[ Trở về ]

Vô Ngã - Nghiệp - Luân Hồi

( nguoicusi@yahoo.fr )

1 - Vô ngã, luân hồi, khoa học, siêu hình.
2 - Neu nguoi Phat tu không tin o luan hoi thi nguoi "Phat tu" đau can tim con đuong đe thoat khoi luan hoi nua
3 - Trở lại vấn đề "Vô ngã, luân hồi, khoa học, siêu hình"
4 - Sự chết
5 - Không tin vào giáo thuyết này sẽ dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền domino các lý thuyết khác của PG về Nghiệp, về luật nhân quả,...
6 - Không cần thuyết Tái sinh " đời trước/đời sau " đạo Phật vẫn còn đứng vững, vói vị trí là Đạo giải thoát.
7 - Cau hoi ve "tái sinh, luân hồi" nên phân ra lam 2 cau hoi khac : 1- Có cái gì còn lại sau cái chết sinh học hay không ? 2- Nếu có thì   cái còn lại ấy sinh hoạt ra sao ?
8 - Duc Dat Lai Lat Ma da tung noi voi J.Claude Carriere (trong cuôn La force du bouđhisme) : "Nêu môt ngay kia khoa hoc chung minh rang luân hôi sai, thi chung ta phai bỏ luân hôi"
  
- Đọc thêm -

9 - Sự Sống và Sự Chết trong Phật Giáo

                            10 - Pháp môn Không Phải Ngã ('The Not-self Strategy' Tì khưu Thanissaro/  dịch: TKN Giải Nghiêm)
         11 - Không Có Ngã hay Không Phải Ngã (Vô Ngã hay Phi Ngã) (No-self or Not-self,tk Thanissaro/dịch:Giải Nghiêm)

Trang trước Trang sau


[ Đầu trang ]
 

De : Nguyên Đạo 10/3/05

Vô ngã, luân hồi, khoa học, siêu hình.

Qua các góp ý về Vô ngã vừa qua, ý nghĩa của đạo lý này chắc hẳn đã rõ ràng, tôi thấy không có gì để góp thêm. Tôi chỉ xin nêu lên một số vấn đề bên cạnh liên quan tới Vô ngã và một số khái niệm khác : Vô ngã, luân hồi, khoa học, siêu hình.

Đạo Phật và vấn đề Luân hồi - Tái sinh.

Trước hết, tôi đồng ý rằng khái niệm " Luân hồi -Tái sinh " có trước khi đạo Phật ra đời, và " trên lý thuyết", đạo Phật không cần đạo lý " Luân hồi -Tái sinh " . Không cần phải tin vào thuyết " Luân hồi - Tái sinh " mới là Phật tử, mới có thể tu học. Tin vào đạo lý Tứ Đế và cụm 3 đạo lý không thể tách rời là " Duyên khởi - Vô thường - Vô ngã ", như vậy là đủ để tu học, và có thể được xem là Phật tử.

Đạo Phật được nói ra không phải để trả lời các câu hỏi siêu hình như những câu ông Malunkyaputta hỏi đức Phật "vũ trụ vô tận hay hữu tận, vô biên hay hữu hạn, tinh thần và thể xác là một hay không, Như Lai sau khi tịch diệt sẽ còn hay không ?". Đạo Phật cũng không thể trả lời một cách dứt khoát " Có hay không có tái sinh ? Sau khi chết ta ra sao ?

Căn bản giáo lý của Đạo Phật không phải là luân hồi - tái sinh, tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết mọi Phật tử đều tin vào thuyết luân hồi - tái sinh . Kinh Phật nói rất nhiều đến luân hồi - tái sinh . Nào là truyện tiền thân đức Phật ( kinh tiểu bộ ), nào là cận tử nghiệp , những nghiệp dẫn dắt tái sinh , thân trung ấm , Pugala v.v...

Có người nhân danh " khoa học " để phủ nhận luân hồi - tái sinh.

Khoa học là một số hệ thống lý luận, thực nghiệm. Trong khoa học, một sự việc khi chưa được kiểm chứng rốt ráo thì chỉ là giả thuyết, khi kiểm chứng được rồi ta mới nói là ta đã có hiểu biết thực sự khoa học về sự việc đó. Và ngay cả hiểu biết thực sự một sự việc tự nó cũng rất là tương đối. Chắc chắn là nhiều cách chẩn đoán bệnh " rất khoa học " của các bác sĩ cách đây vài chục năm ( nói cho chắc, hơn trăm năm ) sẽ bị Bác Sĩ TD chê là sai lạc.

khoa học có tiến triển. Bây giờ đúng. Khi nghiên cứu kỹ hơn thấy rằng chỉ đúng một phần, ...

Tuy vậy, cũng có rất nhiều nhà khoa học tin vào thần quyền, thượng đế, ma quỷ ...

Những câu hỏi có thể được đặt ra :

Ta có thể " nhân danh khoa học" mà khẳng định " : không có luân hồi - tái sinh ? Không có thần quyền ? không có thế giới khác ? không có thần thánh ma quỷ ?

Theo ý tôi , khi người nào nhân danh khoa học để khẳng định như trên là đã hết khoa học rồi, là đã xa lìa "phương pháp khoa học " để tiến vào thế giới của siêu hình. Người khoa học chỉ có thể khẳng định một sự việc là đúng khi thực nghiệm được là đúng, một sự việc là sai khi thực nghiệm được là sai. Khi chưa thực nghiệm được là đúng hay sai thì chỉ có thể nói " chưa biết " !

Hơn thế nữa, khi thực nghiệm chưa chắc chắn hoàn toàn đúng thì nói là "có lẽ " chứ không thể khẳng định. Dù sao nếu có đúng thì cũng chỉ đúng một cách tương đối, trong điều kiện hiểu biết , kỹ thuật hiện tại. Vài chục năm nữa, điều kiện thực nghiệm có thể khác Đúng có thể biến thành sai.

Dù sao ta cũng không thể " thực nghiệm được cái chết " ! Ta đã chết đâu mà biết sau khi chết có cái gì ? Nói rằng sau khi chết là hết cũng có thể đúng , mà nói rằng sau khi chết không phải là hết đã chắc gì là sai? Khoa học, bước sang lãnh vực của siêu hình thì cũng phải khiêm tốn hơn.

Vì , lẽ ra, nếu đứng trên lập trường khoa học thì đừng bàn đến siêu hình. Nếu không, thì có thể xem là lợi dụng tiếng " khoa học " để võ đoán áp đặt lòng tin, tư tưởng của mình, ...

Trở lại vấn đề luân hồi - tái sinh . Có luân hồi - tái sinh không ? Đây là câu hỏi có tính cách siêu hình vì không thể thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, ... Tuy vậy, lòng tin vào luân hồi - tái sinh đã có từ rất lâu đời.

Đối với rất nhiều người, " một số hiện tượng " đủ chứng minh có luân hồi - tái sinh, có ma quỷ, thần thánh .

Và dĩ nhiên là đối với nhiều người khác, những hiện tượng đó không chứng minh được gì cả .

Tuy vậy, trên thực tế, lòng tin vào luân hồi - tái sinh là một động lực quan trọng giúp người ta tu hành. Do đó đạo Phật , dù trên phương diện đạo lý không cần lòng tin này, nhưng trên phương diện thực tiễn cũng chấp nhận. Xuất phát từ Ấn Độ, đạo Phật đã được truyền ra rất xa, gặp nhiều nền văn hóa khác nhau, nhiều tín ngưỡng khác nhau. Đạo Phật không chống đối lại các nền văn hóa đó, các tín ngưỡng đó, mà " hóa giải " chúng, " Phật hóa " chúng.

Chính vì có rất nhiều người tin vào Luân hồi - tái sinh mà Phật và các Tổ, các nhà Phật học cũng nói tới luân hồi, quả báo, thần thánh, ma quỷ, nhưng bàn tới với cái nhìn " vô ngã, vô thường, duyên khởi ". Chính vì có nhiều người tin vào số mệnh, tử vi, bói toán, mà người Phật tử nói " đức năng thắng số " .

Những tăng sĩ, những Phật tử tin chắc là có luân hồi - tái sinh nên vấn đề đặt ra không còn là " có " hay " không " mà là như thế nào. Người đời trước và người đời sau chuyển biến "như thế nào" ? Có tái sinh, và "tái sinh như thế nào" ?

Câu trả lời của người Phật tử : Tái sinh theo quy luật "duyên khởi, vô ngã , vô thường " !

Mỗi người trong chúng ta, từ lúc bé cho đến ngày nay, đã thay đổi rất nhiều, qua bao lần chuyển biến theo quy luật vô thường , vô ngã, duyên khởi . Tuy nhiên, sợi tóc bạc của tôi vẫn chưa thể bay qua cắm vào đầu anh bạn. Tiếng hát vui tươi của em bé kia cũng chẳng phải thốt ra từ miệng lưỡi khô cằn của tôi. Có vô ngã nhưng không phải là "hư vô ". Tôi đã thay đổi nhưng tôi vẫn là tôi, vẫn còn là một tổng hợp của ngũ uẩn.

Con người của đời trước, tái sinh thành con người của thời sau thì cũng thế, khác mà không khác.

Phật không nói có , không nói không . Phật chỉ nói, có hay không thì cũng không thể ra ngoài đạo lý vô ngã.

Vài ý thoáng qua. Xin gửi đến các đạo hữu.

Nguyên Đạo


[ Đầu trang ]

De : Tue Bao 10/3/05

Neu nguoi Phat tu không tin o luan hoi 
thi nguoi "Phat tu" đau can tim con đuong đe thoat khoi luan hoi nua

Toi thay nhung y kien đa trinh bay đeu lam sang to them van đề vo nga va nghiep.

Tuy nhien toi thac mac 1 điem DH Lai Nhu Bang neu ra la luan hoi khong phai la Đao Phat, va "Không cần phải tin vào thuyết " Luân hồi - Tái sinh " mới là Phật tử, mới có thể tu học". Di nhien toi đong y rang quan niem luan hoi - tai sinh co truoc ddao Phat, nhung, nhu Thay PH dda neu ra, "Giao thuyet nha Phat co noi nhieu ve "luan hoi"

(cai vong tron lan quan), nhung do khong phai la Đạo Phật. Mà Đạo Phật chính là Con đuờng thẳng thoát ra khỏi luân hồi, thoát khỏi sự chi phối của nghiệp lực".

Di nhien toi ddong y rang Ddao Phat chi ta con dduong thoat khoi luan hoi, nhung neu nguoi Phat tu khong tin o luan hoi thi nguoi "Phat tu" ddau can tim con dduong dde thoat khoi luan hoi nua, nghia la khong can phai tu tap theo ddao Phat. Xin qui vi ddao huu chi day them cho.

HT Tuyen Hoa cua Van Phat Thanh ( va nhieu vi cao tang khac nua) cat nghia rang mot ly do chinh tai sao nguoi Phat tu can phai an chay la dde tranh canh co the an thit cha me hay to tien minh luan hoi tro lai thanh nhung thu vat bi giet an thit.

Bup sen tang qui vi, Tue Bao (Canada)


[ Đầu trang ]

De : Nguyên Đạo 12/3/05

Trở lại vấn đề "Vô ngã, luân hồi, khoa học, siêu hình".

Có lẽ trong trao đổi vừa qua, tôi phát biểu không được rõ: phải hiểu luân hồi - tái sinh trong nghĩa nào ?

Thực ra ta có thể nhìn Luân hồi - Tái sinh theo 2 nghĩa

1. Nghĩa thứ nhất có tính phổ quát hơn gồm : 
a/ Luân hồi - Tái sinh trong nhiều đời       và 
b/ Luân hồi - Tái sinh trong một đời người, trong cuộc sống hiện tại, trong mỗi lúc, trong mỗi sát na ...

Bouddhaghosa (Phật Âm) đã viết trong bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo VIII) "Trong tuyệt đối, đời sống một hữu tình rất ngắn ngủi, chỉ bằng khoảnh khắc một niệm. Như bánh xe, lúc lăn, chỉ đè trên một điểm của vành xe, và lúc ngừng, cũng chỉ đè trên một điểm, đời sống một hữu tình cũng chỉ lâu bằng một niệm: ngay khi niệm này dứt, hữu tình cũng ngừng sống".

2. Nghĩa thứ hai , giới hạn hơn, xem Luân hồi -Tái sinh có nghĩa là  "Luân hồi -Tái sinh trong nhiều đời ", Tái sinh từ đời này sang đời khác " (đời theo nghĩa thông thường), một hữu tình bị diệt đi luân hồi tái sinh lại thành một hữu tình kế tiếp,

Luân hồi - tái sinh trong đời này là một hiện tượng có thể kiểm chứng được, luân hồi trong thiền định, trong tư tưởng, trong cuộc sống, nói chung là vòng khổ ải trong đó con người bị tù hãm ràng buộc. Với ý nghĩa này, có lẽ không cần phải đặt ra là tin hay không tin có Luân hồi - tái sinh mà chỉ còn là quán sát hiện tượng Luân hồi - Tái sinh . Đạo Phật cho cuộc đời ( luân hồi - tái sinh) là khổ và mục tiêu chính của đạo Phật là giúp chúng sinh thoát khỏi cái vòng khổ não đó.

Nhưng khi ta chết đi thì sẽ ra sao ? Khi cái thân ngũ uẩn này tan rã thì sẽ ra sao ? Tất cả sẽ là hết hay ta sẽ tái sinh thành một hữu tình kế tiếp ?

Ở đây ta bước vào một lãnh vực khó kiểm chứng một cách thỏa đáng cho mọi người. Với những hiện tượng, chứng từ được truyền lại, đa số người Phật tử tin rằng sau khi chết thì một hữu tình sẽ tái sinh thành một hữu tình khác ( hay nhiều ? Trong một phim gần đây - hình như Little bouddha thì phải - một hữu tình tái sinh thành 3 ).

Nhưng nếu một người không tin rằng sau khi chết có thể tái sinh, mà vẫn tin vào Tứ đế , Vô thường, Vô ngã, Duyên sinh, vẫn tu tập thiền định, tu theo lời Phật dạy, thì người đó có thể được xem là Phật tử hay không ?

"Đừng để lạc vào nơi mê tối
Đủ giới đức trí tuệ cao vời
Và dứt bỏ lòng tham dục lạc
Được như thế thoát khỏi luân hồi."

( Kinh Từ Bi )

Này các Tỳ kheo, khi nào mà tri kiến như thật về bốn Thánh đế với ba chuyển và mười hai tướng hoàn toàn rõ ràng nơi Ta, thì khi ấy, Ta mới tự nhận đã chứng đạt Vô thượng chính đẳng chính giác trong thế giới với chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, quần chúng Sa môn, Bà la môn, trời và người. Bấy giờ tri kiến khởi lên nơi Ta :" Bất động là tâm giải thoát của Ta; đây là lần sinh cuối cùng, Ta không tái sinh nữa ".

( Kinh chuyển Pháp Luân )

Với những lời kinh trên đây, có nhất thiết phải tin vào tái sinh trong đời sau mới tu tập theo được hay không ?

Dù hầu hết Phật tử đều tin là có tái sinh từ đời này sang đời khác, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng những người không tin vào việc đó, nhưng vẫn nghĩ rằng

1 - Vạn vật vô ngã, vô thường, do duyên sinh

2 - Đời là khổ, khổ có nguyên nhân, có diệt khổ, và bát chánh đạo là con đường nên theo

cũng vẫn là Phật tử.

Nói đến đây, tôi lại văng vẳng như nghe thiền sư Nguyên Si dậm chân la hét : " Tại sao cứ phải mang danh là Phật tử ? "

thân mến

Nguyên Đạo
 


[ Đầu trang ]

De : Nguyên Đạo 12/3/05

Khong biet bai sau day cua HT Thien Chau ve " su chet " co ich loi gi de chung ta hieu ro van de hon hay khong ?

xin doc bai duoi day :

Sự chết

Rõ ràng rằng con người do điều kiện tạo ra (duyên sinh) cũng như mọi sự vật, do đó con người là vô ngã và vô thường. Cũng như vũ trụ, con người thay đổi không ngừng. Không có sự hiện hữu, chỉ có sự trở thành (bhava). Đức Phật đã trình bày tính vô thường của đời người bằng những hình ảnh thông thường sau dđây:

"Thực thế, đời sống của con người là ngắn ngủi, giới hạn, phù du, đầy khổ đau và ưu phiền, nó như một hạt sương tan biến khi mặt trời mọc, như bọt nước, như đường rãnh xẻ trong nước, như dòng thác chảy cuốn đi tất cả không bao giờ dừng lại, như một con vật nuôi để làm thịt lúc nào cũng đối đầu với cái chết" (An, III, 70).

Vì tất cả các sự vật được tạo thành (hữu vi) đều vô thường, không những chỉ con sông trong đó con người tắm, mà cả chính con người cũng luôn luôn thay đổi. Các hiện tượng tâm-vật lý mãi mãi sinh ra rồi chết đi vào mọi lúc trong suốt cả cuộc đời.

Về sự ngắn ngủi của cuộc đời Bouddhaghosa (Phật Âm) đã viết trong bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo VIII) "Trong tuyệt đối, đời sống một hữu tình rất ngắn ngủi, chỉ bằng khoảnh khắc một niệm. Như bánh xe, lúc lăn, chỉ đè trên một điểm của vành xe, và lúc ngừng, cũng chỉ đè trên một điểm, đời sống một hữu tình cũng chỉ lâu bằng một niệm: ngay khi niệm này dứt, hữu tình cũng ngừng sống".

Sự chết cũng thế, hiểu như sự chấm dứt khả năng sống của một hình thái hiện hữu, chỉ là sự gián đoạn tạm thời của một hình thái. Nó không phải là sự tiêu diệt toàn bộ một cá nhân; đúng hơn, nó là biểu hiện của một sự chuyển đổi sang một sự hiện hữu khác. Chỉ riêng các quan năng ngưng vận hành, chứ năng lực, sự khao khát được hiện hữu (hữu ái) nằm trong nghiệp lực vẫn tiếp tục thể hiện dưới một hình thái khác của sự sống.

Dù sao, chết là một hiện tượng cũng bình thường như sinh ra. Thường thường, những người đang hấp hối, yếu ớt về thể chất không còn có thể kiểm soát và điều động các ý tưởng của họ. Do đó, những ấn tượng gây nên bởi những biến cố quan trọng trong các cuộc đời này hay các cuộc đời trước hiện trở lại mạnh mẽ trong tâm thức, và họ không cách nào loại bỏ chúng.

Sau đây là ba loại ý tưởng vào lúc người ta sắp chết:

a. Kỷ niệm về những hành động quan trọng, tốt hoặc xấu, của quá khứ (kamma), ví dụ: các tội ác, cách cư xử hàng ngày, thói quen...

b. Biểu tượng của các hành động ấy (kammamitta), ví dụ khí cụ thờ cúng đối với các tín đồ, bệnh nhân đối với bác sĩ, súng ống đối với người lính...

c. Hình ảnh cảnh giới người ta sẽ tái sinh vào (gatinimitta), ví dụ: cõi khổ đau cùng cực (naraka) đối với những kẻ sát nhân, cõi sung sướng (devaloka) đối với những người thiện hiền,...

Ba loại ý tưởng mà người ta không thể chọn lựa một cách có ý thức xuất hiện rõ ràng trong tâm thức vào lúc chết. Chúng tạo thành những hành động gần với cái chết (cận tử nghiệp, âcinna kamma) ảnh hưởng và quyết định đặc tính của đời sống sắp đến, cũng giống như ý tưởng sau cùng trước giấc ngủ có thể trở thành ý tưởng đầu tiên lúc thức dậy. Cũng thế, những hành động quan trọng nhất trong một đời sống (garuka kamma), cũng như những hành động bình thường, tốt hay xấu, trở thành những ý tưởng tích cực và thù thắng trong những phút cuối cùng. Nếu như một ý tưởng nào đó trong các ý tưởng ấy vắng mặt vào lúc người ta chết thì cái hành động tiềm ẩn tích lũy (katattâ kamma) tạo thành sức mạnh gây nên sự tái sinh.


[ Đầu trang ]

De :  Le Cong Da 13/3/05

Không tin vào giáo thuyết này sẽ dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền domino các lý thuyết khác của PG về Nghiệp, về luật nhân quả,...

"Dù hầu hết Phật tử đều tin là có tái sinh từ đời này sang đời khác, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng "những người không tin vào việc đó, nhưng vẫn nghĩ rằng

"1 - Vạn vật vô ngã, vô thường, do duyên sinh

"2 - Đời là khổ, khổ có nguyên nhân, có diệt khổ, và bát chánh đạo là con đường nên theo
"cũng vẫn là Phật tử.

"Nói đến đây, tôi lại văng vẳng như nghe thiền sư Nguyên Si dậm chân la hét : " Tại sao cứ "phải mang danh là Phật tử ? "

Thua anh Nguyen Dao cung quy anh chi;
Giáo thuyết về tái sanh, luân hồi là một trong những giáo thuyết căn bản của PG. Không tin vào giáo thuyết này sẽ dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền domino các lý thuyết khác của PG về Nghiệp, về luật nhân quả,... đó là điều mà Đức Phật đã cảnh báo trong nhiều kinh sách là sẽ dẫn con người đến tà kiến của chủ thuyết hư vô, đoạn diệt.
Xin được trích dẫn hai đoạn kinh ngắn liên quan đến vấn đề này do chính kim khẩu của Đức Phật tuyên thuyết:

Đi trước cả khoa học, trong kinh sách còn để lại, Đức Phật đã cho biết quá trình thụ thai, hình tha`nh một con người như sau: "Ở nơi nào Tam-Nguyên được cấu tạo chung thì mầm sống được gieo trồng nơi ấy. Trong sự giao hợp của cha mẹ, nếu không nhằm lúc thọ thai của người mẹ, và không có chúng sanh đầu thai, thì mầm sống không thể gieo trồng được. Nếu nhằm lúc thọ thai của người mẹ mà không có chúng sanh đầu thai thì mầm sống cũng không gieo trồng được. Nếu nhằm lúc thọ thai của người mẹ và chúng sanh đi đầu thai cũng có mặt trong lúc giao hợp, nếu hội đủ ba nhân: tinh-trùng, noãn bào và thức, thì mầm sống được gieo trồng." (Kinh MAJJHIMA NIKAYA, quyển AHATANHAKHAYA, số 38)

Và trong Tạp A-hàm, Ngũ Phần luật, Trường A-hàm kinh, Pháp cú (Dhammapada) 127, đức Phật đã dạy:

"Hết thảy cái có sinh đều có tử, thọ mệnh cuối cùng rồi cũng phải hết.

"Y vào nghiệp mà chịu duyên báo, thiện, ác đều có quả của nó.

"Tu phúc được sinh lên cõi trời, tạo ác thì phải vào địa ngục.

"Tu đạo thì dứt được sống, chết, mà nhập niết-bàn vĩnh viễn.

"Không ở trên không, không dưới biển, không trong rừng núi, không một chỗ nào trốn được cái chết.

"Ngay đến chư Phật Bồ-tát, Duyên giác, Thinh văn còn phải bỏ cái thân vô thường, huống nữa là phàm phu."

Chúng tôi sẽ có một bài viết liên quan đến các vấn đề: Phôi bào, ngừa thai, phá thai, tái sanh và luân hồi theo quan điểm của PG trong kỳ tới.

Chuc cac anh chi mot ngay vui - an lac;

Ta^m Hà LCD
 


[ Đầu trang ]

De : Nguyên Đạo 13/3/05

Không cần thuyết Tái sinh " đời trước/đời sau " đạo Phật vẫn còn đứng vững, vói vị trí là Đạo giải thoát.

Trên thực tế, cá nhân tôi tin vào thuyết Luân hồi - Tái sinh từ dới này sang dời sau , nhưng dó là " lòng tin của tôi" .

Toi khong the " chúng minh " hay khang dinh rang dieu do chac chan 100 % ( xin xem kinh Kalama )

Tôi cũng biết rang Kinh dien, Nguyen Thuy cung nhu Dai thừa nói rất nhiều về vấn đề tái sinh, cũng như nói dến nhưng nhận xét về tâm lý học rất hiện đại như " Complexe d'oedipe ".

Tôi xin gui kèm theo day mot lối giai thich cua Hoa Thuong Thien Chau ve " Tai Sinh "  , trích tu "Su Song va Su Chet trong Phat Giao " : http://cusi.free.fr/phl/phl0050.htm

Tuy nhien, toi xin tu dat cau hoi :

Nếu không có thuyết tái sinh đời này - đời sau, liệu Đạo Phật còn đứng vững không ?

Ngoai ra, Các vị Thiền Sư có cần nói nhiều dến Luân hồi - Tái sinh không ?

Mặc dầu tôi tin vào Thuyết Luân Hồi - Tái sinh ( xin nhắc lại ) nhung Tôi nghĩ không cần thuyết Tái sinh dạo Phật vẫn còn đứng vững, vói vị trí là Đạo giải thoát.

Tất cà mọi đạo lý về Nghiệp, Nhân Duyên ... vẫn còn đứng vững.

Nếu quả quyết " sau khi chết là hết " là chấp đoạn diệt, thì chỉ cần không quả quyết chuyện dó. Nhưng có cần phải tin ?

Giữa chấp có, chấp không, có con đường nào khác không ?

Trong Kinh Kalama va kinh Tu Sat, Phat cho phép chúng ta có quyền " thắc mắc " về chính Ngài cũng như lời dạy của Ngài. Đây là một thái độ "giải thoát " mà không một giáo chủ tôn giáo nào dám làm .

thân mến

Nguyen Dao


[ Đầu trang ]

De : Pháp Hiền  13/3/05

Cau hoi ve "tái sinh, luân hồi" nên phân ra lam 2 cau hoi khac : 1- Có cái gì còn lại sau cái chết sinh học hay không ? 2- Nếu có thì cái còn lại ấy sinh hoạt ra sao ? 

Thua qui vi, Hau het nhung nguoi Âu Mỹ, khi tiếp xuc voi PG, deu neu cau hoi ve "tái sinh, luân hồi". 
De tra loi cau hoi nay, thiet nghi, nen phan ra lam 2 cau hoi khac : 
1- Có cái gì còn lại sau cái chết sinh học hay không ? 
2- Nếu có thì cái còn lại ấy sinh hoạt ra sao ? 

Ngay nay, trong tủ sách Anh ngữ, thay xuat hien ngay cang nhieu cac sach viet ve nhung kinh nghiem ghi duoc ve viec tiep xuc voi "linh hon" nguoi chet. 
Thầy Tâm Quang co dich từ tiếng Anh 1 cuon sach rat co y nghia, co ten la "Nguời chết vẫn sống". Xin moi qui vi tham khao. 
Nhu vay, cau hoi thu nhat neu tren dang ngay cang duoc tra loi. Tuc la, không phải đoạn diệt. Nhung chắc chắn cái con lai do khong phai la cai ngã (xin xem lai dinh nghia ve ngã), boi no cung do nhan duyen sinh, nen no cung bien doi khong ngừng (chấp thuờng cũng sai nốt). 

Con cau hoi thu 2 : Cai con lai ay sanh hoat ra sao ? di dau ? boi nang luc nao ? Bay gio chung ta moi tham khao den thuyet ve nghiệp báo hay nghiệp lực. 
Than - PH.
 


[ Đầu trang ]

De : Nguyên Phước 15/3/06

Duc Dat Lai Lat Ma da tung noi voi J.Claude Carriere (trong cuôn La force du bouđhisme) : "Nêu môt ngay kia khoa hoc chung minh rang luân hôi sai, thi chung ta phai bỏ luân hôi"

Cac dao huu thân mên,

(...)

- Vê luân hôi, duc Dat Lai Lat Ma da tung noi voi J.Claude Carriere (trong cuôn La force du bouđhisme) : "Nêu môt ngay kia khoa hoc chung minh rang luân hôi sai, thi chung ta phai bỏ luân hôi". Va ngai tiêp :"Nhung dên tân bây gio, vân chua co dâu hiêu nao di theo chiêu huong do".

Di nhiên, tôi hoan toan dông y voi ND, không bao gio khoa hoc co thê chung minh duoc luân hôi dung hay sai, diêu nay vuot khoi pham vi cua khoa hoc. Khoa hoc chi co thê giang nghia duoc môt sô hiên tuong ma nguoi ta tuong rang co thê giai thich duoc bang luân hôi, nhu cam tuong minh da sông tai môt noi nao hay môt hoan canh nao do (do epilepsie temporale), hoac la sanh ra voi dâu chàm hay vêt lông trên nguoi (do môt su sai lac trong su hinh thanh phôi), v.v. Vât ly hoc hiên dai co thê dua ra gia thuyêt co nhung vu tru song song (univers paralleles), nhung không thê chung minh la thê gioi cua linh hôn, thân tiên ma quy, thê gioi Cuc lac hay dia nguc co hay la không co. Nhung diêu nay thuôc vao duc tin, vi không chung minh va cung không kiêm chung bang kinh nghiêm duoc.

Theo tôi, câu noi trên cua duc Dat Lai Lat Ma bao gôm hai y nghia : thu nhât la ngai coi trọng su phan quyêt cua khoa hoc - dôi voi môt vi lanh dao tôn giao do không phai la môt chuyên nho - , va thu nhi la ngai coi luân hôi không phai la môt diêu quan trong trong dao Phât - dôi voi môt nguoi Tây Tang do lai la môt diêu dac biêt hon nua, vi nhu chung ta biêt, do anh huong cua dao Bưn ban xu, luân hôi dong môt vai tro chu yêu trong dao Phât va doi sông xa hôi Tây Tang.

Dung vê mat ly thuyêt, ca ba khai niêm luân hôi (samsara), nghiêp (kamma) va giai thoat (moksha) dêu co truoc dao Phât tu lâu, va rât phô biên trong xa hôi Ân Dô. Da sô cac triêt thuyêt, tôn giao thoi duc Phât dêu dua lên ba khai niêm nay, nhung môi bên dê ra môt phuong phap khac nhau dê giai thoat khoi luân hôi. Duc Phât dê ra con duong Bat Chanh dao, dua lên Tu Dê, Tam Phap Ân. Dây moi la su dac thu cua dao Phât, la diêu lam nôi bât dao Phât lên so voi cac dao khac, chu không phai luân hôi.

Dông y, cac ban noi, nhung lam sao tach khoi con duong voi bôi canh cua no ? Bôi canh cua dao Phât la luân hôi, vây nêu không xem luân hôi la quan trong thi con gi la dao Phât ? Hay noi nhu anh TB, viêc gi ma phai mât công tu theo dao Phât nêu không thoat khoi luân hôi, hay nêu luân hôi la môt diêu không dang kê ?

Theo tôi, dây la môt diêm quan trong, cân phai duoc thao luân can ke dê sang to vân dê.

Tu lâu, tôi vân nghi rang co nhiêu dao Phât chu không phai la môt dao Phât. Su phân chia ra lam nhiêu truong phai khac nhau trong lich su PG da la môt diêu diên hinh. Nhung bây gio, nêu chung ta môi nguoi tu hoi, môt cach gian di va thanh thât voi chinh minh : " Dao Phât dôi voi tôi la gi ? ", thi chung ta se thây môi nguoi tra loi môt cach khac, chang han nhu :

- Dao Phât la con duong thoat ly sinh tu, luân hôi

- Dao Phât la con duong giai thoat khoi khô dau (hay la con duong diêt khô)

- Dao Phât la con duong giac ngô (hay tu giac)

- Dao Phât la dao tu bi va tri tuê

- Dao Phât la con duong dua toi vang sinh Cuc lac quôc

- Dao Phât la con duong huong thiên, tuc la chi dây cho minh lam viêc lanh, tranh diêu ac

- Dao Phât la môt phuong phap tri liêu bênh tâm thân, v.v.

Môi nguoi se tuy theo quan niêm cua minh vê dao Phât ma tu tâp. Dao Phât cung nhu môt cây cô thu, canh la xum xuê, chung môt gôc rê nhung chia ra lam nhiêu canh la khac nhau. Minh co thê chon canh nay hay canh khac, hay nhây tu canh nay sang canh khac, cai chinh la chon dung canh hop voi minh, va di toi noi toi chôn.

- Co nhung nguoi quan niêm " luân hôi " nhu môt diêu côt yêu trong dao Phât, va nêu không co luân hôi thi không co dao Phât. Theo tôi, câu thu nhi dung, câu thu nhât sai. Vi trong lich su dao Phât, luân hôi co o trong bôi canh xuât hiên cua dao Phât, co dong gop trong su hinh thanh cua dao Phât, nhung không phai la chinh yêu, la dac diêm cua dao Phât. Cung nhu lây hinh anh cây cô thu PG, thi luân hôi la môt trong nhung chiêc rê lon cua cây cô thu, nhung không phai la thân cây.

- Dôi voi môt sônguoi khac, thân cây la " khô va phuong phap diêt khô ". Ho lây khô lam trung tâm diêm, lam khoi diêm cho dao Phât, voi ly do la bai thuyêt phap dâu tiên cua duc Phât tai vuon Lôc Uyên la vê Tu Diêu Dê : " Dây la su thât vê khô, vê nguyên nhân cua khô, v.v.. " Tai sao ngai lai không noi : dây la su thât vê luân hôi, vê nguyên nhân cua luân hôi, v.v. ? Phai chang do la tai duc Phât cô y thay cai problematique luân hôi bang problematique khô, thay môt vân dê siêu hinh bang môt vân dê thiêt thuc ? Va lai, nêu kiêm diêm lai nhung loi dây cua duc Phât qua kinh diên, thi ta thây co bao nhiêu lân ngai dê câp toi luân hôi ? Jataka, nhung câu chuyên tiên thân cua duc Phât, la do nguoi sau dat ra chu dâu phai la do ngai kê lai ? Trong Kinh Phap Cu (Dhammapada), la bai kinh gôm nhung loi dây trung thanh nhât cua duc Phat, co bao nhiêu phâm noi vê luân hôi, so voi tât ca nhung loi giang dây vê tu tâm sua tanh trong cuôc sông nay?

- Co nhung nguoi khac cho rang dao Phât chu yêu la con duong " giac ngô ", tuc la nhin su thât nhu la su thât, bây gio va tai dây. Su viên thanh cua duc Phât Thich Ca chang phai la su dai giac cua ngai sau khi thiên dinh duoi gôc cây Bô Dê ư ? Luân hôi dôi voi ho không phai la môt vân dê, vi su thât " không sinh, không diêt, không toi, không di ", theo ngai Long Thu (Nagarjuna), thi con gi tai sinh, luân hôi nua ? Sinh diêt chinh la o trong cai tâm minh, cung nhu loi cua ngai Tuê Trung Thuong Si : " Khi tâm sinh chừ, sinh tử sinh. Khi tâm diêt chừ, sinh tử diêt. Nguoi ngu, diên dảo sợ tử sinh. Bâc trí, sinh tử thuong thôi vây ".Khô hay Niêt Ban, thiên duong hay dia nguc chinh la o trong tâm chung ta, chu không o noi nao khac.

Nhu thây PH co noi, dôi voi nguoi Tây Phuong, luân hôi la diêu trong dao Phât gây nhiêu vân dê, nghi vân cho ho nhât. Vi môt ly do dê hiêu : ho chua tung sông trong truyên thông do nhu nguoi A châu, chua tung nghe nhung mâu chuyên kê tu hôi con be (nhu " hôn Truong Ba, da hang thit ".). Nguoc lai, chung ta ngay tu be da quen voi truyên thông luân hôi, co thê noi da thâm nhuân " van hoa luân hôi ", cho nên luân hôi dôi voi chung ta la môt su thât hiên nhiên, không thê nao chôi cai.

Va khi nguoi Tây phuong di toi dao Phât, thi cac vi tang si da tiêp xuc nhiêu voi Tây phuong, nhu duc Dat Lai Lat Ma hay thiên su Nhât Hanh, thuong noi voi ho : cac vi không cân tin vao luân hôi, cung không cân bỏ duc tin vao Thuong Dê, chi cân di theo nhung gi trong dao Phât ma cac vi thây la bô ich cho minh la duoc rôi. Chinh thai dô bao dung, coi mo do moi phu hop voi tinh thân dao Phât, cung nhu (ND noi dung) NSi da tung dâm chân lên la het : " Viêc gi phai mang nhan hiêu Phât tu moi la Phât tu ? ".

Do la vê mat ly thuyêt. Nhung nêu xet lai luân hôi duoi khia canh thuc tê tin nguong, thi tôi cung phai công nhân rang tin vao luân hôi cung co ich lợi.

Ich loi dung vê mat tâm ly. Nghia la da sô Phât tu tin vao luân hôi, va long tin do la môt dông luc manh me giup ho tiêp tuc tu tâp.

Môt sô tin theo luân hôi theo tinh thân cô truyên tai Ân Dô. Nghia la con nguoi bi dây doa, xiêng xich, gông cum trong môt vong tron không bao gio ngung nghi, hay dung môt hinh anh khac, bi ngup lan trâm luân trong biên khô. Dao Phât co kha nang dem lai su giai thoat ra khoi sinh tu luân hôi, trong kiêp nay hoac trong nhiêu kiêp sau nua.

Môt sô khac nhin luân hôi duoi khia canh tai sinh, lac quan hon. Thay vi "chêt la hêt", thi tai sinh mang lai cho con nguoi hi vong tro lai cuôc doi duoi môt hinh thuc khac (" Kiêp sau xin cho lam nguoi, lam con chim nhan tung troi ma bay "). Tâm ly con nguoi la dêu so chêt, so cai hu vô, cho nên tai sinh mang lai cho nguoi ta môt niêm hi vong, hay it ra môt su trân an truoc viên tuong su chêt không thê tranh duoc hay gân kệ

Luân hôi cung giai thich duoc nhung su khô dau, bât công trên thê gian, ma con nguoi phai chiu dung : do la tai kiêp truoc gieo nhân ac, thi kiêp nay phai chiu qua ac, con nêu kiêp nay kheo tu thi kiêp sau se duoc chanh qua, v.v.

Luân hôi cung co môt vai tro giao duc : "Dưng phi pham, dô com di phai tôi, kiêp sau se lam con vit chui ruc vao công ranh kiêm com"."Nên an chay hon la an thit, dê tranh an thit nhung nguoi thân hay tô tiên cua minh tai sinh tro lai.".

Nhung noi chung, dung luân hôi dê trân an, dê dem lai hi vong, dê giao duc hay dê giai thich nhung bât công, cung chi la dung "phuong tiên", dựa lên su so hai cua phàm phu. Ma su so hai không phai la khia canh cao dep nhât cua con nguoi. No chi la khơ ?i diêm cho long tin, dê tôn giao dua lên va phat triên. Va dôi voi nhiêu Phât tu, do cung la khoi diêm cho su tu tâp.

Khi da di sâu vao dao Phât rôi thi sông chêt, sinh tu luân hôi không con la vân dê nua. Vao cuôi doi, nguoi nao rôi cung phai ra di, duc Phât cung không thoat khoi dinh luât do. Nam uân lia nhau, cai thân tu dai nay cung vây, " cat bui lai tro vê voi cat bui ". Nhung phân tu xua kia tụ hop lai thanh cai ta, tự nhiên hoa dông trong vu tru tro lai. Tôi chêt, nhung thât ra tôi không baogio chêt.

Nhu loi bai tho vô danh quen thuôc nay, xin dich tang cac dao huu :

"Xin đừng khóc nữa trên nấm mộ tôi,
Tôi không còn đó, tôi không nằm đó.
Tôi là muôn ngàn ngọn gió,
Tôi là hạt tuyết long lanh,
Tôi là ánh mặt trời trên lúa chín,
Tôi là cơn mưa nhỏ mùa thu . 
Khi em tỉnh dậy trong buổi sáng an lành,
Tôi là sức mạnh
Tung lên không những đàn chim bay lượn,
Tôi là vì sao lấp lánh trong đêm.
Xin đừng than thở bên nấm mộ tôi,
Tôi không nằm đó, tôi không bao giờ chết."

Trên dây la môt vai cam nghi ca nhân, tôi xin phep dua ra dê cung nhau thao luân, nhân dip dê tai "luân hôi" tro lai trên diên dan NCS. Chac chan co it nhiêu sai lâm trong cach nhin han hep cua tôi, nhung nhung cam nghi nay chân thanh va không hê co y dô ap dat quan diêm minh hay da pha quan diêm nguoi khac. Dao Phât la môt vuon hoa muôn mâu nghin ve, cân duoc vun soi va cham soc trong tinh thân coi mo va tôn trong lân nhau.

Mong nhân duoc thêm nhiêu y kiên cua cac dao huu.

Thân mên,

NP

TB : Vi di xa, dung may muơn không co Font VN, cho nên danh may tiêng Viêt không co dâu, kho doc, mong cac dao huu tha lôi cho.


[ Đầu trang ]

De : Nguyên Đạo 16/03/05

Bai " Phiem Luan  ve Thoi gian " cua Trinh Nguyen Phuoc van con giu tren Chim Viet Canh Nam, trong muc "Van Hoc - Luan " , phan duoi cua trang chu. 
Cac dao huu co the doc bai do o dia chi :  http://chimviet.free.fr/1/tdhl051.htm

( CVCN la mot trang van hoc do mot so Phat tu chu truong. CVCN ho^`i na`y qua' nhieu bai nen lu.c tim hoi kho. Thuc ra, phan duoi cua trang chi'nh duoc sa'p xep theo tiet muc, va trong moi tiet muc, theo ten tac gia , thu tu A,B,C ... . Toi dang nghien cuu cach trinh bay lai cho de doc hon)

Nguyen Dao
 


[ Đầu trang ]
Trang trước Trang sau

[ Trở về ]
 



Sự Sống và Sự Chết trong Phật Giáo
Thích Thiện Châu
[ I ]
Ðức Phật 
[ II ]
Tư tưởng Phật giáo
[III ]
Không Gian và Thời Gian
[IV ]
Hữu thể người
[ V ]
Hữu thể tái sinh
[VI ]
Trách nhiệm về các hành động
[VII ]
Thể cách sinh ra
[VIII ]
Giá trị của nhân loại và sự cực lạc của con người
[IX]
Sự chết
[ X ]
Trường hợp tự tử
[ XI ]
Sự tái sinh
[XII ]
Sự chết và vị A la hán

Ra đời đã hai mươi lăm thế kỷ nay, Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới. Suốt trong khoảng thời gian dài này, nhằm hòa nhập vào các nền văn minh và xã hội khác nhau, Phật giáo đã chuyển biến nhiều trong hình thức và phương cách hành đạo của mình. Dù có mất ảnh hưởng trong một số nơi, Phật giáo vẫn còn là một tôn giáo sống động trong phần lớn các nước ở châu Á. Từ vài chục năm nay, Phật giáo đã bắt rễ ở châu Âu và châu Mỹ dưới nhiều hình thức trong triết học, văn học, trị liệu học v.v...

Do cách đặt vấn đề rất đặc biệt của Phật giáo, những người mới học Phật sẽ gặp nhiều khó khăn để thấu triệt tư tưởng của Phật giáo về sự sống và sự chết.

Vì thế, chúng ta cần nhắc qua lịch sử đức Phật và những giáo lý căn bản của Ngài.

I. Ðức Phật

Người sáng lập Phật giáo vốn là Thái tử Thích-ca (Sâkya), thuộc một vương quốc nằm dưới dãy Hy-mã-lạp Sơn (Himalaya). Bị khổ đau ám ảnh, Ngài từ bỏ gia đình, xứ sở để đi tìm Chân lý. Sau nhiều năm nghiên cứu và thiền định, vào lúc 35 tuổi, Ngài trở thành một vị Toàn Giác (Phật). Suốt 45 năm, Ngài truyền tất cả những kinh nghiệm tâm linh của Ngài cho đồng loại ở lưu vực sông Hằng (Gange). Ngài viên tịch vào năm 80 tuổi , nhập cõi an lạc Ðại Niết-bàn (Parinirvâna). Ðược tượng trưng bằng một hoa sen trắng, đức Phật là con người tốt tối cao, là vị Thầy thuốc vĩ đại, là hình ảnh lý tưởng của một bậc Thầy của mọi thời đại.

II. Tư Tưởng Phật Giáo

Ðức Phật đã dâng suốt cả cuộc đời để thuyết giảng học thuyết của ngài. Các đệ tử của Ngài đã ghi nhớ những lời Ngài dạy rồi biên chép lại vào khoảng thế kỷ thứ II sau khi Ngài mất. Ngày nay chúng ta có ba Tạng (Tripitaka) bằng Pâli, Sanskrit, cũng như các bản dịch Hoa ngữ, Tạng ngữ, Nhật ngữ, Anh ngữ, Việt ngữ v.v... Tinh yếu của giáo lý của đức Phật có thể tóm lược trong các điểm sau đây:

1. Các học thuyết căn bản:

a. Học thuyết Duyên khởi (Paticcasammuppada):

Chính do khám phá ra quy luật này mà vị Hiền triết Sâkya (Sâkyamuni) trở thành Phật. Với đạo lý này giáo lý Phật giáo tách biệt hẳn với tất định luận hữu thần hay tất định luận tự nhiên. Ðức Phật đã phân tích các hiện tượng, từ quan điểm vật lý cũng như quan điểm tâm lý, bằng cách giải thích những tương quan nhân quả trong quá trình của cuộc sống và sự chết.

b. Học thuyết Vô ngã (Anattâ): Học thuyết này phân tích cái được gọi theo quy ước là "người", với những khía cạnh tâm-vật lý của nó. "Người" không gì khác hơn là một quá trình hiện tượng tâm-vật lý không có chủ thể (sankhârapunja).

c. Học thuyết Vô thường (Anicca): Theo học thuyết này, tất cả các sự vật được tạo thành (hữu vi) đều vô thường, không có sự hiện hữu bất biến mà chỉ có sự trở thành (bhava).

2. Các học thuyết ứng dụng.

Dựa vào các học thuyết trên, đức Phật diễn tả thái độ của Ngài về cuộc đời trong bốn Thánh đế sau đây:

a. Khổ (Khổ đế, Dukkha): cái khổ nội tại của thân thể và của tinh thần, cái khổ sinh ra do các vật hữu vi, cái khổ sinh ra do vô thường.

b. Nguồn gốc của Khổ (Tập đế, Samudaya): Sự khao khát dục lạc (dục ái), sự khao khát hiện hữu (hữu ái), sự khao khát đoạn diệt (phi hữu ái).

c. Loại trừ Khổ, Khổ diệt (Diệt đế, Nirodha): Ðấy là Niết-bàn (Nirvâna).

d. Con đường đưa đến sự Khổ diệt (Ðạo đế, Magga): Ðấy là Tám Thánh đạo có thể tóm lược vào ba điểm sau đây:

- Giới (Sîla)
- Ðịnh (Samâdhi)
- Tuệ (Pannâ)

III - Không gian và Thời gian
                                                                                                                     [* đầu bài]

Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama). Còn có hàng tỉ tỉ thế giới mà người ta không biết nguồn gốc của chúng (ahamattagga). Quan niệm nầy giống với quan niệm về các thiên hà của khoa thiên văn học hiện đại. Và trái đất của chúng ta như thế chỉ là một hạt bụi của vũ trụ này.

Còn thời gian thì được đo bằng các chu kỳ vũ trụ (kiếp-ba, kappa), được chia làm bốn giai đoạn, tức là: sự hình thành thế giới, sự tiếp tục, sự hủy diệt và cuối cùng là sự hỗn mang. Tương Ưng Bộ Kinh (Samyuttanikàya, II, 181) nêu ra một ngụ ngôn minh họa sự lâu dài phi thường của chu kỳ vũ trụ: "Này các Tỳ-kheo, giả như có một tảng đá to lớn, một nguyên khối rộng một Yojana, không bị nứt nẻ, không bị khiếm khuyết, và một người cứ cách một trăm năm thì chà xát nó một lần bằng miếng vải Kàsi. Thế rồi tảng đá lớn ấy sẽ mòn hết đi mà biến mất thì như thế vẫn còn nhanh hơn một chu kỳ vũ trụ.

Vậy thì đời người chẳng có nghĩa gì so với thời gian vũ trụ. Trong khoảng không gian và thời gian vô tận này có vô số hình thức chúng sinh đang trú ngụ mà ta vẫn chưa giải thích được nguồn gốc của các chúng sanh ấy. Theo đức Phật, có 9 loại chúng sanh, và con người chỉ là một loại trong đó, pha lẫn cả thiện và ác, hạnh phúc lẫn khổ đau. Mặc dù đức Phật đã bác bỏ cái quan niệm tự ngã như là một thực tế bất biến ở bên trong hay bên ngoài hữu thể, Ngài vẫn chưa bao giờ phủ nhận cái ngã thực nghiệm thuộc chức năng tính trong ý nghĩa nêu trỏ. Không ngã sở của riêng nó, một hữu thể người là một tập hợp của năm uẩn: sắc (hình sắc), thọ (cảm thọ), tưởng (suy tưởng), hành (tập hợp tâm lý) và thức (ý thức). Năm uẩn này nối kết chặt chẽ với sự khát ái gồm ba khía cạnh: dục ái (muốn lạc thú), hữu ái (muốn được hiện hữu) và vô hữu ái (muốn không hiện hữu). Khát ái tạo thành sức mạnh chủ yếu dẫn dắt không những con người mà cả các chúng sanh vào trong vòng sinh tử (samsâra). Chính do bởi khát ái này mà năm uẩn kết chặt với nhau và tạo thành một hữu thể:

Rupa (sắc) + Tanhâ (khát ái)
Vedana (thọ) + Tanhâ (nt)
Sanna (tưởng) + Tanhâ (nt)
Samkhâra (hành) + Tanhâ (nt)
Vinnâna (thức) + Tanhâ (nt)
Bị chế ngự bởi vô minh (Avija), bị quyết định bởi các hành động của mình (Karma), các chúng sinh phải gánh chịu khổ (Dukkha).

IV - Hữu thể người

Các ý niệm về đấng tạo hóa và sự sáng tạo không có trong Phật giáo. Tuy nhiên đức Phật cũng đã nói đến sự xuất hiện của những con người đầu tiên trên thế giới.

Theo Aggannasutta (Dn,III,80-98), trong khi thế giới này được hình thành, một số chúng sinh đã sống trong thế giới phát sáng (Abhassara) di chuyển đến đây. Họ xuất hiện với thân phát sáng và tâm hỷ lạc của họ. Họ di chuyển trong không gian và sống rất lâu. Sau dó, vì ăn các thực phẩm của trái đất (tính chất của đất, nấm, rau, trái), thân thể của họ mất ánh sáng và trở thành thô tháp, không thể bay lên trên không được nữa. Giới tính của họ xuất hiện và họ phân thành nam và nữ. Từ đấy khởi đầu việc sinh ra từ thai mẹ. Như thế loài người có nguồn gốc là chúng sinh từ thế giới khác đến và chính trong hoàn cảnh môi trường này, họ biến đổi dần cho đến khi mang hình thái hiện nay.

Truyện kể trên phù hợp với quan niệm về vũ trụ và về các chúng sinh, nhất là phù hợp với lý thuyết về Nghiệp (Karma) được Phật giáo chấp nhận.

V - Hữu thể tái sinh
                                                                                                                     [* đầu bài]
Một cách tổng quát, khoa sinh vật học chứng minh rằng một nhân phôi là sự hợp nhất của hai thành tố, tinh trùng của người đàn ông và noãn của người đàn bà. Phật giáo cho rằng ngoài hai thành tố này còn có một thành tố thứ ba nữa là cái thức tái sinh (patisandhivinnâna) xuất hiện vào lúc thụ thai: điều ấy có nghĩa rằng khi những điều kiện di truyền được thể hiện trong hoàn cảnh thuận tiện, một hình thức tâm vật lý xâm nhập vào, và giúp cho sự sống tương tục của một hữu thể người, như đức Phật đã dạy:

"Này các Tỳ-kheo, nơi nào có ba thành tố ấy hợp lại thì tại nơi đó một mầm sống được gieo".

Hữu thể tái sinh là lối gọi nhân cách hóa của một loại thức tái sinh, là yếu tố tâm vật lý ở trạng thái năng lực, kết quả của những hành động trong các đời trước (karma) và thể hiện ra vào lúc hình thành một đời sống mới. Cái thức tái sinh là cơ bản của một cá nhân, trên đó tâm và thân (nâmârupa - danh sắc) phát triển. Nếu không có nó thì sự sống của một hữu thể (chúng sinh) mới không xuất hiện; cũng như cuộc đối thoại sau đây giữa đức Phật với đệ tử A-nan của Ngài:

- Này A-nan, nếu cái thức này không giáng nhập vào bụng người mẹ thì tâm và thân có hình thành trong bụng người mẹ không?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Này A-nan, nếu thức ấy, sau khi đã giáng nhập vào bụng người mẹ mà lại bỏ chỗ này đi thì tâm và thức có tạo thành cái này hay cái nọ không?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Này A-nan, còn nếu cái thức này đang ở trong một bé trai hay một bé gái khi mà các em này còn nhỏ, lại biến mất đi thì tâm và thân có tăng trưởng, phát triển và lớn lên không?
- Bạch Thế Tôn, không.
                                                                                                        (Dn,II,63)

Như thế, cái thức tái sinh này được xem như chủng tử (bija) phối hợp với sức mạnh của hành động (karma-nghiệp lực) và khát ái (tanhâ), nhất là hữu ái (bhavatanha - khao khát được hiện hữu) làm sinh khởi sự sống mới của các chúng sinh:

"Này A-nan, hành động là ruộng, thức là hạt giống (chủng tử) và khát ái là sự ẩm ướt. Các chúng sinh bị vô minh kìm giữ, bị khát ái trói buộc, các tâm thức bị tê cóng trong các cảnh giới thấp (dục giới)" (An,III,76)

Sau khi đã an lập trong bào thai của người mẹ, thức (cái thức tái sinh) phối hợp với hai yếu tố khác: sức sống và hơi ấm, để đạt được và duy trì các chức năng của sự sống cho đến khi chết.

"Này các bạn, khi cái vỏ ốc biển này được phối hợp với sự nỗ lực và hơi thổi của người, âm thanh của vỏ ốc biển được phát sinh... Cũng vậy, này các bạn, khi thân thể được phối hợp với sức sống, hơi ấm và thức, nó có thể thực hiện động tác đi, đứng, ngồi, nằm, và mắt thấy hình sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân chạm vật và ý biết các đối tượng". (Dn,II,338).

Thức là một yếu tố quyết định toàn bộ hoạt động trí thức của con người trên mọi khía cạnh, từ cái chức năng lưỡng phân trong suốt sự hiện hữu của nó cho đến cái tiềm thức dài lâu và tinh tế. Nói một cách khác, thức là cái sinh ra sự tự chủ và sự tương tục của các chúng sinh. Trong ý nghĩa này, nó được xem như cái dòng thức (vinnana-sota) không gián đoạn trong những đời sống liên tục (Dn,III,105).

Trong chiều hướng tích cực tiến đến Niết-bàn, cái thức, một khi được nhận rõ, được biến đổi, được siêu việt hoá, trở thành thức được tiến hóa (samvattannika-vinnâna , Dn , II , 262) và luôn luôn được an lạc:

"Cái sắc thân tan rã, các suy tưởng ngưng dứt, tất cả các cảm thọ nguội lạnh, các thành tố tâm lý (hành) tịch lặng, thức đến chỗ an nghỉ (ta trở về nhà)" (Udâna,93).

"Do tin chắc rằng có một nguyên lý sống là cái thức (vinnâna), Phật giáo cho rằng một hữu thể người không phải chỉ là một tập hợp của các thành tố vật chất, thừa hưởng từ một cặp nam nữ, mà là một hữu thể (chúng sinh) toàn diện, gồm cả gia tài sống hay bản chất (nghiệp, karma) riêng của nó, hiện hữu tiềm tàng trong chính nó vào lúc thụ thai, trong thai bào của người mẹ, và trong thời thơ ấu của nó, vì rõ ràng rằng một đứa bé sơ sinh không phải là một cấu trúc trống rỗng, mà gồm chứa ngay từ đầu một chương trình tiên sơ, có thể thấy được qua thái độ của nó, như là thiên hướng tình cảm, các nhu cầu thiết yếu, sinh lý, giới tính, sự sân hận. Này Malunkyaputta, một đứa bé sơ sinh thơ dại, nằm ngửa ra đấy, nếu không có dục tính (kâmâ), thì tại sao sự ham muốn (kâmachanda) những khoái lạc cảm giác (kâmesu) lại xuất hiện ở trong nó ? Quả thực cái khuynh hướng bám chặt vào những khoái lạc dục tính (kâmarâgânusaya) tồn tại tiềm tàng trong nó". (Mn, I, 433).

Ðối với các Phật tử, một hữu thể trở thành một hữu thể người sau khi đã được nhân hóa bởi cha mẹ và môi trường của con người, là một sự việc rất lô-gích.

VI-Trách nhiệm về các hành động
                                                                                                                     [* đầu bài]

Khoa sinh vật học cho rằng sự đổi khác của con người, bằng cách này hay cách khác, tùy thuộc vào sự hỗ tương tác động giữa các cơ chế gien đã tạo thành con người lúc thụ thai. Chắc chắn lý thuyết về di truyền giải thích được những dị biệt và những tương đồng trong một số phần nào đó của thân thể con người, nhưng lý thuyết này không thể giải thích tất cả những khác biệt tinh tế, nhất là các đặc tính tâm thức vẫn có giữa các cá nhân, giữa cha mẹ và con cái hay những khác biệt giữa các cặp sinh đôi.

Phật giáo, dù thừa nhận ảnh hưởng quan trọng của tính di truyền và của hoàn cảnh chung quanh đối với đời sống con người, vẫn luôn luôn nhấn mạnh đến sức mạnh của các hành động đời trước (kamma) như là nguồn gốc chủ yếu của sự đổi khác giữa các chúng sinh. Cái mà người ta gọi là một "người" là sự biểu hiện của cái năng lực vô hình của một nghiệp tiềm tàng nhân tính. Chính cái nghiệp này tạo nên các tư tưởng, lời nói và hành động và đeo bám theo cái dòng sống cá biệt. Do đó, mặc dù đời sống của một chúng sinh thật là phức tạp lâu dài, chính con người đã tạo ra các hành động chịu trách nhiệm về các hành động ấy và thừa hưởng những hậu quả, dù cho con người ấy không phải là một cũng không phải là khác với chính mình so với kiếp trước (Cf, Sn, II, 20).

"Các chúng sinh là chủ và cũng là người thừa hưởng những hành động của họ; hành động là cái thai bào từ đó họ sinh ra, là người bạn của họ, là nơi an trú của họ. Bất kể hành động của họ như thế nào, tốt hay xấu, họ cũng sẽ là những người thừa hưởng chúng" (Mn, III, 203)

Phật giáo, bằng học thuyết về sự tái sinh, với những ý niệm chủ yếu như thức (vinnana) và nghiệp lực (kamma), có thể giải thích sự hình thành của một hữu thể người với cá tính và những đổi khác của nó, đặc biệt là giải thích những khác biệt tâm lý giữa những hữu thể người, mà không bác bỏ lý thuyết di truyền.

VII - Thể cách sinh ra

Các chúng sinh quanh quẩn trong vòng sinh tử (samsâra), khi dưới hình thái một con người, khi dưới hình thái một vị Trời hay một con vật, đã có thể hay có thể tái sinh bằng bốn thể cách:

1. Sự sinh ra từ trứng (noãn sinh-andaja) như sự sinh ra của loài chim.
2. Sự sinh ra từ bào thai của người mẹ (thai sinh Jatâbuja) như sự sinh ra của loài thú và loài người.
3. Sự sinh ra từ sự ẩm thấp hay từ rịn rỉ của các thành tố, đất, nước v.v... (thấp sinh, samsedja).
4. Sự sinh ra bằng sự hóa hiện (hóa sinh-oppâtika) không qua giai đoạn phôi thai, như sự sinh ra của chư Thiên hay của các lưu đồ địa gục (Cf Dn, III, 230; Mn, I, 73; Kosa, III, 8). Những chúng sinh người đầu tiên là những chúng sinh thuộc sự hóa sinh.

Sự sinh ra từ bào thai của người mẹ thường được tả rõ trong các kinh điển. Tóm tắt như sau: "Hữu thể tái sinh này (Gandhabha, Càn-thác-bà), kẻ mang tâm thức, nhân cơ hội giao phối giữa một nam và một nữ, nhập vào cái phôi thai được thành qua sự giao phối ấy. Nó được cưu mang bởi một sự ham muốn sắc dục phát xuất từ phái nam hoặc phái nữ, tùy theo nó thuộc phái nữ hay phái nam, và nó có một tình cảm sân hận với phía giao phối có giới tính ngược lại".

Hiện nay, cuộc cách mạng sinh vật học và sự sinh sản chưa vượt khỏi kỹ thuật thụ tinh với việc có người cho (insémination avec donneur, IAD) và sự thụ thai trong ống nghiệm với việc chuyển phôi (fécondation in-vitro avec transfert d'embryơn, FIVETE). Hai phương pháp này chứng tỏ rằng sự cấu thành đời sống con người có thể có ngoài những hình thái tự nhiên. Phật giáo, một khi đã công nhận có nhiều thể cách sinh ra của chúng sinh, có thể chấp nhận hai phương pháp mới này. Mặt khác, theo bài thuyết giảng về sự tiến hóa của thế giới và của xã hội (Cf, Dn, III, 84-86), những chúng sinh người đầu tiên từ thế giới khác đến, xuất hiện trong thế giới này không qua sinh đẻ do hành động dục tính.

VIII- Giái trị của nhân loại và sự cực lạc của con người
                                                                                                                     [* đầu bài]

"Ðược sinh làm người là khó" (Dhp, 182; Mn, III, 169; Cf, An, I, 35-37), và chỉ con người mới có thể thành Phật. Khổ đau và hạnh phúc trong đời người đều là những điều kiện tiên quyết cho phép con người hiểu được thực tế của cuộc đời và thực hiện lý tưởng của mình, trong khi các chúng sinh thuộc cõi thấp như các loài vật quá khổ đau và các chúng sinh cõi trời quá sung sướng không thể bước vào cuộc sống tâm linh.

Ðây là lý do tại sao chư Phật luôn luôn xuất hiện trong cõi người. Mặt khác, dù được hình thành bởi các khuynh hướng xấu (tham, sân, si) con người vẫn luôn luôn giữ được khuynh hướng tốt (vô tham, vô sân, vô si). Với những khuynh hướng tích cực, con người có thể biến thành một hửu thể từ bi, quảng đại và trí tuệ.

Một cách tiềm tàng, con người vẫn có cái tâm thức phát sáng làm căn bản cho sự giáo dục và tu tập, như đức Phật đã dạy: "Này các Tỳ-kheo, cái Tâm này là sáng sủa, nhưng nó bị dơ bẩn vì những bất tịnh, đến từ bên ngoài. Tuy nhiên, các phàm nhân chưa được giáo dục, không hiểu nó như thế. Vì vậy nên Ta tuyên bố rằng, các phàm nhân chưa được giáo dục, chưa có sự tu tập tâm thức. Này các Tỳ-kheo, cái tâm này thì sáng sủa và nó được gột sạch các bất tịnh từ bên ngoài đến. Các đệ tử cao thượng được giáo dục hiểu nó như thế. Vì vậy nên Ta tuyên bố rằng, đối với các đệ tử cao thượng được giáo dục, có sự tu tập tâm thức" (An, I, 10).

Trong cùng ý ấy, Phật giáo Ðại thừa (Mahâyâna) cho rằng mỗi hữu thể người là một Phật đang thành (Như Lai tạng-Tathâgatagarbha). Như thế, do nỗ lực (viriya), do ý chí cá nhân (attarika) được hướng dẫn bởi mong ước cao thượng (chanda), một người có thể thâm nhập tính năng động sáng tạo, phát triển mọi khả năng của tình thương, của thiện tâm, của chánh kiến và của chánh tinh tấn để trở thành một "con người thực sự" hay một Thánh nhân.

Do đó, sự truy tầm tâm linh là cần thiết, và những kinh nghiệm của hàng trí giả rất có ích cho mọi người:

"Không làm các điều ác,
Thành tựu các việc lành,
Tanh tịnh tâm ý mình,
Là đạo lý các Phật".
    (Pháp Cú 183)
Tu tập và làm thanh tịnh, đấy là đời sống Phật giáo mà mục đích là giác ngộ và giải thoát hay đạt Niết-bàn, sự an lạc tối thượng khó hiểu nhưng được hàng trí giả nhận biết:

"Như thế, này các Bà-la-môn, đối với bậc trí giả, Niết-bàn có thể thấy được trong đời này, ngay tức khắc, thu hút, hấp dẫn và có thể hiểu được". (An, I, 159).

Niết-bàn là một cảnh giới siêu việt, vì thế Niết-bàn khác lạ với tất cả những gì của thế giới khổ đau.

Câu chuyện con cá và con rùa, sau đây có thể minh họa, trong chừng mức nào đó, sự hiện hữu "phi luận lý" của cái tuyệt đối có tính vô ngã này:

Ngày xưa, có một con cá không biết gì khác ngoài nước trong đó nó đang sống. Một hôm đang nhởn nhơ bơi lội trong hồ tình cờ gặp anh bạn cũ là con rùa vừa đi chơi trên đất về.
- Chào anh - cá nói. Ðã lâu không gặp anh, anh đi đâu về đấy?
- Ồ - rùa đáp - tôi vừa du ngoạn trên đất khô về.
- Trên đất khô à ? Thế nghĩa là gì ? Tôi chưa bao giờ thấy cái gì như vậy. Thế ra có một chỗ đất khô à? Tôi nghĩ rằng điều anh nói là không thực.
- Nếu anh muốn tin như thế thì cũng được thôi, chẳng ai ngăn cản anh đâu. Nhưng điều chắc chắn là chính tôi vừa từ chỗ đất khô trở về.
- Này anh bạn. Hãy thử tả rõ cho tôi biết những gì anh đã thấy trong cuộc du ngoạn của anh. Xin anh nói cho tôi nghe đất giống như cái gì. Ðất có ẩm ướt không? Tôi e rằng anh chẳng lô-gích đấy!
- Không, đất không ẩm ướt.
- Thế thì nó mát hay lạnh?
- Nó không mát cũng không lạnh.
- Thế nó có trong để ánh sáng xuyên qua nó không?
- Không, nó không trong và ánh sáng không thể xuyên qua nó được.
- Nó có mềm nhuyễn để tôi có thể bơi lội thoải mái không?
- Không, nó không mềm nhuyễn và anh không thể bơi lội trong đất được.
- Nó có chảy thành dòng không?
- Không, nó không chảy và không tạo thành dòng.
- Nó có nhô lên và tạo thành sóng trắng không?
- Không, đất không nhô lên mà cũng không tạo thành sóng trắng.
Nghe vậy, cá thôi không hỏi rùa nữa và ngạo nghễ vặn lại:
- Tôi đã bảo với anh rằng đất không có. Khi tôi hỏi anh đất giống cái gì, anh đã không nêu rõ cho tôi được gì có ích cả. Vậy là không có đất. Ðừng lừa dối tôi nữa bạn ạ !
- Ðược, nếu anh tin rằng không có đất thì anh có lý của anh. Tuy nhiên, nếu một kẻ nào khác ngoài tôi làm cho anh chấp nhận được rằng có sự hiện hữu của đất thì lúc đó anh sẽ cùng tôi nhận định rằng anh hiện là một anh cá ngu đần.

Cũng thế, Phật giáo khẳng định rằng có khổ, nhưng cũng có khổ diệt.

IX - Sự chết
                                                                                                                     [* đầu bài]

Rõ ràng rằng con người do điều kiện tạo ra (duyên sinh) cũng như mọi sự vật, do đó con người là vô ngã và vô thường. Cũng như vũ trụ, con người thay đổi không ngừng. Không có sự hiện hữu, chỉ có sự trở thành (bhava). Ðức Phật đã trình bày tính vô thường của đời người bằng những hình ảnh thông thường sau dđây:

"Thực thế, đời sống của con người là ngắn ngủi, giới hạn, phù du, đầy khổ đau và ưu phiền, nó như một hạt sương tan biến khi mặt trời mọc, như bọt nước, như đường rãnh xẻ trong nước, như dòng thác chảy cuốn đi tất cả không bao giờ dừng lại, như một con vật nuôi để làm thịt lúc nào cũng đối đầu với cái chết" (An, III, 70).

Vì tất cả các sự vật được tạo thành (hữu vi) đều vô thường, không những chỉ con sông trong đó con người tắm, mà cả chính con người cũng luôn luôn thay đổi. Các hiện tượng tâm-vật lý mãi mãi sinh ra rồi chết đi vào mọi lúc trong suốt cả cuộc đời.

Về sự ngắn ngủi của cuộc đời Bouddhaghosa (Phật Âm) đã viết trong bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Ðạo VIII) "Trong tuyệt đối, đời sống một hữu tình rất ngắn ngủi, chỉ bằng khoảnh khắc một niệm. Như bánh xe, lúc lăn, chỉ đè trên một điểm của vành xe, và lúc ngừng, cũng chỉ đè trên một điểm, đời sống một hữu tình cũng chỉ lâu bằng một niệm: ngay khi niệm này dứt, hữu tình cũng ngừng sống".

Sự chết cũng thế, hiểu như sự chấm dứt khả năng sống của một hình thái hiện hữu, chỉ là sự gián đoạn tạm thời của một hình thái. Nó không phải là sự tiêu diệt toàn bộ một cá nhân; đúng hơn, nó là biểu hiện của một sự chuyển đổi sang một sự hiện hữu khác. Chỉ riêng các quan năng ngưng vận hành, chứ năng lực, sự khao khát được hiện hữu (hữu ái) nằm trong nghiệp lực vẫn tiếp tục thể hiện dưới một hình thái khác của sự sống.

Dù sao, chết là một hiện tượng cũng bình thường như sinh ra. Thường thường, những người đang hấp hối, yếu ớt về thể chất không còn có thể kiểm soát và điều động các ý tưởng của họ. Do đó, những ấn tượng gây nên bởi những biến cố quan trọng trong các cuộc đời này hay các cuộc đời trước hiện trở lại mạnh mẽ trong tâm thức, và họ không cách nào loại bỏ chúng.

Sau đây là ba loại ý tưởng vào lúc người ta sắp chết:

a. Kỷ niệm về những hành động quan trọng, tốt hoặc xấu, của quá khứ (kamma), ví dụ: các tội ác, cách cư xử hàng ngày, thói quen...

b. Biểu tượng của các hành động ấy (kammamitta), ví dụ khí cụ thờ cúng đối với các tín đồ, bệnh nhân đối với bác sĩ, súng ống đối với người lính...

c. Hình ảnh cảnh giới người ta sẽ tái sinh vào (gatinimitta), ví dụ: cõi khổ đau cùng cực (naraka) đối với những kẻ sát nhân, cõi sung sướng (devaloka) đối với những người thiện hiền,...

Ba loại ý tưởng mà người ta không thể chọn lựa một cách có ý thức xuất hiện rõ ràng trong tâm thức vào lúc chết. Chúng tạo thành những hành động gần với cái chết (cận tử nghiệp, âcinna kamma) ảnh hưởng và quyết định đặc tính của đời sống sắp đến, cũng giống như ý tưởng sau cùng trước giấc ngủ có thể trở thành ý tưởng đầu tiên lúc thức dậy. Cũng thế, những hành động quan trọng nhất trong một đời sống (garuka kamma), cũng như những hành động bình thường, tốt hay xấu, trở thành những ý tưởng tích cực và thù thắng trong những phút cuối cùng. Nếu như một ý tưởng nào đó trong các ý tưởng ấy vắng mặt vào lúc người ta chết thì cái hành động tiềm ẩn tích lũy (katattâ kamma) tạo thành sức mạnh gây nên sự tái sinh.

X - Trường hợp tự tử

Người Phật tử có thái độ thế nào đối với sự tự tử ? Xưa nay, khuynh hướng tự tử có khắp nơi trên thế giới. Khuynh hướng này được gọi là sự khao khát hủy diệt (vô hữu ái: vibhavatanha). Mặc dù rất sợ chết, người ta vẫn cảm thấy khát khao tự hủy diệt, nhất là khi người ta thất vọng về cuộc đời của mình. Ðức Phật dạy đời đầy khổ đau, nhưng không nên loại trừ khổ đau bằng tự tử. Thực vậy, cái chết do tự tử, cũng như cái chết do bất cứ hình thức nào khác, cũng đều được kế tiếp ngay sau đó một sự tái sinh. Sự hiện hữu mới sau một sự tự tử thường tệ hại hơn vì vào lúc chết, nó đã bị nhiễm đầy những ý tưởng xấu: thù ghét, căm giận, buồn rầu...
Sự sống và sự chết trong Phật Giáo

XI - Sự tái sinh
                                                                                                                     [* đầu bài]

Ðiều gì xảy ra sau khi chết ? Về điều này, đức Phật đã đưa ra học thuyết về sự tái sinh. Học thuyết này có gốc của nó trong sự giác ngộ của đức Phật chứ không có ở trong bất cứ một trong những tin tưởng có trước Phật giáo, mà một cách sai lạc, người ta thường lẫn lộn học thuyết này với chúng (An, III, 99 ; Sn, XVI, 9).

Theo học thuyết này, sự chết là một cái cửa mở ra một hình thức sinh ra khác. Hai sự hiện hữu (đời sống) được nối lại bởi cái thức tái sinh (patisandhi-vinâna) (Cn, Mn, 106 ; An, I, 224) được tạo ra bởi cái ý tưởng ngay trước khi chết và tái xuất hiện vào lúc thụ thai tức là với sự hình thành một sự sống mới trong người mẹ. Cái thức này được nhận định như là "cái hữu thể sẽ sinh ra" (Càn thác bà, Gandhabha). Ngay sau đó nó sẽ biến vào trong cái dòng tiềm thức của sự sống mới (Bhavangasota) mà nó không ngừng tạo ra. Chính cái thức tái sinh quyết định tính chất tiềm ẩn của một cá nhân. Từ cái chết đến sự tái sinh, cái dòng tiềm thức được truyền thẳng không qua trung gian (antarabhava). Cũng thế, cái thức tái sinh không bao giời rời khỏi đời sau. Tưởng cũng nên so sánh điều ấy với những hiện tượng như tiếng dội, ánh sáng của một cây đèn, dấu ấn của một khuôn dấu hay hình ảnh trong một tấm gương. Hai sự hiện hữu kế liền nhau thì không phải một cũng không phải là khác (Milindapanna, tr.40 : Naca-sonacaanno).

Do đó, luật nhân quả (kamma-vipâka) xảy ra không ngừng trong suốt quá trình sống của một cá nhân chịu trách nhiệm về các hành động đã làm của mình và thừa hưởng những kết quả của mình :

"Này các tỳ kheo, ý muốn (cetanâ) là cái mà ta gọi là hành động (cetanâhambhikkhave kammam vadâmi) vì chính do bởi ý muốn mà người ta thực hiện các hành động thuộc thân thể lời nói và ý thức. Này các tỳ kheo, có cái nghiệp (kamma) chín muồi ở các địa ngục... cái nghiệp chín muồi trong cõi súc sinh, cái nghiệp chín muồi trong cõi ngạ quỷ, cái nghiệp chín muồi trong cõi người, cái nghiệp chín muồi trong cõi trời. Tuy nhiên, kết quả của nghiệp thì gồm ba loại : chín muồi trong đời này (ditthadhammavedanîyakamma), chín muồi trong đời sắp đến (upapajjavedanîyakamma), chín muồi trong đời sau đó (aparâparîyaveda-nîyakamma) (An, VI, 63).

Sự tái sinh được gây nên do nghiệp lực tốt hay xấu có thể xảy ra ở tại một trong 31 nơi thuộc năm thú hướng:

a. Chỗ khổ đau cùng cực, địa ngục (niraya).
b. Cõi súc sinh (tirachâna).
c. Phạm vi của ngạ quỷ (peta).
d. Loài người (manussa).
e. Các cõi trời (diva) lại chia làm ba loại : cõi dục (kâmaloka), cõi sắc (rupaloka), cõi vô sắc (arupaloka).

XII - Sự chết và vị A La Hán
                                                                                                                     [* đầu bài]

Sự chết và sự tái sinh theo nhau một cách tương tục khi mà các chúng sinh bị chìm đắm trong sự lầm lạc khiến họ hành động theo sự điều động của vị kỷ và của sự ràng buộc vào cuộc sống. Trái lại, người ta loại trừ vô minh thì những hành động vị kỷ sẽ không còn sản sinh nữa. Chúng không bị ràng buộc vào những đối tượng dục lạc và quá trình sống bị gián đoạn. Vị làm dứt bặt mọi ràng buộc được gọi là A la hán (không tái sinh, Arahant). Ðức Phật cũng là A la hán về mặt giải thoát. Trường hợp một vị A la hán tiếp tục sống trong đời này dù các ái dục của ngài đã được đoạn trừ có thể được so sánh với hoạt động của một cái quạt máy : dòng điện đã bị ngắt, nhưng quạt vẫn quay nhờ vào vận tốc đã đạt được. Sự chết của vị ấy là sự ngưng những quá trình tâm vật lý của sự sống, và đồng thời nó là sự giái thoát toàn bộ và là sự an lạc vô lượng không thể miêu tả được. Vị A la hán không thuộc bất cứ loại chúng sinh nào cả (Cf, An, II, 38). Do vì chư vị A la hán không còn tạo ra những hành động vị kỷ (nghiệp, karma), nên chư vị không còn xuất hiện trong bất cứ khung trật nào nữa cả (Sun, 499). Không có câu trả lời dứt khoát nào cho câu hỏi về số phận của vị A la hán sau khi chết :

"Như những tia sáng từ lò phát ra lần lượt tắt đi.
Và người ta không biết chúng đi đâu.
Cũng vậy, vị đã được giải thoát hoàn toàn
Ðã vươn qua dòng khát ái,
Ðã vào trong tịch lặng,
Thì không để lại dấu vết".
                                            (Udâna 93).
Kinh Trung bộ (Majjhimanikaya) 72 cũng kể một cuộc bàn luận giữa đức Phật và Vaccha, một ẩn sĩ lang thang, về chủ đề sau đây :

- Thưa Gotama (Cù Ðàm), một tu sĩ được giải thoát tái sinh về đâu (Vaccha muốn nói đến một vị A la hán).
- Này Vaccha, bảo rằng vị ấy tái sinh thì như thế là không đúng.
- Thế thì, thưa Gotama, vị ấy không tái sinh ư ?
- Này Vaccha, bảo rằng vị ấy không tái sinh, điều ấy không đúng.
- Thế thì, thưa Gotama, vị ấy tái sinh và không tái sinh ?
- Này Vaccha, bảo rằng vị ấy tái sinh và không tái sinh, điều ấy không đúng.
- Thế thì, thưa Gotama, vị ấy không tái sinh và cũng không không tái sinh ?
- Này Vaccha, bảo rằng vị ấy không tái sinh và không không tái sinh , điều ấy không đúng.

Nghe những câu trả lời của đức Phật, Vaccha lấy làm bối rối và không còn tin những gì đức Phật đã dạy ông trước kia.

Và đức Phật, sau khi xác nhận rằng học thuyết này rất khó hiểu đối với Vaccha, cố minh họa cho ông về học thuyết này bằng cách đặt cho ông những câu hỏi :

- Này Vaccha, giả như có một ngọn lửa than trước mặt ông, ông có biết rằng nó đang cháy trước mặt ông không ?
- Thưa Goatama, nếu có một ngọn lửa than trước mặt tôi, tôi biết ngọn lửa cháy trước mặt tôi.
- Nhưng này Vaccha, nếu như ngọn lửa trước mặt ông tắt đi, ông biết ngọn lửa trước mặt ông tắt không ?
- Thưa Gotama, nếu ngọn lửa trước mặt tôi tắt, tôi biết ngọn lửa trước mặt tôi tắt.
- Nhưng này Vaccha, nếu có ai hỏi ông : "Ngọn lửa đã đi về hướng nào, đông, tây, nam hay bắc ?" thì ông trả lời thế nào ?
- Thưa Gotama, câu hỏi này không thích ứng với trường hợp này. Vì ngọn lửa tùy thuộc vào sự cháy của cỏ và của gỗ. Chỉ khi nào không còn nhiên liệu nữa thì ngọn lửa mới tắt đi.
- Ðúng thế, ở đây cũng vậy, này Vaccha, tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức một khi bị từ bỏ, bị nhổ bật, bị chặt đứt như cây tala thì chúng sẽ tắt diệt đi không còn có thể mọc lên lại sau này nữa. Này Vaccha, một vị đã giải thoát ra khỏi những gì được gồm thành năm uẩn thì sâu xa, rộng lớn như biển. Do đó, bảo rằng vị ấy tái sinh, rằng vị ấy không tái sinh, rằng vị ấy tái sinh và không tái sinh, rằng vị ấy vừa không tái sinh vừa không không tái sinh, tất cả đều không đúng hợp.

Cho nên không thể bảo rằng một vị đã giải thoát tái sinh, vì tất cả những phiền não tạo thành sự tái sinh đã bị loại trừ. Và cũng không thể bảo rằng một vị đã giải thoát thì bị đoạn diệt vì không cò ai để bị đoạn diệt.

Rõ ràng rằng đức Phật đã giảng rất ít về Niết bàn và sự nhập Niết bàn, về sự hiện hữu cực lạc của những vị đã giải thoát. Tuy nhiên, một tuyên thuyết nổi danh của ngài trong kinh Udâna VIII, bốn quả thực rất quan trọng về lĩnh vực của tuyệt đối : "Này các tỳ kheo, có một cái bất sở sinh, bất sở thành, bất sở tác, bất sở vi. Này các tỳ kheo, nếu không có một cái bất sở sinh, bất sở thành, bất sở tác, bất sở vi, thì sẽ không có sự giải thoát đối với cái được sinh ra, được lập thành, được tạo tác, được làm nên. Nhưng, này các tỳ kheo, vì có một cái bất sở sinh, bất sở thành, bất sở tác, bất sở vi, mới có sự giải thoát đối với cái được sinh ra, được lập thành, được tạo tác, được làm nên. Ðiều này quả thực là sự chấm dứt của khổ".

Cái bất sở sinh (bất sinh) là cái tuyệt đối vô ngã, mà người ta không thể tìm kiếm bằng bất cứ một phương thức hợp lý nào hoặc diễn tả bằng một ngôn ngữ không tương xứng của con người, vì nói đến chính cái tuyệt là một điều hoàn toàn vô nghĩa.

Tóm lại, học thuyết Phật giáo về sự sống và sự chết vừa có tính cách luận lý vừa có tính cách vi diệu. Ðiều ấy muốn nói rằng, người ta có thể hiểu nó bằng tri thức, nhưng chỉ bằng trí tuệ người ta mới có thể thâm nhập vào nó, thể chứng nó được.

Ðể thay cho kết luận, tôi muốn tóm tắt những gì tôi đã trình bày trong phạm vi Phật học bằng những câu trả lời cho những câu hỏi sau đây mà người ta đã nêu với tôi :

Chúng ta là ai ?

Chúng ta là những hữu thể được tạo thành bằng những yếu tố tâm vật lý và bằngthức ăn ở trái đất, được gọi là người, nhưng không có những cái ngã có tính chất tự thể và thường hằng.

Chúng ta từ đâu đến ?

Chúng ta được sinh ra bởi nghiệp (kamma) của chính chúng ta và nhận di sản của cha mẹ chúng ta hay xa hơn, của các tổ tiên đầu tiên của chúng ta từ một thế giới khác đến.

Chúng ta có một mục đích trong đời này không ?

Nếu chúng ta muốn lợi dụng đời sống quý báu này để thể chứng giác ngộ và giải thoát, thì những cuộc sống của chúng ta có những mục đích tối thượng.

Chúng ta sẽ về đâu sau khi chết ?

Chúng ta sẽ tái sinh trong những thế giới hoặc hạnh phúc hoặc khổ đau, điều ấy tùy thuộc những hành động của chúng ta trong cuộc đời này.

Nếu chúng ta đã đoạn trừ những gốc rễ xấu (các căn bản bất thiện) : tham dục, sân hận, si muội, chúng ta sẽ tự giải thoát khỏi vòng sinh tử (samsâra-luân hồi), và) nói theo ngôn ngữ của cuộc đời, chúng ta nhập vào cõi Cực lạc (Parinirvâna).

   Thích Thiện Châu
* Bài này đã được thuyết trình tại buổi Hội thảo thứ 23 do Liên Hiệp Thế Giới các Tôn Giáo (Alliance mondiale des religions) , được tổ chức vào ngày 10,11,12 /3/1989 và được đăng lại trong sách Tìm Ðạo của H.T. T.Thiện Châu do Viện Nghiên Cứu Phật Học VN ấn hành năm 1996.
 
 

[ Trở về ]