằng y
làm bằng vải cũ.
4. Pamsukùlena: Thọ Kathina bằng
y làm bằng vải lượm hoặc y mà Tỳ-khưu hành đầu đà tìm
được.
5. Àpanikena: Thọ Kathina bằng vải
bỏ rơi gần chợ mà thí chủ lượm đem dâng làm y.
6. Animittakatena: thọ Kathina bằng
y không phải vì nó ướm mà được, trái với y thứ 13 trong
antthatàkàra.
7. Aparikathàkatena: trái với y thứ
14 anatthatàkàra.
8. Akukkukatena: Trái với y thứ 15
anatthatàkàra.(khôngphải y nhuộm).
9. Asnannidhikatena; Trái với y thứ
16 anatthatàkàra.
10. Anissaggiyena: trái với y thứ
17 anatthatàkàra.
11. Kappaketena: Trái với y thứ 18
anatthatàkàra.
12-14. Sànghàtiyà uttaràsangena antaravàsakena:
trái với y thứ 19, 20, 21 (là làm lễ thọ 1 trong 3 y, không
thọ 3 hoặc 2 y một lần).
15. Pancakena và atirekapancakena và
tadaheva sanchinnenasamandalìkeena; trái với y thứ 22 là y làm
đúng theo điều trong nội ngày.
16. Puggalassa atthàrà: trái với
y thứ 23 (là 1 Tỳ-khưu làm lễ thọ).
17. Sìmattho anumodàti: Trrái với
y thứ 24 là Tỳ-khưu ở trong sìmà làm lễ thọ hoan hỉ theo
(không ở ngoài vòng sìmà).
Trong 17 thứ y này, từ thứ 1 đến
thứ 5 chỗ chặn giữa 12, 13, 14 là y không định, miễn dâng
theo 1 thứ nào cũng được, từ thứ 6 đến thứ 11, từ 15
đến 17 là y nhất định, phải điều đủ theo phép mới làm
lễ thọ được.
GIẢI
VỀ NGUYÊN NHÂN KATHINA XẢ (Ubbhatakathinakathà).
Ðức Phật có dạy: Kathanca bhikkhave
ubbhatam hoti kathinam attha màtikà bhikkhave kathinassa ubbhàràya.
Nghĩa là: "Này các Tỳ-khưu, 8 màtikà
này là nguyên nhân làm cho Kathina xả".
Tiếng "màtikà" nghĩa là mẹ, hay
là người sanh đẻ.
Hỏi: - Cớ sao vì 8 màtikà ấy mà
cho Kathina xả?
Ðáp: - 8 màtikà ấy là:
1) Pakkamanantikà: Tỳ-khưu
đã thọ kathina rồi tính rằng: "Ta không trở lại chùa nữa
đâu", rồi đem y đã làm đi ra, vừa ra khỏi vòng sìmà, Kathina
của Tỳ-khưu ấy xả, Tỳ-khưu ấy hết được 5 quả báo.
Như thế gọi "Pakkamanantikà" là hành trình Kathina xả theo màtikà
thứ nhất.
2) Nithànantikà: Tỳ-khưu đã thọ
Kathina rồi đem y của mình (y thọ Kathina) (y làm chưa xong)
đến chùa khác, đi ra vừa khỏi vòng sìmà, tính rằng: Ta
nhờ người dùm làm y này, trong chùa này, ta không trở lại
chùa cũa đâu.
Tỳ-khưu ấy cậy người làm y ngoài
vòng sìmà mà mình nhập hạ, chỉ làm y vừa xong, Kathina của
Tỳ-khưu ấy xả, như thế gọi nitthànantikà, là hành trình
Kathina xả theo màtikà thứ nhì.
3) Sannitthànantikà: Tỳ-khưu đã
thọ Kathina rồi, đem y chưa làm, đến chùa khác tính rằng:
ta không cậy người làm y này đâu, ta không trở về chùa
cũ đâu. Chỉ tính quyết định như thế, thì Kathina xả, gọi
sannithanantikà, là hành trình Kathina xả theo màtikà thứ ba.
4) Nàsanatikà: Tỳ-khưu đã thọ
Kathina rồi, đem y chưa làm, đến chùa khác tính rằng: ta nhờ
người làm y trong chùa này ta không trở lại chùa cũ đâu,
đương làm y, y đó bị trộm hoặc cướp đoạt mất Kathina
của Tỳ-khưu ấy xả, gọi sannithanantikà, là hành trình Kathina
xả theo màtikà thứ tư.
5) Savanantikà: Tỳ-khưu đã thọ
Kathina rồi, tính rằng: ta sẽ trở lại chùa này. Rồi đem
y chưa làm ra đi. Khi đến chùa khác tính rằng ta cậy người
làm y trong nơi này. Khi đã làm xong,lại nghe tin rằng Tỳ-khưu
Tăng trong chùa đọc xả Kathina rồi. Chỉ nghe như thế, Kathina
của Tỳ-khưu ấy xả, như thế gọi sannithanantikà, Kathina
xả theo màtikà thứ 5.
6) Àsàvacchedikà: Tỳ-khưu đã thọ
Kathina rồi ra đi tính tìm nơi khác. Khi đi đến nơi khác,
tính rằng: Ta tìm kiếm y ngoài sìmà đây, ta không trở lại
chùa cũ đâu. Tỳ-khưu chỉ tìm kiếm y trong nơi ấy, khi kiếm
không được, sự mong được y ấy dứt, chỉ đứt sự mong
mỏi kiếm y, Kathina của Tỳ-khưu ấy xả, như thế gọi sannithanantikà
là hành trình Kathina xả theo màtikà thứ 6.
7) Sàmàtikantikà: Tỳ-khưu đã thọ
Kathina rồi, tính rằng: ta sẽ trở lại chùa này. Rồi đem
y chưa làm ra đi. Khi đến chùa khác, cho người làm giùm, khi
đã làm y xong, cũng còn tính rằng: ta sẽ trở lại chùa. nhưng
chừng chờ ở ngoài vòng sìmà cho đến hết hạn kỳ Kathina
của Tỳ-khưu ấy, xả như thế gọi sannithanantikà là hành
trình Kathina xả theo màtikà thứ 7.
8) Sahubbhàrà: Tỳ-khưu đã thọ
Kathina rồi, tính rằng: ta sẽ trở lại chùa này. Rồi đem
y chưa làm xong ra đi. Khi đã nhờ người làm y ấy rồi tính
rằng: ta sẽ về chùa. Rồi trở về kịp, Tỳ-khưu xả Kathina
trong chùa. Kathina của Tỳ-khưu ấy xả chung với các Tỳ-khưu
trong chùa, xả như thế gọi Sahubbhàrà là hành trình Kathina
xả theo màtikà thứ 8.
Trong phẩm Mahavagga có giải rộng 8
màtikà ấy, đây chỉ xin giải tóm tắt bấy nhiêu, nên vị
nào muốn biết cho rộng, nên xem trong phần ấy.
BÓ
BUỘC (Palibodha)
Theo Phật ngôn trong phẩm Mahàvaggacó
giải rằng: Dve me bhikkhave kathinassa palibodhà.
Nghĩa là: Này các Tỳ-khưu! Cả
2 điều ấy là Palibodhà của Kathina.
Palibodhà là điều buộc Kathina không
cho xả, có 2:
1) Àvàsa palibodha: sự bận
trong chùa (là chỗ đã thọ Kathina).
2) Cìvara palibodha: sự bận trong
y ca-sa (là y ca-sa về quả báo của Kathina).
Giải: Đức Phật có dạy trong phẩm
Mahàvagga rằng: Idha bhikhave bhikkhu vasatitasmim àvàse vàsàpekkho
vàpakkama ti paccessanti evam kho bhikhave àvàsa palibodho hoti.
Nghĩa là: Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu
trong giáo pháp này, ngụ trong chùa hoặc đi ra khỏi chùa, nhưng
còn tiếc rằng: Ta sẽ trở lại. Này các Tỳ-khưu, như thế
gọi là sự bận trong chùa (àvàsa palibodha).
Về phần cìvara palibodha, đức Phật
có giảng trong phẩm Màhàvagga rằng: Idha bhikkhave bhikkhuno
cìvaram akatam và hoti vippankatam và cìvaràsà và anupacchinnà,
evam kho bhikkhave cìvara palibodho hoti.
Nghĩa là: Này các Tỳ-khưu, y ca-sa
của Tỳ-khưu trong giáo pháp này, chưa làm hoặc làm chưa rồi,
hay là sự mong trong [*] y chưa dứt. Này các Tỳ-khưu! Như thế
gọi là cìvara palibodha.
[*] mong rằng chắc sẽ
được y trong nơi khác.
Có 2 điều ấy thuộc về Kathina không
cho xả, miễn là còn mắc trong 2 điều ấy, Kathina mới xả.
HÀNH
TRÌNH KATHINA XẢ (Ubbhàra hay Uddhàra)
Hành trình Kathina xả có 2 (vì thế
lực của 8 màtikà).
- Ubbhàra
- Antarubbhàra
(Nếu chia ra nữa có đến 9 là 8 màtikà
ubbhàra và 1 antarubbhàra).
giải: Atthamàtikà nghĩa là hành
trình Kathina xả theo 8 màtikà là:
1) Hành trình Kathina xả, để cho
Tỳ-khưu ra ngoài vòng sìmà, rồi làm cho Kathina xả 1 lượt
trong khi ấy.
2) Hành trình Kathina xả, là sahubbhàra,
để cho Tỳ-khưu ra ngoài vòng sìmà, xong trở lại kịp Kathina
xả trong giữa thời gian hạn kỳ, trong chùa thọ kathina, rồi
được vào làm phép xả chung với các Tỳ Khưu .
Tám Hành trình Kathina xả ấy gọi
là atthamatikà ubbhàra, vì kể vào trong 8 màtikà.
3) Antarubbhàra nghĩa là hành trình
kathina xả trong giữa thời gian hạn kỳ, là hành trình kathina
xả do tụng tuyên ngôn 2 bận (dutiyakammavàcà) để xả kathina,
không kể vào trong 8 màtikà gọi là amtarubhàra, vì là hành
trình kathina xả để cho các Tỳ Khưu không đi ra ngoài vòng
sìmà chỉ ngồi trong chùa hội họp nhau làm, trong giữa thời
gian hạn kỳ (chưa đến thời kỳ định). Trong phẩm vinayàlankàratikà
có giải thêm rằng:
Antarubbhàra, sahubbhàrà, natthidutiyakammavàcàyena
katàpakkamanantikàdayo satta kathinubbhàrà nàgasena kammavàcà yakatà.
Nghĩa là: Trong antarubbhàra và sahubbhàra
Tỳ Khưu tụng tuyên ngôn 2 bận thì kathina mới xả, còn 7
kathinubbhàra nhất là pakkamànantikà, Tỳ Khưu không cần tụng
tuyên ngôn, nghĩa là nếu có dịp đáng cho kathina xả, kathina
xả tự nhiên không cần phải tụng tuyên ngôn.
Vấn: - Hai hành trình kathina xả là
antarubbhàra và sahubbhàra khác nhau như thế nào?
Ðáp: - Trong phẩm Vinayàlankàratikà
có giải rằng: antarubbhàra để cho các Tỳ Khưu (nhiều vị)
không ra ngoài vòng sìmà chỉ ngồi trong chùa tụ hội nhau
làm phép xả.
Còn sahubbhàra để cho một vị Tỳ
Khưu đã ra ngoài vòng sìmà rồi trở lại kịp antarubbhàra
ấy vào làm phép xả chung cùng nhau với các Tỳ Khưu ngụ
trong sìmà ấy.
Ðó là điều khác nhau của hai hành
trình ấy.
Vấn: - Antarubbhàra tuồng như một
hành trình kathina xả khác ngoài tám màtikà; nếu như thế,
màtikà là nguyên nhân cho kathina xả cho đến 9 chăng?
Ðáp: - Không phải như thế, hành
trình kathina xả có một thôi, song giải ra làm hai gọi là:
1) Sahubbhàra: để cho Tỳ
Khưu đã đi ra ngoài vòng Sìmà rồi trở về.
2) Antarubbhàra: để cho nhiều vị
Tỳ Khưu không được ra ngoài vòng Sìmà.
Nên hiểu rằng khi Tăng tụ hội tụng
xả kathina trong giữa thời gian hạn kỳ, nếu có Tỳ Khưu
đã ra ngoài vòng sìmà, trở về làm phép xả chung cùng nhau,
một lần cũng được gọi là hai trong một lần, bằng không
có cũng gọi chỉ có một lần thôi.
Cho nên Ðức Phật chỉ chế ra có
8 màtikà như đã có giải.
Vấn: - Tỳ Khưu Tăng cần phải
tụng tuyên ngôn xả kathina trong thời gian giữa hạn kỳ, vì
nguyên nhân chi?
Ðáp: - Tỳ Khưu Tăng cần phải
tụng tuyên ngôn xả kathina trong giữa thời gian hạn kỳ như
thế vì có các thí chủ thỏa thích làm đại lễ, họ cầu
tụng xả cho, họ dâng cúng y ngoài trời kathina, đến Tăng
ở phương xa đến hội họp nhiều [*]. Tích này Ðức Phật
cho phép Tỳ Khưu ni vì có một người cận sự nam bạch cầu
xin.
[*] có giải trong tạng
Luật, phẩm thứ 5, nếu Tăng không tụng xả kathina, lộc của
Tăng phát sanh trong chùa ấy về phần Tỳ-khưu trong chùa ấy
thôi, các Tỳ-khưu khác không được thọ kathina, hoặc ở
phương xa đến không được phép lãnh. tăng tụng xả kathina
thì lộc của Tăng phải chia đến các Tỳ-khưu khác.
Ðức Thế Tôn có dạy tụng xả kathina
như vầy: phải cho Tỳ Khưu thông hiểu trình cho Tăng biết
rằng:
Sunàtu me bhante sangho yadi
sanghassa pattakallam sangho kathinam uddhareyya, esànatti.
Sunàtu me bhante sangho kathinam uddharati
yassàyasmato khanatikathinassa uddhà ro so tunhassa yassa nakkhamati
so bhàseyya ubbhatam sanghena kathinam khamati sanghassa tasmà tunhì
evametam dhàràyâmi.
Nghĩa là:
Bạch hóa Ðại Ðức Tăng
được rõ, xin Tăng nghe tôi trình (sự này) nếu đã vừa thời
đến Tăng rồi, Tăng nên xả kathina ấy là lời trình.
Bạch hóa Ðại Ðức Tăng, xin Tăng
nghe tôi trình (nay) Tăng xả kathina. Sự xả kathina vừa đến
Ngài nào Ngài ấy phải nín thinh, không vừa đến Ngài nào
Ngài ấy phải nói lên. Kathina Tăng đã xả rồi (sự ấy)
vừa đến Tăng rồi, vì nguyên nhân Tăng làm thinh, tôi ghi
nhớ sự ấy do trạng thái Tăng làm thinh như thế, lẽ thường
kathina xả chỉ vì lìa khỏi 5 quả báo, do dứt cả hai Palibodhà.
Cho nên dứt cả hai Palibodhà phải
biết rằng xả rồi, khi ấy cũng không còn được 5 quả báo
nữa. Nếu còn cả hai hoặc một trong hai Palibodhà, thì kathina
chưa xả, Tỳ Khưu ấy còn được hưởng 5 quả báo; nhưng
muốn cho biết Palibodhà nào dứt. Palibodhà nào không dứt,
hoặc Palibodhà nào dứt trước, Palibodhà nào dứt sau hoặc
dứt một lượt cùng nhau chỉ giải phân biệt theo 8 màtikà
như đã có giải trong phẩm parivàra và phẩm taliyasamantapàsàtikà
atthakatha rằng:
1) Trong màtikà thứ nhất
pakkamananantikà, civara palibodha đứt trước, là đứt từ khi
còn ngụ tại chùa, vì y đã làm xong, không còn bận việc
làm nữa. Avàsa palibodha đứt sau, là đứt một lượt với
1 hành trình Tỳ-khưu ra ngoài vòng sìmà, Kathina xả trong thời
ấy.
2) Trong màtikà thứ 2, nitthànantikà
àvàsa palibodha đứt trước là đứt trong khi Tỳ-khưu định
rằng không trở lại chùa cũ nữa.
Cìvara palibodha đứt sau, là đứt
khi đã làm y rồi Kathina cũng xả trong thời kỳ ấy.
3) trong màtikà thứ 3 sannitthànantikà,
cả 2 Palibodha đứt 1 lượt cùng nhau không trước không sau,
là đứt khi Tỳ-khưu quyết định rằng y cũng không nhờ người
làm giùm, chùa cũ cũng không trở về, kathina cũng xả trong
thời kỳ ấy.
4) trong màtikà thứ 4 nàsanantikà,
àvàsa palibodha đứt trước là đứt khi Tỳ-khưu quyết định
rằng không trở lại chùa cũ nữa, cìvara palibodha đứt sau
là đứt trong khi y đã hư mất, kathina cũng xả trong thời
kỳ ấy.
5) trong màtikà thứ 5 savanantikà,
cìvara palibodha đứt trứơc, là đứt trong khi đã làm y rồi
àsàsapalibodha đứt sau là đứt 1 lượt vừa khi nghe tin rằng
Tăng trong chùa tụng xả Kathina rồi, Kathina cũng xả trong thời
kỳ ấy.
6) trong màtikà thứ 6 àsàvacchekika,
àvàsapalibodha đứt trước là đứt trong khi Tỳ-khưu định
rằng: không trở lại chùa cũ nữa, cìvara palibodha đứt sau,
là đứt trong khi không còn mong được y nữa,kathina cũng xả
trong thời kỳ ấy
7) trong màtikà thứ 7 sìmatikkantikà,
cìvara palibodha đứt trứơc, là đứt trong khi đã làm y xong
àsàsapalibodha đứt sau là đứt trong khi hết hạn kỳ, Kathina
cũng xả trong thời kỳ ấy
8) trong màtikà thứ 8 sahubbhàra,
cả 2 Palibodha đứt 1 lượt cùng nhau không trước không sau,là
đứt trong khi tăng tụng dứt bản tuyên ngôn, Kathina cũng xả
trong thời kỳ ấy
Vấn: - Hành trình Kathina xả trong sìmà
có mấy, ngoài sìmà có mấy, có khi trong sìmà có khi ngoài
sìmà có mấy?
đáp: - Hành trình Kathina xả trong
sìmà có 2 là: antarubbhàra và sahubhàra. Ngoài sìmà có 3 là:
pakkamanantika, savanantika và sìmàtikkantika. Có khi trong sìmà,
có khi ngoài sìmà, có 4 là: nitthinantika, sannitthànantika, nàsanantika
và àsàvacchedika.
Giải rằng: antarubbhàra và sahubhàra
Kathina xả trong thời chung cùng nhau, là xả vì năng lực tăng
tụ hội tụng xả trong vòng sìmà thọ Kathina ấy, thuộc về
hành trình Kathina xả trong vòng pakkamanantika, savanantika và sìmàtikkantika,
Kathina xả đối với 1 Tỳ-khưu, đi làm cho Kathina xả, phía
ngoài vòng sìmà. Nitthinantika, samutthànantika, nàsanantika và
àsàvacchedika, kathina xả đối với 1 Tỳ-khưu . Nhưng nếu
Tỳ-khưu ấy khi trước không bận tìm phần y mà mình phải
được, rồi đi ra ngoài vòng sìmà, hết tiếc rằng: Thôi
trở lại. Mà sau đó Tỳ-khưu khác thức tỉnh ép, cho đi đoạt
phần y đó lại, rồi trở về làm cho kathina cũng xả trong
vòng sìmà đã thọ Kathina. Vậy chỉ về việc phần y mà mình
phải được ấy, thuộc về hành trình Kathina xả trong vòng
sìmà. Nếu Tỳ-khưu đem phần y mà mình phải được ra ngoài
vòng sìmà rồi làm cho Kathina xả trong nơi ấy, chỉ 12 lần
thì thuộc về hành trình Kathina xả ngoài vòng sìmà (muốn
rõ điều này nên xem tạng Luật, phẩm thứ 8, từ trang 12
đến 48).
PAKINNAKAKATHÀ
Vấn: - Mùla của Kathina có mấy? Vatthu
có mấy? Bhùmi có mấy?
Ðáp: - Mùla của Kathina có 1 là:
Tăng tụ hội. Vatthu có 3 là: sanghàti uttaràsanga và antaravàsaka.
Bhùmi có 6 là: y làm bằng chỉ may, y làm bằng bông, y làm
bằng tơ, y làm bằng lông thú, y làm bằng vỏ cây.
Thật vậy, Kathina thì đủ mùla,
vatthu, bhùmi như đã có giải, thọ mới kết quả được.
Nếu chỉ thiếu 1 điều nào, như số Tỳ-khưu ít hơn 5 vị
hoặc thọ Kathina bằng y khác ngoài 1 trong 3 y, hoặc y ấy họ
làm bằng vật nào khác ngoài 6 thứ chỉ ấy, thì Kathina không
được kết quả.
Vấn: - Pháp chỉ về phần đầu
Kathina, pháp chỉ về phần giữa, pháp chỉ về phần cuối
cùng là thế nào?
Đáp: - Trong sự phải thọ Kathina
(kathinatthàrakicca) chia ra làm 3 giai đoạn:
- Đoạn đầu phải lo làm
pubbakarana (giặc, vò, nhuộm y) nếu thí chủ họ chưa làm.
- Ðoạn giữa phải xả y cũ (paccuddhàra)
của mình rồi (adhithàna) y mới để thọ Kathina ấy.
- Ðoạn cuối cùng phải thọ ra
tiếng cho Tăng hội được nghe rõ, rồi làm sangha, gana, puggala,
phải anumodanà.
Được anumodanà như thế gọi là sự
phải thọ Kathina (kathinatthàrakicca) được kết quả.
Vấn: - Người có mấy chi không
nên thọ Kathina, người có mấy chi nên thọ Kathina?
Ðáp: - Người có 8 chi không nên
thọ Kathina:
1) Người không biết pubbakarana
(sự phải làm trước khi thọ Kathina).
2) Không biết paccuddhàra (xả y
cũ).
3) Không biết adhitthàna (nguyện
đặt tên y mới).
4) Không biết atthàra (sự thọ
Kathina).
5) Không biết màtikà (nguyên nhân
xả Kathina).
6) Không biết Palibodha (sự buộc
Kathina).
7) Không biết uddhàra (hành trình
Kathina xả theo 8 màtikà).
8) Không biết quả báo (nguyênnhân
không phạm tội).
Người có đủ 8 chi (trái với 8 điều
giải trên) mới nên thọ Kathina được là:.
1) biết pubbakarana.
2) biết paccuddhàra.
3) biết adhitthàna.
4) biết atthàra.
5) biết màtikà.
6) biết palibodha;
7) biết uddhàra;
8) biết quả báo;
Tỳ-khưu thọ Kathina phải biết nhớ
rõ rệt 8 điều trên đó mới nên thọ Kathina. Vị Tỳ-khưu
biết nhớ các pháp ấy được rỏ rệt, mới có thể làm
cho Kathinatthàrakicca được kết quả là:
1) Phải pubbakarana ngừa sợ
e y mà thí chủ họ chưa làm xong (vì không bông hoặc chưa
làm kịp).
2) Phải biết paccuddhàra để xả
y cũ của mình ra
3) Phải biết adhitthàna để adhitthàna
y Kathina sắp thọ.
4) Phải biết atthàtra để thọ
Kathina cho đúng theo phép
5) Phải biết màtikà, Palibodha,
uddhàra cho biết hành trình khi Kathina xả
6) Phải biết quả báo, cho rõ thế
lực của Kathina.
Nếu không biết, không nhớ các pháp
ấy cho rõ rệt, không nên thọ Kathina đâu, trừ ra Tỳ-khưu
là vì trưởng lão có tăng hỗ trợ cho sắp đặt thế cho.
Vấn: - Pubbakarana (sự phải làm
trước) giải như thế nào?
Ðáp: - Có 7 điều:
1) Dhovana (giặc, vò).
2) Vicàrana (đo).
3) Chedana (cắt).
4) Bandhana (may, lược).
5) Sibbana (may xong).
6) Rajana (nhuộm).
7) Kappakarana (làm dấu y).
Giải rằng: cả 7 điều ấy, nếu
còn sót điều nào, Tỳ-khưu phải làm cho, rồi trước khi
thọ Kathina, không nên thọ rồi sau mới làm.
- Ðiều thứ nhất: Nếu
vải Kathina ấy còn mới, dính bột dệt, hoặc vải cũ dơ
phải giặt.
- Ðiều thứ nhì: phải lo đo cho
đúng theo luật định.
- Ðiều thứ ba: phải cắt bằng
dao hoặc bằng kéo cho đứt có điều lớn, điều nhỏ.
- Ðiều thứ tư: Phải lược theo
đường đã cắt ấy.
- Ðiều thứ năm: phải may theo
đường chỉ đã lược.
- Ðiều thứ sáu: phải nhuộm bằng
nước nhuộm mà đức Phật chophép có màu vừa theo sắc bậc
Sa-môn.
- Ðiều thứ bảy: phải làm dấu
bằng 1 trong 3 màu (màu xanh, sám tro, đen sậm) cho hoại
sắc y.
Phải làm theo thứ tự, từ thứ nhất
đến thứ nhì, là không nên làm sai, trước làm sau, sau làm
trước,nhưng nếu họ làm xong thì càng tốt, bằng còn sót
điều nào, phải làm cho rồi mới được (hiện thời chỉ
còn sót điều thứ 7, Tỳ-khưu thọ cần phải làm cho bấy
nhiêu thôi).
Vấn: - Paccuddhàra, adhitthàna giải
như thế nào?
Ðáp: - Paccuddhàra nói về 3 pháp
là: sanghàti, uttaràsanaga và antaravàsaka. Adhitthàna cũng nói
về 3 pháp ấy. Nhưng paccuddhàra nói về sanghàti, uttaràsanaga
và antaravàsaka, và adhitthàna cũ mà mình đã dùng, còn adhitthàna
nói về sanghàti, uttaràsanaga và antaravàsaka là y Kathina ấy.
Nếu muốn thọ bằng sanghàti, phải paccuddhàra xả sanghàti
cũ, rồi adhitthàna sanghàti mới. Thọ uttaràsanaga hoặc antaravàsaka
cũng phải xả uttaràsanaga hoặc antaravàsaka cũ ra, rồi adhitthàna
uttaràsanaga hoặc antaravàsaka mới như nhau.
Vấn: - Atthàra (sự thọ) nói về
mấy pháp?
Ðáp: - Atthàra chỉ nói về 1 pháp
là nói ra tiếng.
Giải: Tỳ-khưu thọ phải nói ra
tiếng cho Tăng hội nghe rõ rệt mới kết quả Kathina, nếu
thọ thầm thì một mình ("thầm thì" là nói nhỏ đủ một
mình nghe), Tăng hội không được nghe với, thì Kathina không
được kết quả. còn về cách thức phải thọ như thế nào
đã giải ở phía trên đều đủ rồi.
Vấn: - Sự thọ Kathina của mấy
hạng người không được kết quả, mấy hạng người được
kết quả?
Ðáp: - Sự thọ Kathina của 3 hạng
người không được kết quả là:
- Người ở ngoài vòng sìmà
thọ aunumodanà Kathina.
- Người thọ aunumodanà Kathina không
nói ra tiếng.
- Người thọ ra tiếng không cho
kẻ khác nghe hiểu nghĩa lý.
Sự thọ Kathina của 3 hạng người
sau này mới được kết quả là:
- Người ở trong vòng sìmà
thọ aunumodanà Kathina.
- Người thọ aunumodanà Kathina được
nói ra tiếng.
- Người nói ra tiếng cho người
khác nghe nghĩa lý được rõ rệt.
Vấn: - Sự thọ Kathina mấy cách không
được kết quả, mấy cách được kết quả?
Ðáp: - 3 cách thọ Kathina không kết
quả là:
- Vatthuvipanna
- Kàlavipanna
- Karanavipanna
Cách thọ Kathina được kết quả là:
- Vatthusampanna
- Kàlasampanna
- Karanasampanna
Giải: tiếng Vatthuvipanna nghĩa là vật
sái nói về y Kathina không nên dùng (akapiya) là y không đúng
phép.
Kàlavipanna nghĩa là thời sái, nói
về thời là họ dâng y trong ngày nay, Tăng giao cho Tỳ-khưu
người thọ trong ngày mai.
Karanavipanna: nghĩa là làm sái, nói
về thí chủ họ chưa làm y xong, rồi Tỳ-khưu không cắt làm
cho rồi trong ngày ấy.
Tiếng Vatthusampanna nghĩa là vật
phải nói về y Kathina làm đúng theo phép.
Kàlasampanna nghĩa là thời phải
nói về thí chủ họ dâng trong ngàay nào, Tăng giao cho Tỳ-khưu
người thọ trong ngày ấy.
Karanasampanna nghĩa là làm phải nói
về thí chủ dâng y làm đúng theo phép hoặc họ làm chưa xong,
Tăng giao cho trong ngày nào, Tỳ-khưu người thọ được cắt
làm cho đúng trong ngày khác không để qua ngày khác.
Nói tóm lại Tỳ-khưu thọ Kathina
bằng y không nên dùng (akappiya) như y có bông, có màu sái,
thí chủ dâng y đến trong ngày nay, tăng giao cho Tỳ-khưu thọ
đến ngày mai, thọ như thế thì Kathina không được kết quả.
Trừ ra y làm bằng vải, nên dùng
(kappiya) Tăng cũng giao cho Tỳ-khưu thọ trong ngày ấy, thọ
như thế Kathina mới được kết quả.
Vấn: - Tháng nào nên thọ Kathina?
Ðáp: - Tháng nên thọ Kathina là
1 tháng cuối cùng của mùa hạ.
Giải: Sự thọ Kathina, đức Thế
Tôn chỉ cho phép thọ được trong 1 tháng chót mùa hạ: kể
từ 16 tháng 9 đến rằm tháng 10, trong khoảng 29 ngày ấy,
ngày nào cũng thọ được cả. Ngoài vòng 29 ngày ấy, thọ
Kathina không kết quả, dầu có thọ cũng chẳng kết quả chi.
Vấn: - sự thọ Kathina sái (atthàravipatti)
hay là thọ phải (atthàrasampati), phải biết bằng cách nào?
Ðáp: - sự thọ Kathina sái hoặc
thọ biết theo 24 thể thọ, không kết quả và 17 thể thức
thọ được kết quả như đã có giải.
Trích dịch trong Kathina khandhaka thứ
7 của phẩm Mahàvagga, cũng vừa đủ nghĩa lý chỉ có bấy
nhiêu.
Khemam pappontu pànino. Cầu
cho tất cả chúng sanh đều được vui.
BHIKKHU VANSARAKKHITA
TỲ-KHƯU HỘ TÔNG
-ooOoo-
GIẢI VỀ CÁCH THỨC
CÁC THỨ Y CA-SA
1) Kusi: dịch là miếng vải dài ở
ngay chỗ anuvàta dài chung quanh là ngay chỗ khoản dài.
2) Addhakusi: dịch là miếng vải
nữa phần kusi, tức là miếng vải vắn ở ngay chỗ khoản
vắn.
3) Mandala: dịch là miếng vải lớn
ở ngay chỗ khoản lớn (nếu y ngũ điều điều lớn này có
5 khoản).
4) Addhamandala: dịch là miếng vải
nửa phần miếng vải lớn, tức là miếng vải nhỏ (nếu
y ngũ điều, điều nhỏ này có 5 khoản).
5) Vivatta: dịch là miếng vải mở
ra khi nào trùm thấy rõ ngay cho phía trên lưng, chi này ở ngay
khoản lớn chính giữa.
6) Anuvivatta: đây là miếng vải
mở tiếp theo (khi trùm chỉ thấy phân nửa) chi này ở ngay
chỗ 2 bên khoản Anuvivatta.
7) Gìveyyaka: dịch là miếng vải
quấn, (khi nào trùm thì trùm ngay cổ) chi này ở ngay chỗ khoản
Vivatta về phía trên.
8) Jangheyyaka: dịch là miếng vải
phải đậy trên xương chả vai, chi này ở chỗ 2 khoản anuvivatta
về phía dưới.
9) Bahanta: dịch là miếng vải phải
đắp bắp tay, khi trùm phải ở ngay phía trên bắp tay, chi
này ở ngay chỗ addhamadala nơi 2 khoản phía cuối cùng.
Tóm lại y có 9 chi như thế mới
hiệp theo lời của đức Phật chế định. cả 3 y (y 2 lớp
y vai trái, y nội) phải làm theo 9 chi ấy (trừ ra thiếu vải
cắt may không đủ).
PHÉP DÂNG Y KATHINA
ÐẾN TĂNG (SANGHA)
Vấn: - thí chủ dâng cúng y Kathinadàna
như thế nào mới gọi là Tăng thí (sanghadàna)?
Ðáp: - y để thọ Kathina là vật
kể vàao trong sanghadàna thì dâng theo Pali như vầy:
CÁCH
DÂNG THỨ NHẤT
Imam dussam Kathina cìvaram
bhikkhu sanghassa demà
Dutiyampi, ...
Tatiyampi, ... (đọc 3 lần).
Nghĩa: chúng tôi xin dâng y này để
làm lễ Kathina đến Tỳ-khưu tăng (bhikkhusangha) lần thứ nhì,
lần thứ ba.
Về vật phụ tùng (parikkhàra) đã
dâng theo thói quen như vầy:
Yenamhàkam Kathinam gahitvà
kathinàni sannàni tasseva
Nghĩa: vị Tỳ-khưu nào lãnh Kathina
của chúng tôi, chúng tôi xin dâng các phụ tùng này đến vị
đó.
Trong chú giải (atthakathà) có thuyết
minh rằng; nếu thí chủ dâng mà đọc Yenamhàkam ... Như vầy,
thì Tăng không có quyền làm chủ các vật parikkhàra đó được.
Cho nên nếu cần muốn dâng vật
nào đến Tăng, phải dâng bằng cách khác, tóm tắt (không
ccần để tên các vật dâng theo Pali) như vậy .
Cách
dâng thỨ nhì
Imam mayam [*] bhante vatthùni
bhikkhusanghassa niyyàdema [*]
[*] Nếu mộ người dâng thì đọc
aham thế mayam, niyyàdemi thế niyyàdema
nghĩa: bạch các ngài chúng tôi xin
dâng những vật này đến Tỳ-khưu tăng. Lại nữa, cũng có
1 cách dâng Kathina chung với vật phụ tùng 1 lần rất tiện
lợi theo Pali như vầy.
CÁCH
DÂNG THỨ BA
Imam bhante saparivàram kathina
cìvaradussam bhikkhusanghassa onojayàma sàdhu no bhante niyyàdema bhikkhusangho
imam saparivàram kathina cìvaradussam patigganhà tu patiggahetvà ca
iminàdussena kathinam attharatu amhàkam dìgharatta atthàya hitàya
sukhàya.
Nghĩa: bạch chư Đại đức, chúng
tôi xin nghiêng mình dâng y Kathina cùng với vật phụ tùng này
đến Tỳ-khưu tăng. bạch chư Đại đức cầu xin Tỳ-khưu
tăng lãnh y Kathina cùng với những vật phụ tùng của chúng
tôi đây, khi đã nhận rồi, xin thọ dụng y này, cho chúng
tôi được sự lợi ích, được sự yên vui lâu dài.
- Hết-
-ooOoo-
Ðầu
trang | 01 | 02
| 03 | 04
| 05 | Mục lục
|