|
GIẢI
VỀ PHÉP ÐẦU ÐÀ (DHUTANGAKATHÀ).
Tiếng đầu đà - DHUTANGAKATHA nghĩa
là: Chi [*] của người dứt phiền não, hoặc tư cách có trí
tuện để dứt trừ phiền não, là điều kiện và là sự
tu hành để phá huỷ nghịch pháp. Nói tóm tắt là tác ý để
thọ trì chi ấy.
[*] Chi: là nguyên ở một
vật thể chia rẽ ra, Phạn ngữ gọi là Anga.
ÐẦU
ÐÀ CÓ 13 PHÉP
1) Pamsukùkanga: chi của Tỳ-khưu là
người có phẩm cách, thường mặc y ca-sa có trạng thái đáng
gớm như phẩn đất.
2) Tecìvarikànga: chi của Tỳ-khưu
là người chỉ thường mặc tam y (y 2 lớp, y vai trái và y
nội).
3) Pindapàtikanga: chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách, thường đi để khất thực.
4) Sapadànacàrikanga: chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách để đi khất thực theo mỗi nhà.
5) Ekàsanikanga: chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách chỉ thường dùng vật thực trong
1 chỗ ngồi
6) Pattapindikanga: chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách chỉ thường dùng vật thực trong
1 bát
7) Khalupacchàbhattikanga: chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách không dùng vật thực mà mình đã
ngăn, sau rồi mới được lại
8) Àrannikanga: chi của Tỳ-khưu là
người có phẩm cách thường trú ngụ trong rừng.
9) Rukkhamùlikanga: chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách trú ngụ gần cội cây
10) Abbhokàsikanga: chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách thường trú ngụ trong nơi khoảng
trống.
11) Sosànikanga: chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách thường trú ngụ trong rừng mộ địa.
12) Yathàsanthatikanga: chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách chỉ ngụ trong chỗ mà Tăng đã cho
đầu tiên, không dời đổi.
13) Nesajjikanga: chi của Tỳ-khưu
là người thường có phẩm cách ngăn oai nghi nằm, chỉ đứng
và ngồi.
GIẢI
VỀ CÁCH THỌ TRÌ ÐẦU ÐÀ (Dhutangasamàdàna vidhànàdikathà).
Khi đức Thế Tôn còn tại thế, phải
đối với Ngài mà thọ phép đầu đà. Sau khi Ngài nhập Niết
bàn rồi phải thọ với chư đại Thinh văn. Sau khi không còn
chư đại Thinh văn, nên xin giữ với bậc A la hán, A na hàm,
Tư đà hàm, Tu đà hườn, với bậc thông hiểu Tam tạng hoặc
2 tăng, hoặc 1 tăng. Sau nữa nên xin với bậc đã hành phép
đầu đà trước. Nếu không có, nên quét dọn tháp, chùa cho
sạch, hết lòng thành kính lễ bái cúng dường như thưở
đức Chánh Biến Tri còn tại tiền, rồi ngồi chồm hổm chấp
tay xin thọ, bằng không thì thọ nơi mình cũng được.
I-
CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG MẶC Y CA-SA ÐÁNG GỚM
NHƯ PHẨM ÐẤT (Pamasukùlikanga).
Có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn [*] y ca-sa
mà thí chủ dâng cúng (gahapati dànacìvaram patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu,
là người có phẩm cách thường mặc y ca-sa đáng gớm như
phẩn đất (pamsukùlikàngam samàdiyàmi).
[*] Ngăn: nghĩa là không dùng đến.
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách
nào tuỳ ý.
Hành giả khi đã thọ trì đầu
đà này rồi, phải tìm 1 trong 23 thứ vải, kể dưới đây,
kiếm thứ nào còn chắc, đem vá cắt, may làm ca-sa, rồi đổi
bộ y mà thí chủ đã dâng cho mình đang dùng, mặc y đáng
gớm ấy.
23 thứ vải đáng gớm ấy là:
Vải bỏ nơi mồ mả (sosànika).
Vải bỏ nơi quán hàng chợ (àpanika).
Vải dơ mà kẻ tín thí muốn bố
thí đem bỏ giữa đường đi (rathiyacola).
Vải dơ bỏ nơi đống rác (sankàracola).
Vải chùi mình dơ rồi bỏ (sotthiya).
Vải dơ mà người bịnh mặc để
cho thầy làm phép tắm rồi bỏ (nànacola).
Vải bỏ tại bến nước (titthacola).
Vải dơ bó tử thi rồi bỏ (gatapaccàgata).
Vải đã bị cháy 1, 2 chỗ rồi
bỏ (aggidaddha).
Vải bị dò xé rồi bỏ (gokhàyita).
Vải bị mối ăn rồi bỏ (upacikàkhàyota).
Vải bị chuột cắn rồi bỏ (undìrakhàyita).
Vải rách bìa rồi bỏ (antacchinna).
Vải rách biên rồi bỏ (dasacchinna).
Vải làm cờ và phướng rồi bỏ
(dhajàhata).
Vải rịt ghẻ rồi bỏ (thùpacìvara).
Vải mà Sa-môn bỏ (samanacìvara).
Vải dùng trong việc tôn vương
rồi bỏ (àbhisokika).
Vải của Tỳ-khưu Ehibhikkhu [1]
cho (oddhimaya).
Vải rơi rớt giữa đường đi
(panthika) [2]
Vải bị gió thổi bay, chủ bỏ
(vàtàhata).
Vải chư thiên đem bố thí, bỏ
1 nơi nào (devadattiya).
Vải bị sóng biển đáng tắp vào
bờ (sàmuddiya).
[1] Ehibhikkhu là Tỳ-khưu khi Phật
chứng cho làm Tỳ-khưu tự nhiên có y sẳn mặc (Thiện lai
Tỳ-khưu).
[2] Vải như thế nên chờ xem
coi nếu họ thiệt bỏ rồi sẽ lượm.
Trong 23 thứ vải đã kể trên, Tỳ-khưu
đã nguyện giữ đầu đà rồi, kiếm được và may đủ, thì
phải bỏ y cũ (y đã mặc lúc còn chùa hay là của thí chủ
dâng cúng).
Không phép dùng y của thí chủ dâng
đến tay,nếu Tỳ-khưu với nhau cho thì mặc được.
Tỳ-khưu giữ đầu đà này có 3
bực:
- Bực thượng: Chỉ mặc
tam y làm bằng vải dơ lượm nơi mộ địa.
- Bực trung: Làm bằng vải dơ của
người bỏ.
- Bực hạ: Mặc tam y làm bằng
vải dơ của thí cố ý làm phước, đem gần bỏ gần bên
chân
Ba bậc Tỳ-khưu này nếu thọ lãnh
y nơi tay thí chủ dâng cúng, gọi là phá phép đầu đà mà
mình đã nguyện giũ.
Cho nên chẳng phải chỉ có đầu
đà này đâu, đầu đà là 12 đầu đà sẽ giải ra phía sau,
nếu Tỳ-khưu đã nguyện giữ rồi mà phá hư, nhưng cố ý
hành nữa, cần phải thọ mới lại.
Ðầu đà này có 12 quả báu.
1. Nissaỳanurùpapatipattisabbhàvo:
người có tư cách hành vừa theo phép nương [1] mà vị hoà
thượng dạy bảo khi mới thọ cụ túc giới.
2. Pathame ariyavamse patitthànam: tư
cách ở trong vòng thánh thứ nhất. [2]
3. Àrakkhadukkhàbhàvo: không có khổ
vì sự gìn giữ y.
4. Aparàvattavuttità: không có sự
quyến luyến vì kẻ khác.
5. Corabhayana abhayatà: không lo sợ
vì kẻ cướp.
6. Paribhogatanhàya abhàvo: không ham
muốn trong sự thọ dụng.
7. Samanasàrupparikkhàratà: người
có vật phụ tùng vừa theo phận Sa-môn.
8. Bhagavata samvannitapaccayatà: người
có vật dụng mà đức Thế Tôn khen ngợi.
9. Pàsàdikatà: người đem đức
tin đến kẻ khác.
10. Appicchatà dìnam phalanipphatti:
tư cách thành tựu các thứ quả, nhất là không tham hoặc
ít tham.
11. Sammàpatipattiyà anubrùhanam: tư
cách làm cho chánh đạo được tăng trưởng.
12. Pacchimàya janatàya ditthànuggati
àpàdanam: tư cách làm mô phạm cho kẻ hậu lai.
[1] có giải nơi "truyền cụ túc
giới"
[2] vòng thánh có 4 tri túc trong
casa, tri túc trong khất thực, tri túc trong chỗ ở, tri túc
trong thuốc men.
KẾT LUẬN
TRONG ÐẦU ÐÀ MẶC TAM Y ÐÁNG GỚM
Màrasenam vighàtàya pamsukùladharo
yatisannadhakavaco yudhekhattiyo viyasobhati pahàya kàsikàdini varavatthàni
dhàritam yam lokagarunà ko tam pamsukulam na dhàraye tasmà hiattano
bhikkhu patinnam samanussaram yogàcàrànukùlamhi pamsukule rato siuyà
Nghĩa là: "Bậc đế vương mang thiết
giáp bền chắc trong nơi chiến trường thế nào, hành giả
là người hành đầu đà mặc tam y đáng gớm, bền chắc trong
tư cách sát nhân hại quân ma cũng như thế ấy".
Ðức Thế Tôn là tổ sư của chúng
sanh trong tam giới mà ngài cũng bỏ các y đáng quí giá, nhứt
là y xứ Kàsi, trở lại mặc y phục quí giá, nhất là được
ở xứ Kàsi, trở lại mặc y đáng nhờm gớm. Vậy Tỳ-khưu
nào dám không mặc y ca-sa đáng gớm ấy được. Cho nên khi
hành giả khi đã nhớ đến lời nguyện của mình nên ưa thích
trong y ca-sa đáng gớm, vừa theo sự tinh tấn.
II-
CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ CHỈ MẶC TAM Y (Tecìvarikanga).
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn y thứ 4 (catutthaka
cìvarampatikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu,
người chỉ dùng tam y (tecìvarikangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách
nào tùy ý. Tỳ-khưu hành đầu đà này, khi đã thọ trì nếu
được vải để làm y (ngoài tam y cũ) mà chưa làm xong hoặc
còn thiếu vải, thiếu kim, chỉ, được phép cất giữ vải
ấy không có tội trong sự ưa thích y thứ tư, vì nguyện nhận
cất giữ vải ấy. Nhưng khi đã nhuộm rồi, không nên để
dành. Nếu còn tích trữ, gọi là kẻ cướp lớn về phần
đầu đà.
Tỳ-khưu giữa đầu đà này có
3 bậc.
- Bậc thượng: trong khi nhuộm
y, nếu nhuộm y nội trước thì mặc y vai trái, y nội khô,
lấy mặc vào rồi nhuộm y khác. Muốn nhuộm y nội và y vai
trái một lượt cũng được, nhưng phải ngồi gần chỗ phơi
y, như có kẻ ngoài đi đến, nên lấy mặc vào, chẳng nên
để thân trần truồng và mặc y 2 lớp.
- Bậc trung: nếu muốn nhuộm y 1
lượt, thì được phép mặc đỡ y để nơi nhà nhuộm.
- Bậc hạ: trong khi nhuộm y, được
phép mặc đỡ y của vị khác (trong bọn) hoặc dùng ngoạ
y cũng được.
Ba bậc Tỳ-khưu này, nếu dùng đến
tứ y, gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ
[*].
[*] được phép dùng y
lót mồ hôi bề ngang 1 gang, bề dài 3 hắc.
Phép đầu đà này có 11 quả báo:
1. Santuttho: được gọi là
người có tri túc trong số y vừa đủ mặc.
2. Samàdàyevagamanam: tư cách chỉ
có tam y thôi, dường như loài chim [1] (bay đến nơi nào chỉ
có cặp cánh).
3. Appasamàrambhatà: người ít bận
việc gì lo khỏi hong phơi hoặc xếp cất các y dư.
4. Vatthasannidhiparivajjanam: tư cách
tu hành, không có sự gom thu để dành y.
5. Sallahuka vuttità: người hành
vi nhẹ nhàng mau mắn.
6. Atirekacìvaralolupappahànam: tư
cách dứt bỏ sự dứt bỏ xấu sa thái hoá trong y dư.
7. Kappiyemattakàrità: trạng thái
có tiếp độ trong y vừa (đủ dùng) [2].
8. Sallekhavuttità: người tu hành
làm cho phiền não trở nên nhẹ nhàng.
9. Appicchapàdìnam phalanipphatti: tư
cách thành tựu các thứ quả, nhất là không tham hoặc ít
tham.
10. Sammàpatipattiỳa anubrùhanam:
tư cách làm cho chánh đạo được tăng trưởng.
11. Pacchimàia janatàya ditthanugavìapàdanam:
tư cách làm mô phạm cho kẻ hậu lai.
[1] Loài chim bay đến đâu,
chỉ có cặp cánh vừa để hộ thân, không chất chứa vật
chi theo cả.
[2] Dầu đức Chánh Biến tri
cho phép dùng các thứ y như tọa cụ, Tỳ-khưu ấy cũng chỉ
vui thích trong tam y thôi
Ấy là 11 quả báo trong đầu đà chỉ
mặc tam y, mà Tỳ-khưu đã được thọ trì chín chắn.
KẾT
LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ CHỈ MẶC TAM Y.
Atirekavatthatanham pahàya sannidhivivajjito
dhìro santosa sukharasannu ticìvaradharo bhavati yogì tasmà sapattacararano
pakhìva sacìvarova yogivaro sukkha manuvicaritukàmo cìvaraniyam ratim
kayirà.
Nghĩa là: Hành giả là người có
trí tuệ, biết lương vị của điều an vui phát sanh do sự
tri túc, hằng dứt bỏ lòng ham muốn y dư quá số, các ngài
năng lánh xa tư cách gom thu y dư để dành, chỉ dùng tam y thôi.
Cho nên hành giả cao thượng (trong Phật pháp), khi muốn đi
đâu được an vui, chỉ nên có 3 mang y dính theo mình, dường
như loài chim bay, chỉ có cặp cánh dính theo mình mà thôi.
Phải nên vui thích trong y có hạn định ấy.
III-
CÁCH THỌ TRÌ ÐẦU ÐÀ THƯỜNG ÐI ÐỂ KHUẤT THỰC (Pindapàtikànga)
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
1- Tôi xin ngăn lễ vật ngoài
phẩm thực mà tôi đi xin được [*] (atirekalàbham patikkhipàmi).
2- Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách đi để khất thực (pindapàtikangam
samàdiyàmi).
[*] vật thực mà thí chủ để
vào bát mỗi nhà mỗi chút .
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách
nào cũng được.
Hành giả đã nguyện thọ phép thọ
đầu đà này rồi không nên ưa thích trong 14 thực phẩm dư
nữa (atirekalàbha).
14 thực phẩm dư là:
1. Sanghabhatta: thực phẩm
mà thí chủ dâng đến tất cả chư tăng.
2. Uddesabhatta: thực phẩm mà họ
dâng đến 1 hoặc 2 vị Tỳ-khưu thế mặt cho tăng.
3. Nimantanabhatta: thực phẩm họ
thỉnh Tỳ-khưu đến rồi dâng.
4. Salàkabhatta: thực phẩm họ dâng
theo cách rút thăm.
5. Pakkhikabhatta: thực phẩm họ
dâng trong 1 tuần, hoặc mỗi tháng chỉ có 1 ngày.
6. Uposathikabhatta: thực phẩm họ
dâng trong mỗi ngày lễ bát quan trai.
7. Pàtipadikabhatta: thực phẩm họ
chỉ dâng trong ngày mùng 1 hoặc 16.
8. Àgamtukabhatta: thực phẩm họ
dâng đến Tỳ-khưu ở xa mới đến.
9. Gamikabhatta: thực phẩm họ dâng
Tỳ-khưu sắp ra đi đường xa.
10. Gilànabhatta: thực phẩm họ
dâng đến Tỳ-khưu bịnh.
11. Gilànupatthàkabhatta: thực phẩm
họ dâng đến Tỳ-khưu nuôi bịnh.
12. Vihàrabhatta: thực phẩm họ
dâng đến chùa, đến thất.
13. Dhurabhatta: thực phẩm họ để
dành trong nhà có việc, rồi họ dâng. [*]
14. Varabhatta: thực phẩm họ chia
phần nhau dâng.
[*] vật thực mà thí chủ để
vào bát mỗi nhà mỗi chút .
Trong cả 14 thực phẩm ấy, Tỳ-khưu
hành đầu đà đi khất thực không nên thọ. Nhưng nếu thí
chủ thông hiểu, không thỉnh rằng: Ngài thọ trai tăng mà
nói "Xin đại đức thọ thực trong nhà chúng tôi, ngài cũng
vậy." Như thế, Tỳ-khưu ấy thọ được, hoặc họ rút thăm
để dâng các món thuốc không phải là vật ăn buổi sáng
để phát sanh đến Tăng, hoặc vật thọ thực nấu trong chùa,
Tỳ-khưu ấy thọ cũng được.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3
bực.
- Bậc thượng: Trong khi khất
thực, nếu có tín thí do phía trước, hay là phía sau mà đến,
hoặc lúc trở về thí chủ đem vật thực dâng cúng, thì được
phép lãnh, trừ ra ngồi xuống rồi thì không phép thọ.
- Bậc trung: Dầu ngồi xuống rồi
cũng còn thọ lãnh được.
- Bậc hạ: Nếu có thiện tín thỉnh
trước để dâng cơm cũng được.
Ba bậc Tỳ-khưu này, nếu thọ lãnh
14 thứ vật thực kể trên, gọi là phá phép đẩu đà mà
mình đã nguyện giữ.
Ðầu đà này có 15 quả báo:
1. Nissayànurùpapatipattisabbhàvo:
người hành vừa theo phép nương [1].
2. Dutiye ariyavamse patitthànam: tư
cách ở trong vòng thánh thứ nhì [2].
3. Apparàyattàvuttità: người có
sự không dính dấp vì nuôi kẻ khác.
4. Bhagavatà samvannita paccayatà: người
có vật dụng mà đức Thế Tôn hằng ngợi khen.
5. Kosajjanimmathanatà: người có
sự dứt bỏ tánh lười biếng.
6. Parisuddhàjività: người có sự
tinh tấn trong cách nuôi mạng trong sạch.
7. Sekhiyapatipattipùranam: phương
pháp tư tập phép ưng học pháp.
8. Aparaposità: người không cần
phải nuôi ke ûkhác, vì biết tiết độ trong sự thọ lãnh.
[3]
9. Pàranuggahakiriyà: phương pháp
tiếp độ kẻ khác vì sự thọ lãnh mỗi nhà mỗi chút.
10. Mànappahànam: phương pháp dứt
trừ tâm kiêu hãnh nghĩa là không chọn lựa vì trông cậy
có vật thực khác.
11. Rasatanhàya nivàranam: phương
pháp ngăn sự mong mỏi trong vị ngon của vật thực khác.
12. Ganabhojanaparampabho janacàritta
sikkhapadehianàpattità: người không phạm tội vì thọ ganabhojana,
parampabhojana và càritta (xem trong điều học Ưng học pháp)
do không chịu mời thọ thực.
13. Appicchatàdìnam anulomavuttità:
người có tư cách hành vừa theo các đức tánh, nhất là không
hoặc ít tham (Appicchata).
14. Sammàpatipattibrùhanam: phương
pháp làm cho chánh đạo được tăng trưởng.
15. Pacchimàjanatànukampanam: phương
pháp tiếp độ kẻ hậu lai.
[1] phép nương mà vị hoà thượng
dạy khi mới thọ cụ túc giới
[2] sự tri túc trong lúc đi khất
thực.
[3] Không thọ lãnh cho nhiều
để nuôi kẻ khác.
Ấy là 15 quả báo trong đầu đà để
đi khất thực mà Tỳ-khưu hành được chơn chánh.
KẾT
LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ ÐI ÐỂ KHẤT THỰC
Pindiyàlopasantuttho aparàyattajìviko
pahìnàhàrololuppo hoticàtuddiso yativinodayati kosajjam àjìvassa
visujjhati tasmà himàtimanneyya bhikkhàcàram sumedhaso.
Nghĩa là: hành giả có sự vui thích
bình đẳng trong hột cơm mà người cho từng vá, có tư cách
không nuôi kẻ khác, đã dứt bỏ lòng ham muốn xấu xa trong
vật thực, là người có thể đi đến bốn phương được
dễ dàng, dứt trừ sự lười biếng, cách nuôi mạng của
Tỳ-khưu ấy được trong sạch.
Cho nên người có trí tuệ cao thượng
không nên khinh rẻ sự khất thực ấy. Thật vậy, Tỳ-khưu
hành đầu đà "đi để khất thực" là người chỉ nuôi một
thân mạng không phải nuôi kẻ khác. Như thế chư thiên hằng
yêu mến, trọng đãi và hộ trì, vì sự không mong được
lễ vật và ngợi khen.
IV-
CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG ÐI KHẤT THỰC THEO MỖI
NHÀ (Sapadànacàrikanga)
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn tư cách để
đi khất thực theo ý muốn (loluppacàrampatikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách thường đi khất thực theo mỗi nhà
(sapadànacàrikangamsamàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách
nào tùy ý.
Tỳ-khưu thọ phép đầu đà này,
khi vào đến xóm nên đứng xem, e có điều rủi ro, nếu có
sự biến cố nào, nên bỏ qua, đi đến nhà khác cũng được.
Nơi nào quen chừng không được vật chi chút ít cả, nên cho
rằng không phải là nhà thí rồi đi đến xóm khác. Song nếu
được chút ít trong nơi nào, không nên bỏ qua và khất thực
cho sớm, đặng phòng ngừa sự bỏ qua những nơi có điều
rủi ro, để đi đến nơi khác không cho quá giờ, nếu có
người bố thí trong chùa, hoặc gặp giữa đường, họ xin
bát để vật thực đem đến dâng cũng được.
Tỳ-khưu hành đầu đà này, trong
lúc đi theo đường, nếu đến buổi ăn, không nên đi trớt,
dầu không được vật thực hoặc được chút ít, cũng phải
đi khất thực mỗi nhà.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3
bậc:
- Bậc thượng: Nếu có thí
chủ đến do phía trước hoặc phía sau, hoặc lúc trở về,
họ đem vật thực dâng cúng thì chẳng nên thọ, chỉ được
phép lãnh khi đứng trước nhà.
- Bậc trung: được phép thọ, trừ
ra khi đã ngồi xuống.
- Bậc hạ: ngồi xuống rồi cũng
còn lãnh được.
Ba bậc này, nếu đi khất thực theo
ý muốn gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ
Ðầu đà này có 8 quả báo:
1. Kulesu niccanavakatà: Người
thường đi xin trong các khoảng nhà.
2. Cantupamatà: người lành ví như
mặt trăng, vì không dính dấp trong nhà nào cả.
3. Kulamaccherappahànam: tư cách dứt
bỏ sự bòn rít trong các nhà.
4. Samànukampità: người có sự
tiếp độ bình đẳng đủ cả nhà.
5. Kulupàkìdenavàbhàvo: người không
có tội trong sự đi vào xóm.
6. Avhananabhinandana: tư cách không
vui thích lời kêu gọi thỉnh mời.
7. Abhihàrena anatthikatà: người
không có sự cần dùng vật thực mà họ đem đến dâng.
8. Appicchatàdìnam anulomavuttità:
người có sự hành vừa theo các đức tánh, nhất là không
tham hay ít tham.
Ấy là 8 quả báo trong sự thọ đầu
đà đi khất thực theo mỗi nhà mà Tỳ-khưu được thọ trì
được chín chắn.
KẾT
LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ ÐI KHẤT THỰC THEO MỖI NHÀ
Candùpamo niccanavo kulesu amaccharì
sabbasamànukampo kulùpakàdìnavavippamutto hotìdhabhikkhu sapadànacàrì
loluppacàram pajahàya tasmà okkhittacakkhu yugamattadassì àkankhamàno
bhuvisericàram careyya dhìro sapadànacàram.
Nghĩa là: Tỳ-khưu hành đầu đà
đi khất thực theo mỗi nhà, trong Phật pháp này,là người
lành ví như mặt trăng, là người thường đi xin ăn, là người
không bón rít trong các nhà, có sự tiếp độ bình đẳng đủ
cả nhà, là người đã thoát khỏi tội, phát sanh do sự đi
vào xóm.
Cho nên bậc trí tuệ, nếu muốn
đi trên mặt đất theo sở thích, cũng phải dứt bỏ các đi
khất thực theo ý muốn, phải có cặp mắt ngó xuống, chỉ
nên liếc xem ra 1 ách (2 sải) rồi nên hành đầu đà đi khất
thực theo mỗi nhà.
V-
CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG NGỒI ĂN TRONG MỘT CHỖ
(Ekàsanikanga)
Trong đầu đà này có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn tư cách ngồi
ăn trong nhiều chỗ (nàsàsanabhojanam patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách chỉ ngồi ăn trong 1 chỗ (akàsanikangam
samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ cách nào
tuỳ ý.
Tỳ-khưu thọ phép đầu đà này,
trong nhà ăn, không nên ngồi chỗ của vị trưởng lão. Phải
phân biện trước chỗ ngồi vừa thoe địa vị mình, rồi
mới nên ngồi. Khi đương ăn, nếu có ông thầy dạy đạo,
hoặc vị hoà thượng đi đến nên đứng dậy làm lễ, nhưng
không được trở lại ăn nữa.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3
bậc:
- Bậc thượng: dầu có vật
thực nhiều hay ít, nếu có thò tay vào thì chẳng nên ăn vật
nào khác thêm nữa.
- Bậc trung: nếu vật thực trong
bát còn được phép thọ thêm.
- Bậc hạ: nếu chưa ra khỏi chỗ
ngồi ăn, được phép lãnh thêm.
Ba bậc này nếu ngồi ăn nhiều chỗ
gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ.
Ðầu đà này có 8 quả báo:
1. Appàbàdhatà: Trạng thái
người ít có bịnh.
2. Appàtankatà: trạng thái người
sống không kho,å là khỏi bị khổ trong thân thể.
3. Lahutthànam: cách chỗi dậy lẹ
làng.
4. Balam: Có thân thể khỏe mạnh.
5. Phasuvihàro: cách ở được an
vui.
6. Anatirittapaccayà anàpatti: không
phạm tội vì thọ vật thực anatirittabhojana [*].
7. Rasatanhàyavinodanam: cách không
mong được vị ngon.
8. Appicchatàdìnam anulomavuttità:
trạng thái người có sự hành vừa theo các đức tánh, nhất
là không tham hay ít tham.
[*] vật thực mà Tỳ-khưu đã
ngăn rồi, sau khi đứng dậy khỏi chỗ ấy, thọ lãnh được
rồi không làm theo luật (xem trong điều học Ngăn vật thực
).
Ấy là 8 quả báo trong đầu đà ăn
trong 1 chỗ ngồi mà Tỳ-khưu thọ trì được chín chắn.
KẾT
LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ ĂN TRONG MỘT CHỖ NGỒI
Ekàsanabhojane ratam nayatim bhojana
paccayà rujà visahantirase aloluppo parihàpeti na kammamattano iti phàsuvihàra
kàrane suvisallekharatupasevite janaye thavisuddha mànaso ratimekàsanabhojaneati.
Nghĩa là: các thứ bịnh phát sanh
phát sanh do dùng vật thực, hằng không làm hại đến hành
giả vui thích trong cách thường thọ thực trong 1 chỗ ngồi.
Sự chẳng lựa chọn vị ngon không làm cho tiêu hoại nghiệp
tinh tấn của hành giả.
Cho nên Tỳ-khưu, là người có tâm
trong sạch nên làm cho sự vui thích phát sanh trong đầu đà,
chỉ nên ngồi ăn trong 1 chỗ là nguyên nhân làm cho cách ở
được an vui.
VI-
CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG ĂN TRONG MỘT BÁT (Pattapindikànga)
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn đồ đựng
thứ nhì (dutiyabhàjanam patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu,
là người có phẩm cách chỉ thường thọ thực trong 1 bát
[*] (pattapindikàngamsamàdiyàmi).
[*] tiếng "bát" đây chẳng phải
chỉ nói về bình bát thôi đâu, dầu đồ dùng khác cũng gọi
là bát được.
Trong 1 cách ấy muốn thọ theo cách
nào tuỳ ý.
Tỳ-khưu thọ phép đầu đà này,
khi dùng cháo phải để cháo trong đồ đựng, nếu được
đồ an khô (khô, mắn) nên ăn đồ khô trước cũng được,
húp cháo trước cũng được, để đồ khô trong cháo, e có
mùi hôi tanh, ăn rồi mửa ra, nhưng nếu ăn được cũng tốt.
Về mật ong, hoặc đường thì phải chung vào ăn với cháo.
Các vật ấy Tỳ-khưu phải thọ cho có tiết độ. Trong khi
ăn nếu có nước chấm và củ, trái, rau, phải cầm ăn không
tiện phải nên để vào bát.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3
bậc:
- Bậc thượng: ăn vào miệng
rồi dầu gặp xương, gặp rác cũng chẳng nên nhả ra (trừ
ra ăn mía, được phép nhả rác.
- Bậc trung: ăn nhằm xương hoặc
rác được phép nhả bỏ, nhưng không nên bóp, trộn vật thực
trong bát rồi mới ăn.
- Bậc hạ: dầu trộn vật thực
trong bát rồi mới ăn cũng được.
Ba bậc này, nếu ăn ngoài bát thì
gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ.
Ðầu đà này có 6 quả báo:
1. Nànàrasatanhàvinodanam:
cách dứt bỏ sự mong mỏi trong vật thực có vị ngon
2. Atricchatayapahànam: cách dứt bỏ
trạng thái có sự ham muốn trong món ăn.
3. Àhàrepayojanamatta dassità: trạng
thái người thấy điều hữu ích về sự tiết độ trong vật
thực.
4. Thàlakàdipariharanakhedàbhàvo:
không có sự cực nhọc nhất là cất giữ vật thực.
5. Avikkhittabhojità: trạng thái người
không có tâm thay đổi vật thực khác.
6. Appicchatàdinam anulomavuttità: trạng
thái người có cách hành vừa theo các đức tánh, nhất là
không tham hay ít tham.
Ấy là 6 quả báo trong đầu đà chỉ
thường ăn trong một bát mà Tỳ-khưu thọ trì được chín
chắn
KẾT
LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG ĂN TRONG MỘT BÁT.
Nànàbhàjanavikkhepam hitvà okkhittalocano
khananto viya mùlàni rasatanhàya sumànaso paribhunjeyya àhàram koanno
pattapindiko.
Nghĩa là: hành giả là người dứt
sự thay đổi trong nhiều món ăn khác, có cặp mắt ngó xuống,
có hành vi chơn chánh, để đào bứng gốc rễ của lòng tham
muốn, là người có thiện tâm hành phép tri túc, như người
gìn giữ thân thể mình thế nào, thì Tỳ-khưu hành đầu đà
chỉ thường ăn trong một bát, lẽ nào lại thọ thực (trong
đồ đựng bát khác được).
VII-
CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ NGĂN ATRITTABHOJANA (Khaluppacchàbhattikanga)
Khi Tỳ-khưu đương ăn có thí chủ
đem vật thực đến dâng trong hắc mà không lãnh gọi là "Ngăn
vật thực". Đến khi đứng dậy khỏi chỗ ấy rồi mà dùng
vật thực ấy hoặc vật thực khác, phải cho người làm theo
luật (vinayakamma) mới ăn được. Không làm thì phạm Ưng đối
trị, vật thực nhờ người làm vinayakamma được cho phép
ăn nữa ấy gọi là atiritabhojana.
Trong đầu đà này có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn cách dùng
(atirittabhojanam patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách không dùng vật thực đã ngăn rồi,
mà sau lại được (khalupacchàbhattikangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách này muốn thọ theo cách
nào tuỳ ý.
Tỳ-khưu thọ đầu đà này, khi
đã ngăn vật thực rồi không nên nhờ người làm cho vật
thực dùng được đâu. Ðầu đà này có nghĩa giống nhau với
điều học (pathama pavàranà) nhưng đây cao thượng hơn.
Nến biết đầu đà này có nghĩa
cao thượng hơn điều học pathama pavàrana như thế nào? Trong
điều học pathama pavàrana nói: Tỳ-khưu đã ngăn vật thực
rồi, khi đã đứng dậy khỏi chỗ ngồi, nếu nhờ người
làm vinayakamma rồi thì ăn vật thực ấy được. Trong đầu
đà này không phải như thế, dầu có là người làm vinayakamma
cho thành vật ăn được, cũng không nên ăn, ấy là chỗ cao
thượng hơn, đối với điều học pathama pavàrana.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3
bậc.
- Bậc thượng: khi đang ăn
thức ăn mà ngăn vật thực của người dâng cúng thì chẳng
được phép thọ thực phẩm còn lại trong bát.
- Bậc trung: đang ăn vật thực nào
chỉ được phép ăn món ấy.
- Bậc hạ: được phép ăn cho đến
khi đứng dậy.
Ba bậc này, nếu đã ngăn vật thực
rồi mà còn ăn nữa gọi là pháp đầu đà mà mình đã nguyện
giữ.
Ðầu đà này có 5 quả báu:
1- Anatirittabho janàpattiyà
durìbhàvo: trạng thái người lánh xa khỏi sự phạm tội vì
cách dùng vật thực anatirittabhojana [*].
2- Odarikattàbhavo: không có cử chỉ
người ăn quá no
3- Niramisasannidhita: trạng thái người
không gom thu để dành vật thực.
4- Punapariye sanàya abbàvo: không
có cách tìm kiếm thêm nữa
5- Appicchatàdìnam naulomavuttità:
trạng thái người có tư cách, hành vừa theo các đức, nhất
là không tham hay ít tham.
[*] Vật thực mà Tỳ-khưu đã
ngăn, rồi sau khi được lại mà không nhờ người làm vinayakamma
gọi là anatirittabhojana.
Ấy là 5 quả báo trong đầu đà này,
mà Tỳ-khưu đã thọ trì chín chắn.
KẾT
LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ NGĂN VẬT THỰC
Pariyesanàya khedam na yàti na karoti
sannidhim dhiro odarikattam pajahati khahipacchabhattiko yogìtasmà sugatappasattham
santosagunàdivuddhi sanjananam dose vidhu nitukàmo bhajeyya yogìdhutangamidam
Nghĩa là: Hành giả là người có
trí tuệ, là người thọ trì chi của Tỳ-khưu có phẩm cách
không dùng vật thực mà mình đã ngăn rồi khi sau ngược lại,
là người không có sự khổ cực vì cách tìm vật dụng, không
chất chứa vật dụng, là người bỏ tư cách thọ thực quá
no.
Cho nên hành giả là người có trí
tuệ, muốn dứt bỏ phiền khổ não, nên hành đầu đà này
mà đức Thế Tôn hằng ngợi khen và đó là phương pháp làm
cho tăng trưởng các đức tánh, nhất là đức tri túc.
VIII-
CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG NƯƠNG NGỤ TRONG RỪNG
(Arannikanga)
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn cách ngụ
nơi khoảng nhà, trước khi mặt trời mọc (gàmantase nàsanam
patikkhi pàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu,
là người có phẩm cách thường nương ngụ trong rừng (aranni
kangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách
nào tuỳ ý.
Tỳ-khưu hành đầu đà này, khi
đã thọ trì rồi, không nên ở trong khoảng nhà trước khi
mặt trời mọc.
Cần phải ngụ nơi rừng trước
khi mặt trời mọc. Chỗ ở nơi khoảng nhà là nói về chỗ
ở trong xóm [*]. Còn gọi là rừng ấy là chỉ về chỗ ngoài
xóm và ngoài chỗ gần xóm.
[*] người đàn ông có
sức lực bậc trung lấy đất cục liệng rớt đến đâu,
chỗ ấy là gần xóm.
Chỗ nói xóm là: dầu xóm nào chỉ
có 1 hoặc nhiều nhà có hàng rào hoặc vách tường, có tường
xung quanh hoặc không có, có người ở hoặc buôn bán chỗ
nào có bọn buôn bán đến trú ngụ nơi ấy hơn 4 tháng cũng
đều gọi là xóm cả.
Chỗ ở trong rừng nên đo từ ranh
xóm (chỗ có nhà chòi, trạm nghỉ) cho xa được 1.000 thước.
Nếu không có ranh xóm, chòi, trạm nên đo từ chỗ cục đất
mà người trai có sức lực bực trung liệng rớt ấy. Nếu
gần xóm nghe tiếng người mà bị khuất núi, hoặc có sông
ngăn, không thể đi ngay tới được, nên đo theo đường mà
họ thường đi tới lui. Nhưng không nên rào ngăn đường đi
tắt gần của họ (nếu làm như thế gọi là "kẻ cướp lớn"
về phần đầu đà này).
Ðầu đà này có 8 quả báo:
1. Bhabbo aladdham và samàdhim
pati ladhum: người đáng đắc thiền định chưa đắc.
2. Laddham vàrakkhitum: người có
thể gìn giữ thiền định đã đắc.
3. Satthàpissa attamano: đức thiên
nhơn sư hằng vừa lòng đối với Tỳ-khưu ấy.
4. Asappàyarùpàdayo cittam na vikkhipanti:
nhất là sắt trrần là điều không vừa lòng,không sao khấy
rối tâm Tỳ-khưu ấy được.
5. Vigatasantàso: xa lánh khỏi sự
kinh sợ.
6. Jìvitanikantim pajahati: có thể
dứt bỏ sự vui thích trong sanh mạng được.
7. Pavivekasukharasam asàdeti: được
nếm mùi vị của sự an vui nơi thanh vắng.
8. Pamsukùlikàdibhàvo: người thế
có thọ trì đầu đà mặc y ca-sa đáng gớm dễ dàng được.
Ấy là 8 quả báo đầu đà thường
ngụ trong rừng.
KẾT
LUẬN ÐẦU ÐÀ THƯỜNG NGỤ TRONG RỪNG.
Pavivitto asamsatto pantasenàsane rato
àràdhayanto nàthassa vanavàsena mànasam eko aranne nivasam yam sukham
labhate yati rasam tassana vindanti api devà sandakà. Pamsukùlanca esovakavacam
viya dhàrayam arannasangà magato avasesadhutàyudho samattho nacirasseva
jetum màram sahàhanam tasmà aranna vàsamhi ratim kayiràtha pandito.
Nghĩa là: Hành giả có tâm yên lặng,
không lẫn lộn vì phe đảng, hằng vui thích trong nơi thanh
vắng, là người có thể làm cho đức Phật được vừa lòng
và khen rằng: Hành giả là người nương ngụ trong rừng 1
mình, hằng được an vui cho đến nỗi tất cả chư thiên và
thiên đế cũng chẳng đặng nếm hương vị của sự an vui
ấy. Như thế, nếu hành giả được hành thêm đầu đà mặc
y đáng gớm làm thiết giáp rồi, xông vào chiến trường tức
là rừng, dùng 11 pháp Dhuta làm quân binh, thì có thể chiến
thắng Ma vương cùng bọn quân ma được dễ dàng không lâu.
Cho nên bậc trí tuệ cần phải
vui thích trong phương pháp nương ngụ trong rừng.
IX-
CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG NƯƠNG NGỤ GẦN CỘI
CÂY (Rukkhamùlikanga)
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn chỗ ở có
che lợp (channam patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách thường nương ngụ gần cội cây
(rukkhasmuỳlikangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách
nào tuỳ ý.
Tỳ-khưu hành đầu đà này, khi
đã thọ rồi nên tìm nương ngụ gần cội cây, cây nào ở
xa chùa, nhà, trừ ra cây chỗ ranh xóm, cây mà họ hay đến
cúng vái, cây có dầu, cây có trái, có bông mà họ cần dùng,
có dơi chim, cò ở.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3
bậc.
- Bậc thượng: chẳng nên
lựa bông cây theo ý mình, phải tránh các thứ cây đã kể
trên, lấy chân đùa lá cây, để làm chỗ ở.
- Bậc trung: nếu có người nào
ở gần, nhờ họ quét dùm cũng được.
- Bậc hạ: được phép cậy người
ở chùa quét dùm cũng được và làm hàng rào cho. Bữa nào
có nhiều người hội hiệp nơi ấy, phải tìm nơi khuất tịch
khác.
Ba bậc này, nếu ở nơi nào có che
lợp đến mặt trời mọc gọi là phá phép đầu đà mà mình
đã nguyện giữ.
Ðầu đà này có 6 quả báo:
1-Nissayànurùpapatipattisabbhàvo:
người tu hành vừa theo phép nương mà vị hoà thượng đã
dạy khi mới thọ cụ túc giới rằng: Người xuất gia nên
nương ngụ nơi cội cây.
2- Bhagavatà samvannitapaccayatà: người
có vật dụng mà đức Thế Tôn hằng ngợi khen là vật dụng
ít, dễ kiếm và không tội.
3- Anicca-sannàsamutthapanatà: trạng
thái có thể làm cho phép vô thường tưởng (anicca-sanna) phát
sanh vì được thấy thường thường cái hiện tượng [*] của
cây và lá.
4- Senàsanamaccherakammàràmatànam
abhàvo: không bón rít trong chỗ ở và là người vui thích trong
phận sự mình.
5- Devatàhi sahavàsità: trạng thái
mà người được ở chung cùng với chư thiên.
6- Appicchatàdìnam anulomavuttità:
trạng thái mà người có phẩm cách tu hành vừa theo các đức
tánh, nhất là không tham hay ít tham.
[*] trạng thái của vật mà người
có thể cảm giác được.
Ấy là 6 quả báo trong đầu đà này
mà Tỳ-khưu đã thọ trì được chín chắn.
KẾT
LUẬN TRONG ÐÀU ÐÀ THƯỜNG NƯƠNG NGỤ GẦN CỘI CÂY.
Vannito buddhasaetthena nissayoti cabhàsito
nivàso pavivittassa rukkhamùlasamo kutoàvàsamaccheraharedevatà paripàlite
pavivitte vasanto hi rukkhamùlamhi subbato abhirattàni nìlàni pandùni
patìani ca passanto tarupannàni nicca-sannam panùdati tasamà hi buddhadàyajjam
bhàvanàbhiratàlayam vivittam nàti manneyyà rukkhamùlam vicakkhano.
Nghĩa là: chỗ ở của Tỳ-khưu,
là người có tâm yên lặng mà đức Phật hằng ngợi khen
và giảng rằng: Chỗ ở trong rừng là nơi nương náu của
bậc xuất gia, chẳngcó chi sánh bằng "Tỳ-khưu ngụ trong rừng
là nơi thanh vắng, có thể dứt bỏ được sự bón rít trong
thất, có chư thiên nương theo rừng hộ trì nữa. Chẳng phải
có thế thôi, Tỳ-khưu là người ở gần cội cây, khi thấy
lá mới trổ xanh tươi hoặc lá cây chín có màu vàng đã rụng,
có thể dứt trừ phép thường tưởng [*] (nicca-sanna). Bởi
cớ ấy, bậc có trí tuệ không nên khinh rẻ chỗ yên lặng
gần cội cây, là chỗ của đức Chánh Biến Tri đã ngự,
là nơi cư trú của các hành giả ưa thích trong phép thiền
định.
[*] thường tưởng: tưởng
là thường trong các sắc vô thường.
X-
CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG NGỤ TRONG KHOẢNG TRỐNG
(Abbhokasikanga).
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ.
1) Tôi xin ngăn chỗ ở che
lợp và chỗ ở gần cội cây (channanca rukkhamùlanca patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu
là người có tư cách thường nương ngụ trong khoảng trống
(abbhokàsikangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách
nào tuỳ ý.
Tỳ-khưu hành đầu đà này,nếu
vào tịnh xá để nghe pháp, hoặc làm lễ Uposatha mà có mưa
đến không nên cội ra đi, chờ cho mưa tạnh sẽ đi, hoặc
đã vào nhà ăn, nhà khói đã làm Phật sự (giúp việc cho
vị trưởng lão, cho tăng cũng nên). Nếu đi theo đường có
cầm vật phụ tùng của vị trưởng lão mà mắc mưa nên vào
đụt mưa trong các phước xá (nhà trạm) cắt giữa đường
cũng được, dầu không có cầm vật chi của vị trưởng lão,
vào nơi ấy đụt mưa cũng nên, song phải đi chậm rãi, hoặc
không nên tính ở nghỉ trong phước xá ấy.
Tỳ-khưu hành đầu đà có ba bậc:
- Bậc thượng: Chẳng nên
ở dưới bóng cây, trong núi, nhà mát.
- Bậc trung: Nếu có việc phải
vào nhà không lỗi.
- Bậc hạ: Vào nghỉ các nơi ấy
cũng được nhưng không nên ở đến mặt trời mọc.
Ba bậc này nếu ở trong các nơi có
che lợp, hoặc dưới cội cây hoặc ở chỗ che lợp đến
mặt trời mọc, gọi là phá phép đầu đà mà mình nguyện
giữ.
Quả báo trong abbhokàsikanga - Ðầu
đà này có 5 quả báo:
1. Àvàsapalibobdhupacchedo:
cách dứt bỏ sự bận trong tịnh thất(chùa).
2. Thìmamiddhappanudanam: cách dứt
trừ sự lường biếng trong thân tâm
3. Nissangatà: trạng thái người
không bận lòng vì sự lo gìn giữ chỗ ở.
4. Catuddisatà: trạng thái người
đi đến 4 phương được, không có sự trở ngại, vì khỏi
lo sợ không có chỗ ngủ.
5. Appicchatàdinam anulomavuttità: Trạng
thái người có sự hành vừa theo các đức tánh, nhất là
không tham hay ít tham.
Ấy là 5 quả báo trong đầu đà này
mà Tỳ-khưu thọ trì được chín chắn.
KẾT
LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ NGỤ TRONG KHOẢNG TRỐNG.
Anagàriyabhàvassa anurùpe adullabhe
tàràmani vìtanamhi candadi pappabhàsite abbhotàse vasam bhikkhu migabhutena
cetasà thinamiddham vinodetvà bhanamàràmatam sito pavivekarasassàdam
nacirasseva vidatiyasmà tasmàhisappanno obhokàse ratosiyà.
Nghĩa là: Hành giả không gìn giữ
chỗ ở, ví như thú rừng hằng nương theo trạng thái vui thích
trong phép thiền định, tìm kiếm chỗ ngụ trong khoảng trống,
là nơi vừa cho hàng xuất gia, lấy các ngôi sao làm trần,
có ẩn dạng ngọc mã não, lấy mặt trăng làm đèn để soi
sáng, có thể dứt trừ sự lười biếng trong thân tâm và
không bao lâu sẽ được hưởng điều vui thích trong hương
vị của pháp yên lặng.
Cho nên hành giả là người có trí
tuệ nên ưa thích khoảng trống như thế.
XI-
CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG NGỤ NƠI MỘ ÐỊA (Sosànikanga).
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ.
1) Tôi xin ngăn chỗ không
có mồ mã (sasusànam patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu
là người thường có phẩm cách thường nương trong nơi mộ
địa (Sosànikangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách
nào tuỳ ý.
Nơi thiêu người hoặc chôn tử
thi đầu đà là họ còn đương thiêu hoặc chôn thường ngày
hay là đã bỏ từ 12 năm rồi, cũng gọi là mộ địa. Những
nơi nào họ nói là mộ địa mà chưa từng thiêu hoặc chôn
tử thi, không gọi là mộ địa được.
Thật vậy, Tỳ-khưu ngụ trong mộ
địa không nên bảo người làm chỗ đi kinh hành, chỗ để
giường chõng, không nên chứa nước uống, tắm, rửa hoặc
dạy người học kinh luật. Vì đầu đà này trọng lắm, cần
phải ngừa sự rủ ro. phải trình cho vị trưởng lão trong
chùa và các viên chức trong làng, tổng hay trước, rồi mới
được phép vào ngụ, không nên dễ duôi. Khi đi vào, phải
theo đường lộ, đến khi đi kinh hành phải iếc mắt xem chỗ
thiêu hoặc chôn tử thi. Ban ngày nên phân biện cho rồi chỗ
có cây, đá, gốc cây. Nếu có phi nhơn [*] kêu la trong ban đêm,
không nên dùng vật chi để đánh, đập, đuổi xô đâu. Cần
đi đến mộ địa mỗi ngày, nếu đi vào nơi ấy lúc nữa
đêm, khuya rồi trở về cũng được. Không nên ăn mè, bột
trộn, với đậu rajamàsa, cá, thịt, hoặc bánh trộn với
sữa tươi, dầu và đường mía, là vật vừa miệng của hành
phi nhơn. Chẳng nên đi vào đình, miếu cất trong nơi ấy.
[*] phi nhơn là ngạ quỉ
mà người thường gọi là chư vị.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc:
- Bậc thượng: nên ở trong
nơi nào mà họ thường chôn tử thi hoặc thường đến chôn
ấy mà than khóc
- Bậc trung: nơi nào thường chôn
hoặc thiêu tử thi cũng ở được.
- Bậc hạ: nơi nào có chôn hoặc
thiêu tử thi một đôi lần, cũng ở được
Ba bậc này nếu lúc canh 5 (là canh
chót, ít hơn hết) mà chẳng vào ở nơi mồ mã gọi là phá
phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ.
10 quả báo trong Sosànikanga:
1. Maranassatipatilàbho: phương
pháp đắc phép niệm sự chết do được thường thấy tử
thi.
2. Appamadavihàratà: trạng thái người
không dễ duôi, nhờ cách đắc phép niệm về sự chết.
3. Asubhanimittàdhigamo: phương pháp
tham thiền thấy cảnh tử thi, do được xem tử thi bỏ trong
mộ địa
4. Kàmaràgavinodanam: cách dứt giảm
tình dục về sự tham thiền thấy cảnh tử thi ấy.
5. Abhinham kàyasabhàvadassanam: cách
thường thấy trạng thái của thân thể không sạch.
6. Samvegabahulatà: trạng thái người
có nhiều sự cảm sợ (samvega) do đắc phép niệm về sự
chết.
7. Àrogyamadàdippahànam:: cách dừt
bỏ sự say mê, do được thấy người bịnh trong nơi ấy.
8. Bhayabheravasahanatà: trạng thái
người kiên nhẫn trong điều kinh sợ đáng ghê gớm vì quen
gặp cảnh đáng ghê tởm.
9. Amanussànam garubhàvaniyatà: trạng
thái người có phẩm cách đáng cho phi nhơn tôn trọng và ngợi
khen.
10. Appicchatàdinam anulomavuttità:
trạng thái người có sự hành vừa theo các đức tánh, nhất
là không tham hay là ít tham.
Ấy là 10 quả báu trong đầu đà này
mà Tỳ-khưu thọ trì được chín chắn
KẾT
LUẬN TRONG ÐÀU ÐÀ THƯỜNG NGỤ TRONG NƠI MỘ ÐỊA
Sosànikanhimaranànusa-dippabhàvà
niddàga tampi phusanti pamàdadosà sampassato cakunapàni bahùni tassa
kàmànurà gavasagampi nahoti cittam sam vegameti vipulam namadam upeti
sammàatho ghatati nibbutimesamàno sosànikangamitineka gunàvahattà
nibbànaninnahadayena nisevitabbam.
Nghĩa là: Tỳ-khưu là người ngụ
trong mộ địa, dầu muốn ngủ trong nơi ấy cũng trái lẽ,
vì không bị các sự dễ duôi tiếp xúc do thắng lực của
phép thiền định về sự chết đã đắc trong nơi ấy. Chẳng
phải có thế thôi, tâm của Tỳ-khưu ấy khi đã thường thấy
tử thi thì không sao bị tình dục lôi cuốn mà chỉ có nhiều
Samvega (dịch là "cảm sợ") không say mê.
Cho nên hành giả mong đạt đến
Niết bàn là nơi dứt khổ, phải tinh tấn hành đầu đà này,
nhờ tâm chơn chánh xu hướng về phép đầu đà thường ngụ
trong mộ địa là pháp đem đến rất nhiều đức tánh như
đã có giải.
XII-
CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐÀU ÐÀ THƯỜNG Ở TRONG CHỖ TĂNG ÐÃ
CHO ÐẦU TIÊN KHÔNG DỜI ÐỔI (Yathàsanthatikanga)
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ.
1) Tôi xin ngăn sự chọn
lựa chỗ ở (senàsanalolupam patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu
là người thường có phẩm cách thường ở trong chỗ mà Tăng
cho đầu tiên, không dời đổi (yathàsathatikangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách
nào tuỳ ý.
Hành giả thọ đầu đà này, nếu
Tỳ-khưu thế mặt Tăng cho chỗ ở đầu tiên thế nào, thì
phải vui thích chỗ ở ấy thôi, không được tìm hỏi, hoặc
đi lựa chỗ ở nào khác.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3
bậc:
- Bậc thượng: chẳng nên
hỏi thăm chỗ ở của mình xa hay gần, hoặc có ma quỷ phá
quấy haychăng? Giáo hội định chỗ nào phảỉ ở nơi ấy.
- Bậc trung: được phép hỏi, nên
chẳng nên đi xem chỗ ở theo ý mình.
- Bậc hạ: được phép hỏi và
đi xem chỗ ở, nếu không vừa ý cũng không nên xin đổi chỗ.
Ba bậc này, nếu phát lòng ham muốn
cũng chỗ ở theo mình, gọi là phá phép đầu đà mà mình
đã nguyện giữ.
Ðầu đà này có 6 quả báo:
1. Ovàdakaranam: được gọi
là hành theo lời dạy của đức Thế Tôn. Ngài có giải rằng:
Chỗ ở mà mình đã được rồi, thì mình phải nên vui thích
theo chỗ ấy, không nên dời đổi như thế
2. Sabramacàrìhitesità: trạng thái
người tìm lợi ích cho hàng phạm hạnh cùng nhau, là nhường
chỗ ở khác cho vị khác.
3. Hìnapanìtavikappariccàgo: cách
dứt bỏ sự phân biện, thấp hèn hay là cao sang.
4. Anurodhavirodhappahànam: phương
pháp dứt bỏ sự vừa lòng và điều trái ý được.
5. Atricchatàyadvàrapidahanam: cách
cấm ngăn sự ham muốn đã qua. [*]
6. Appicchatàdinam anulomavuttità: arạng
thái người có cách hành vừa theo các đức tánh nhất là
không tham hay là ít tham.
[*] là sự ham muốn thái quá đã
qua rồi như là được một rồi còn mong được một nữa
Ấy là 6 quả báo trong đầu đà thường
ở chỗ mà tăng già đã cho mà Tỳ-khưu thọ trì được chín
chắm.
KẾT
LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG NGỤ TRONG CHỖ TĂNG ÐÃ CHỈ CHO
ÐẦU TIÊN KHÔNG DỜI ÐỔI.
Yam laddham tena santuttho yathàsan
thatiko yati nibbikappo sukkham seti seti tina santhara kesupi naso rajjàti
setthamhi hìnam laddhà na kuppati tasmà ariyatàcannam mun ipunga vavannitam
anuyrujetha medhàvì yathàsantaràmatam.
Nghĩa là: hành giả có sự tri túc
trong chỗ ở, được sao ở vậy, là người ngụ chỗ mà Tăng
cho, không tìm ở chỗ cao sang, thì hằng ngủ được an vui,
dầu là nằm trên chiếu cỏ. Người không vui thích trong chỗ
quí trọng, dầu được chỗ thấp hèn cũng chẳng bất bình
hờn giận, mới đáng gọi là người tiếp độ các hàng phạm
hạnh mới xuất gia cho được điều lợi ích.
Bởi cớ ấy, bậc trí tuệ nên
có lòng vui thích trong chỗ ở mà Tăng đã cho, là cổ lệ
của hàng thánh nhơn, mà đức Phật đã thường khen ngợi.
XIII-
CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ NGĂN OAI NGHI NẰM ( Nesajjikanga)
Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
1) Tôi xin ngăn oai nghi nằm
(seyyam patikkhipàmi).
2) Tôi xin thọ trì chi của Tỳ-khưu
là người có phẩm cách ngăn oai nghi nằm (nesajjikangam samàdiyàmi).
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách
nào tuỳ ý.
Tỳ-khưu đã nguyện hành đầu đà
này rồi ban đêm, trong canh 3 đi kinh hành trọn một canh cũng
được, nhưng không nên nằm [*].
[*] phương pháp niệm tất
cả đề mục thiền định đều dùng oai nghi ngồi, nếu hành
đầu đà này, để tham thiền được vừa ý.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc:
- Bậc thượng: dầu dựa
mình vào đâu cũng chẳng được.
- Bậc trung: Được phép dựa.
- Bậc hạ: Nếu dùng giường ghế
theo luật định cũng được (trừ ra không nên nằm).
Ba bậc này nếu nằm trước mặt trời
mọc, gọi là phá phép đầu đà mà mình nguyện giữ.
Quả báo đầu đà Nesajjikànga (đầu
tiên ngăn oai nghi nằm) - Ðầu đà này có 5 quả báo:
1. Catasovinibandhassa upacchedanam:
Phương pháp nhất là dứt trừ cái tâm đã quen thỏa thích
trong sự mê ngủ.
2. Sabbakammatthànànayogasappàyatà:
trạng thái của oai nghi được sự an vui đến phẩm cách tinh
tấn trong cách thiền định .
3. Pàsadikairiyàpathatà: trạng thái
người có oai nghi đem sự tín ngưỡng đến nhiều người.
4. Viriyàrambhànukulatà: trạng thái
vừa đến người có chi tinh tấn.
5. Sammàpatipattiyàsamupabrùhanam:
phẩm cách phát sanh sự tu hành chơn chánh.
KẾT LUẬN
TRONG ÐẦU ÐÀ NGĂN OAI NGHI NẰM
Àbhuyitvàna pallankam panidhaya ujumtanum
nisìdànto vikampeti màrassa hàdayam yati sèyyasukham middhasukham
hitvà àraddhaviriyo nisajjà bhirato bhikkhu sabhayanto tapovanam niràmisam
pìtisukham yasmà samodhigacchati tasmà samanuyunjeyya dhìro nesajjikam
vatam.
Nghĩa là: Hành giả ngồi bán già,
thân hình cho ngay thẳng, có thể làm cho tâm của Ma Vương
phải rung động. Tỳ Khưu là người có tâm tinh tấn dứt
bỏ cách nằm và ngủ cho vui sướng, chỉ ưa thích trong oai
nghi ngồi, làm cho rừng, tức là tapadhamma [1] được soi sáng
rõ ràng, hằng được phỉ dạ [2] vừa lòng không có amisa
[3].
[1] tapadhamma: pháp thiêu
đốt các phiền não
[2] phỉ dạ (piti) là nhờ thỏa
thích trong khi tham thiền mà được no lòng
[3] Chú giải: "vừa lòng không
có amisa" là vừa lòng thỏa thích không nương theo ngũ dục
và đẹp ý trong sự xuất gia
Bởi cớ ấy bậc có trí tuệ nên
giữ gìn phép đầu đà Nesajjika này cho được chín chắn.
GIẢI
VỀ SỰ ÐOÁN XÉT CHUNG TRONG 13 ÐẦU ÐÀ (Sanàsavinicchayakathà)
Mười ba đầu đà này nói tóm lại
chỉ có tám phần: 3 phần chánh và 5 phần không chung lộn;
tóm lại nữa còn 4 phần:
1) 2 đầu đà nương theo
ca-sa ( cìvarapatisamyutta).
2) 5 đầu đà nương theo sự khất
thực ( pindapàtapatisamyutta).
3) 5 đầu đà nương theo chỗ ở
( senàsanapatisamyutta).
4) 1 đầu đà nương theo sự tinh
tấn ( viriyapatisamyutta).
tóm lại nữa có 2 phần :
1) Ðầu đà nào, hành giả
đã thọ rồi, mà thiền định được tiến hóa thì phải
thọ.
2) Đầu đà nào hành giả phải
thọ mà thiền định không phát sanh thì không nên thọ.
Nhưng đầu đà nào mà hành giả không
thọ hoặc đã thọ mà thiền định vẫn được tiến hóa
không tiêu hoại, cũng gọi là thọ, là phải thọ để làm
khuôn mẫu cho kẻ hậu lai; hoặc đầu đà nào mà hành giả
thọ hay không thọ mà thiền định vẫn không phát sanh cũng
gọi là thọ, là phải thọ như thường để làm gương đến
người hậu tấn.
Tóm lại nữa, chỉ còn một, là
nơi nói về tác ý thọ trì cả 13 đầu đà ấy.
Hỏi: - Chia đầu đà ra làm 3 phần
chánh và 5 phần không chung lộn ấy như thế nào ?
Đáp: - 1. Sapadànacàrikanga, 2. Ekàsanikanga,
3. Abbokàsikanga, cả ba đầu đà ấy gọi là đầu đà chánh.
Nghĩa là: Khi đã thọ sapadànacàrikanga rồi thọ luôn pindapàtikanga
cũng được, nếu đã thọ ekàsanikanga rồi thọ luôn pattapindikanga
và khalupacchàbhattikanga cũng được, nếu đã thọ khalupacchàbhattikanga
cũng được, nếu đã thọ abbokàsikanga rồi không lẽ không
thọ rukkhamùlikanga, yâthàsanthatikanga nữa thế nào được.
Àrannikanga, pamsukùkikanga, tecìvarikanga,
nesajjikanga, sosànikanga, cả 5 đầu đà ấy gọi là 5 đầu
đà không chung lộn nhau, vì không mường tượng với đầu
đà khác.
Hỏi: - Chỗ nói tóm lại, còn 4
phần ấy như thế nào ?
Đáp: - Pamsukùlikanga, tecìvarikanga
- cả hai đầu đà này gọi là nương theo ca-sa vì dính dấp
cùng nhau trong cách dùng ca-sa.
Pindapàtikanga, sapadànacàrikanga, ekàsanikanga,
pattapindikanga, khalupacchàbhattikanga, cả 5 đầu đà này gọi
là nương theo thọ thực vì dính dấp cùng trong cách thọ thực.
Àrannikanga rukhamùlikanga, abbhokàsikanga,
sosànikanga, yathàsanthatikanga, cả 5 đầu đà này gọi là nương
theo chỗ ở vì có sự dính dấp cùng nhau trong chỗ ở.
Nesajjikanga gọi là nương theo tinh
tấn vì dính dấp cùng nhau trong sự tinh tấn.
Hỏi: - Chỗ nói tóm lại, còn 2
phần ấy như thế nào ?
Đáp: - 12 đầu đà trên gọi là
nương theo vật dụng. một đầu đà Nesajjikanga sau cuối cùng
gọi là nương theo tinh tấn.
GIẢI
VỀ PHÂN PHÁT ÐẦU ÐÀ (Byàssavinicchayakathà)
- Tỳ Khưu nên thọ trì cả 13 đầu
đà.
- Tỳ Khưu ni chỉ nên thọ trì 8
đầu đà ( vì khó giữ).
- Sa-di không có luật buộc phải
adhitthàna tam y, rút tecìvatikanga ra chỉ còn 12 đầu đà.
- Sikkhamànà và Sa-di ni không bị
buộc phải adhitthàna tam y như sadi và phận sự phụ nữ như
Tỳ Khưu ni nên bỏ àrannikanga, khalupacchàbhattikanga, abbhokàsikanga,
rukkhamùlikanga sosànikanga, tecìvarikanga ra còn lại 7 đầu đà.
Cận sự nam và cận sự nữ [*]
nên thọ trì 2 đầu đà là ekàsanikanga và pattapindikanga.
[*] cận sự nam và cận sự nữ
là người nam hoặc người nữ đem cả thân tâm lo cho Tam bảo
hết lòng hành theo giáo pháp của đức Phật.
-ooOoo-
Ðầu
trang | 01 | 02
| 03 | 04 | 05
| Mục lục
|