|
Phẩm II.a
-ooOoo-
Phẩm Ubbari
1. (13) Chuyện Người
Tìm Giải Thoát Vòng Luân Hồi (Samsàmocaka)
Bậc Ðạo Sư kể chuyện
này trong lúc đang trú tại Veluvana
(Trúc Lâm)
Thuở ấy, trong làng Itthakàvati
ở nước Magadha và làng Dìgharàji
có nhiều người mang nặng tà kiến, muốn
tìm giải thoát vòng luân hồi sanh
tử. Trước đó có một nữ nhân
được tái sanh và một gia đình
như vậy. Vì giết hại nhiều gián, dế và
châu chấu, khi từ trần, bà tái
sanh làm ngạ quỷ, chịu mọi nỗi khổ đói
khát giày vò suốt năm trăm năm.
Thời đức Thế Tôn Gotama
đang ở tại Ràjagaha, nữ nhân
ấy một lần nữa tái sanh vào cùng
gia đình như trước kia tại Itthakàvati.
Một hôm, khi nàng đang chơi đùa
cùng các cô gái khác trên đường
cái gần cổng làng, thì Tôn giả
Sàriputta cùng mười hai Tỷ-kheo khác
đi ngang qua và các cô gái kia vội
vàng đảnh lễ. Nhưng cô này
vẫn đứng yên tại chỗ một cách
vô lễ. Sau đó vị Trưởng lão
suy xét quá khứ và tương lai của
cô, động lòng thương xót, phê
bình thái độ của cô với các
cô kia. Họ liền nắm tay cô và kéo cô
đến đảnh lễ chư vị.
Về sau, cô gái từ trần
lúc sanh con và lại tái sanh giữa loài
ngạ quỷ. Ban đêm, nữ ngạ quỷ ấy xuất
hiện trước Tôn giả Sàriputta, vị
ấy thấy nó liền hỏi:
1.Trần truồng và
xấu xí hình dung,
Gầy guộc và thân
thể nổi gân,
Ngươi yếu ớt, xương
sườn lộ rõ,
Người là ai, hiện đến
đây chăng?
Nữ ngạ quỷ đáp:
2. Tôn giả, con là
ngạ quỷ nương,
Thần dân khốn khổ
của Diêm Vương,
Vì con đã phạm
hành vi ác,
Con đến cõi ma đói
ẩn thân.
Tôn giả Sàriputta:
3. Ngày xưa ngươi
phạm ác gì
Do thân, khẩu, ý thân đã
thực thi,
Vì hạnh nghiệp nào, ngươi
đã đọa
Từ đây đến cảnh
giới âm ty?
Nữ ngạ quỷ:
4. Tôn giả, con không
có họ hàng,
Mẹ cha, quyến thuộc để khuyên
lơn:
'Này con, hãy có tâm
thành kính
Với các Sa-môn, hãy
cúng dường'.
5. Ngũ bách niên từ
đó đến đây,
Con lang thang với tấm thân
này,
Trần truồng, đói
khát luôn hành hạ,
Ðây quả do nhiều ác
nghiệp gây.
6. Kính bái hiền nhân
với tín tâm
Bạch ngài đại lực,
xót thương con,
Cúng dường lấy đức
cho con hưởng,
Giải thoát con từ cảnh
khổ thân.
Chư vị kết tập Kinh điển
kể tiếp chuyện này:
7. Chấp thuận với
lời: 'Ðược lắm thay!'
Vì lòng bi mẫn cõi
đời này,
Cúng dường Tăng chúng
phần cơm nhỏ,
Một mảnh y cùng chén
nước đầy,
Xá-lợi-phất Tôn nhân
phát nguyện
Dành cho ngạ quỷ phước
phần này.
8. Lập tức ngay sau lễ
cúng dâng,
Phước phần hồi hướng
đến vong nhân,
Ðây là kết quả từ
công đức:
Thức uống, thức ăn,
lẫn áo quần.
9. Sáng ngời, y phục thật
thanh tân,
Tơ lụa Ba-la-nại tuyệt
trần,
Mang đủ nữ trang và
kiểu áo,
Ðến gần Xá-lợi-phất
Tôn nhân.
Tôn giả Sàriputta hỏi:
10. Hỡi nàng Thiên
nữ, dáng siêu phàm
Ðang chiếu mười phương
sáng rỡ ràng,
Thiên nữ, sắc nàng
trông chói lọi,
Như vì sao cứu hộ
trần gian.
11. Dung sắc này do nghiệp quả
nào,
Phước phần nàng hưởng
bởi vì sao,
Bất kỳ lạc thú nào
yêu chuộng
Trong dạ, nàng đều thỏa
ước ao?
12. Hỡi nàng Thiên nữ
đại oai thần,
Nàng tạo đức gì
giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực
rỡ,
Vẻ huy hoàng chiếu khắp
mười phương?
Nữ ngạ quỷ đáp:
13. Trước con hình
vóc chỉ trơ xương,
Gầy guộc, đói cơm,
lại ở truồng,
Da dẻ nhăn nheo, nhờ Giác
giả
Từ bi nhìn cảnh ngộ
đau thương.
14. Khi ngài ban tặng chủng
hiền Tăng
Một mảnh y vàng, một
miếng ăn,
Và chén nước kia,
ngài đã chuyển
Phước phần công đức
đến cho con.
15. Hãy nhìn kết quả của
phần ăn:
Lạc thú mà con vẫn
ước mong,
Con được cả ngàn
năm thọ hưởng
Thức ăn đầy đủ
các mùi hương.
16. Hãy nhìn kết quả phát
sinh ra
Từ một mảnh trong chiếc
áo kia:
Y phục giờ đây đầy
đủ loại
Khác nào quốc độ
chúa Nan-da.
17. Tôn giả, nay con có
biết bao
Áo quần, mền đắp
thật dồi dào,
Bằng tơ lụa với lông
loài vật,
Ðủ loại vải dày
mỏng đẹp sao.
18. Sung mãn và cao quý tuyệt
vời,
Chúng treo lơ lửng ở
trên trời,
Con mang tùy ý, thưa Tôn
giả,
Bất cứ loại nào
thích thú thôi.
19. Hãy nhìn kết quả tạo
nên phần
Từ chén nước trong
đã cúng dâng:
Có bốn hồ sen sâu
thẳm thẳm
Ðược xây dựng
khéo léo vô ngần.
20. Bến bờ xinh đẹp, nước
trong xanh,
Nhè nhẹ hương thơm,
dịu mát lành,
Bao phủ toàn sen xanh, đỏ
thắm,
Tràn đầy ngó
súng mọc chung quanh.
21. Phần con an hưởng thú
vui chơi,
Chẳng sợ gì đâu
bốn góc trời,
Tôn giả, nay con về cõi
đất
Ðể con đảnh lễ
đấng thương đời.
2. (14) Chuyện Mẹ
Của Trưởng Lão Sàriputta (Sàriputtatheramàtu)
Bậc Ðạo Sư kể chuyện
này trong lúc đang trú tại Veluvana
(Trúc Lâm).
Một hôm, các Tôn giả
Sàriputta (Xá-lợi-phất), Mahà-Moggallàna
(Ðại Mục-kiền-liên), Anurudha (A-na-luật-đà)
và Kapppina (Kiếp-tân-na) đang trú tại
một nơi trong khu rừng không xa thành Ràjagaha
(Vương Xá).
Bấy giờ ở Benares (Ba-la-nại)
có một Bà-la-môn đại phú gia,
vốn là một giếng nước đầy đối
với các Sa-môn, Bà-la-môn, đám
dân nghèo, du sĩ, lữ khách, hành
khất; vị ấy cúng dường bố thí
thực phẩm, y phục, sàng tọa và nhiều vật
dụng khác.
Vị ấy điều hành sinh
hoạt của mình và bố thí tùy
theo cơ hội phù hợp với các khách
vãng lai, đủ mọi vật cần thiết cho tuyến
đường trường. Vị ấy thường
dặn bà vợ:
- Này bà, đừng quên
việc bố thí này, bà phải chuyên
tâm chăm lo bố thí như đã
được định đoạt.
Bà vợ đồng ý, nhưng
khi ông ra đi, bà liền cắt giảm tục
lệ cúng dường chư Tăng. Hơn nữa,
đối với đám lữ khách đến
xin cư trú, bà chỉ vào túp lều
xiêu vẹo bị bỏ phế đằng sau nhà
và bảo họ:
- Hãy ở lại đó.
Khi đám du sĩ đến xin
thực phẩm nước uống và các thức
khác, bà thường buông lời nguyền rủa,
kể ra cho từng người bất cứ vật gì
ô uế đáng ghê tởm và bảo:
- Hãy ăn phân đi! Hãy
uống nước tiểu đi! Hãy uống máu
đi! Hãy ăn óc mẹ ngươi đi!
Do nghiệp lực trói buộc, lúc
từ trần, bà tái sanh làm nữ ngạ
quỷ chịu nỗi khốn cùng phù hợp với
ác hạnh của bà. Khi nhớ lại đám
quyến thuộc trong tiền kiếp, bà ước mong đến
gần Tôn giả Sàriputta, và bà
liền đến nơi ngài cư trú.
Các vị thổ thần trong
nhà ngài không chấp nhận cho nữ
quỷ vào. Do đó nữ quỷ nói như sau:
- Trong kiếp thứ năm kể về trước,
ta là mẹ của Tôn giả Trưởng lão
Sàriputta, hãy cho phép ta vào cửa
để thăm ngài.
Vừa nghe vậy, chư thần
liền cho phép nữ quỷ.
Khi nữ quỷ vào trong, nữ quỷ
đứng cuối am thất và thấy ngài.
Chợt trông thấy nữ quỷ, ngài động
lòng từ bi liền hỏi nữ quỷ:
1. Trần truồng và
xấu xí hình dung,
Gầy guộc và thân
thể nổi gân,
Ngươi yếu ớt, xương
sườn lộ rõ,
Người là ai, hiện đến
đây chăng?
Nữ ngạ quỷ đáp:
2. Tôn giả, xưa ta
mẹ của ngài,
Trong nhiều kiếp trước ở trên
đời,
Tái sanh cảnh giới loài
ma quỷ,
Ðói khát giày
vò mãi chẳng thôi.
3. Những thứ gì nôn
tháo, bọt mồm,
Nước mũi tuôn ra, nước
dãi đờm,
Chất mỡ rỉ ra từ
xác chết
Bị thiêu, máu sản
phụ lâm bồn.
4. Máu chảy ra từ các
vết thương,
Hoặc từ đầu, mũi
bị cưa ngang,
Những gì cấu uế trong
nam nữ,
Ðói lã, ta đều
phải lấy ăn.
5. Máu mủ ta ăn của
các loài,
Và luôn máu mủ
của con người,
Không nơi cư trú,
không nhà cửa,
Nằm chiếc giường đen
nghĩa địa hoài.
6. Tôn giả, xin Tôn giả
cúng dường,
Vì ta, ngài bố thí
ban ân,
Ðể cho ta hưởng phần
công đức,
Giải thoát ta từ máu,
mủ, phân.
Ngày hôm sau, Tôn giả Sàriputta
cùng ba vị Tỷ-kheo kia khất thực trong thành
Vương Xá, đến tận cung Ðại vương
Bimbisàra (Tần-bà-sa).
Nhà vua hỏi:
- Chư Tôn giả, tại sao
chư vị đến đây?
Tôn giả Mahà-Moggallàna
trình vua những việc đã xảy ra. Nhà
vua phán:
- Chư Tôn giả, trẫm chấp
thuận việc ấy.
Nhà vua bảo chư vị ra
đi, triệu vị cận thần vào và truyền
lệnh:
- Hãy xây trong khu rừng
của thành này bốn am thất được
cung cấp đủ bóng mát và nước
chảy.
Khi các am thất đã
được hoàn tất, nhà vua đem
chúng cùng các vật dụng cần thiết
trong cuộc sống cúng dường Trưởng
lão Sàriputta. Sau đó vị ấy
dâng tặng lễ vật này lên Tăng
chúng khắp thế gian do đức Phật làm
thượng thủ và hồi hướng công
đức ấy đến nữ ngạ quỷ kia.
Nữ ngạ quỷ hưởng các
lợi lạc này liền được tái sanh
lên thiên giới. Bấy giờ đầy
đủ mọi thứ cần dùng, một hôm
Thiên nữ đến gần Tôn giả Mahà-Moggallàna
và kể cho vị ấy nghe tất cả mọi chi
tiết trong hai kiếp tái sinh làm ngạ quỷ và
Thiên nữ.
Do đó, chuyện kể rằng:
7. Khi nghe mẹ đã
nói gần xa,
Thương xót, ngài
U-pa-tis-sa,
Triệu tập Mục-kiền-liên
đại lực,
Cùng A-na-luật, Kiếp-tân-na.
8. Khi đã làm xong bốn
cái am,
Ngài dâng lễ cúng
tứ phương Tăng,
Am tranh, thực phẩm và
hồi hướng
Công đức về cho mẹ
hưởng phần.
9. Lập tức ngay sau lễ
cúng dâng,
Phước phần hồi hướng
đến vong nhân,
Ðây là kết quả từ
công đức:
Thức uống, thức ăn,
lẫn áo quần.
10. Xiêm y thanh lịch hiện dần
ra,
Ðệ nhất Ba-la-nại lụa
là,
Tô điểm ngọc vàng, nhiều
kiểu áo,
Ðến gần Tôn giả
Ko-li-ta.
Tôn giả Mahà-Moggallàna
hỏi:
11. Hỡi nàng Thiên
nữ, dáng siêu phàm
Ðang chiếu mười phương
sáng rỡ ràng,
Thiên nữ, sắc nàng
trông chói lọi,
Như vì sao cứu hộ
trần gian.
12. Dung sắc này do nghiệp quả
nào,
Phước phần nàng hưởng
bởi vì sao,
Bất kỳ lạc thú nào
yêu chuộng
Trong dạ, nàng đều thỏa
ước ao?
13. Hỡi nàng Thiên nữ
đại oai thần,
Nàng tạo đức gì
giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực
rỡ,
Vẻ huy hoàng chiếu khắp
mười phương?
Thiên nữ đáp:
14. Xá-lợi-phất
Tôn giả cúng dường,
Nhờ đây, con hạnh
phúc hân hoan,
Bốn phương con chẳng
hề kinh hãi,
Tôn giả chính là
bậc xót thương
Khắp cõi trần gian, thưa
Giác giả,
Con về đây kính lễ
tôn nhan.
3. (15) Chuyện Nữ
Ngạ Quỷ Mattà (Mattà)
Bậc Ðạo Sư kể chuyện
này trong khi đang trú tại Jetavana (Kỳ
Viên).
Thuở ấy tại Sàvatthi
(Xá-vệ) có một vị địa chủ
đầy tín tâm và đạo hạnh.
Tuy thế, bà vợ Mattà lại không có
lòng tin, không mộ đạo, bản tính
hay nóng giận và không có con.
Sau đó, ông sợ dòng
họ bị tuyệt tự, đã cưới một phụ
nữ khác tên là Tissà. Nàng
có lòng tin, mộ đạo và làm
đẹp lòng chồng, nàng sinh một con
trai được đặt tên là Bhùta.
Là bà chủ nhà, nàng kính cẩn
phục vụ bốn Tỷ-kheo thọ trai.
Không thể chịu đựng
mãi tình địch, khi đã quét
nhà xong, Mattà đổ rác lên
đầu Tissà. Về sau Mattà từ
trần và tái sanh làm nữ ngạ quỷ,
phải chịu nỗi khốn khổ năm phần vì
nghiệp lực của mình.
Nỗi thống khổ của bà
được thấy rõ trong bài kinh này.
Rồi một hôm, nữ ngạ quỷ nhớ lại
quá khứ, liền hiện hình trước Tissà
lúc ấy đang tắm rửa sau nhà.
Khi thấy ngạ quỷ, Tissà hỏi:
1. Trần truồng và
xấu xí hình dung,
Gầy guộc và thân
thể nổi gân,
Ngươi yếu ớt, xương
sườn lộ rõ,
Ngươi là ai hiện đến
đây chăng?
Mattà:
2. Mat-tà là chị,
hỡi Tis-sà,
Chị lấy chồng chung một
kiếp xưa,
Do chị đã gây nên
ác nghiệp,
Từ đây đọa đến
cõi yêu ma.
Tissà:
3. Ngày xưa đã
phạm ác hạnh gì
Do khẩu, ý, thân chị thực
thi,
Vì hạnh nghiệp nào nên
đã đọa
Từ đây đến cảnh
giới âm ty?
Mattà:
4. Xưa chị ác tâm,
lắm hận sân,
Xan tham, dối trá, lại
ghen hờn,
Vì dùng ác ngữ
làm thương tổn,
Chị đoạ từ đây
đến cõi âm.
Tissà:
5. Em còn nhớ mọi chuyện
ngày xưa,
Chị thật hung hăng thuở
bấy giờ,
Song có việc này em muốn
hỏi:
Tại sao mình chị phủ
đồ dơ?
Mattà:
6. Một buổi em vừa
tắm gội xong,
Áo quần sạch sẽ
mới vừa mang,
Chị đây, quả thật,
còn hơn thế,
Chị điểm tô nhiều món
nữ trang.
7. Khi điểm trang vầy, chị
ngó qua
Em đang nói chuyện với
chồng ta,
Chính vì việc ấy, niềm
ganh tỵ,
Cuồng nộ trong lòng bột
phát ra.
8. Rồi chị cầm đồ
rác bụi lên,
Ðúng là chị đã
rải đầu em,
Vì do kết quả hành vi
ấy,
Chị phải giờ đây
chịu lấm lem.
Tissà:
9. Thật em biết mọi chuyện
ngày xưa,
Chị rảy lên em lắm
bụi dơ,
Nhưng có việc này em muốn
hỏi:
Tại sao chị ngứa ngáy
giày vò?
Mattà:
10. Tìm dược thảo,
xưa hai chúng ta
Cùng đi vào tận
chốn rừng già,
Em tìm các cỏ cây
làm thuốc,
Chị hái quả cây Ka-pi-ka.
11. Lúc ấy em không biết
chút nào,
Giường em, chị rải chúng
nhiều sao,
Vì do kết quả hành vi
ấy,
Chị bị giày vò,
ngứa biết bao!
Tissà:
12. Thật ra, em biết rõ
hoàn toàn
Chị rải trái kia khắp
cả giường,
Song có việc này em muốn
hỏi:
Tại sao chị phải chịu
trần truồng?
Mattà:
13. Ngày kia có cuộc
họp thân bằng,
Tụ tập họ hàng lại
thật đông,
Em đã được
mời đi dự lễ
Cùng chồng ta đó,
chị thì không.
14. Thế rồi em chẳng biết hoàn
toàn,
Chị lấy cất đi
mọi áo quần,
Do chính việc này sinh kết
quả,
Giờ đây chị phải
chịu trần truồng.
Tissà:
15. Thật ra em biết chuyện
kia mà,
Chị lấy áo quần
em quẳng xa,
Song có việc này em muốn
hỏi:
Sao mùi xú uế chị xông
ra?
Mattà:
16. Vòng hoa, hương
liệu, với trầm hương
Chị lấy của em vứt
hố phân,
Do quả chị làm ra ác
nghiệp,
Chị xông mùi xú
uế vô cùng.
Tissà:
17. Ðúng là
em biết rõ điều này,
Ác nghiệp kia do chị đã
gây,
Song có việc này em muốn
hỏi:
Tại sao chị khốn khổ
như vầy?
Mattà:
18. Tài sản trong nhà
của chúng ta
Thuộc về cả chị lẫn
em mà,
Cúng dường bố thí
là công đức,
Song chị không hề tự tạo
ra
Một chỗ trú an, nay khốn
khổ,
Là do kết quả lỗi lầm
xưa.
19. Em thường bảo chị
chính lời này:
Chị cả đang hành
ác nghiệp đây,
Song nếu không làm điều
tổn đức,
Về sau sẽ hưởng phước
tràn đầy'.
Tissà:
20. Thái độ hận
sân, chị đến gần
Bên em, chị tật đố
ghen hờn,
Hãy nhìn quy luật điều
chân lý:
Kết quả hành vi ác đã
làm.
21. Chị lắm gia nhân ở
tại nhà,
Nữ trang đầy đủ
thật xa hoa,
Ngày nay chúng được
người ngoài hưởng,
Lạc thú ở đời
chỉ thoảng qua.
22. Giờ đây, cha của
bé Bhù-ta
Từ chợ sắp quay trở
lại nhà,
Ông sẽ tặng quà cho
chị đó,
Ðừng đi, hãy
đợi lát giây mà.
Mattà:
23. Trần truồng, dị
tướng, quá hao gầy,
Mình mẩy đường
gân nổi rõ đầy,
Ðây chiếc khố che phần
hạ thể,
Ðừng cho bố trẻ
thấy ta vầy.
Tissà:
24. Này, chị muốn
em tặng thứ nào,
Làm gì giúp đỡ
chị hay sao,
Ðể cho chị được
nhiều an lạc,
Hạnh phúc mọi điều thỏa
ước ao?
Mattà:
25. Ðây bốn Tỷ-kheo
của chúng Tăng,
Và thêm vào đó
bốn Sa-môn,
Cúng dường tám vị
và hồi hướng
Công đức cho ta được
hưởng phần,
Sau đó, ta tràn đầy
hạnh phúc,
Thỏa lòng ao ước
được hồng ân.
Chuyện kể tiếp:
26. 'Ðược lắm!',
nàng vừa nói vậy xong,
Liền đem dâng cúng tám
Sa-môn
Phạn trai, cùng với nhiều
y phục,
Hồi hướng phước
phần đến cổ nhân.
27. Lập tức ngay sau lễ
cúng dâng,
Phước phần hồi hướng
đến vong nhân,
Ðây là kết quả từ
công đức:
Thức uống, thức ăn,
lẫn áo quần.
28. Sáng ngời, y phục thật
thanh tân,
Tơ lụa Ba-la-nại tuyệt
trần,
Mang đủ nữ trang và
kiểu áo,
Ðến gần vợ kế của
phu nhân.
Tissà:
29. Hỡi nàng Thiên
nữ, dáng siêu phàm
Ðang chiếu mười phương
sáng rỡ ràng,
Thiên nữ, sắc nàng
trông chói lọi,
Như vì sao cứu hộ
trần gian.
30. Dung sắc này do nghiệp quả
nào,
Phước phần nàng hưởng
bởi vì sao,
Bất kỳ lạc thú nào
trong dạ
Yêu chuộng, nàng đều
thỏa ước ao?
31. Hỡi nàng Thiên nữ
đại oai thần,
Nàng tạo đức gì
giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực
rỡ,
Vẻ huy hoàng chiếu khắp
mười phương?
Mattà:
32. Mat-tà là chị,
hỡi Tis-sà,
Chị lấy chung chồng một
kiếp qua,
Do chị đã gây nên
ác nghiệp,
Từ đây đọa tới
cõi yêu ma,
Nhờ em dâng lễ, nay an
hưởng.
Chị chẳng sợ gì mọi
hướng xa.
33. Mong em trường thọ với
thân nhân!
Em hỡi, mong em hưởng phước
ân
Ðạt cảnh ly sầu
bi, dục vọng,
Cõi trời của Hóa
Lạc Thiên thần.
34. Em sống đời sùng
đạo, cúng dường,
Tại đây bố thí,
hỡi hồng nhan,
Ðoạn trừ gốc rễ
xan tham ấy,
Em đến cõi thiên, phước
nghiệp tràn.
4. (16) Chuyện Nữ
Ngạ Quỷ Nandà (Nandàpeti)
Bậc Ðạo Sư kể chuyện
này trong lúc đang trú tại Jetavana
(Kỳ Viên).
Ở một làng nọ không xa Sàvatthi
(Xá-vệ) có một đệ tử tại gia đầy
lòng tin và mộ đạo. Tuy thế, vợ vị
ấy tên là Nandà lại không
có lòng tin, không mộ đạo, xan tham,
dễ nóng giận, ác ngữ, thường
tỏ ra bất kính và bất tuân lời
chồng. Bà thường la mắng ồn ào
như trống nổi và say mê phỉ báng
mạ lỵ.
Khi từ trần và tái
sanh làm nữ ngạ quỷ, bà cư trú gần
làng ấy. Rồi một hôm, bà xuất
hiện trước mặt cư sĩ Nandasena đang
đi trên đường. Khi thấy nữ ngạ
quỷ, chàng ngâm kệ hỏi:
1. Ðen đủi và
hình tướng dữ dằn,
Thân mình xương xẩu
thật kinh hoàng,
Nhà ngươi mắt đỏ,
răng vành chạch,
Ta chắc ngươi không
phải thế nhân.
Nữ ngạ quỷ:
2. Nan-dà là thiếp,
hỡi Nan-da,
Thiếp chính vợ chàng một
kiếp xưa,
Vì đã dùng ngôn
từ phỉ báng,
Từ đây đọa đến
cảnh yêu ma.
Nandasena:
3. Ngày xưa đã
phạm ác hạnh gì
Do khẩu, ý, thân đã
thực thi,
Vì hạnh nghiệp nào nên
đã đọa
Từ đây đến cảnh
giới âm ty?
Nữ ngạ quỷ:
4. Xưa thiếp ác ngôn,
lắm hận sân,
Thiếp thường không kính
trọng phu quân,
Vì dùng lời lẽ gây
thương tổn,
Thiếp đọa từ đây
tới cõi âm.
Nandasena:
5. Ta tặng nàng đây
chiếc áo choàng,
Áo này nàng hãy
lấy mà mang,
Sau khi nàng đã choàng
xong áo,
Ta sẽ dẫn nàng đến
cố hương.
6. Nàng sẽ được
ta tặng áo quần,
Về nhà đủ thức
uống, đồ ăn,
Rồi nàng sẽ ngắm
đôi nam tử,
Dâu của nàng là
một ác nhân.
Nữ ngạ quỷ:
7. Những gì chàng
tặng, dẫu trao tay,
Cũng chẳng giúp cho thiếp
thật hay,
Song với Tỷ-kheo đầy giới
đức,
Ða văn, ly dục ở
đời này,
8. Cúng dường chư vị
đủ cao lương,
Hồi hướng về cho thiếp phước
ân,
Thiếp sẽ được ban nhiều
hạnh phúc,
Ðạt thành mọi nguyện
ước toàn phần.
Ba vần kệ tiếp theo được
chư vị kết tập Kinh điển ngâm:
9. 'Ðược lắm!',
chàng vừa hứa hẹn xong,
Cúng dường hào phóng
lễ chàng dâng
Dồi dào thực phẩm
mềm và cứng,
Y phục, dù, hương
liệu, tọa sàng,
Ðủ loại dép giày,
hoa kết chuỗi,
Sau khi dâng cúng các
hiền Tăng
Ly tham, đạo hạnh, đa
văn đủ,
Chàng chuyển phước phần
đến cổ nhân.
10. Lập tức ngay sau lễ
cúng dâng,
Phước phần hồi hướng
đến vong nhân,
Ðây là kết quả phần
công đức,
Thức uống, thức ăn
lẫn áo quần.
11. Sáng ngời, y phục thật
thanh tân,
Tơ lụa Ba-la-nại tuyệt
trần,
Mang đủ nữ trang và
kiểu áo,
Nàng liền tiến đến vị
phu quân.
Nandasena:
12. Hỡi nàng Thiên
nữ dáng siêu phàm
Ðang chiếu mười phương
sáng rỡ ràng,
Thiên nữ, sắc nàng
trông chói lọi
Như vì sao cứu hộ
trần gian.
13. Dung sắc này do nghiệp quả
nào,
Phước phần nàng hưởng
bởi vì sao?
Bất kỳ lực thú
nào trong dạ
Yêu chuộng, nàng đều
thỏa ước ao?
14. Hỡi nàng Thiên nữ
đại oai thần,
Nàng tạo đức gì
giữa thế nhân,
Vì cớ gì oai nghi rực
rỡ,
Vẻ huy hoàng chiếu khắp
mười phương?
Thiên nữ:
15. Nan-dà là thiếp,
hỡi Nan-da,
Thiếp chính vợ chàng một
kiếp qua,
Do đã phạm vào
bất thiện nghiệp,
Từ đây đọa tới
cõi yêu ma,
Nhờ chàng dâng lễ,
nay an hưởng,
Thiếp chẳng sợ gì mọi hướng
xa.
16. Mong chàng trường thọ
với thân nhân,
Gia chủ, mong chàng hưởng
phước ân,
Ðạt cảnh ly sầu
bi, dục vọng,
Cõi trời của Hóa
Lạc Thiên thần.
17. Chàng sống đời
sùng đạo, cúng dâng,
Tại đây, bố thí,
hỡi phu quân,
Ðoạn trừ gốc rễ
xan tham ấy,
Chàng đến cõi thiên
chẳng lỗi lầm.
5. (17) Chuyện Mattakundalì
(Mattakundalì)
Chuyện này đã được
kể ở Tập "Chuyện Thiên Cung", Phẩm II, số
9: Thiên tử Ðeo Vòng Tai.
6. (18) Chuyện Ðại
Vương Kanha (Kanha)
Bậc Ðạo Sư kể chuyện
này trong lúc đang trú tại Jetavana.
Ở thành Sàvatthi, con trai
của một vị đệ tử tại gia từ trần.
Người cha đau buồn không thể tắm rửa
ăn uống hay quan tâm đến công việc của
mình, mà cũng không đi phụng sự
đức Phật. Vị ấy thường nói
lảm nhảm:
- Con yêu quý của ta đã
bỏ đi đâu rồi! Tại sao nó
ra đi trước ta?
Trong lúc bậc Ðạo Sư
đang quán sát thế gian vào lúc rạng
đông. Ngài thấy người kia có
đủ cơ duyên đắc đạo quả.
Ngày hôm sau, được chúng Tỷ-kheo vây
quanh, Ngài đi vào Sàvatthi để
khất thực. Sau khi thọ trai, Ngài cùng thị
giả Ananda đến cửa nhà người ấy.
Lập tức các gia nhân báo cho vị
đệ tử cư sĩ kia và đưa vị
ấy đến tiếp kiến bậc Ðạo Sư.
Khi Ngài thấy vị ấy
ngồi một bên, Ngài bảo:
- Này cư sĩ, ông đang
phiền muộn điều gì chăng?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Này cư sĩ, các bậc
trí nhân ngày xưa không còn than
khóc đứa con yêu từ trần sau khi
đã nghe chuyện của các bậc Hiền trí.
Rồi theo lời thỉnh cầu
của người gia chủ, Ngài kể chuyện cổ tích
này.
Thời xưa trong thành Dvàravati,
có mười huynh đệ hoàng gia: Vàsudeva,
Baladeva, Candadeva, Suriyadeva, Aggideva, Varunadeva, Ajjuna, Pajjuna,
Ghatapandita và Ankura. Trong số này, có
con trai của Ðại Vương Vàsudeva
từ trần.
Vị vua ấy tràn ngập
nỗi sầu bi, xao lãng mọi phận sự quân
vương, cứ nằm dài trên giường,
chắp tay lên đầu và nói lảm
nhảm. Lúc ấy Ghatapandita (Trí giả
Ghata) suy nghĩ: 'Không ai ngoài ta có
thể xua tan nỗi ưu phiền của Hoàng huynh. Ta sẽ
dùng mưu kế dẹp bỏ nỗi sầu của Hoàng
huynh'.
Vì thế vị ấy làm ra
vẻ điên khùng vừa nhìn lên
trời, vừa lang thang khắp kinh thành, bảo:
- Cho ta con thỏ! Cho ta con thỏ!
Lúc ấy dân chúng toàn
thành suy nghĩ: 'Ghatapandita đã phát
điên rồi!'.
Lúc ấy vị quốc sư
tên là Rohineyya đi đến Ðại
vương Vàsudeva và mở đầu
câu chuyện với vần kệ này:
1. Ðứng lên!
Tâu Ðại đến Kan-ha,
Sao Ðại đế nằm mãi
thế kia?
Ích lợi gì khi ngài
ngủ thiếp?
Chàng là bào đệ
của ngài mà,
Là tim, mắt phải ngài
yêu quý,
Gió cuốn Gha-ta hóa
dại khờ!
Bậc Ðạo Sư tiếp tục
câu chuyện với vần kệ này:
2. Khi nghe lời của Ro-hi-ya,
Ðại đế Ke-sa, dáng
xót xa,
Nặng trĩu sầu tư, liền
đứng dậy
Chỉ vì bào đệ
của nhà vua.
Sau đó nhà vua từ lầu
thượng bước xuống và đi đến
gặp Ghatapandita. Nhà vua ôm chặt bào
đệ với đôi tay và nói chuyện với
chàng:
3. Sao dáng điên
rồ, đệ thẩn thơ
Khắp kinh thành đất
nước Dvà-ra,
Thì thầm: 'Thỏ! Thỏ!'
luôn mồm ấy,
Loại thỏ gì kia đệ
ước mơ?
4. Thỏ dầu bằng ngọc hoặc
vàng ròng,
Hoặc bạc hay là loại
thỏ đồng,
Bảo ngọc, san hô, loài
đá quý,
Ta làm cho đệ thỏa cầu
mong.
5. Còn có nhiều loài
thỏ biết bao
Vẫn thường chạy nhảy
chốn rừng sâu,
Loại này ta cũng mang
cho đệ,
Loại thỏ nào đâu
đệ ước ao?
Ghatapandita Çáp:
6. Những loại thỏ
này đệ chẳng ham,
Những loài cư trú
khắp trần gian,
Ke-sa-va, hãy mau đem xuống
Cho đệ thỏ kia chốn
Quảng Hàn!
Khi nghe chàng nói, nhà vua
đau buồn suy nghĩ: 'Chắc chắn em ta đã
hóa điên rồi', và bảo:
7. Bào đệ, chắc
em sẽ bỏ đời,
Vì em mơ ước chuyện
xa vời,
Chuyện mà không có ai
mơ ước:
Con thỏ cung trăng ở cõi
trời!
Khi đã nghe những lời của
nhà vua xong, Ghatapandita đứng yên và
đáp:
- Này Hoàng huynh, Hoàng
huynh cũng đã hủy hoại cuộc đời
của mình nhưng không đạt được
con thỏ trên cung trăng mà Hoàng huynh
mơ ước.
Rồi vị ấy ngâm vần
kệ này:
8. Nếu Kan-ha quả thật
trí cao
Dạy cho người khác
khỏi ưu sầu,
Giờ đây sao vẫn còn
than khóc
Nam tử từ trần đã
bấy lâu?
Trong khi đang đứng giữa
đường cái, vị ấy nói như
sau:
- Quả thật đệ ước
mơ một điều rõ ràng, có thể hiểu
được, nhưng Hoàng huynh lại than khóc
về một điều không thể hiểu được như
thế kia.
Rồi vị ấy ngâm kệ thuyết
pháp với nhà vua:
9. Mong con ta sống chẳng
từ trần!
Không một người hay
một vị thần
Có thể đạt điều
không thể đạt,
Sao điều không thể lại
cầu mong?
10. Không có bùa thiêng
hoặc thuốc thang,
Chẳng loài dược thảo
hoặc tiền vàng
Ðủ công năng để
làm hồi phục
Người chết Hoàng huynh vẫn
khóc than.
11. Chính đám phú
gia lắm bạc vàng,
Quốc vương, quý tộc
có giang san,
Những người phong phú
bao tiền của
Cũng chẳng thoát tay lão
tử thần.
12. Sát-ly, Sa-môn với Thủ-đà,
Puk-ku-sa, Vệ-xá, Chiên-đà,
Những người này với
toàn gia tộc
Cũng chẳng thoát tay lão-tử
ma.
13. Những kẻ chuyên trì
tụng chú thần
Sáu phần sáng tạo
bởi La-môn,
Bọn này, bọn khác dùng
tà thuật
Cũng chẳng thoát tay lão-tử
vong.
14. Ngay các trí nhân
thật chánh chân,
Các nhà khổ hạnh
đã điều thân,
Sa-môn, ẩn sĩ, dù
tu luyện,
Ðến đúng thời cơ
cũng mạng vong.
15. Những bậc suốt đời
tu tập tâm,
Những người phận sự
đã làm xong,
Những người giải thoát,
ly tham dục,
Ðoạn thiện ác hành,
cũng bỏ thân.
Như vậy Ghatapandita thuyết pháp
với nhà vua. Khi nhà vua đã nghe xong,
nỗi đau buồn liền tan biến và tâm trí
trở nên thanh thản. Nhà vua ngâm kệ để
tán thán Ghatapandita:
16. Lòng ta quả thực
nóng bừng,
Khác nào sữa lạc
đổ trong lửa đào,
Em vừa tưới nước
lạnh vào,
Giờ đây ta dứt hết
bao khổ sầu.
17. Quả em nhổ mũi tên
đau
Nỗi ưu phiền đã cắm
sâu vào lòng,
Xua tan mọi nỗi thương tâm,
Sầu tư nặng trĩu, khóc
thầm vì con.
18. Giờ đây trút
bỏ đau buồn,
Lòng ta lắng dịu, trí
thường khinh an,
Ta không còn phải khóc
than,
Từ khi nghe những lời vàng
của em.
19. Vậy là những bậc
trí hiền,
Ðầy lòng bi mẫn,
ưu phiền xóa ngay,
Như Gha-ta tiểu đệ này
Ðã làm huynh trưởng
từ rày an tâm.
20. Kẻ nào bầu bạn
hiền nhân
Vẫn thường hầu cận
thiết thân bên mình,
Với lời khuyên nhủ
chí tình
Như Gha-ta với trưởng
huynh của chàng.
Bậc Ðạo Sư thuyết pháp
thoại này và bảo:
- Như vậy, này cư sĩ,
những người trí tuệ ngày xưa dứt
bỏ ưu phiền vì con sau khi đã nghe chuyện
của các bậc hiền nhân.
Sau đó vừa thuyết giảng
các Thánh đế, Ngài vừa đưa
chuyện Tiền thân này vào cơ hội trên.
Khi pháp thoại chấm dứt, vị cư sĩ
ấy đã được an trú vào
quả vị Dự Lưu.
7. (19) Chuyện Ngạ
Quỷ Dhanapàla (Dhanapàlapeta)
Bậc Ðạo Sư kể chuyện
này trong lúc đang trú tại Jetavana.
Trước khi đức Phật
đản sinh, trong quốc độ Dasanna,
tại kinh thành Erakaccha, có một vị
chủ ngân khố tên là Dhanapàla
(Tài Hộ), là một người không
có lòng tin, không mộ đạo, keo kiệt
và đầy tà kiến. Những công việc
của vị này có thể hiểu được qua
Kinh điển Pàli. Lúc từ trần,
vị ấy tái sanh làm ngạ quỷ trong một
vùng sa mạc hoang vắng. Ngạ quỷ đi lang
thang khắp nơi, bị đói khát giày
vò hành hạ.
Thời ấy, một số thương
nhân sống ở Sàvatthi chất đầy
hàng hóa lên năm trăm cỗ xe và khi
đã đến Uttarapatha, họ bán các
hàng ấy. Sau đó, họ lại chất đầy
hàng hóa lên xe để trở về.
Họ khởi hành lên đường
về nhà lúc chiếu tối họ đến tại một
gốc cây. Ở đấy họ tháo cương
bỏ bầy bò ra và tạm trú qua đêm.
Thế rồi ngạ quỷ kia bị cơn khát nước
giày vò liền đến nơi ấy kiếm thứ
gì để uống, nhưng không được
giọt nào, nó liền thốt tiếng kêu. Khi thấy
nó, các thương nhân hỏi:
1. Trần truồng và
xấu xí hình dung,
Gầy guộc và thân
thể nổi gân,
Ngươi yếu ớt, xương
sườn lộ rõ,
Ngươi là ai đấy,
hỡi vong nhân?
Ngạ quỷ đáp:
2. Tôn giả, ta là
ngạ quỷ nhân,
Thần dân xấu số
của Diêm vương,
Vì ta đã phạm
hành vi ác,
Ta đến nơi ma đói
ẩn thân.
Ðám thương nhân:
3. Ngày xưa ngươi
phạm ác hành gì,
Do khẩu, ý, thân đã
thực thi,
Vì hạnh nghiệp nào ngươi
đã đọa
Từ đây đến cảnh
giới âm ty?
Ngạ quỷ:
4. Kinh thành bộ tộc
Da-san-na,
Danh vọng lẫy lừng E-ra-ka,
Thuở trước ta là nhà
triệu phú,
Với tên Tài Hộ tặng
cho ta.
5. Tám mươi ngàn chẵn
cỗ xe lừa
Chất chứa vàng ròng
sở hữu ta,
Thuở đó ta nhiều vàng
bạc lắm,
Ngọc trai, ngọc mắt báo đầy
nhà.
6. Như vậy ta là đại
phú ông,
Nhưng ta lại chẳng muốn
cho không,
Khi ta ăn uống, ta cài
cửa
Ðể bọn ăn mày chẳng
ngóng trông.
7. Xưa ta không mộ đạo,
xan tham,
Keo kiệt, dùng lời nói
hại nhân,
Ta cản nhiều người chuyên
bố thí,
Những người làm phận
sự chuyên cần.
8. Ta nói: 'Không sao có
phước phần
Dành cho việc bố đức
thi ân,
Tu thân đâu có
đem thành quả?'
Ta phá bao nguồn nước
vệ đường,
Ao giếng, hồ sen, vườn cảnh
đẹp,
Lối đi hiểm trở khó
băng ngang.
9. Như vậy ta không tạo
phước ân,
Làm người gây ác
nghiệp từ trần,
Tái sanh vào xứ loài
ma quỷ,
Ðói khát luôn
hành hạ khổ thân,
Từ đấy đến nay
ta tạ thế
Tính ra vừa đủ
năm lăm năm.
10. Ẩm thực ta không được
hưởng phần,
Do không có bố đức
thi ân,
Thì điều tai hại là
như vậy,
Vì ngạ quỷ luôn hiểu biết
rằng:
'Nếu chẳng muốn thi ân
bố đức,
Thì điều tai hại cũng
ngang bằng'.
11. Thuở trước ta không
muốn phát ban,
Ta không bố thí các
kho tàng,
Mặc dù bố thí là
công đức,
Ta chẳng tạo nên chốn
trú an.
12. Ngày nay ta hối hận
ăn năn,
Nặng trĩu trong lòng bởi
phải mang
Hậu quả việc làm bao ác
nghiệp,
Và sau bốn tháng sẽ
từ trần.
13. Ðọa miền địa ngục
hãi hùng sao,
Có bốn góc và
bốn cửa vào,
Ngục được chia phần
theo kích thước,
Xung quanh bao bọc với tường
rào
Làm bằng sắt nóng
và trên mái
Cũng có sắt che tận
đỉnh cao.
14. Nền bằng sắt rực lửa
bừng bừng,
Nóng bỏng, chói lòa
khắp mọi phương,
Ðịa ngục muôn đời
còn đứng mãi,
Trải dài luôn cả trăm
do-tuần.
15. Nơi kia ta chịu khổ lâu
dài,
Thọ quả do tà nghiệp chín
muồi,
Vì thế ta thường ân
hận mãi,
Khóc than thực tế chẳng
hề nguôi.
16. Bởi vậy ta đem chuyện
thật hay
Nói cùng chư vị
họp nơi đây,
Ðừng bao giờ phạm
hành vi ác,
Dù giấu kín hay được
tỏ bày.
17. Nếu ngươi đang phạm
việc sai lầm,
Hoặc sắp phạm, thì
nỗi khổ tâm
Sẽ chẳng rời ngươi,
dù trốn tránh,
Bay lên trời đến giữa
hư không.
18. Hãy luôn tôn kính
mẹ cùng cha,
Quý trọng bậc niên trưởng
tại nhà,
Quy ngưỡng Bà-la-môn,
đạo sĩ,
Do vầy, thiên giới sẽ
chờ ta.
19. Không giữa trời hay giữa
biển thanh
Dẫu đi vào kẽ núi
non xanh,
Cũng không tìm được
trong trần thế
Nơi chốn thoát thân
khỏi ác hành.
Các thương nhân thương
xót ngạ quỷ liền rảy nước vào mồm
nó. Nhưng vì ác nghiệp của ngạ quỷ
kia, nó không thể nuốt được. Họ hỏi
nó:
- Thế giờ đây ngươi
không thể nào dịu bớt đôi chút
khổ đau?
Ngạ quỷ đáp:
- Có thể được khi ác
nghiệp này đã được tiêu trừ.
Nếu giờ đây có lễ vật cúng
dường đức Như Lai hoặc chư đệ
tử của Ngài và công đức lễ
cúng dường ấy được hồi hướng
đến ta, thì ta sẽ được giải thoát
ra khỏi kiếp sống ngạ quỷ này.
Khi các thương nhân đã
nghe chuyện ngạ quỷ xong, họ trở về Sàvatthi,
trình lên đức Thế Tôn, rồi suốt
bảy ngày làm đại lễ cúng
dường Tăng chúng có đức Phật
làm thượng thủ và hồi hướng
công đức ấy đến ngạ quỷ.
8. (20) Chuyện Tiểu
Chủ Ngân Khố (Cùlasetthi)
Bậc Ðạo Sư kể chuyện
này trong lúc đang trú tại Veluvana
(Trúc Lâm).
Ở Benares (Ba-la-nại) có
gia chủ Cùlasetthi (Tiểu chủ ngân khố)
là người không có lòng tin, không
mộ đạo, keo kiệt, không bố thí và
khinh thường các thiện sự công đức.
Lúc từ trần vị ấy tái sanh giữa
loài ngạ quỷ.
Bấy giờ con gái vị ấy
là Anulà đang sống tại nhà
chồng ở Andhakavinda. Nàng mong muốn cúng
dường các Bà-la-môn để lấy
phước đức cho cha nên đã chuẩn
bị cơm và các thực phẩm khác
làm lễ vật.
Khi ngạ quỷ biết tin này, lòng
đầy hy vọng liền bay qua không gian hướng
về nơi kia và đến Ràjagaha (Vương
Xá).
Thời ấy vua Ajatasattu (A-xà-thế)
theo sự xúi giục của Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa)
đã giết hại phụ vương. Vì lòng
hối hận giày vò và gặp cơn ác
mộng, nhà vua không ngủ được. Trong
lúc đang đi dạo quanh quẩn trên thượng
lầu, nhà vua thấy ngạ quỷ kia đang bay
qua không gian, liền hỏi:
1. Ngươi là vị
khổ hạnh trần truồng,
Gầy guộc, ban đêm
vượt dặm đường.
Vì lý do gì, cho trẫm
biết,
Trẫm ban ngươi mọi vật
giàu sang.
Ngạ quỷ đáp:
2. Thành Ba-la-nại tiếng
vang lừng,
Nơi ấy ta là một
phú ông
Không bố thí và
ham hưởng lạc,
Vì làm ác, đọa
cảnh Diêm công.
3. Ðói khổ làm ta
kiệt quệ dần,
Ta đau như thể bị kim châm,
Vì gây ác nghiệp, cho
nên phải
Ði đến bà con để
kiếm ăn,
Song những kẻ nào tâm
biển lận
Vẫn không tin tưởng
chuyện cho rằng
Thi ân bố đức
đem thành quả
Xuất hiện đời sau giữa
thế nhân.
4. Con gái ta thường nói
với ta:
'Con mong dâng cúng các
ông cha'.
Bà-la-môn muốn cho người
khác
Ði dự tiệc bằng cách
nói ra:
'Ta sắp được mời
ăn thịnh soạn
Tại nơi kia ở An-dha-ka'.
Chuyện kể tiếp:
5. Vua truyền: 'Khi đã
nhận xong phần,
Ngươi trở lại đây
vội bước chân,
Trẫm muốn ban ngươi
nhiều phước lộc,
Nếu nhà ngươi có
một nguyên nhân,
Trình cho trẫm biết ngay duyên
cớ,
Trẫm sẽ nghe điêù
xứng tín tâm.
6. 'Mong vậy!', quỷ vừa mới
nói ra,
Liền bay đi đến phố
An-dha.
Nơi kia chúng hưởng
đồ dâng cúng,
Song hội chúng không xứng
đáng mà,
Sau đó về thành Vương
Xá ấy,
Một lần nữa yết kiến nhà
vua.
7. Khi vua nhìn ngạ quỷ quay
về,
Liền bảo: 'Nay ta phải cúng
gì?
Hãy nói thế nào là
cách thức
Khiến ngươi hưởng lạc
thú tràn trề?'
Ngạ quỷ đáp:
8. Phục vụ Tỷ-kheo
với Phật-đà,
Thức ăn, đồ uống,
áo cà-sa,
Cúng dường lấy phước
cho ta hưởng,
Ta sẽ hân hoan trọn kiếp mà.
9. Tức thì vua bước
xuống hoàng cung,
Dâng lễ tự tay đến
chúng Tăng,
Trình đức Như Lai
về việc ấy,
Rồi đem công đức
tặng vong nhân.
10. Chói lòa ánh sáng,
được tôn vinh,
Trước mặt quân vương,
quỷ hiện hình:
'Ta đã trở thành
thần đại lực,
Không người nào sánh
kịp uy danh.
11. Hãy nhìn ta hưởng
đại vinh quanh
Do Ðại vương vừa
mới phát ban,
Khi đã cúng Tăng-già
đại lễ,
Từ đây ta được
mãi hân hoan,
Vì có biết bao nhiêu
phước lộc,
Ta đầy hỷ lạc, hỡi
quân vương'.
(Xin xem tiếp Phần
II.b)
[Phẩm trước][Mục
lục][Phẩm kế][
^ ]
|