[ Trở về ]

Phần Một : t�m hiểu nội dung v� xuất xứ Thầp Ngưu Đồ

II . Giải Th�ch Về Xuất Xứ Thập Ngưu Đồ

 

Lời n�i đầu:

Kh�ng biết từ hồi n�o, trong chốn thiền m�n người ta đ� đem gh�p bốn t�c phẩm T�n T�m Minh 信心銘, Chứng Đạo Ca 証道歌, Thập Ngưu Đồ 十牛図 v� Tọa Thiền Nghi 座禅儀 l�m một bộ gọi l� Thiền T�ng Tứ Bộ Lục 禅宗四部録. Tuy nhi�n, đặc điểm chung của 4 t�c phẩm n�y l� ch�ng đều l� những cẩm nang b�nh dị d�ng v�o việc tham thiền. C� thể n�i ai m� đọc m� hiểu hết được 4 quyển s�ch n�y th� xem như đ� tốt nghiệp về thiền rồi vậy. Tọa Thiền Nghi l� s�ch chỉ vẽ cụ thể nhất về phương ph�p tọa thiền, T�n T�m Minh v� Chứng Đạo Ca được xem như những lời ca ngợi về � nghĩa uy�n �o của tư tưởng Thiền T�ng. Ri�ng về Thập Ngưu Đồ, với những h�nh ảnh về sự chăn tr�u vốn gần gũi với tất cả mọi người, đ� tr�nh b�y sự tu h�nh qua từng giai đoạn một. K�m th�m v�o đ� l� những b�i kệ tụng để b�nh giảng nữa. Tất cả gi�p ch�ng ta hiểu được những đề t�i thảo luận li�n quan đến tư tưởng Thiền T�ng v� cả gi�o l� Phật gi�o đại thừa. Trong 4 tập s�ch của Thiền T�ng Tứ Bộ Lục, c� lẽ Thập Ngưu Đồ l� c� nhiều đặc sắc v� mới mẽ nếu đem so với những t�c phẩm c� nhan đề tương tự ra đời trước sau n� v�o đời Tống,

Nguy�n lai, T�n T�m Minh[1] l� t�c phẩm m� t�n người viết được qui cho Tam tổ Tăng X�n, đồ t�n của Sơ tổ Thiền T�ng l� Bồ Đề Đạt Ma. Chứng Đạo Ca[2] do Vĩnh Gia Huyền Gi�c, người nối tiếp đạo ph�p của Lục tổ Huệ Năng. C�n Thập Ngưu Đồ v� Tọa Thiền Nghi, cả hai đều đ� ra đời v�o khoảng giữa đời Tống.Tọa Thiền Nghi b�y giờ đ� nhập v�o để trở th�nh một bộ phận của bản thanh quy tối cổ của Thiền T�ng c�n được bảo tồn l� Thiền Uyển Thanh Quy. Trong bản t�i bi�n đời Nguy�n mang t�n Sắc Tu B�ch Trượng Thanh Quy, n� cũng nằm ở trong.

Nh�n theo quan điểm lịch sử, ta thấy mỗi quyển trong 4 tập s�ch trong Thiền T�ng Tứ Bộ Tập đều ti�u biểu cho lịch sử Thiền T�ng v�o thời đại của m�nh. N�u ch�ng ta tra cứu được cặn kẽ về t�c giả của ch�ng v� ho�n cảnh s�ng t�c l� đ� c� thể hội đủ tư liệu để viết được một quyển th�ng sử về Thiền T�ng Trung Quốc c� gi� trị rồi. Ngo�i ra 10 bức tranh chăn tr�u trong Thập Ngưu Đồ l� t�c phẩm cực kỳ qu� gi� rơi rớt lại tự đời Tống, cũng gi�p cho ch�ng ta t�m hiểu về lịch sử ph�t triển của loại kinh Phật được minh họa bằng tranh, v� xa hơn nữa, lịch sử mỹ thuật Thiền T�ng. Ng�y nay, trong c�c cuộc đấu gi� v� triển l�m cổ bản, Thập Ngưu Đồ bản Gozan (Ngũ Sơn) l� một trong những bản được y�u chuộng nhất. Hơn nữa, kh�ng chỉ những kẻ hiếu sự, hiếu kỳ mới để � m� ngay cả những nh� nghi�n cứu �u Mỹ về Thiền T�ng cũng bắt đầu quan t�m đến Thập Ngưu Đồ. Bốn t�c phẩm đ�c kết th�nh Thiền T�ng Tứ Bộ Lục từ l�u đ� được xếp h�ng đầu trong c�c bộ ngữ lục dịch ra ngoại ngữ. H�y c�n nhiều khuyết điểm như tr�ng dịch, cải dịch, dị dịch�cần b�n c�i, thế nhưng c�c t�c phẩm n�y đ� xứng đ�ng đại diện được số s�ch vở về thiền dịch ra tiếng nước ngo�i. Ngay cả trong việc nghi�n cứu Thiền T�ng thời cận đại v� cả việc phổ biến Thiền ra ngoại quốc, bốn quyển s�ch n�i tr�n kh�ng đơn thuần l� những t�c phẩm nhập m�n th�i đ�u.  

Ri�ng việc x�c định thời đại Thiền T�ng Tứ Bố Lục được kết hợp th� về mặt lập chứng, vẫn chưa c� g� r� r�ng nhưng �t nhất, người ta biết đ�ch x�c l� v�o cuối thời Kamakura ( khoảng trước năm 1333), bộ n�y đ� được san h�nh ở Nhật Bản. Nếu căn cứ theo th�ng lệ l� việc xuất bản một loạt thiền lục bản Gozan (tức s�ch vở do c�c ch�a trong hệ thống Ngũ Sơn đảm nhiệm) tr�n thực tế bắt nguồn từ c�c bản khắc theo thuyền bu�n đến từ nh� Tống th� c� thể suy ra l� bốn quyển ấy đ� được người ta in gộp với nhau từ khi c�n ở b�n Trung Quốc. V� dụ Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi, t�c phẩm dạy c�ch tham thiền của Thiền T�ng buổi sơ kỳ ở Nhật do tăng D�gen (Đạo Nguy�n) viết dĩ nhi�n đ� thừa kế Tọa Thiền Nghi của Thiền Uyển Thanh Quy. Ch�nh D�gen cũng ghi lại r� r�ng như thế. Tuy nhi�n D�gen kh�ng hề sao ch�p nguy�n văn Thiền Uyển Thanh Quy m� lại th�m � kiến của m�nh v�o. Nh�n v� trong phần � kiến ri�ng của m�nh, D�gen c� khi sử dụng ngữ vựng, c� khi đem v�o � kiến của T�n T�m Minh v� Chứng Đạo Ca v�o nữa, do đ� tranh luận về sự kết hợp 4 quyển lại với nhau vẫn chưa mang đến một kết quả rốt r�o.

V� dụ như khi D�gen bảo: �H�o ly hữu sai, thi�n địa huyền c�ch, vi thuận t�i khởi, ph�n nhi�n t�m thất� (Chỉ sai tơ h�o, đất trời c�ch trở xa vời, vừa chợt ph�n biệt, c�i t�m rối ngay tức khắc). Lại th�m rằng: �Tốc tuyệt học v� vi th�nh ch�n nh�n� (Mau bỏ sạch kiến thức, chỉ v� vi để th�nh người gi�c ngộ). Nếu ai kh�ng tham khảo những tiền đề của T�n T�m Minh v� Chứng Đạo Ca th� chẳng hiểu D�gen muốn n�i g�. Nếu bảo Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi của D�gen c� lẽ đ� thừa kế Thiền T�ng Tư Bộ Lục c� lẽ x�c đ�ng hơn l� bảo n� chỉ thừa kế Tọa Thiền Nghi vốn c� trong Thiền Uyển Thanh Quy. Suy nghĩ như thế, ta c� thể nắm được � nghĩa của hai chữ �phổ khuyến� (� n�i mời gọi rộng r�i). Về sau sẽ n�i r� hơn nhưng ở đ�y, xin th�ng tin ngay l� ở Nhật Bản, đ� c� tiền lệ gh�p T�n T�m Minh v� Chứng Đạo Ca với nhau một lần v�o thời Heian rồi, tuy rằng sự kết hợp giữa ch�ng với Tọa Thiền Nghi th� chỉ nằm trong phạm vi của Thiền M�n Tứ Bộ Lục chứ kh�ng ở nơi n�o kh�c. Chuyện D�gen đ� được tr�ng thấy Thập Ngưu Đồ hay chưa h�y c�n l� một nghi vấn thế nhưng việc �ng từng biết đến 3 t�c phẩm tr�n 4 l� một điều kh�ng thể ngờ vực. C� thể hiểu 3 bộ s�ch ấy đ� được kết hợp sẳn ở Trung Quốc từ trước, khi Thập Ngưu Đồ ra đời v�o cuối thế kỷ 12 th� kh�ng c�n g� cản trở để tạo ra Thiền T�ng Tứ Bộ Lục như một pho s�ch m� qua ch�ng, người ta c� được c�i nh�n kh�i qu�t tư tưởng nh� Thiền.

Thế th� dưới thời Tống v� cớ g� người trong l�ng thiền lại chọn 4 tập s�ch n�y để kết hợp ch�ng lại với nhau. Thiền Uyển Thanh Quy đ� được bi�n soạn v�o năm S�ng Ninh thứ 2 (1103). H�nh như l�c đ� trong Thiền Uyển Thanh Quy chưa chứa đựng phần Tọa Thiền Nghi như ta thấy ng�y nay. Chỉ một thời gian sau đ� ước độ 50 năm, v�o ni�n hiệu Thiệu Hưng 27 (1157) khi bộ Đại Tạng Nhất L�m được bi�n tập th� mới thấy trong đ� một bộ phận của Tọa Thiền Nghi m� thiền sư Nhật Bản Eisai (Vinh T�y) đ� sao lục v�o trong Hưng Thiền Hộ Quốc Luận của �ng. Thế rồi đến năm Gia Th�i thứ 2 (1202) khi Thiền Uyển Thanh Quy được t�i bi�n, người ta kh�m ph� ra Tọa Thiền Nghi đ� nằm trọn vẹn trong đ�. Thập Ngưu Đồ cũng ra đời vừa vặn v�o dịp n�y.

S�ch Đại Tạng Nhất L�m l� một cuốn c� t�nh c�ch k� khai mục lục dựa v�o hai Đại Tạng Kinh bản Ph�c Ch�u đ� ho�n th�nh đ�ng l�c đ�. Trong s�ch, Chứng Đạo Ca được tr�ch dẫn ra ở nhiều chỗ. Chứng Đạo Ca thoạt ti�n l� một t�c phẩm ngắn cho n�n được tr�ch dẫn ra hầu như hết to�n bộ. Điều đ�ng ch� � l� cũng l� v�o thời điểm ấy, trong những lần Đại Huệ T�ng Cảo phổ thuyết hoặc thượng đường, �ng đều c� dịp tự do dẫn chứng bằng Chứng Đạo Ca. Đặc biệt c� người rao truyền l� Chứng Đạo Ca đ� được dịch th�nh 3 quyển qua tiếng Ấn Độ v� được t�n s�ng dưới c�i t�n Đại Thừa Quyết Nghi Kinh.Như thế, đối với Đại Tạng Nhất L�m th� Tọa Thiền Nghi v� Chứng Đạo Ca đ� được sắp xếp để d�ng c�ng v� đặt ngang h�ng với Đại Tạng Kinh. Cũng v�o thời điểm n�y, t�c phẩm n�i tr�n (Chứng Đạo Ca) đ� l� đối tượng của rất nhiều s�ch ch� th�ch v� những b�i tựa v� bạt li�n quan cho thấy n� rất được giới sĩ đại phu quan t�m đến. Cần để � l� trong s�ch Tổ Đ�nh Sự Uyển, nơi tập hợp những lời ch� th�ch về ngữ lục của t�ng V�n M�n, ta thấy c� cả những ch� th�ch về chữ d�ng trong Chứng Đạo Ca. Sự xuất hiện một c�ng tr�nh huấn hổ học (ch� th�ch kinh điển) về t�c phẩm của Thiền T�ng như vậy l� cực kỳ hiếm c�.     

C�n như T�n T�m Minh th� dĩ nhi�n l� tự ng�y xưa v� xuy�n suốt lịch sử Thiền T�ng, l�c n�o n� cũng l� một t�c phẩm được t�n s�ng. Mỗi lần Đại Huệ (T�ng Cảo, 1089-1163) phổ thuyết hoặc thượng đường, �ng vẫn hay đem n� v� Chứng Đạo Ca ra dẫn chứng. Theo Ngọa V�n Kỷ Đ�m quyển thượng v� Đại Huệ Vũ Khố cho biết, xưa kia Lang Da Huệ Gi�c đ� từng ch� th�ch T�n T�m Minh rồi đem ra đ�m luận với L� Văn H�a v� thu lượm được nhiều � kiến hay. L� Văn H�a tức l� L� Tồn H�c, một chức quan cao sống v�o đầu đời Tống. Cũng kh�ng n�n qu�n rằng đại k�nh dịch của Đại Huệ l� Thanh Yết Ch�n Liễu thuộc t�ng T�o Động cũn từng viết T�n T�m Minh Ni�m Cổ. Nếu biết rằng khi Thập Ngưu Đồ vừa xuất hiện th� ba t�c phẩm n�y (Chứng Đạo Ca, T�n T�m Minh v� Tọa Thiền Nghi) đ� g�y được sự ch� � của mọi người th� ch�ng ta sẽ hiểu tại sao người ta đ� gộp chung bốn quyển s�ch v�o một pho, chẳng những thế, c�n c� thể xem rằng sự kết hợp ấy hầu như l� chuyện đương nhi�n.   

 

Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am:

Chu Hy (1130-1200), bậc đại th�nh của Tống học, đ� ghi ch�p những lời đối thoại thường ng�y của m�nh với chư đệ tử trong cuốn s�ch nhan đề Chu Tử Ngữ Loại. Quyển 126 của s�ch đ� thu thập hầu như những mẩu chuyện li�n hệ với Phật gi�o. Ch�nh nơi đ� đ� thấy lời ph�t biểu của �ng: �Th�ch thị ng�n mục ngưu, L�o tử ng�n bảo nhất� (C�i m� họ Th�ch n�i l� chăn tr�u th� �ng L�o gọi l� giữ cho được l�m một). H�nh như v�o thời điểm đ�, v� von những chặng đường tu h�nh với việc chăn tr�u đ� trở th�nh chuyện thường t�nh.   

Nguồn gốc của Thập Ngưu Đồ thật kh�ng r� r�ng ch�t n�o. V�o thời của Chu tử, thể loại t�c phẩm như thế n�y đ� qui tụ th�nh �t nhiều hệ thống rồi. Số tranh v� số kệ của ch�ng cũng kh�c nhau. Thập Ngưu Đồ kết hợp trong Thiền T�ng Tứ Bộ Lục l� của Khuếch Am, h�ng đồ t�n đời thứ ba của Ngũ Tổ Ph�p Diễn. Trước Khuếch Am đ� c� Thanh Cư Hạo Thăng, trước Thanh Cư đ� c� Phật Ấn Liễu Nguy�n, người n�o cũng để lại kệ tụng đem chuyện chăn tr�u để so s�nh với những giai đoạn trong đời tu h�nh. Thanh Cư thuộc t�ng T�o Động, Phật Ấn thuộc t�ng V�n M�n. Trong t�ng V�n M�n c� th�m Phật Quốc Duy Bạch. C�n Phổ Minh普明 l� một người t�ng ph�i kh�ng được biết r� r�ng, cũng để lại t�c phẩm. Sẽ b�n th�m về diều n�y ở đoạn sau nhưng nếu ta xem Phổ Minh l� ph�p hiệu của Tưởng Chi Kỳ蔣之奇 (1031-1104) th� họ Tưởng l� người đồng m�n của Phật Quốc Duy Bạch. T�c phẩm của c�c ph�i v� dưới c�c dạng kh�c nhau đ� được Khuếch Am tổng hợp lại. Về ho�n cảnh đ� đưa đẩy n� ra đời th� ta đ� biết qua b�i tựa đặt ở đầu quyển Tr� Đỉnh Ch�u Lương Sơn Khuếch Am H�a Thượng Thập Ngưu Đồ rồi. Trước ti�n về ph�p hệ của t�c giả Lương Sơn Khuếch Am th� ta c� thể tham khảo hệ đồ sau đ�y:

 

Hệ phổ t�c giả v� t�c phẩm li�n hệ gần xa tới Thập Ngưu Đồ

1 Lục Tổ (638-713) ---> 2 Nam Nhạc (672-744), đồng 2 Thanh Nguy�n (?-740), đồng 2 Nam Dương Trung Quốc Sư (?-775).

 

Nh�nh Nam Nhạc:

2 Nam Nhạc (677-744) ==> 3 M� Tổ (709-788) ==> 4 Nam Tuyền (748-834) ==> 5 Triệu Ch�u (778-897). Đồng 4 B�ch Trượng (749-814) ==> 5 Quy Sơn (771-853) ==> 6 Ngưỡng Sơn (807-883) ==> 7 Ngũ Quan Sơn Thuận Chi (830-888) (Tứ Đối B�t Tướng). Đồng 5 Ho�ng B� ==> 6 L�m Tế (?-866) ==> 7 Hưng H�a ==> 8 Nam Viện  ==> 9 Phong Huyệt (896-973) ==> 10 Đạo Sơn (926-993) ==> 11 Phần Dương (947-1024) ==> 12 Từ Minh (986-1039) ==> 13 Dương Kỳ (992-1049). Đồng 13 Ho�ng Long (1002-1069).

Chi Dương Kỳ:

13 Dương Kỳ Phương Hội (�992-1049) ==> 14 Bạch V�n (1025-1072) ==> 15 Ngũ Tổ Ph�p Diễn (? -1104) ==> 16 Đại T�y ==> 17 Thạch Đầu ==> 18 V�n Cư ==> 19 Vạn T�ng Hoại Nạp (Thập Ngưu Họa Tụng). Đồng 17 Lương Sơn Khuếch Am (Thập Ngưu Đồ Tụng). Đồng 16 Vi�n Ngộ (1063-1135) ==> 17 Hổ Kh�u Nguy�n Tịnh (Tứ Ngưu Đồ Tụng), đồng 17 Đại Huệ (1089-1163) ==> 18 Phật Chiếu (1121-1203), đồng 18 V� Dụng (1137-1207) ==> 19 Thạch Cổ (Thập Ngưu Họa Tụng). Đồng 17 Hổ Kh�u Thiệu Long (1077-1136) ==> �Trung Phong Minh Bản (1263-1323). Đồng 17 Phật Hải (1103-1176).   

Chi Ho�ng Long:

13 Ho�ng Long Huệ Nam (1002-1069) ==> 14 Ch�n Tịnh (1025-1102) (Phổ Minh Mục Ngưu Họa Tụng) ==> 15 Gi�c Phạm Huệ Hồng (1071-1182). Đồng 14 Hối Đường (1025-1100) ==> 15 Linh Nguy�n (? � 1117), đồng 15 Ho�ng Sơn Cốc (1045-1105). Đồng 14 Thường Tổng ==> 15 T� Đ�ng Pha, đồng 15 Dương Quy Sơn (1053-1135).

 

Nh�nh Thanh Nguy�n:

2 Thanh Nguy�n H�nh Tư (?-740) ==> 3 Thạch Đầu Hi Thi�n (700-791) ==> 4 Thi�n Ho�ng Đạo Ngộ (748-807). Đồng 4 Dược Sơn Duy Nghiễm (751-834).

Chi Thi�n Ho�ng:

4 Thi�n Ho�ng Đạo Ngộ (748-807) ==> 5 Long Đ�m S�ng T�n ==> 6 Đức Sơn Tuy�n Gi�m (782?-855) ==> Tuyết Phong Nghĩa Tồn ==> 8 V�n M�n Văn Yển (864-949). Đồng 8 Huyền Sa Sư Bị (835-908)[3].

Ph�i V�n M�n: 8 V�n M�n Văn Yển (864-949) ==> 9 Song Tuyền ==> 10 Đức Sơn Huệ Viễn ==> 11 Khai Ti�n ==> 12 Phật Ấn Liễu Nguy�n (Tứ Ngưu Đồ Tụng). Đồng 9 Hương L�m (908-987) ==> 10 Tr� M�n (?-1031) ==> 11 Tuyết Đậu (980-1052) ==> 12 Thi�n Y (993-1064) ==> 13 Vi�n Th�ng Ph�p T� (1027-1090) ==> 14 Phật Quốc Duy Bạch (Lục Ngưu Đồ). Đồng 14 Tưởng Chi Kỳ (1031-1104, Phổ Minh Mục Ngưu Đồ)

Chi Dược Sơn:

4 Dược Sơn Duy Nghiễm ==> 5 V�n Nham (780-841?) ==> 6 Động Sơn (807-869) ==> 7 V�n Cư Đạo Cư (835?-902). Đồng 7 Thanh L�m (? -904?).

Đồng 5 Đạo Ng� (769-835) ==> 6 Thạch Sương (807-888) ==> 7 Cửu Phong ==> 8 Đồng An Thường S�t (Thập Huyền Đ�m).

Ph�i V�n Cư: 7 V�n Cư (835?-902) ==> 8 Đồng An Đạo Phi  ==> 9 Quan Ch� ==> 10 Lương Sơn Duy�n Qu�n ==> 11 Đại Dương (943-1027) ==> 12 Đầu Tử Nghĩa Thanh.

Ph�i Thanh L�m: 7 Thanh L�m (?-904?) ==> 8 Thạch M�n Hiến Uẩn ==> 9 Huệ Triệt ==> 10 Huệ Viễn ==> 11 Thanh Cư Hạo Thăng (Mục Ngưu Thập Nhị Đồ Tụng).

 

Nh�nh Nam Dương

2 Nam Dương Trung Quốc Sư (Huệ Trung, ?-775) ==> 3 Đam Nguy�n (Vi�n Tướng Cửu Thập Thất Chủng).

T�n của Thiền sư Lương Sơn Sư Viễn (Khuếch Am) đ� được nhắc đến trong Phổ Đăng Lục quyển 17 v� Ngũ Đăng Hội Nguy�n quyển 20 vv�thế nhưng truyện k� về �ng kh�ng thấy đi v�o chi tiết. Do đ� chỉ biết �ng họ Lỗ, qu� Hợp Xuy�n v� sống ở Lương Sơn thuộc phủ Thường Đức. Trong c�c s�ch đ�, khi n�i về �ng, đặc biệt dưới c�i t�n Sư Viễn, kh�ng hề đả động đến Thập Ngưu Đồ. Khi xem người soạn b�i tựa cho Thập Ngưu Đồ xưng t�n l� Từ Viễn th� dễ suy luận rằng c� lẽ giữa hai người phải c� mối li�n hệ sư đệ n�o đ�. Nếu sắc mắc một ch�t c� khi c�n tưởng tượng được biết đ�u Sư Viễn chẳng ph�n th�n ra để th�nh Từ Viễn. Về sau, khi b�n về tỳ khưu �Tham học T�ng Thiệu�, nh�n vật đ� bi�n tập V� M�n Quan, cũng c� người đưa ra thuyết l� �ng n�y với t�c giả V� M�n Huệ Khai chỉ l� một nh�n vật. D� sao, ở đ�y ch�ng ta chỉ n�n ngừng lại ở việc ghi nhận c� mối ho�i nghi ấy th�i, chứ h�y tạm xem Sư Viễn với Từ Viễn l� hai người.  

Th�m một chuyện nữa l� việc Từ Viễn gọi Sư Viễn bằng Tắc C�ng. T�n n�y chưa từng được nhắc đến trong c�c sử truyện vừa n�u t�n. Tắc C�ng chắc l� t�n h�y (t�n người chết, ki�ng gọi). Hiện nay, kh�ng c� c�ch n�o biết được cụ danh (t�n thật, cụ thể, t�n để k�) của �ng. T�m lại, c�i t�n Tắc C�ng n�y chỉ được biết đến nhờ c� Thập Ngưu Đồ chứ chi tiết về th�n thế của người mang t�n th� h�y c�n thiếu. Phủ Thường Đức ng�y nay l� huyện Thường Đức thuộc tỉnh Hồ Nam. Đất n�y đời Đường gọi l� L�ng Ch�u, đến năm Đại Trung Tường Ph� thứ 5 nh� Tống mới đổi th�nh Đỉnh Ch�u.C�n Lương Sơn l� nơi m� Duy�n Qu�n, đồ t�n 5 đời ph�i T�o Động (tổ l� Động Sơn Lương Giới) đ� từng trụ tr�. Duy�n Qu�n l� người khai sơn chốn ấy. Về ph�p hệ của Lương Sơn Duy�n Qu�n th� ta đ� thấy ở hệ phổ b�n tr�n (nh�nh Thanh Nguy�n, chi Dược Sơn, ph�i V�n Cư).  

Theo như lời tựa tổng qu�t Từ Viễn viết ra, Khuếch Am l� người đ� soạn ra cả c�c đầu đề, kệ tụng v� tranh (đồ). Dĩ nhi�n kh�ng những chỉ c� b�i tựa tổng qu�t ở đầu quyển, dường như ch�nh Từ Viễn đ� viết tựa nhỏ ở đầu mỗi chương. Những b�i tựa nhỏ của Từ Viễn ở c�c chương đều c� t�nh c�ch ph� ph�n kh� gay gắt nội dung c�c b�i tụng của Khuếch Am. Tuy nhi�n bản Lương Sơn Khuếch Am Tắc H�a Thượng Thập Ngưu Tụng thu thập trong Thiền M�n Chư Tổ Sư Kệ Tụng quyển hạ chi hạ th� chỉ c� đề, tựa nhỏ v� c�c b�i tụng của 10 chương chứ kh�ng c� tựa tổng qu�t v� c�c bức tranh. Thảng hoặc người bi�n tập Thiền M�n Chư Tổ Sư Kệ Tụng đ� lược bỏ c�c bức tranh ra. Thế nhưng d� cho rằng ấy ch�nh l� Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am th� cũng phải ch� � ở điểm nội dung c�c b�i tụng tất phải đồng nhất với văn bản hiện đang lưu h�nh. Sau n�y xin được ph�p nhắc lại nhưng trong một quyển s�ch l�m ra ở Nhật Bản để ch� th�ch Thập Ngưu Đồ v� c� t�n l� Juugyuuketsu (Thập Ngưu Quyết) lại thấy họ ch�p y nguy�n c�c b�i tụng ấy. Lại nữa, bản Thập Ngưu Đồ hiện h�nh c� k�m v�o những b�i họa tụng của Thạch Cổ Hi Di v� Vạn T�ng Đại Li�n. Phải chăng do người đời sau ch�m th�m v�o? Họa tụng (thơ họa vần) nh�n sử dụng c�c vần của bản tụng ch�nh n�n c� khuynh hướng kỹ xảo. Tuy vậy, ch�ng c� thể được đ�nh gi� như những lời b�n. Ch�ng ta đ� thấy trong hệ phổ b�n tr�n, hai vị họa thơ n�y vốn gần gũi với Khuếch Am về mặt ph�p hệ v� lối suy nghĩ của họ n�i chung kh�ng kh�c g� nhau.       

Theo lời tựa tổng qu�t của Từ Viễn, sở dĩ Khuếch Am đ� tự m�nh soạn ra Thập Ngưu Đồ l� v� �ng muốn đối địch c�ng Mục Ngưu Đồ của Thiền sư Thanh Cư, với � hướng chỉnh l� lại những điểm thiếu s�t của người đi trước �ng. Thanh Cư tức l� Thiền Sư Thanh Cư Hạo Thăng, đồ t�n 6 đời của Động Sơn Lương Giới ph�i T�o Động. Ng�y nay, t�c phẩm của Thanh Cư Hạo Thăng tuy truyền lại kh�ng được đầy đủ nhưng trong Thung Dung Lục của Thiền sư Vạn T�ng H�nh T� đời Nguy�n, phần b�nh xướng của tắc thứ 32 Ngưỡng Sơn t�m cảnh (Nỗi l�ng của Ngưỡng Sơn) c� tr�ch dẫn từ chương thứ 6 của �Thanh Cư Hạo Thăng thiền sư Mục Ngưu Đồ� c�u n�i: �T�n vị tiệm thục, t� cảnh gi�c sơ� v� từ chương 12 c�u: �Nh�n vị bản kh�ng, th�n t�m trước v�, đắc thất tịnh tận, huyền huyền đạo lộ, mạc ph�n biệt v��. Như thế c� thể hiểu t�c phẩm của Thanh Cư c� tất cả �t nhất 12 chương. Ngo�i ra, trong Thỉnh �ch Lục do Vạn T�ng H�nh T� bi�n tập, tắc thứ 60 nhan đề Nam Tuyền thủy cổ (Con tr�u của Nam Tuyền) trong phần b�nh xướng lại thấy ch�p:

�Thanh Cư Hạo Thăng thiền sư tụng Mục Ngưu Đồ nhất thập nhị chương, Th�i Bạch sơn Phổ Minh thiền sư tụng Mục Ngưu Đồ thập chương, Phật Quốc Duy Bạch thiền sư tụng Mục Ngưu Đồ b�t chương. Thăng, Minh nhị sư đẳng giai hắc biến vi bạch. Duy Phật Ấn tứ chương bạch to�n phục hắc�.

(Thiền sư Thanh Cư Hạo Thăng viết 12 b�i kệ tụng n�i chuyện chăn tr�u, thiền sư Phổ Minh ở n�i Th�i Bạch viết 10, thiền sư Phật Quốc Duy Bạch viết 8. Trong t�c phẩm của hai thầy Thanh Cư v� Phổ Minh đều thấy tr�u từ đen h�a ra trắng. Chỉ c� 4 chương của thiền sư Phật Ấn th� tr�u trắng trở lại ho�n to�n đen).

Như thế, theo lời người bi�n tập Thỉnh �ch Lục th� thiền sư Phật Ấn c� viết một bộ tranh chăn tr�u gồm 4 chương. Phật Ấn, như thấy trong hệ phổ, l� Phật Ấn Liễu Nguy�n, đồ t�n 5 đời kể từ V�n M�n v� sống v�o đầu đời Tống. May mắn thay, c�c kệ tụng về chăn tr�u n�i tr�n hầu như vẫn c�n giữ được ho�n hảo cho n�n ta c� thể đem ch�ng ra đối chiếu với nhau để xem x�t v� nh�n đ�, khẳng định được gi� trị lịch sử v� tư tưởng của t�c phẩm Khuếch Am đ� soạn. Chỉ c� điều đ�ng tiếc l� trong t�c phẩm của Duy Bạch, chỉ thấy 6 con tr�u thay v� 8, kh�c với điều Vạn T�ng viết ra. Dầu vậy, nhờ những điều Thỉnh �ch Lục ghi ch�p m� ta biết con tr�u của Thanh Cư v� Phổ Minh trong c�c bức tranh v� nội dung kệ tụng đ� từ đen dần dần đổi qua trắng trong khi con tr�u của Phật Ấn theo một qu� tr�nh ngược lại, h�nh như c� h�m chứa một th�i độ ph� ph�n b�n trong đối với Phật Ấn. Điều n�y cho thấy r� rằng d� đ� c� nhiều bậc tiền bối khai th�c, Khuếch Am kh�ng hề ch�n với chủ đề chăn tr�u v� �ng cũng muốn tự m�nh đưa ra một c�ch nh�n ri�ng. Như được biết qua nội dung văn bản, Khuếch Am kh�ng giữ lại những chi tiết tr�u đen dần dần h�a trắng hay tr�u trắng trở lại đen tuyền của họ m� đặt trọng t�m v�o việc t�m tr�u (tầm ngưu), bắt được tr�u (đắc ngưu), chăn tr�u (mục ngưu) để rồi qu�n tr�u (vong ngưu) cũng như qu�n cả tr�u lẫn người (nh�n ngưu c�u vong) trước khi dạy phải biết quay về với thế giới hiện thực. Điều n�y chứng tỏ Khuếch Am đ� theo một tr�nh tự suy nghĩ kh�c với hai lối nghĩ của người đi trước. Ch�nh Từ Viễn, trong lời tựa, cũng nhấn mạnh điểm đ�.

   

Tư tưởng của Thập Ngưu Đồ:

Nếu đem Thập Ngưu Đồ đối chiếu với Mục Ngưu Đồ của Phổ Minh, ch�ng ta sẽ thấy những n�t tươi mới v� độc đ�o m� Khuếch Am mang lại. Theo sự suy luận của ch�ng t�i (Seizan) th� Phổ Minh l� đạo sĩ Tưởng Chi Kỳ, một nh�n vật nổi tiếng đương thời. Việc cho đến nay, truyện k� v� nguồn gốc t�c phẩm của �ng Tưởng kh�ng được biết đến r� r�ng, l� do ch�nh chắc c� lẽ li�n quan tới một nhược điểm n�o đ�. T�c phẩm được phổ biến rộng r�i ở Trung Quốc lại l� t�c phẩm của Phổ Minh, bỏ qua việc �ng c� điểm kh�ng s�nh kịp Khuếch Am. Nhất l� l� trong lần t�i bản Phổ Minh Thiền Sư Mục Ngưu Đồ dưới đời Minh, Thiền sư V�n Th� Chu Hoằng (1535-1615) đ� đề tựa, đại � như sau:

Di Gi�o Kinh c� ch�p: � Giống như trong việc chăn tr�u phải cầm roi điều khiển, kh�ng cho n� sổng ra đạp ph� hoa m�u�. Muốn b�n về chăn tr�u phải bắt đầu từ đ�. C�n như c�ch cho ăn th� giống như việc M� Tổ (Đạo Nhất) c� lần hỏi (học tr� l�) Thạch Củng (Huệ Tạng): �Ngươi ở đ�y đang l�m c�ng chuyện g�?�, Thạch Củng thưa: �Chăn tr�u!� M� Tổ hỏi tiếp: Chăn tr�u, ngươi l�m những g�?�. Người học tr� đ�p: �Cứ mỗi lần n� chạy v�o đ�m cỏ ăn th� con nắm gi�y xỏ mũi k�o lại�. Như thế l� người giỏi việc chăn tr�u. Lại nữa, l�c Đại Quy An C�ng (Trường Kh�nh Đại An?) ở với Quy Sơn c� n�i: �Ta đến nương tựa ở cửa Quy Sơn m� kh�ng học được thiền của �ng, chỉ l�m c�i việc chăn một thớt tr�u�. Cũng vậy, Bạch V�n Đoan C�ng (Bạch V�n Thủ Đoan) đối với Qu�ch C�ng Phụ cũng vậy, chỉ hỏi �ng ấy c� mỗi một c�u đầy � nghĩa: �Thế tr�u đ� thuần chưa?� Nhược bằng kh�ng tự m�nh chăn được th� phải nhờ người kh�c chăn. Cổ kim đ� c� bao người n�i rất nhiều v� r� r�ng về điều đ� rồi. Sau lại c� kẻ (�m chỉ Phổ Minh) mới đem vẽ th�nh tranh, bắt đầu từ Vị mục (Chưa nu�i) cho đến Song mẫn (Qu�n cả hai), liệt k� ra tất cả l� 10 bức. Con tr�u đ� bắt đầu th� đen, sau trở th�nh trắng.Phổ Minh lại viết cho mỗi đoạn một b�i tụng. Về Phổ Minh th� vẫn chưa biết l� nh�n vật như thế n�o, cũng như họa v� tụng cả hai c� phải do một người l�m ra hay kh�ng. Xin kh�ng đem ra b�n ở đ�y. Chỉ biết những bức tranh ấy c� � nghĩa s�u sắc, những b�i tụng th� lời gần gũi m� � xa x�i. Người học c� thể đem theo b�n m�nh để hiểu về c�i đức v� c�i nghiệp của m�nh��Ngo�i ra lại c� kẻ (�m chỉ Khuếch Am) đem vẽ ra th�nh mười bức tranh từ Tầm ngưu (T�m tr�u) cho đến Nhập triền (V�o chợ), so với bộ tranh hiện tại th� chẳng kh�c bao nhi�u (đại đồng tiểu dị),�.Vậy xin đem để v�o cuối s�ch để tiện bề tham khảo. (Năm Vạn Lịch Kỷ Dậu, ng�y sinh của Như Lai, kẻ hậu học Chu Hoằng k�nh đề).      

V�n Th� Chu Hoằng xem Mục Ngưu Đồ của Phổ Minh l� ch�nh. �ng xếp t�c phẩm của Khuếch Am v�o phần phụ lục. Ngo�i bản do Chu Hoằng t�i bản c�n c� những bản kh�c xuất hiện từ suốt đời Minh cho đến hồi Thanh sơ, k�m theo rất nhiều họa tụng. Chu Hoằng chỉ kể c�c b�i tụng của Khuếch Am như một trong những b�i họa cho bản Phổ Minh m� th�i. Ng�y nay ta kh� biết c�ch thức ph�t h�nh v�o thời Minh như thế n�o, chỉ biết gần đ�y những bản Thập Ngưu Đồ lưu h�nh ở Trung Quốc đều thuộc hệ thống bản Phổ Minh. Ngay Triều Ti�n cũng chung một cảnh. Trong khi đ�, bản Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am khi được đem từ b�n Tống qua Nhật th� đ� được tăng lữ Ngũ Sơn cho tr�ng khắc ngay. Họ chẳng những gia th�m ch� th�ch m� c�n phổ biến những t�c phẩm ch� th�ch ấy một lượt với Thiền T�ng Tứ Bộ Lục. Hiện tại, Thập Ngưu Đồ l� một bộ phận của Thiền T�ng Tứ Bộ Lục đang lưu h�nh, vốn c� k�m th�m cả thơ waka của thi tăng Sh�tetsu (Ch�nh Triệt, 1381-1459). Việc waka được in v�o trong đ� l� thước đo tr�nh độ thẩm thấu s�u rộng của t�c phẩm n�y tại Nhật Bản.Wakan R�ei-shuu (H�a H�n L�ng Vịnh Tập, khoảng 1012) l� t�c phẩm d�ng để giới thiệu n� v� những renku (c�u thơ renga tức thơ li�n ng�m) viết bằng hai ng�n ngữ H�a H�n v�o thời Muromachi đ� đưa Khuếch Am Thập Ngưu Đồ l�n đỉnh cao. Sh�tetsu vốn l� t�c giả đại biểu của thể thơ wakan renku (li�n ng�m H�a H�n gồm nhiều đơn vị 17 �m tiết, trong đ� c� hai c�u 7.7 vị chi 14 �m Nhất v� một c�u ch�t với 5 �m H�n).

T�m lại, ở Nhật Bản người ta chỉ biết Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am. M�i đến thời cận đại, người Nhật vẫn kh�ng hề biết sự tồn tại của nh�n vật Phổ Minh. Dĩ nhi�n, về sau, t�c phẩm của Phổ Minh - v� được V�n Th� Chu Hoằng t�i bản như đ� n�i n�n - đ� đặt ch�n l�n đất Nhật. C�ng l�c, người Nhật lại tiếp nhận ảnh hưởng của c�c in dến từ Triều Ti�n nữa n�n v�o giai đoạn giữa đời Edo (khoảng thế kỷ 18) th� đ� xuất hiện nhiều bản H�a khắc tức ấn bản bản xứ về n�. Thậm ch� c� kẻ đ� m� phỏng ch�ng để chế ra �Nho Gia Thập Ngưu Đồ�. Tuy nhi�n, khi n�i đến Thập Ngưu Đồ, người Nhật chỉ nghĩ rằng Khuếch Am mới l� hệ chủ lưu. Sau đ�y, h�y thử t�m hiểu tại sao hiện tượng n�y đ� xảy ra.

Thực ra, sự phổ biến rộng r�i của Thập Ngưu Đồ (Khuếch Am) c� li�n quan mật thiết v� s�u xa đến việc Tống Thiền của ph�i Dương Kỳ t�ng L�m Tế l� hệ tư tưởng được Nhật Bản du nhập v� hấp thụ suốt từ đời Kamakura (thế kỷ 13 đến giữa thế kỷ 14) cho đến thời Muromachi (giữa thế kỷ 14 đến thế kỷ 16). Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am ch�nh ra t�c phẩm phản �nh r� r�ng nhất qu� tr�nh tu tập của người tham thiền theo phương ph�p của ph�i Dương Kỳ. N�i c�ch kh�c n� biết tr�nh b�y một c�ch kh�o l�o � nghĩa của c�c c�ng �n. Giờ đ�y, để hiểu c�i đặc sắc của Khuếch Am so với Phổ Minh, ta thử nh�n lại đề mục của mỗi bức tranh:

 

Sau đ�y bảng so s�nh c�ch xếp đoạn v� đề mục giữa Mục Ngưu Đồ của Phổ Minh v� Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am:

Phổ Minh                                                    Khuếch Am

 

- Vị Mục đệ nhất������������Đệ nhất Tầm Ngưu.

- Sơ Điệu đệ nhị ������������.Đệ nhị Kiến T�ch.

- Thụ Chế đệ tam������������Đệ tam Kiến Ngưu.

- Hồi Thủ đệ tứ������������ ..Đệ tứ Đắc Ngưu.

- Thuận Phục đệ ngũ ����������.Đệ ngũ Mục Ngưu.

- V� Ngại đệ lục������������.(cũng như tr�n)

- Nhiệm Vận đệ thất ����������..(cũng như tr�n)

- Tương Vong đệ b�t����������..Đệ lục Kỵ Ngưu Quy Gia

- Độc Chiếu đệ cửu.���.�������Đệ thất Đ�o Gia (c� bản ch�p Vong  Ngưu Tồn Nh�n hay Đ�o Gia Vong Ngưu).

- Song Mẫn đệ thập ����������..Đệ b�t Nh�n Ngưu C�u Vong (c� bản ch�p Nh�n Ngưu Bất Kiến).

- ���������������.���.Đệ cửu Phản Bản Ho�n Nguy�n.

- ���������������.���.Đệ thập Nhập Triền Th�y Thủ.

 

Thập Ngưu Đồ d� sao cũng lấy họa v� tụng l�m trung t�m. Nếu chỉ đối chiếu đề mục của hai b�n th�i th� chẳng thu lượm được bao nhi�u. D� vậy, qua sự so s�nh c�c đề mục b�n tr�n, ch�ng ta cũng c� thể nh�n thấy phần n�o những n�t đặc sắc của t�c phẩm Khuếch Am. Chẳng hạn đoạn thứ 10 Song mẫn (Qu�n mất cả hai) của Phổ Minh chỉ tương đương với chương 8 Nh�n ngưu c�u vong (Qu�n người lẫn tr�u) nơi Khuếch Am. Khuếch Am đ� c� đọng 10 đoạn của Phổ Minh trong v�ng 8 chương của m�nh v� kết th�c n� ở Nh�n ngưu c�u vong. Sau đ� �ng đ� gia b�t để tạo th�m hai chương 9 Phản bản ho�n nguy�n v� 10 Nhập triền th�y thủ. Trung khu của tư tưởng Khuếch Am nằm ở hai chương n�y. Như đ� thấy rất r� ở nguy�n t�c Thập Ngưu Đồ, chương 8 được minh họa bằng một v�ng tr�n trống kh�ng (vi�n tướng), chương 9 l� cảnh thi�n nhi�n với hoa nở nước tr�i, c�n chương 10 c� �ng Bố Đại v�c bao chống gậy. N� kh�ng tượng trưng cho qu� tr�nh �xuất thế gian� (đi ra khỏi cuộc đời) m� l�  �ho�n quy thế gian� (trở lại với cuộc đời). Trong khi l� tưởng của Phổ Minh nằm trong mấy chữ �chỉ qu�n minh tịnh, mẫn tuyệt v� k�� (tập trung im lắng, qu�n hết kh�ng b�m) th� Khuếch Am chỉ muốn cụ thể h�a việc trở lại rong chơi trong c�i ta b� nhơ bẩn ( ho�n lai uế thổ du h�). Tư tưởng thăng thi�n v� l� tưởng thần th�ng du h� đạt được như kết quả của sự tu thiền vốn c� từ xưa b�n Ấn Độ nay đ� ho�n to�n được Khuếch Am đem xuống mặt đất n�y. Lập trường xem Thiền nằm trong cuộc sống thường nhật đề xướng bởi thiền gia đời Đường đ� được khai th�c v� giảng giải tận tường qua t�c phẩm của Khuếch Am. Đặc biệt l� tư tưởng Thiền đặc sắc ấy của Trung Quốc đ� được Khuếch Am t�m tắt như những c�ng thức qua tranh vẽ. � hướng n�y kh�ng phải l� kh�ng li�n quan g� với � định tổ chức h�a thiền c�ng �n. (Khu� Phong) T�ng Mật (780-841) trong Vi�n Gi�c Kinh Đại Sớ Sao quyển nhất chi hạ đ� n�i c�u sau đ�y m� nội dung cho thấy �ng đ� đặt vấn đề trước cả Thập Ngưu Đồ:

�Vị ch�ng sinh bội gi�c duy�n trần, lưu l�ng phi�u nịch. Phật dĩ th�nh đạo nhiếp chi, phản bản ho�n nguy�n�. (Rằng ch�ng sinh đ�nh mất bản t�nh ch�n thực, quen chỗ bụi bặm, tr�i nổi đắm đuối. Phật đem th�nh đạo gi�p cho về lại cội nguồn).

Chương 1 Tầm ngưu c� chữ �bội gi�c hướng trần� v� chương 9 m� đề t�i l� �phản bản ho�n nguy�n�, ch�ng đều đ� c� ở đ�y. Việc tu thiền l� đi v�ng trở lại v� ngẫm nghĩ s�u sắc hơn (vi�n ho�n th�m h�a) chứ kh�ng phải l� bay thẳng một đường l�n cao (trực tuyến thượng thăng). Đi đến nơi đến chốn l� trở lại thủa ban đầu.Đốn ngộ cũng c� � nghĩa như vậy. Khuếch Am đ� biết cụ thể h�a nguy�n l� m� T�ng Mật đề ra. Đặc sắc của thiền c�ng �n nếu nắm bắt được c� lẽ nhờ ở sự cụ thể h�a đ�.

L�c đầu, Thập Ngưu Đồ nhắm v�o việc ph�t triển sự hướng thượng trong qu� tr�nh tu h�nh. T�c phẩm của Phổ Minh đ� tr�nh b�y r� r�ng điều đ�. N� cũng giống như c�c Mục Tượng Đồ (tranh chăn voi) của người T�y Tạng (m� ta sẽ c� dịp nhắc lại). Thế rồi Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am, sau khi sau khi đ� tr�nh b�y về sự tu học để hướng thượng, đ� th�m v�o hai chương 9 v� 10. Thế giới của Phản bản ho�n nguy�n v� Nhập triền th�y thủ r� r�ng tho�t ra khỏi khung cảnh trước đ�y. Hai phần n�y c�n c� thể được xem như �tư thế của người đ� ngộ đạo� (chứng vị). Thế nhưng khi Khuếch Am bao gồm n� v�o qu� tr�nh tu học th� tất cả qu� tr�nh ấy đ� h�a th�nh �chứng vị� v� �chứng vị� kh�ng vượt ra ngo�i khung cảnh sinh hoạt hiện thực. �Chứng� l� sư tu h�nh thực sự (thực tu) trong sinh hoạt h�ng ng�y (hiện thực sinh hoạt). Điều đ� đ� trở th�nh một đề t�i của Thiền T�ng kể từ đời Ngũ Tổ Ph�p Diễn v� tr�nh b�y dưới dạng của biết bao nhi�u c�ng �n (kh�n thoại) v� được nguy�n l� h�a một c�ch tinh vi. �t nhất, việc lưu h�nh Thập Ngưu Đồ ở Nhật c� li�n hệ mật thiết với sự học tập bằng c�ng �n). Nếu t�ch t�c phẩm n�y ra khỏi việc ấy, c� lẽ sẽ g�y ra sự hổn loạn trầm trọng trong việc tu chứng.       

B�y giờ, xin tr�nh b�y lời ph� b�nh của Linh Phong Tr� H�c (1599-1655), học giả nổi tiếng của ph�i Thi�n Thai, sống v�o đời Minh v� l� một nh� tu h�nh chuy�n t�m niệm Phật. Lập luận như sau của �ng đại diện cho những lối hiểu sai lầm đối với Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am:

�Khi chư Phật thuyết ph�p thường d�ng những th� dụ c� t�nh c�ch bộ phận hay những th� dụ c� t�nh tổng qu�t. C�ng �n về chuyện nu�i tr�u c� � n�i nguy�n l� cơ bản của đạo Phật c� thể t�m thấy ngay trong đời n�y nơi ta đang sống, mặt kh�c lại muốn bảo rằng Phật ph�p tồn tại trong sự tu chứng vĩnh viễn. Huống g� trường hợp những kẻ tu h�nh đạt tới chỗ vi�n m�n (vi�n gi�o), vượt khỏi địa vị �lục tức Phật�, t�m cảnh thường giữ được trọn vẹn thi�n ch�n�Trong những b�i tụng về mười con tr�u, qua sự ph�n chia c�c giai đoạn, c� c�i g� n� kh�ng đi c�ng một hướng với t�m t�nh của người tu h�nh.Nếu cho ph�p t�i ph�t biểu th� đ� ch�nh l� �Tổ sư thiền th� để mặc cho ngươi l�nh hội lấy, c�n Như Lai thiền th� c� nằm mộng cũng kh�ng l�nh hội được� (Linh Phong Vạn �ch Đại Sư T�ng Luận quyển 7, Bạch ngưu thập tụng tự bạt). 

Ở đ�y, Tr� H�c muốn phản đối tư tưởng tu chứng của Thập Ngưu Đồ. V�o thời đ�, Thiền rơi v�o sự khẳng định hiện thực một c�ch cực đoan, xem việc tr� giới, định huệ thảy đều kh�ng cần thiết, chỉ chạy theo c�i gọi l� �khẩu đầu thiền�. Tr� H�c cho rằng v� muốn tho�t ra lối thiền �p dụng đương thời m� Khuếch Am đ� soạn ra Thập Ngưu Đồ. C� thể l� �ng nắm bằng chứng về sự muốn tho�t ra đ� ở hai chương 9 Phản bản ho�n nguy�n v� chương 10 Nhập triền th�y thủ. Sự hiểu lầm đ� vẫn k�o d�i m�i đến nay. Cho n�n c� thể n�i sự phổ biến Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am ở Nhật cũng gi�p ta hiểu rằng sự kh�c nhau giữa thiền Trung Quốc v� thiền Nhật Bản c� trong thực tế.

 

Mục Ngưu Đồ của Phổ Minh

 

Thời đại Phổ Minh soạn Mục Ngưu Đồ:

Như đ� n�i ở tr�n, t�c phẩm của Phổ Minh đ� được phổ biến rộng r�i ở Trung Quốc v�o thời cận đại, thế nhưng từ xưa cho đến l�c đ�, ho�n to�n kh�ng ai hay biết đến n�. C� thuyết cho rằng t�c giả của n� l� một người sinh ra sau cả Khuếch Am. Từ Viễn trong b�i tựa tỏ � ph� ph�n Thanh Cư chớ c� nhắc g� đến t�n Phổ Minh đ�u!

Tuy vậy, suy đi nghĩ lại, t�c phẩm của Phổ Minh v� Thanh Cư đều theo một khuynh hướng. �t nhất l� người ta đ� biết đến t�c phẩm của Phổ Minh trước khi c� Thỉnh �ch Lục. Cho n�n, n� kh�ng thể chỉ xuất hiện lần đầu ti�n kể từ thời cận đại th�i đ�u. Đặc biệt l� trong t�c phẩm Phổ Minh, l�c bắt đầu đ� c� những b�i họa tụng của V�n Am. Họa tụng của V�n Am nếu đem so s�nh với những b�i c�ng một thể loại của c�c thiền sư đời Minh th� t�nh chất c� hơi kh�c.Nguy�n tắc của họa tụng l� người viết n� phải sống c�ng thời với t�c giả. Dĩ nhi�n, kh�ng ai r� V�n Am l� người như thế n�o nhưng nếu �ng ta ch�nh l� Thiền sư V�n Am Ch�n Tịnh, đời thứ 2 của t�ng Ho�ng Long, tức l� Bảo Phong Khắc Văn (1025-1102) th� Phổ Minh phải l� người sinh c�ng thời đại với �ng ta.

Đương thời, nhiều người c� t�n Phổ Minh, thế nhưng kh�ng thấy Phổ Minh n�o ở Th�i Bạch sơn. Trước đ�y, ch�ng t�i (Seizan) c� để � đến m�t người t�n l� Thi�n Tr�c Phổ Minh thiền sư. �ng l� t�c giả của Hương Sơn Bảo Quyển, tức l� bộ Qu�n Thế �m Bồ T�t Bản Hạnh Kinh m� hai người Nhật Tsukamoto Yoshitaka (Trủng Bản Thiện Long) v� Yoshioka Yoshitoyo (C�t Cương Nghĩa Phong) c�n g�n giữ được. Một nh�n vật kh�c m� t�i cũng ngờ l� Phổ Minh, đ� l� đạo sĩ Tưởng Chi Kỳ, người đ� từng viết tựa cho bộ Lăng Gi� Kinh nổi tiếng gồm 4 quyển v� c� li�n hệ s�u xa với t�ng Ho�ng Long buổi đầu. Tuy chuyện n�y h�y c�n trong v�ng giả thuyết nhưng t�i cũng xin ph�p được tr�nh b�y ra đ�y đ�i điều: 

1- Theo Hương Sơn Bảo Quyển in năm C�n Long 38 (1773) m� Yoshioka Yoshitoyo c�n giữ được th� ng�y 15 th�ng 8 năm S�ng Ninh thứ 2 (1103), khi Phổ Minh thiền sư đ� xong kh�a hạ tọa 3 th�ng trời ở ng�i ch�a t�n l� Vũ L�m Thượng Thi�n Tr�c Tự, bỗng c� một vị l�o tăng đến khuy�n bảo �ng rằng: �Nh� thầy tu thiền kiểu v� thượng thừa ch�n ch�nh, chỉ một m�nh tiếp được với c�i thượng thừa. Thế th� l�m sao cứu độ được đại ch�ng sinh linh. Vậy thầy h�y h�nh h�a thay cho Đức Phật, rao giảng c�ng khắp đại ch�ng cấp trung hạ thế n�o l� tam thừa (�m thanh thừa, duy�n gi�c thừa, bồ t�t thừa, LND) v� đốn tiệm (đốn ngộ, tiệm ngộ, LND). Nếu l�m như vậy, thầy sẽ b�o đ�p được c�ng ơn của Phật�. �ng lại được nhắc nhở rằng để hướng dẫn cho đại ch�ng cấp trung hạ, hay nhất l� giảng nghĩa về h�nh trạng của Qu�n Thế �m Bồ T�t m� ch�a n�y c� quan hệ s�u đậm cho n�n Phổ Minh đ� thuyết ph�p về chủ đề đ� v� ghi lại nội dung trong Hương Sơn Bảo Quyển. Tựa đề ch�nh thức v� đầy đủ l� �Qu�n Thế �m Bồ T�t Bản Hạnh Kinh, Thi�n Tr�c Phổ Minh thiền sư bi�n tập, Giang T�y Bảo Phong thiền sư lưu h�nh� vv�(xem Đạo Gi�o Nghi�n Cứu 4 quyển do Yoshioka Yoshitoyo v� M. Suwamie bi�n, 1971). C�n việc xem người bi�n tập ấy, Phổ Minh thiền sư, ch�nh l� đạo sĩ Tưởng Chi Kỳ th� �ng Yoshioka đ� dẫn những điều ghi ch�p trong s�ch Ch�nh T�n Trừ Nghi V� Tu Chứng Tự Tại Kinh Hội Giải, bản năm S�ng Trinh đời Minh. Theo đ� �quyển Hương Sơn do l� Khai Quốc C�ng nh� Tống t�n Tưởng Chi Kỳ soạn�. Ngo�i ra, trong Kh�c Vị Cựu Văn (Kh�c v� Vị l� hai t�n s�ng) quyển 6 của người đời Tống l� Chu Biện (quyển 27 nằm trong Tri Bất T�c Trai t�ng thư), thuyết n�y cũng được nhắc lại một c�ch r� r�ng. Thế th� Phổ Minh c� thể l� đạo hiệu của Tưởng Chi Kỳ, l�c về gi� được bổ nhiệm chức Đề Cử Linh Ti�n Qu�n Sự.

2- Chứng cứ thứ hai đến từ s�ch Lưỡng Triết Kim Thạch Ch� của Nguyễn Nguy�n đời Thanh, quyển 7 chỉ gồm một thi�n nhan đề Tống Tr�ng Lập Đại Bi Th�nh Đạo Truyện (Truyện k� về việc lập lại bia v�o đời Tống nơi Bồ T�t Đại Bi Quan �m th�nh đạo). Tuy phần đầu v� đ�i chỗ kh�c đ� thất tho�t nhưng những g� c�n giữ lại được trong quyển đ� đều nhất tr� với nội dung của Hương Sơn Bảo Quyển. Theo lời ghi ch� ở cuối s�ch th� nội dung đ� vốn ch�p những lời của Nghĩa Thường từ năm Th�nh Lịch thứ 2 (699), tiếp đến l� b�i hậu tựa viết v�o ng�y s�c th�ng 9 Canh Th�n tức năm Nguy�n Ph� thứ 3 v� những ghi ch�p diễn biến việc lập lại bia (tr�ng lập) của tăng Đạo Dục ch�a H�ng Ch�u Thi�n Tr�c Tự năm S�ng Ninh thứ 2. Đ�ng ch� � l� những g� viết trong b�i hậu tựa, nội dung ho�n to�n nhất tr� với Kh�c Vị Cựu Văn. Đại � cho rằng đất Hương Sơn, Nhữ Ch�u l� nơi c� vết t�ch của truyền thuyết Quan �m h�a th�n:

Sự t�ch Hương Sơn Thi�n Thủ Thi�n Nh�n Đại Bi Bồ T�t tức chuyện Quan �m h�a th�n quả l� chuyện kh�c thường. Ng�y cuối năm tiết trọng đ�ng năm Nguy�n Ph� thứ 2, ta ra l�m quan th� ở Nhữ Ch�u l� v�ng bao gồm n�i Hương Sơn. Sa m�n trụ tr� thấy ta đến chơi b�n kể lại nh�n duy�n của Bồ T�t n�n xin ch�p lại th�nh một thi�n�Trụ tr� n�i: �Xưa kia l�c bần đạo ch�a Linh Cảm ở Nam Sơn, t�m thấy trong trong một ng�i nh� cổ ở chỗ vắng vẻ một quyển s�ch tựa đề Hương Sơn Đại Bi Th�nh Đạo Truyện. Đ� l� điều Chung Nam Tuy�n Luật Sư nghe n�i v� ghi lại về việc Quan �m ứng h�a��

Người xưng ta (dư) trong lời tựa c� lẽ l� Tưởng Chi Kỳ v� cũng l� Phổ Minh nhưng kh�ng thấy soạn giả đề r� t�n người viết. Vấn đề nằm ở chỗ mấy trang thất lạc hay l� từ l�c đầu đ� c� � l�m cho mơ hồ.Thế nhưng người bi�n tập Lưỡng Triết Kim Thạch Ch� cho biết r� rằng tấm bia n�y nằm ở nh� học của phủ ở Thiệu Hưng v� được lập ra v�o năm S�ng Ninh thứ 3 (1104). Th�ng tin đến nay chỉ c� chừng đ�.  

3- Tsukamoto Yoshitaka th� trong b�i viết nhan đề �T�n Ngưỡng thờ Phật Quan �m dưới dạng đ�n b� ở Trung Quốc v�o thời tiền cận đại� (trong một đặc san về Ấn Độ Học nh�n kỷ niệm sinh nhật 60 của Tiến sĩ Yamaguchi v�o năm 1955) đẫn Long Hưng Phật Ph�p Bi�n Ni�n Th�ng Luận của Thạch Thất Tổ T� quyển 13 để gi�n tiếp nhắc đến việc Đạo Tuy�n đời Đường bảo rằng Quan �m Đại Sĩ nguy�n gốc l� thi�n thần (thần ti�n tr�n trời). Nội dung cũng giống như những g� thấy trong Hương Sơn Bảo Quyển. Trong thời gian Thạch Thất bi�n quyển n�y, Phổ Minh thiền sư đ� giới thiệu Đại Bi Th�nh Đạo Truyện v� sự t�ch n�y đ� được loan truyền rộng r�i đến mọi tầng lớp.

Ở thời điểm hiện tại, kh�ng t�m đ�u ra bằng chứng ghi ch�p Thiền sư Phổ Minh tức Tưởng Chi Kỳ, người bi�n tập Hương Sơn Bảo Quyển, đ� từng soạn Mục Ngưu Đồ. Người ta cũng nghĩ rằng c�i t�n Th�i Bạch Sơn c� thể l�m li�n tưởng ngay tới Thi�n Đồng Sơn nhưng cũng chưa ai n�i Tưởng Chi Kỳ c� thời ở Thi�n Đồng Sơn v� vị tr� ch�nh x�c của Th�i Bạch Sơn l� chỗ n�o cũng kh�ng ai biết. Duy c� một điểm r� r�ng l� Đại Bi Th�nh Đạo Truyện v� Mục Ngưu Đồ đều được soạn ra với � hướng l�m phương tiện để gi�o h�a người thường d�n. Về sau, v�o đời Minh th� V�n Th� Chu Hoằng kh�ng nh�n nhận truyền thuyết về Quan �m của Hương Sơn Bảo Quyển, coi đ� l� chuyện được b�y đặt ra (vọng đ�m) v� r�t n� ra. C� phải chăng Chu Hoằng v� đ� biết t�c giả của Phổ Minh Mục Ngưu Đồ l� ai n�n cố t�nh kh�ng muốn ai r� về điều đ�? Lại nữa, trong nội dung Phổ Minh Mục Ngưu Đồ, người ta thấy c� nhiều m�u sắc Đạo gi�o. V� dụ việc cưỡi m�y trắng bay l�n trời hay bức tranh b�y ra cảnh bắc đẩu thất tinh ở tr�n nền trời, tất cả đều xa vời đối với quan điểm ch�nh thống của Phật gi�o.Ch�m m�y đen nằm trong bức tranh thứ nhất g�y ra cảm tưởng c� c�i g� kh�ng b�nh thường. Trong văn từ Phổ Minh Mục Ngưu Đồ, thấy thiếu m�u sắc đặc biệt của Phật gi�o Thiền t�ng. Trong khi đ� th� văn từ của Hương Sơn Bảo Quyển d�ng kh� nhiều Thiền ngữ v� c� m�u sắc tư tưởng nh� Thiền. Tuy rằng nh� bi�n tập Phổ Minh cho ta thấy �ng c� kiến thức ch�nh x�c về Thiền nhưng chưa chắc �ng l� một thiền tăng. Mặt kh�c, trong b�i họa tụng của V�n Am, ta thấy khuynh hướng Thiền nơi �ng c�n hơn V�n Am một bậc.Việc suy định đ�y l� t�c phẩm do ch�nh tay Bảo Phong Khắc Am c� lẽ đ�ng được chấp nhận. Việc Mục Ngưu Đồ trở th�nh t�c phẩm được c�ng nhận như của Thiền T�ng l� v� n� được đặt trong bối cảnh thời đại l�c đ�.     .  

Cuối c�ng, khi b�n về thời điểm Phổ Minh Thập Ngưu Đồ ra đời, kh�ng thể n�o bỏ qua sự c� mặt của Mục Tượng Đồ (Tranh Chăn Voi) vốn truyền đến từ T�y Tạng. Đ� l� một tấm tranh mộc bản với chiều cao 35 cm, chiều ngang 30 cm, trong đ� vẽ 12 giai đoạn của một con tr�u đen dần dần biến h�a để trở th�nh thuần trắng. Mối biến h�a đều c� k�m theo những lời kinh văn dẫn dụng cho việc giải th�ch. Mấy năm trước, gi�o sư Kagiyama Yuuichi ở Đại Học Ky�to đ� đem từ T�y Tạng về nhiều bức họa tụng v� đ� l�i k�o sự ch� � của người trong nước. Tuy vậy, ni�n đại cũng như nguồn gốc của ch�ng kh�ng được r� r�ng. C�ch chia ra l�m 12 giai đoạn của Mục Tượng Đồ giống như t�c phẩm của Thanh Cư, tư tưởng cũng c� khuynh hướng gần gũi. Về thời đại, ch�ng c� nhiều khả năng xuất hiện trước Thanh Cư.Như thế th� muốn t�m nguồn gốc h�nh thức Thập Ngưu Đồ bắt đầu v�o đời Tống ở Trung Quốc cũng c� thể đi kiếm b�n T�y Tạng! Vấn đề như thế c�ng ng�y c�ng phức tạp. B�y giờ ta h�y thử t�m trong phạm vi Thiền Trung Quốc xem qu� tr�nh cấu tứ n�o đ� đưa đẩy đến việc khai sinh những bức tranh mang t�n Thập Ngưu Đồ.   

 

Những t�c phẩm mở đường cho Thập Ngưu Đồ:

Như đ� đề cập đến, trong lời tựa Phổ Minh Thiền Sư Mục Ngưu Đồ, V�n Th� Chu Hoằng từng kể ra tư liệu Phật Gi�o v� Thiền T�ng c� t�n l� Di Gi�o Kinh v� vấn đ�p giữa M� Tổ Đạo Nhất v� Thạch Củng Huệ Tạng m� �ng xem như những nguồn cội của một chuỗi t�c phẩm c� t�n gọi l� Thập Ngưu Đồ. Ch�ng đều thuộc loại tư tưởng tưởng c� t�nh c�ch ti�n khu. Tư tưởng �mục ngưu� (chăn tr�u) đ� nằm trong kinh điển l� điều kh�ng c� g� để ngờ. Nguy�n tập qu�n coi trọng con tr�u đ� tồn tại l�u đời c�ng với lịch sử văn minh n�ng nghiệp. Trong những ấn t�n ph�t quật được ở khu vực khảo cổ nổi tiếng Mohenjo-daro[4] c� khắc h�nh con tr�u tọa thiền. N� l� bằng chứng nguồn gốc của Thiền nhưng đồng thời cũng l� bằng chứng của tư tưởng s�ng b�i con tr�u. Thực ra, t�n ngưỡng th�nh ngưu của Ấn Độ thời cổ xuất hiện dưới nhiều h�nh thức, c� kể cũng kh�ng hết. T�n c� nh�n của Th�ch Ca l� Gotama, c� nghĩa l� �con tr�u�. Trong kinh Ph�p Hoa, c� c�u chuyện về con tr�u trắng ở ngo�i c�nh đồng kh�ng. C�nh đồng �m chỉ trạng th�i hoang d� nhưng con tr�u trắng r� r�ng l� tượng trưng của văn minh. Như thế, �con tr�u trắng tr�n c�nh đồng kh�ng� (lộ địa bạch ngưu) kh�ng chỉ đơn thuần l� h�nh ảnh của thi�n nhi�n trước khi văn minh chưa tới.  

Kinh Niết B�n c� n�i đến thuyết ngũ vị tức năm m�i vị. Con tr�u tr�n đỉnh Tuyết Sơn ăn một thứ cỏ t�n l� nhẫn nhục, c� rất nhiều sữa. Từ sữa (nhũ) của n� sinh ra lạc (nhũ trấp tinh chất), từ lạc sinh ra t� (sữa đậm đặc), từ t� sinh ra vị đề hồ (vị ngon ngọt của sữa tinh chế). Cũng như thế, lời thuyết ph�p của Phật Đ� v� l� ch�n l� n�n c� vị đề hồ thuần chất, tối cao. C�i � đem qu� tr�nh tu h�nh đạo Phật nếu được đem ra v� với kỹ thuật nu�i tr�u cũng đ� từng c� trong kinh A H�m. Kẻ nu�i tr�u l� đại biểu xứng đ�ng nhất của người đệ tử tại gia. Lời V�n Th� tr�ch từ Di Gi�o Kinh cũng l� một bằng chứng của việc ấy. 

L� do tại sao những Phật gi�o đồ buổi đầu ở Trung Quốc quan t�m đến v� dụ về con tr�u như thế, ta c� thể suy ra một c�ch dễ d�ng. X� hội Trung Quốc cũng l� một x� hội c� truyền thống canh n�ng từ cổ xưa như Ấn Độ vậy cho n�n người Trung Quốc khi nghe những lời thuyết ph�p đem con tr�u ra l�m v� dụ th� cảm thấy gần gũi với m�nh ngay. Cứ xem chuyện Hứa Do người đ� từ chối khi được biết vua Nghi�u muốn nhường ng�i cho m�nh. �ng ta kh�ng muốn nghe chuyện nhơ bẩn ấy n�n xuống s�ng Dĩnh rửa lỗ tai. S�o Phủ, người chăn tr�u, gh�t h�nh động đ� n�n cố � dắt tr�u l�n thượng nguồn s�ng Dĩnh để uống nước. Mặt kh�c, h�nh ảnh con tr�u xanh (tr�u m�u đen) m� L�o Tử đ� cưỡi để ra ngo�i H�m Cốc Quan lại l� một h�nh ảnh đối chọi v� c� � ph� ph�n đối với con tr�u trắng, l� tưởng của Phật gi�o. Như vậy, qua trung gian của t�n ngưỡng về th�nh ngưu, Phật gi�o đ� c� được chỗ đứng an to�n tr�n đất Trung Quốc rồi vậy.   

Với sự ph�t triển của Phật gi�o Thiền t�ng kể từ thời Trung Đường trở đi, t�n ngưỡng về th�nh ngưu n�i tr�n lại c�ng th�m gần gũi người ta.Con tr�u của Thiền, nếu so s�nh với c�c linh th� kh�c trong kinh điển Phật gi�o như sư tử v� voi th� �tanh m�i b�n�  (gần gũi với người d�n qu�) hơn. Tr�n thực tế, cũng v�o thời Trung Đường, Thiền đ� từ từ rời bỏ căn cứ Hoa Bắc để xuống Hoa Nam v� con tr�u trở th�nh một sinh vật th�n thiết ng�y đ�m trong cuộc sống thường nhật của thiền gia, Bởi v� phương ph�p tu h�nh mới thời đ� l� lao động sản xuất (t�c vụ, LND). Thực tướng chỉ l� tất cả những c�ng việc l�m để tự nu�i th�n. Con tr�u (thủy cổ ngưu) xuất hiện thường xuy�n trong c�c s�ch dạy về thiền thời ấy chưa phải l� con th�nh ngưu, l� tưởng của sự gi�c ngộ.

Nam Tuyền, người nhận ph�p tự của M� Tổ, trước khi vi�n tịch, đ� hứa với học tr� l� m�nh sẽ th�c sanh l�m con tr�u để lao động nơi nh� của người đ�n việt trước ngọn n�i. Quy Sơn, kẻ nối nghiệp B�ch Trượng, cũng l� đầu đề của một c�u chuyện tương tự được truyền tụng. Khi muốn th�c sanh trong th�n thể con thủy cổ ngưu, c�c vị ấy kh�ng nhắm tới việc th�nh th�nh ngưu đ�u. Thủy cổ ngưu chỉ tượng trưng cho kết quả của c�i nghiệp đời đời kiếp kiếp (t�c nghiệp).Nam Tuyền vẫn hay bảo đệ tử của �ng rằng : �Chư Phật tam thế kh�ng biết về c�i (bản) hữu. Con tr�u c� (ly n� bạch cổ) kia th� lại biết được�. Con tr�u (thủy cổ ngưu) l� con tr�u c�y (canh ngưu). Bằng sự lao động, n� x�a c�i t�c nghiệp của những kiếp trước. Trong giai đoạn n�y, con tr�u trắng ngo�i đồng kh�ng (lộ địa bạch ngưu) v� con tr�u (thủy cổ ngưu) n�y được xem như l� một.  

Trong th�n c� người nhường lại cho Dược Sơn Duy Nghiễm c�i chuồng tr�u v� �ng đ� đ� d�ng chỗ đ� để dựng một tăng đường đầu ti�n. C�u chuyện n�y kh�ng chỉ được d�ng để n�i về sự quyền biến của Dược Sơn m� th�i. C� một lối suy nghĩ xem chuồng tr�u ti�u biểu cho tăng đường. Một trong những Thập Ngưu Đồ c� v�o đời Tống tr�nh b�y con tr�u đen h�a th�nh tr�u trắng rồi sau đ� đang trắng h�a đen trở lại. C� thể n�i rằng chủ đề mới n�y cho thấy ở Trung Quốc, v� dụ về tr�u thường dựa tr�n sự biến h�a, đổi mới. Như thế, c�c Thập Ngưu Đồ đời Tống v� những Mục Tượng Đồ trong kinh điển của Phật gi�o T�y Tạng đ� được thiết lập tr�n những nền tảng suy nghĩ kh� kh�c nhau. T�c phẩm của Khuếch Am lại nằm ở vị tr� cực bắc (� n�i, xa nhất đối với trung t�m điểm).

T�m lại, cho d� tư tưởng của Thập Ngưu Đồ c� gốc rễ l� kinh điển đi chăng nữa, sự ra đời của n� ho�n to�n phụ thuộc v�o sự kh�m ph� ra h�nh ảnh con tr�u mới mẽ chỉ c� từ Phật gi�o Thiền t�ng thời Trung Đường. Đặc biệt hơn cả l� nhờ ở những biến dạng li�n tục của chủ đề n�y m� ch�ng ta c� những h�nh thức diễn đạt th� nghiệm với nhiều bức tranh (họa) v� b�i kệ (tụng) m� v�o đời Tống, sẽ xuất hiện song song với thiền c�ng �n. Thiền c�ng �n l� sự t�i bi�n tập của thiền vấn đ�p bắt đầu từ đời Đường dưới một dạng thức mới. Phương ph�p tu h�nh theo từng nấc thang l� một c�ng hiến c� t�nh kỹ thuật của thiền c�ng �n. C�ng �n thiền đời Tống trong qu� tr�nh ph�t triển của m�nh đ� sinh ra �Thập Ngưu Đồ�. Như ch�ng t�i đ� k�u gọi sự ch� � của độc giả trong phần lời b�n c�c b�i tụng, b�n trong s�ng � l�m th�nh một vở kịch c� nhiều m�n nối tiếp (li�n tỏa quan kịch) bằng một loạt họa v� tụng, c�ng với sự xuất hiện của diễn vi�n, s�n khấu tự n� rất quan trọng v� được sắp đặt để tr�nh b�y một chủ đề ẩn dấu. Trong t�c phẩm của Khuếch Am, con tr�u chỉ ra mặt c� mỗi 4 lần trong khi s�n khấu th� kh�ng thay đổi từ đầu đến cuối. Với sự kết hợp với khung cảnh s�n khấu, ở đ�y vốn được xem như chủ đề mới v� ẩn dấu, t�c phẩm n�y c� một chiều s�u tư tưởng chưa từng c� từ trước đến nay. S�n khấu n�y, n�i trắng ra, đ� l� c�i v�ng tr�n (vi�n tướng) vậy.

 

Vi�n tướng như một s�n khấu:

Nguy�n lai, Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am c� hai chủ đề, đ� l� con tr�u v� v�ng tr�n, v� ch�ng l� hai t�m điểm của t�c phẩm. Tr�u v� v�ng tr�n tuy hai m� l� một nhưng trọng điểm lần hồi đ� nghi�ng từ ph�a con tr�u qua v�ng tr�n. Việc n�y xảy ra c�ch n�o th� ch�ng ta sẽ l�m r� ra trong phần sau. Trong t�c phẩm của Phổ Minh th� v�ng tr�n (vi�n tướng) bắt đầu xuất hiện ở cuối c�ng tức bức họa số 10 (đệ thập đồ) thế nhưng trong Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am th� n� đ� được tr�nh b�y từ bức số 1. Cần ch� � một điểm quan trọng l� l�c đ� chưa c� vẻ vi�n tướng cho lắm.

S�ng � tạo ra v�ng tr�n (vi�n tướng) l� một điểm độc đ�o của Thiền Trung Quốc. N� tượng trưng cho một trong những c�i mới mẻ của đời Đường. Tuy vậy, điều th�ch th� hơn cả cho nh� nghi�n cứu l� người ta hầu như ch� � nhiều về v�ng tr�n ấy v� cụ thể h�a n� kể từ khi c� sự tăng gia mối quan t�m đối với con tr�u. Vi�n tướng c� lẽ đ� c� nguồn gốc từ Phật gi�o Ấn Độ cũng như trường hợp h�nh ảnh con tr�u (th�nh ngưu). Như ta đ� biết, dưới mắt con người, Phật gi�o đ� được biểu tượng h�a trước hết bằng h�nh ảnh một v�ng tr�n. Ng�y xưa, trước khi biểu hiện qua tượng Phật[5], Phật gi�o đ� được cụ thể h�a bằng h�nh ảnh b�nh xe hay �ph�p lu�n�, sau đ� n� biến th�nh v�ng h�o quang tượng trưng cho Đức Phật. Tương truyền v�o thế kỷ thứ 1 khi Phật gi�o bắt đầu truyền v�o Trung Quốc, vua Minh Đế (28-75, trị v� 57-75, thời Hậu H�n) c� h�m nằm mộng thấy một vị thần mang một quầng s�ng như �nh s�ng mặt trời đằng sau g�y (unaji) từ tr�n kh�ng trung hạ xuống cung điện. Việc đem v�ng h�o quang vị thần mang sau lưng (bối quang) so s�nh với h�nh ảnh của quầng s�ng mặt trời (nhật quang) h�y c�n l� một đề t�i th� vị để b�n c�i, nhưng n�i chung, đặc điểm của c�c tượng Phật buổi đầu l� quầng s�ng h�nh tr�n (vi�n quang) ấy. C�i kh�c nhau giữa tượng Phật v� tượng thần của c�c t�n gi�o kh�c c� lẽ l� quầng s�ng đặt sau g�y. Những bức b�ch họa h�nh ảnh của Phật trong c�c thạch động Đ�n Ho�ng cũng c� v�i t�c phẩm cho ta thấy đằng sau ch�ng c� mang v�ng �nh s�ng lớn v� kh� r�, c� thể l�m ch�ng ta nghĩ rằng phải chăng c�i người ta muốn vẽ l� vi�n tướng? Nếu nh�n cho kỹ th� quầng s�ng ấy được đặt chồng chất l�n nhau hai ba tầng, ngay cả bao tr�m to�n thể tượng Phật.

Ngo�i ra, trong số t�c phẩm nghệ thuật goi l� �Tam gi�c duy�n thần th� k�nh�, k�nh v�nh ba g�c c� h�nh linh th� của đời H�n cổ v�o buổi đầu thế kỷ thứ 3, c� c�i mang h�nh ảnh của c�c vị thần đằng sau lưng c� quầng �nh s�ng (vi�n quang) ngồi trong tư thế kiết gi�. R� r�ng đ� l� h�nh ảnh của Phật. Ở Nhật, �tam gi�c duy�n th� thần k�nh� h�nh như chỉ t�m thấy được trong c�c ng�i mộ cổ (kofun)[6]. Vấn đề xem ai đ� chế tạo n� h�y c�n chưa c� c�u trả lời nhưng c� thể n�i rằng trước khi Phật gi�o ch�nh thức được truyền b� đến Nhật Bản, thực ra người ta đ� c� h�nh ảnh của Phật rồi v� điều n�y rất đ�ng lưu �. D� l� ở Trung Quốc hay ở Nhật Bản, c�ng với Phật gi�o, h�nh ảnh quầng �nh s�ng (vi�n quang) ấy đ� trở th�nh quen thuộc. Những tấm k�nh soi thời đ� (cổ k�nh) kh�ng chỉ l� những vật dụng d�ng hằng ng�y, n� c�n l� đối tượng của sự thờ phụng thần th�nh[7]. S�ng � đem v�ng tr�n (vi�n h�nh) để tượng trưng cho bầu trời đ� đẻ ra triết l� �đại vi�n k�nh tr� (tr� huệ như một c�i k�nh tr�n lớn) độc đ�o của Trung Quốc. C�u �T�m như minh k�nh đ�i� (L�ng như đ�i gương s�ng) nổi tiếng trong b�i kệ thấy ở Lục Tổ Đ�n Kinh c� thể n�i l� kết quả của tư tưởng đ�. Tuy nhi�n, điểm xuất ph�t của kh�i niệm vi�n tướng trong Phật gi�o Thiền t�ng l� ở chỗ l�m sao chiến đấu để khắc phục c�i thần th�nh m� vi�n tướng ấy tượng trưng, v� đ� mới l� t�nh độc s�ng của n�.

Trong s�ch vở Thiền t�ng, nơi vi�n tướng được m� tả lần đầu ti�n c� lẽ l� Bảo L�m Truyện th� phải. Đ� l� một t�c phẩm mới mẻ của thời Trung Đường, ra đời với mục đ�ch thuyết minh về nguồn gốc của M� Tổ Thiền. Vi�n tướng được tả ra ở cảnh T�y Thi�n đệ thập tứ tổ Long Thọ[8] thuyết ph�p. Sau khi Long Thọ l�n ngồi ở chỗ thuyết ph�p rồi, h�nh ảnh �ng biến th�nh một vầng trăng tr�n (nguyệt lu�n tướng). Tiếng n�i của Long Thọ ph�t ra từ quầng s�ng ấy v� chư đệ tử được n� tr�m phủ v�o trong. Thuyết ph�p vừa dứt th� quầng s�ng ấy biến mất v� Long Thọ hiện ra trở lại. Đoạn văn n�y sau được Tổ Đường Tập v� Truyền Đăng Lục ghi lại v� trở th�nh một trong những đoạn văn ti�u biểu khi tr�nh b�y lịch sử Thiền t�ng. Nếu l� độc giả Nhật Bản th� mọi người đều biết Thiền sư D�gen (Đạo Nguy�n) trong chương Phật T�nh của t�c phẩm Sh�b� Genz� (Ch�nh Ph�p Nh�n Tạng) đ� kể lại l� �ng đ� rất cảm động khi ngắm bức b�ch họa vẽ lại sự t�ch n�y tr�n bức tường ch�a A Dục Vương ở Minh Ch�u (khi c�n du học b�n Trung Quốc). Vi�n tướng l� nguyệt lu�n v� l� biểu tượng của Phật t�nh vậy. Ở điểm n�y, c� h�m chứa t�nh thần b� giống như con th�nh ngưu v� dĩ nhi�n c�i �Phật t�nh� m� D�gen thuyết giảng cũng tiềm ẩn ở b�n trong.

 

 

Th�y gia v� minh nguyệt thanh phong
(Gi� m�t trăng thanh ở mọi nh�)

Thiền sư T�rei Enji (Đ�ng Lĩnh Vi�n Từ) đề tranh �Vi�n Tướng�

 

Thế nhưng, như vừa n�i, c�ch sử dụng vi�n tướng trong thực tế lần đầu ti�n v�o thời M� Tổ th� kh�ng phải c� mục đ�ch luận về c�i l� tưởng c� t�nh thần b� đ�. Đ�ng hơn, đặc sắc của �ng l� đề nghị với mọi người một vi�n tướng mới, c� thực v� gần gũi b�n m�nh (cước hạ vi�n tướng), kh�ng cần thiết phải bước v�o m� cũng chẳng cần phải bước ra l�m g�. Trong chương 6 của Truyền Đăng Lục, phần n�i về M� Tổ, c� một đoạn đại � như sau:

Một đệ tử của M� Tổ đi h�nh cước trở về. Tăng đến trước mặt thầy, vẽ một v�ng tr�n (vi�n tướng) rồi ngồi v�o b�n trong, l�m lễ rồi đứng l�n. M� Tổ bảo: �Ngươi kh�ng muốn th�nh Phật sao?�. Tăng đ�p: � Đệ tử chưa c� thể bẹo mắt thầy!�. M� n�i: �Như ngươi th� đừng h�ng!�. Tăng kh�ng trả lời được.

Th�m một điều nữa l� kh�ng biết rốt cuộc đ� c� g� xảy ra nhưng �vi�n tướng� h�nh như l� �ng�n nghề� của M� Tổ. Những chuyện như M� Tổ bẹo mắt đối thủ hay viết một bức thư m� nội dung chỉ c� một v�ng tr�n ở b�n trong, đưa cho đệ tử xem để thử họ th� c� rất nhiều. Ngược lại, nhiều đệ tử cũng biết trước ng�n đ�n của thầy m�nh n�n đ� thử th�ch ngược lại M� Tổ.

Ngo�i ra, theo văn bản của T�ng M�n Thống Yếu được t�i bi�n v�o đời Tống, c� c�u chuyện một tăng nọ ng�y kia đến gặp M� Tổ. M� Tổ b�n vẽ tr�n mặt đất một v�ng tr�n, bảo: �Ngươi v�o đ�, ta cũng đ�nh, kh�ng v�o đ�, ta cũng đ�nh�. Tăng b�n v�o trong v� bị M� Tổ đ�nh. Tăng n�i: �Thầy kh�ng c� quyền đ�nh đệ tử�. M� Tổ b�n th�u gậy, ngừng đ�nh.  

Lần đ�, như thế l� M� Tổ đ� thua cuộc. Tăng đ� dẫm l�n tr�n vi�n tướng rồi n�n đưa M� Tổ đến t�nh thế l� đ�nh cũng kh�ng được m� kh�ng đ�nh cũng kh�ng được. Đề nghị của M� Tổ đ� bị tăng gữi trả ngược lại ph�a �ng. Phải hiểu vi�n tướng theo nghĩa đ�. Vi�n tướng l� phương tiện để thiền gia k�o Phật � l� tưởng của họ � xuống về ph�a ch�n m�nh (cước hạ hay thực tế). Việc sử dụng l�m đề t�i đối đ�p giữa M� Tổ v� đệ tử của �ng h�y c�n kh� nhiều. N� đ� trở th�nh quen thuộc như cơm bửa. Điều đ� c� nghĩa l� Thiền thời đ� đ� d�ng vi�n tướng để l�m mốc cho một cuộc khởi h�nh mới.

Đời sau, c� thuyết cho rằng người đ� s�ng tạo ra vi�n tướng l� Thiền sư Đam Nguy�n Ứng Ch�n (thế kỷ 8/9), ph�p tự của Nam Dương Huệ Trung Quốc Sư (675-775) v� Đam Nguy�n đ� truyền cho Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (807- 883) 97 loại vi�n tướng kh�c nhau.Theo Tổ Đường Lục, nh� tu vẽ h�nh vi�n tướng trong giai thoại n�i về M� Tổ (709-788) ch�nh l� Đam Nguy�n. L�c đ� h�nh như Đam Nguy�n vừa từ chỗ của Nam Dương về. Do đ�, vi�n tướng trở th�nh truyền thống của t�ng Quy Ngưỡng. Tuy h�y c�n thiếu chứng cứ lịch sử nhưng nếu vi�n tướng được phổ biến rộng r�i sau đ� th� cũng l� chuyện dễ hiểu. L�c đầu, người ta thường d�ng gậy để vẽ vi�n tướng l�n mặt đất hay tr�n kh�ng trung. Vẽ l�n giấy l� chuyện về sau. C�n việc M� Tổ vẽ trong thư c� lẽ do hậu thế th�m thắt v�o. Cho d� đem cả vi�n tướng của M� Tổ gộp chung với gia phong của t�ng Quy Ngưỡng cũng c� thể gọi l� thỏa đ�ng.

 

T�m nguyệt c� vi�n quang th�n vạn tượng
(�nh s�ng một tấm gương t�m tr�n đơn lẻ h�t được hết mọi vật)

Triết gia Nishida Kita r� (T�y Điền Kỷ Đa Lang) đề tranh �Vi�n Tướng�

 

Điều quan trọng đối với ch�ng ta l� sự kết hợp vi�n tướng ấy với con tr�u.Ch�ng n� đ� ph�t sinh v�o một thời kỳ n�n nếu hai chủ đề ấy c� nhập l�m một th� cũng l� chuyện đương nhi�n.

Người ph�p tự của Ngưỡng Sơn l� Ngũ Quan Sơn Thuận Chi 五冠山順之 (830-888), đ� lập ra thuyết �Tứ đối b�t tướng� 四対八相 (tất cả l� 12 tướng) nổi tiếng. Trong đ�, ta thấy c� sự kết hợp giữa tr�u v� vi�n tướng. N� d�ng để biểu thị sự chậm lụt trong việc chứng ngộ. Hai thuyết đ� n�i đến b�n tr�n tức l� nguyệt lu�n tướng của Long Thọ v� chuyện con tr�u tr�n Tuyết Sơn ăn loại cỏ nhẫn nhục để sinh ra một loại sữa c� vị ngon ngọt tuyệt vời, đều bao h�m b�n trong. Ngũ Quan Sơn Thuận Chi l� một vị tăng T�n La (Shilla, tiếng Nhật l� Shiragi, nay l� v�ng thuộc ph�a nam H�n Quốc). �ng đ� nhập Đường, nhận được ph�p tự của Ngưỡng Sơn, sau về T�n La truyền ph�p. Việc �ng thuyết về �Tứ đối b�t tướng� c� ghi lại trong Tổ Đường Tập. Tuy chưa lập được mối li�n lạc trực tiếp giữa Thập Ngưu Đồ ra đời v�o đời Tống (906-1279) v� �Tứ đối b�t tướng� của Ngũ Quan Sơn Thuận Chi nhưng nếu t�nh về thời đại th� thuyết của Thuận Chi phải c� trước. S�ch Nh�n Thi�n Nh�n Mục ra đời c�ng thời đại của Thập Ngưu Đồ , đ� dẫn ra một phần Tứ đối b�t tướng của tăng Thuận Chi m� t�c giả quyển s�ch xem như một l� thuyết thuộc gia phong của t�ng Quy Ngưỡng. Dĩ nhi�n v� l� một bộ phận của l� thuyết của Quy Ngưỡng n�n c� rất nhiều loại h�nh vi�n tướng (97 tướng) nhưng ở đ�y chỉ xin đề cập đến những loại vi�n tướng n�o c� li�n hệ đến con tr�u m� th�i[9]:

1- Tướng �Niết B�n�. Tướng của người biết nương theo Phật đạo. C�n gọi l� kẻ c� �L� Phật t�nh�. � thức được sẽ th�nh th�nh, kh�ng � thức được chỉ l� ph�m. Tượng trưng bằng một v�ng tr�n (vi�n tướng).

2- Tướng �kiến t�nh th�nh Phật�. Đ�y l� chỗ con tr�u tr�n Tuyết Sơn ăn cỏ nhẫn nhục. Cỏ l� diệu ph�p, ngưu l� đốn cơ (cơ duy�n để đốn ngộ). Đề hồ (vị ngon ngọt) v� với Phật. Tượng trưng bằng một chữ ngưu nằm trong v�ng tr�n.

3- Tướng �tam thừa cầu l� ch�n kh�ng�. Tam thừa c� nghĩa l� d� c� c�ng nghe một thuyết nhưng v� c�n khuynh hướng hữu t�m cho n�n chưa chứng nhập được ch�n kh�ng. Tượng trưng bằng ba chữ ngưu đứng ngo�i v�ng tr�n.

4- Tướng �lộ địa bạch ngưu� (con tr�u trắng ngo�i đồng kh�ng). Lộ địa l� đất của Phật, chỗ của �đệ nhất nghĩa kh�ng�. Bạch ngưu l� c�i diệu huệ chứng được ph�p th�n. Tượng trưng bằng con tr�u trong v�ng tr�n. Ch� � l� số 2 v� số 4 đồng một tướng n�n c� chung k� hiệu. Thế nhưng trong trường hợp số 2, cơ duy�n gi�p gi�c ngộ l� đốn kiến thực t�nh của Hoa Nghi�m trong khi trường hợp số 4, cơ duy�n l� hộ tam quy nhất của Ph�p Hoa.

5 � Tướng �khế quả tu nh�n� (chịu chấp nhận quả để tu sửa nh�n). Cơ duy�n đốn ngộ (đốn cơ) l� �sơ ph�t t�m thanh ch�nh gi�c� (l�c mới ph�t nguyện th� sự gi�c ngộ đ� ho�n th�nh). Kh�ng quản ngại �ch�ng h�nh� (h�nh động như mọi người), dần dần c� được tr� huệ b�nh đẳng ở Phật địa, kh�ng vượt qua vị tr� của nh�n (nh�n vị). C� thể n�i đ�y l� trường hợp ngước theo dấu ch�n của Như Lai. Biểu hiện bằng chữ ngưu đặt b�n tr�n v�ng tr�n.

6 � Tướng �nh�n vi�n quả m�n� (nh�n quả đều trọn vẹn). L�c đưa nh�n l�n th� quả hiện ra. Đối lập với tướng �khế quả tu nh�n� ở tr�n. Tượng trưng bằng một chữ vạn nằm trong v�ng tr�n.

7 � Tướng �cầu kh�ng tinh hạnh� (chuy�n ch� tu h�nh để t�m c�i kh�ng tuyệt đối). L�c bồ t�t trong thảo am trước nh� đi t�m ch�n kh�ng. Trải qua tam tăng kỳ (kỳ =c�ng tế, cầu xin), tu bồ t�t hạnh, nhẫn nan nhẫn, h�nh nan h�nh (ẩn nhẫn chịu đựng), � n�i kh�ng ngơi việc cầu đạo. Tượng trưng bằng chữ ngưu viết b�n dưới v�ng tr�n.

8 � Tướng �thực tế tiệm chứng� (dần dần chứng ngộ được thực tế). Đ� l� t�m cảnh của bậc th�nh vương sau khi h�ng phục được quần tặc v� l�m cho l�nh thổ được an ninh. Để khỏi lo sợ th� th� o�n của giặc, b�n l�m như bồ t�t chuy�n t�m tu niệm qua nhiều kiếp, sau đ� ph� được �tứ ma�, đạt được ch�n tr� v� lậu (kh�ng lộ ra ngo�i), chứng nhập được Phật địa, kh�ng c�n sợ dư tập (phiền n�o). Tượng trưng bằng chữ vương l� vua viết trong v�ng tr�n.

9 � Tướng �truy gi�o tưởng giải� (chạy theo gi�o l� những tưởng hiểu thấu). � n�i nhờ v�o phổ ph�p của nhất thừa m� Phật đ� giảng dạy, con người đi t�m sự giấc ngộ. Việc cầu đạo v� giải tho�t đều hiểu r� nhưng cho đến cuối c�ng vẫn chạy theo thuyết của người kh�c (truy gi�o) m� kh�ng để � đến c�i l� tri của m�nh. C�n �tưởng giải� h�nh như l� giải th�ch nhưng g� xảy ra (kinh l�) bằng ức tưởng (đo�n m�). Biểu hiện bằng một chữ ngưu đặt tr�n đầu v�ng tr�n, trong đ� c� một chữ nh�n l� người.

10 � Tướng �thức bản ho�n nguy�n� (nh�n thấy bản chất v� trở lại cội nguồn). Được giải tho�t ra khỏi những r�ng buộc kh� gỡ. B�y giờ an nhi�n ngồi trong đồng trống. Cảnh tượng n�y đối lập với sự chạy theo sự gi�o h�a của người v� giải th�ch những g� xảy ra bằng ức đo�n, như thấy ở tr�n (số 9). Biểu tượng bằng chữ nh�n l� người nằm trong v�ng tr�n � n�i l� tr� con người đ� thức tỉnh kh�ng c�n nghĩ đến tr�u nữa.

11 � Tướng �m� đầu nhận ảnh� (nhầm lẫn về con người m�nh l�c đầu v� chạy theo h�nh b�ng kh�c) Kh�ng nhận thức rằng m�nh l� Phật v� � thức được sự hiện hữu của c�i tịnh độ. Lại đi tin ở một vị Phật kh�c v� c�i tịnh độ kh�c. Tượng trưng bằng một chữ nh�n l� người nằm trong v�ng tr�n. Ở dưới v�ng tr�n c� chữ ngưu.

12 � Tướng �bội ảnh nhận đầu� (quay lưng lại với c�c h�nh b�ng kh�c để nh�n nhận con người m�nh l�c đầu) . Kẻ ph�m phu kh�ng ph�t được ch�n tr� v� kh�ng đạt đến ch�n kh�ng. M�i lo đi cầu một c�i tịnh độ ở đ�u đ�u để kiến Phật văn ph�p. Nếu hồi quang ph�t tr� v� đạt được ch�n kh�ng th� Phật tự ng� v� c�i tịnh độ nhất thời sẽ hiện ra. Ngưu biến mất nhưng người kh�ng biến. Phật l� ch�n tr� của người c�n c�i tịnh độ l� ch�n kh�ng của người. Biểu tượng bằng chữ nh�n l� người nằm trong v�ng tr�n vi�n tướng.

Ngo�i ra lại c�n c� �Tứ đối ngũ tướng� 四対五相 (tất cả l� 5):

1 � Tướng � cử h�m s�ch c�i� (n�ng h�m t�m nắp). C�n g�i l� b�n nguyệt đ�i vi�n (trăng ph�n nữa đợi khi tr�n). Biểu tượng bằng một v�ng tr�n nhưng ph�n nữa tr�n rời rạc chứ kh�ng kh�p k�n như nữa dưới.

2 � Tướng �bả ngọc mịch khế� (cầm ngọc đi t�m ấn t�n). Ngọc tứng l� �vương vị� (ng�i vua) c�n khế (warifu) l� �một mảnh của ấn t�n để chắp lại cho khớp� , l� vật l�m tin cũng như hổ ph�. Biểu diễn bằng một v�ng tr�n kh�p k�n.

3- Tướng �c�u nhập tục s�ch� (cho m�c c�u v�o. kiếm c�ch nối nghiệp). Tục tức l� con d�ng đ�ch nối được ng�i. Biểu tượng l� v�ng tr�n với một m�c c�u nằm b�n trong.

4 � Tướng �k� th�nh bảo kh� (đ� trở th�nh b�u vật). T�m cảnh l�c đ� th�nh vật qu� gi�. Tượng trưng bằng chữ Phật nằm trong v�ng tr�n.

5 � Tướng �chỉ huyền ấn tướng� (in được dấu sự suy nghĩ của m�nh tr�n lẽ huyền vi): Tướng n�y vượt l�n tr�n tất cả c�c tướng c� trước, kh�ng c�n bị thu h�t bởi những gi�o � ph�m tục nữa. Đối với người ấy,đ�y l� lần đầu ti�n � thức được tướng n�y. Biểu tượng bằng một chữ ngọc nhưng thiếu n�t ngang tr�n đầu đặt b�n trong v�ng tr�n.

Tuy lời thuyết minh của Thuận Chi hay c�n nhiều chỗ m� mờ kh� hiểu nhưng qua những v� dụ về nguyệt lu�n tướng của Long Thọ cũng như về con tr�u trong kinh Hoa Nghi�m v� Ph�p Hoa, ta c� thể � thức được t�c giả muốn đề cập đến việc nhanh (tật) hay chậm (tr�) trong việc tu h�nh. Ta cũng hiểu �ng muốn n�i l� bắt đầu từ gi�o � (lời dạy dỗ) nhưng rồi phải vượt qua gi�o �. Bắt đầu n�i về đốn, sau lại trở về tiệm th� đầu đu�i c� phần kh�ng thống nhất, thế nhưng, mở đầu bằng �tứ đối� v� �b�t tướng� v� sau đ� th�m v�o �ngũ tướng�, cộng lại vị chi l� 17, theo c�ch sắp xếp n�y hẳn t�c giả dường như muốn n�i l�n điều g� đ�y. Bởi v� trong 5 tướng cuối c�ng, đặc biệt kh�ng thấy b�ng tr�u ở đ�u cả.

Về mối li�n hệ từ Thuận Chi đến Phổ Minh rồi xuống tới Khuếch Am th� đến nay ta chưa t�m ra sự mạch lạc của tư tưởng cũng như chưa c� đầy đủ văn bản. Tại sao con tr�u v� vi�n tướng lại bỏ v�ng đất khai sinh ra ch�ng l� v�ng Giang Nam của thời Trung Đường, dời đi m�i thật xa để rồi xuất hiện ở T�n La b�n Triều Ti�n? C�u hỏi đ� c� lẽ l� phần c�ng việc đặt cho những nh� nghi�n cứu mai sau. Lại nữa, khi phối hợp chuyện đ� với Mục Tượng Đồ của T�y Tạng v� hiện tượng phổ biến rộng r�i Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am ở Nhật, th� lại đẻ ra v� số c�u hỏi về qu� tr�nh tiếp nhận của c�c d�n tộc l�n cận đối với những yếu tố văn h�a đến từ Trung Quốc. �t nhất, ta c� thể quả quyết rằng những h�nh ảnh cụ thể như tr�u v� v�ng tr�n chắc dễ được chấp nhận hơn gi�o l� v� tư tưởng trừu tượng nhiều lắm. Giải th�ch một � tưởng cao si�u song song với sử dụng những h�nh vẽ như một phương tiện truyền b� l� một đặc sắc của triết học thời trung cổ vậy.

 

Thập Ngưu Đồ ở Nhật Bản:

Thập Ngưu Đồ bản Gozan (Ngũ Sơn) của Nhật Bản

 

Như đ� đề cập đến b�n tr�n, suốt thời trung cổ ở Nhật, người ta chỉ biết c� mỗi Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am. T�c phẩm của Phổ Minh ho�n to�n v� danh cho đến đầu đời Edo (đầu thế kỷ 17). Di phẩm của rất nhiều bản Ngũ Sơn đ� chứng minh được điều đ�. Sự ra đời của Thập Ngưu Quyết, t�c phẩm ch� th�ch Thập Ngưu Đồ, g�p th�m một bằng chứng nữa. Nhất l� khi ta biết rằng Thập Ngưu Quyết l� quyển s�ch duy nhất ch� th�ch về Thập Ngưu Đồ suốt to�n c�i Trung Quốc v� Nhật Bản.

T�c giả của Thập Ngưu Quyết l� Chigotsu Daie hay Phật Th�ng thiền sư Si Ngột Đại Huệ (1229-1312), người nhận ph�p tự của Th�nh Nhất Quốc Sư Bennen Enni (Biện Vi�n Vi�n Nhĩ, 1202-1280, khai sơn ch�a T�fukuji (Đ�ng Ph�c) n�n c�n được gọi l� T�fuku Enni). Tương truyền thiền sư Chigotsu l� d�ng d�i quyền thần Taira no Kiyomori (B�nh, Thanh Thịnh). Khi �ng sinh ra th� Kiyomori đ� chết n�n chuyện ấy chẳng qua lời thi�n hạ đồn đại. Tuy nhi�n, nhờ t�c phẩm n�y xuất hiện m� ch�ng ta c� thể biết phần n�o về t�nh h�nh thời đ�. Thấp Ngưu Quyết sử dụng văn bản Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am v� ch� th�ch n� dưới h�nh thức vấn đ�p, nguy�n c� k�m cả h�nh ảnh. Ngo�i bản in năm Sh�b� (Ch�nh Bảo 1644-48), h�y c�n c� nhiều bản kh�c, d� vậy, bản c�n bảo tồn được hầu như đều c� lời giải th�ch của Ngu Trung Chu Văn (1323-1409) đ�nh k�m từ năm �ei (Ứng Vĩnh) Nh�m Ngọ (1402). Ngu Trung Chu Văn l� đồ t�n 6 đời t�nh từ T�ng Nguy�n S�ng Nhạc (1139-1209), khai sơn Phật Th�ng Tự. Do đ� Ngu Trung được biết dưới c�i t�n Phật Th�ng thiền sư. Bảo �ng l� t�c giả Thập Ngưu Quyết l� l�m một điều lầm lẫn. Tuy vậy việc c� hai �ng Phật Th�ng đ� d�nh d�ng đến Thập Ngưu Quyết cũng l� một điều kh� th� vị.      

Trong lời ch� th�ch của Chigotsu, ta thấy c� c�i đặc sắc của Mật gi�o học hệ ph�i Eisai (Vinh T�y), Eich� (Vinh Triều) v� Enni (Vi�n Nhĩ), đ�p lại được đ�i hỏi tri thức của người tu thiền thời ấy. Điều đ�ng ch� � l� trong đ�, �ng đ� sử dụng nguy�n văn bản của Khuếch Am nghĩa l� bảen c� b�i tựa tổng qu�t của Từ Viễn cũng như 10 b�i tiểu tự v� 10 b�i tụng. Ri�ng 10 ti�u đề cho c�c chương th� c� kh�c bản hiện tại đ�i ch�t.V� dụ như chương 7 c� t�n l� �Đ�o gia vong ngưu thất�, b�n dưới lại ch�: �C� bản ch�p Vong ngưu tồn nh�n�, chương 8 �Nh�n ngưu bất kiến b�t� lại th�m v�o l� c� chỗ ghi l� Nh�n ngưu c�u vong�. Điều đ� cho thấy người viết đ� biết sự tồn tại của những bản kh�c v� �ng đ� đối chiếu ch�ng với nhau.

Từ Viễn trong b�i tựa c� n�i: �Khi đến mức độ kh�ng c�n thấy người v� tr�u nữa l� l�c qu�n được cả t�m lẫn ph�p� (N�i ch� nh�n ngưu bất kiến, cố phi�u t�m ph�p song vong). Do đ� mới c� tựa đề l� �nh�n ngưu bất kiến� vậy. Như sẽ b�n ở phần sau, trong văn bản �Thiền M�n Chư Tổ Sư Kệ Tụng� cũng ch�p l� �Nh�n ngưu bất kiến�. Bản Thập Ngưu Quyết c�n tồn trữ, b�n lề lại c� cả lời ch� th�ch cũng như c�c b�i họa tụng của Thạch Cổ Hy Di v� Ho�i Nạp Đại Li�n. Hoặc giả, trong đ� đ� c� b�n tay xếp đặt của Ngu Trung Chu Cập?. Thế nhưng khi Ngu Trung sinh ra th� Si Ngột đ� chết rồi, c� lẽ �ng chỉ l� người nhờ t�c phẩm n�y m� tiếp thu đạo ph�p của Si Ngột chứ bề g� người l�m ra Thập Ngưu Quyết vẫn l� Si Ngột. Hiện nay, việc t�i lập văn bản nguy�n thủy của Thập Ngưu Đồ bằng Thập Ngưu Quyết n�y h�y c�n l� một vấn đề.  

Văn bản của Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am ghi lại trong Thập Ngưu Quyết l� bản m� Th�nh Nhất Quốc Sư Enni (Biện Vi�n Vi�n Nhĩ) đ� đem từ Trung Quốc về nước. Văn kiện mang t�n Phổ M�n Viện Kinh Luận Chướng Sớ Ngữ Lục Nho Thư Đẳng Mục Lục ghi ch�p t�n c�c s�ch vở mang về tuy kh�ng ch�p t�n Thập Ngưu Đồ nhưng lại c� b�i thơ họa tụng Thập Ngưu Đồ của vị tăng Trung Quốc độ lai t�n Nhất Sơn Nhất Ninh. �ng n�y cũng như Enni đều l� đồ đệ nhận ph�p tự của Phật Gi�m, lại c� th�m lời tựa về n� nữa (trong Nhất Sơn Nhất Ninh Ngữ Lục quyển hạ). Theo Gid� Shuushin (Nghĩa Đường Chu T�n, 1325-1388), trong quyển 13 của Kh�ng Hoa Tập th� ng�y 20 th�ng 3 năm 1382, ở Đẳng Tr� Viện (T�jiin, ch�a t�ng L�m Tế), th�i thượng ho�ng Fushimi c� cho �ng xem bản Thập Ngưu Đồ m� trước kia, Thiền sư Mus� Soseki (Mộng Song Sơ Thạch, 1275-1351, thầy của Gid�) đ� d�ng l�n, rồi hạ lệnh cho �ng viết b�i hậu tựa. Mus� ng�y c�n trẻ đ� theo học Nhất Sơn Nhất Ninh. V� bản Thập Ngưu Đồ m� Mus� d�ng l�n vua, đằng sau đ� c� b�i hậu tựa của Shun.oku My�ha (Xu�n Ốc Diệu Ba, 1311-1388, bạn đồng song của Gid�) rồi n�n vua mới nhờ �ng viết th�m để n�u r� xuất xứ việc đ�. Tất cả chỉ muốn n�i l� người đương thời ai cũng quan t�m đến Thập Ngưu Đồ. Nếu văn học Thiền T�ng được vững mạnh dưới thời Muromachi cũng l� nhờ ở sức của n�. Ảnh hưởng đ� kh�ng chỉ c� trong c�c l�nh vực như văn học, hội họa, thư ph�p nhưng c�n lan rộng ra đến vi�n nghệ v� nghệ thuật tuồng. C� thể n�i khuynh hướng ấy bao tr�m to�n thời kỳ Muromachi, k�o d�i tận đời Edo v� đặt ch�n đến khắp nơi tr�n nước Nhật. Những bức tranh của Ngu Trung Chu Văn c�n truyền lại ở Sh�kokuji (ch�a Tướng Quốc) cũng như những b�i tụng của Zekkai Chhushin (Tuyệt Hải Trung T�n, 1336-1405, cũng học với Mus�) đều được s�ng t�c v�o thời Muromachi. Tranh thủy mặc được vẽ ra li�n tiếp với một số lượng như vật, xưa nay thực chưa từng c�. Tập qu�n vẽ đ�nh tướng nằm b�n trong vi�n tướng c� lẽ nhận ảnh hưởng từ tranh của Thập Ngưu Đồ cũng kh�ng chừng. Việc vẽ vi�n tướng l�n tr�n c�c gấy tờ chứng minh như ấn khả thư hoặc tự ph�p thư cũng bắt nguồn từ một l� do. C�c t�c phẩm như Thiền T�ng Tứ Bộ Lục v� Ngũ Vị Thiền lần lượt ra thời v�o đ�ng thời điểm n�y. Tuy vậy, h�nh như người ta kh�ng gọi n� bằng c�i t�n chung l� Thiền T�ng Tứ Bộ Lục m� gọn lại l� Thập Ngưu Đồ. Nhờ t�c phẩm gọi l� Tứ Bộ Lục Sao m� những văn bản đ� đ� được đem ra rao giảng thường xuy�n ở c�c thiền viện địa phương. Xưa kia, trong c�c s�ch bảo t�ng ở T�ch T�y Hi�n Văn Khố của nh�n vật t�n Ishii Mitsuo c� một quyển s�ch nhan đề �Tam Tổ Đại Sư T�n T�m Minh Sao. Vĩnh Gia Đại Sư Chứng Đạo Ca Ch�� do T�ng Mục soạn. C� lẽ n� l� một bộ phận của Thiền T�ng Tứ Bộ Lục Sao bao gồm Thập Ngưu Đồ v� Tọa Thiền Nghi. Người c� t�n T�ng Mục hẳn phải l� Đ�ng Kh� T�ng Mục (1454-1517) , đ� khai sơn Đại Đức Tự (Daitokuji) Long Nguy�n Viện.

Như c� lần n�i, trong bản Thập Ngưu Đồ lưu h�nh trong đại ch�ng v�o thời Edo, c� chen v�o mấy vần thơ waka của tăng Sh�tetsu (Ch�nh Triệt, 1381-1459). Sh�tetsu từng giữ chức thư k� ở ch�a T�fuku, chữ viết s�ng sủa trang nghi�m, được biết đến với c�i t�n Tetsu-shoki (Triệt thư k�). Hai tập s�ch nhan đề Sh�tetsu Monogatari (Truyện Sh�tetsu) l� tập ph� b�nh thơ waka ti�u biểu của thời trung cổ. Tuy việc �ng c� l�m thơ waka về Thập Ngưu Đồ hay kh�ng th� chưa c� chứng t�ch r�nh r�nh nhưng việc người ta g�n n� cho �ng cũng chỉ l� chuyện kh�ng c� g� đ�ng ngạc nhi�n.   

Trong khoảng thời gian Thập Ngưu Đồ ở Nhật, c� một quyển s�ch m� ta kh� l�ng l�m ngơ, đ� l� Ushikaigusa 牛飼草 (S�ch kể truyện chăn tr�u) của t�c giả Geppa D�in (Nguyệt Pha Đạo Ấn, 1637-1681). Theo lời tựa, s�ch đ� được viết ra năm Kanbun thứ 8 (1668) v� in ở Ky�to v�o năm sau. N� đ� sớm được ch� � v� Thiền sư Shibayama Zenkei (S�i Sơn To�n Kh�nh) đ� thu thập v�o trong Thiền T�ng Thập Ngưu Đồ (1963) của �ng.Đặc sắc của quyển s�ch Ushikaigusa n�y l� tuy lấy trọn vẹn Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am nhưng lại th�m 2 chương nữa để c� đến 12 bức tranh v� ph�n chia theo bốn m�a. N� gồm cả tranh của một người t�n l� Hồ Nam Ẩn Sĩ Qu�n Hải cũng như h�nh ảnh tr�u đen h�a trắng, nghĩa l� kết hợp với c�c loại Thập Ngưu Đồ kh�c. Kể từ đoạn qu�n người lẫn tr�u lại chuyển một lần nữa qua qui gia rồi nhập thị, nghĩa l� theo h�nh thức chủ đề của Khuếch Ammột c�ch trung thực. Đặc biệt những lời giải th�ch đều viết bằng văn tự quốc �m kana với lối h�nh văn b�nh dị dễ hiểu của thời Edo, lại k�m th�m nhiều tranh vẽ, c� lẽ nhắm đối tượng độc giả b�nh d�n nơi th�nh thị.   

T�c giả Geppa D�in sinh ra ở �tsu (thuộc v�ng �mi, gần Ky�to), l�c đầu học thiền ph�i Ho�ng B� (hay Ho�ng B�ch = �baku) với cao tăng Ẩn Nguy�n (Long Kỳ), Mộc Am, Tức Phi�nhưng rốt cuộc, trở th�nh ph�p tự của Thiết T�m ph�i T�o Động v� giao du th�n t�nh với (nh� sư Trung Quốc độ lai) T�k� Shin.etsu (Đ�ng Cao T�m Việt, 1639-1696). L�c về gi�, �ng khai đường (thuyết ph�p l�c mở ch�a) cho Đại T�ng Tự ở Mito v� Thi�n Đức Viện ở Kaga, c� để lại ở quyển thượng trong Nguyệt Pha Đạo Ấn Thiền Sư Ngữ Lục 2 quyển b�i �ng giảng ở Thi�n Đức Viện. Trong những b�i kệ tụng đối đ�p với T�m Việt, ta thấy được nh�n c�ch phi ph�m của �ng.   

Ushikaigusa (S�ch kể truyện chăn tr�u) ra đời năm Kanbun thứ 8 (1668) l�c Geppa (Nguyệt Pha) h�y c�n l� một �ng đạo sống dưới ch�n n�i, c�ch thức sinh hoạt phong lưu kiểu văn nh�n đời cận đại mi�u tả trong đ� c� lẽ đi ra ngo�i sự thực. Hoặc giả qua lối tr�nh b�y như vậy, �ng muốn đến gần với đ�ng đảo đọc giả c� nhu cầu t�m đọc n� chăng? Tuy vậy, �t nhất 12 b�i thơ waka đi song song với 12 chương trong đ�, nếu so s�nh với thơ Sh�tetsu th� c� t�nh phổ th�ng của đạo ca hơn.

Sự xuất hiện của khuynh hướng ấy đ� l�m cho Thập Ngưu Đồ mang t�nh chất một quyển s�ch �học l�m người� (jinseibon), phản �nh được kh�ng kh� của thời buổi. Thế nhưng s�ch thuộc thể loại n�y m� l�m được chuyện đ� một c�ch r� r�ng nhất c� lẽ l� Juuke Juubazu (Nho Gia Thập M� Đồ). Trong bối cảnh Nhật Bản, từ khi ra đời như một m� phỏng Thập Ngưu Đồ của Phổ Minh, n� l� quyển s�ch đạt được được nhiều th�nh c�ng đ�ng kể nhất.

Như đ� lưu � đến một đ�i lần, suốt thời Kamakura đến Muromachi (1183-1573) chỉ c� loại Thập Ngưu Đồ thuộc hệ Khuếch Am l� được đọc trong c�c thiền viện Nhật Bản. V�o đến thời Edo (1603 trở đi) th� c�c bản Thập Ngưu Đồ hệ Phổ Minh mới bắt đầu được phổ biến, dĩ nhi�n l� do ảnh hưởng đến từ lục địa. C� lẽ ấn bản Phổ Minh đ� theo g�t Ẩn Nguy�n Long Kỳ hoặc Đ�ng Cao T�m Việt khi hai �ng sang Nhật. Sau đ�y h�y thử x�t về trường hợp T�m Việt.

Thiền sư T�m Việt l� đồ t�n 4 đời của Cổ Sơn Nguy�n Hiền (1578-1657), một danh tăng kiệt xuất cuối c�ng của t�ng T�o Động đời Minh. �ng sang Nhật năm 1677. Trong T�k� Zenshuu (Đ�ng Cao To�n Tập, quyển thượng), T�m Việt c� để lại 10 b�i thơ mang t�n �Li�n Tr� Đại Sư Thiền T�n Thập Ngưu Đồ. Phổ Minh Thiền Sư Vận Thứ�. Bản n�y được ghi l� s�ng t�c v�o ni�n hiệu Thi�n Bảo (Tenp�, 1830-1844) nhưng chắc l� ghi lầm từ Thi�n H�a (Tenna, 1681-84). Nếu thuyết n�y l� đ�ng th� r� r�ng l� T�m Việt đ� s�ng t�c ra sau khi �ng đến Nhật. Như thế, trong bản lưu h�nh ở Nhật, T�m Việt đ� đ�nh k�m b�i tựa m� V�n Th� Chu Hoằng đ� t�m lại được cũng như c�c b�i họa tụng của chư thiền sư đời Minh để lại, cũng như tự m�nh viết th�m 10 b�i thơ họa theo vần thơ Phổ Minh. Duy c� điều l� trước khi T�m Việt sang Nhật, bản Phổ Minh đ� được biết đến rồi. C� thể đ� c� bản khắc gỗ ở Nhật rồi cũng kh�ng chừng. Nếu thế th� n� đ� được c�c tăng ph�i Ho�ng B� đem qua bằng đường Nagasaki v� �t nhất, bản Nho Gia Thập M� Đồ儒家十馬図 l� một ph�ng t�c dựa tr�n bản của Phổ Minh.

Nho Gia Thập M� Đồ

 

T�c giả Nho Gia Thập M� Đồ l� Shimizu Shunryuu (Thanh Thủy, Xu�n Lưu), c� b�i tựa ở đầu s�ch viết năm Kanbun thứ 13 (1673) v� được in ra v�o năm Enp� thứ 2 (1674). Nội dung của n� rập theo Thập Ngưu Đồ của Phổ Minh nhưng đổi 10 bức tranh tr�u th�nh tranh ngựa, c� thơ Thất sắc (Bảy m�u) của Shunryuu k�m b�i họa vận của một người t�n Kankei (H�n Kh�). N� c� mục đ�ch dạy c�ch tu th�n cho người theo đạo Nho. Cũng như Ushikaigusa n�i đến b�n tr�n, t�nh c�ch s�ch �học l�m người� của n� rất r� n�t. Nếu nh�n ở mức độ một độc giả th�ng thường muốn tu dưỡng t�nh t�nh th� t�c phẩm của Phổ Minh tiện lợi hơn Khuếch Am. C� người đ� đem n� kết hợp với Ushikaigusa th�nh một loại s�ch kh�c, c� thể v� họ chủ trương phục vụ cho khuynh hướng thưởng thức, mua vui n�n kh�ng thấy nhu cầu b�m chặt nội dung đ� c�.

Như ta đ� biết, ở Triều Ti�n, người ta cũng đ� c� nhiều bản khắc Thập Ngưyu Đồ của Phổ Minh. Chắc chắn l� n� đ� c� cơ hội truyền qua đất Nhật thế nhưng hiện nay chưa c� tư liệu n�o cho ph�p ta đi xa hơn sự phỏng đo�n đ�.

 

Văn bản Thập Ngưu Đồ của Khuếch Am:

Ch�ng ta kh�ng c� c�ch n�o thấy được Thập Ngưu Đồ, ấn bản đời Tống, của Khuếch Am trước mắt nhưng ấn bản Gozan (Ngũ Sơn) th� đ� được in đi khắc lại rất nhiều trong chốn thiền l�m. Kawase Kazuma (Xuy�n Lại, Nhất M�) trong t�c phẩm Nghi�n cứu văn học Gozan (1940) của m�nh đ� cho biết theo chỗ hiểu biết của �ng, từ cuối đời Kamakura (khoảng 1333) cho đến ni�n hiệu �ei (1394-1428), c� �t nhất 8 bản Thập Ngưu Đồ như thế. Tất cả đều l� bản tr�ng san (rập khu�n bản cũ) của bản đời Tống v� như l� một bộ phận của Thiền T�ng Tứ Bộ Lục hay Ngũ Vị Thiền五味禅. Kh�ng c� một Thập Ngưu Đồ n�o l� in ri�ng lẻ v� điều n�y đ�ng cho ta ch� �.

Bản Khuếch Am cổ nhất ở Nhật hiện được bảo t�ng tại văn khố Matsumoto thuộc khoa nh�n văn Đại học Ky�to. Bản n�y cũng lại l� một bộ phận của Thiền T�ng Tứ Bộ Lục v� l� bản xưa nhất c�n giữ được vừa c� c�c b�i tụng của Khuếch Am lẫn họa tụng của Thạch Cổ Hi Di (m� th�i). Tuy kh�ng c� ghi r� ni�n đại ấn h�nh nhưng nội dung v� c�c bức họa của n� � giống như bản ni�n hiệu Sh�chuu (Ch�nh Trung, 1324-1326) hiện bảo tồn ở Đại học Tenri � thấy như phảng phất kh�ng kh� v� h�nh ảnh của đời Tống. N�i chung, c�c bản Thập Ngưu Đồ đều nằm trong Thiền T�ng Tứ Bộ Lục hay Ngũ Vị Thiền, thế nhưng trong bản Ngũ Sơn, c�i t�n Thập Ngưu Đồ l� do người t�ng trữ n� viết th�m v�o chứ văn bản đ� nhập v�o nội dung của T�n T�m Minh. C�n như trong Thiền T�ng Tứ Bộ Lục của văn khố Matsumoto (Ky�to) th� lại k�m th�m một t�c phẩm thứ 5 gọi l� Nhập Ch�ng Nhật Dụng. Thế nhưng bộ phận n�y chắc chỉ được th�m v�o sau n�y so với Thập Ngưu Đồ.

Sau đ�y, xin n�i qua về bản Thập Ngưu Đồ ở Đại học Tenri. Bản n�y do học giả Kawase Kazuma ph�t hiện. Đ� được in năm Sh�chuu (Trung Ch�nh) thứ 2 (1325) v� ti�u biểu cho c�c cổ bản của Gozan.Tất cả, nếu t�nh th�m Nhập Ch�ng Nhật Dụng nữa th� th�nh Ngũ Vị Thiền. Bản Thập Ngưu Đồ n�y vừa c� họa tụng của Thạch Cổ Hi Di lẫn Hoại Nạp Đại Li�n n�n xem như đ� ra đời sau bản Matsumoto (Ky�to) vốn chỉ c� thơ họa của Thạch Cổ.

Phi�n bản Gozan của Thập Ngưu Đồ ngo�i 2 c�i vừa kể c�n c� nhiều �bản tốt� (thiện bản = zenbon, bản c� nội dung v� hiệu đ�nh đ�ng tin cậy) v� dụ của T�y� Bunko (Đ�ng Dương văn khố), của Thư viện Đại học Waseda, của Cung Nội Sảnh (Ho�ng cung), của Văn khố Seikid� (Th�nh Cơ Đường)�Nếu xem hết tất cả c�c t�c phẩm n�y, ta thấy h�y c�n nhiều vấn đề văn bản cần giải quyết nhưng chung qui, nội dung của Khuếch Am Thập Ngưu Đồ c� thể nh�n thấy kh� r� qua hai bản Tenri v� Matsumoto n�i tr�n. Ngo�i ra, một b�i ngo�i hệ thống Gozan m� ch�ng ta cần ch� � l� Lương Sơn Khuếch Am Tắc H�a Thượng Thập Ngưu Tụng thu thập lại trong Thiền T�ng Chư Tổ Sư Kệ Tụng quyển hạ chi hạ. Như đ� tr�nh b�y, t�c phẩm n�y chỉ được cấu th�nh bởi mười b�i tựa cho mười chương c� mười b�i tụng của Khuếch Am m� th�i, chứ tranh ảnh, tựa tổng qu�t của Từ Viễn cũng họa tụng của Thạch Cổ Hi Di lẫn Hoại Nạp Đại Li�n đều kh�ng thấy trong đ�. Nguồn gốc của Thiền M�n Chư Tổ Sư Kệ Tụng cũng rất phức tạp, c� bằng chứng cho thấy n� đ� được cải bi�n v� tăng bổ nhiều lần, c�n ri�ng về Thập Ngưu Đồ m� ch�ng ta đang nghi�n cứu th� đ�ng như nhan đề Lương Sơn Khuếch Am Tắc H�a Thượng Thập Ngưu Tụng n�n nếu kh�ng thấy đ�nh k�m văn chương của Từ Viễn hay Thạch Cổ th� cũng kh�ng c� g� đ�ng l�m lạ. Khi Thiền T�m Chư Tổ Sư Kệ Tụng thu lượm n� v�o b�n trong, c� lẽ đ� lược bỏ những phần n�i tr�n cũng kh�ng chừng. Điều r� r�ng nhất l� họ đ� cắt đi mất bộ tranh.

Ch�ng ta cần thận trọng trong việc quả quyết Thập Ngưu Đồ n�y như bản tối cổ c�n giữ lại được. Thế nhưng những g� thu thập lại được trong bản n�y kh�ng hiểu sao vẫn c� vẻ xưa hơn Thập Ngưu Đồ bản Gozan. Trước ti�n đề t�i của nhiều chương trong 10 chương như chương 6 (Kỵ ngưu), chương 7 (Vong ngưu) v� 8 (Nh�n ngưu bất kiến) đều c� chỗ kh�c với bản Gozan v� gần gũi với bản Juugyuuketsu (Thập Ngưu Quyết) của Chigotsu Daie (Si Ngột Đại Huệ). Ri�ng bản của Đại học Tenri th� chương 6 ch�p l� Đệ lục kỵ ngưu qui gia, chương 7 l� Đệ thất đ�o gia v� chương 8 l� Đệ b�t Nh�n ngưu c�u vong, chỉ kh�c với n� ở Đệ thất (Vong ngưu / Đ�o gia). Thế nhưng trong Thập Ngưu Quyết th� t�n của chương 7 l� Đ�o gia vong ngưu thất như thể kết hợp hai tựa đề thấy ở Thiền M�n Chư Tổ Sư Kệ Tụng v� bản Tenri th�nh một. Như đ� từng tr�nh b�y., tựa đề chương 8 của bản n�y cũng l� Nh�n ngưu bất kiến, tr�ng hợp với lời ph�t biểu của Từ Viễn trong lời tựa.      

Ngo�i ra, th�ng qua sự so s�nh những điểm dị đồng về văn tự của văn bản th� ch�ng ta thấy Thiền M�n Chư Tổ Sư kệ tụng đ� truyền lại được Thập Ngưu Đồ trong h�nh thức cổ xưa của n�. Th�nh quả của sự đối chiếu n�y đ� được ghi lại b�n trong phần giải th�ch từ ngữ cho n�n kh�ng cần khảo chứng th�m một lần ở đ�y nữa. Sử dụng văn bản n�y như nguy�n h�nh rồi cho v�o đấy lời tựa tổng qu�t của Từ Viễn, thứ đến ch�p th�m những b�i họa tụng của Thạch Cổ Hi Di v� Hoại Nạp Đại Li�n, tất cả qu� tr�nh n�y rốt cuộc thấy như một chuyện kh� tự nhi�n. Lại nữa, trong Thiền M�n Chư Tổ Sư Kệ Tụng, người bi�n soạn đ� đặt b�n cạnh Lương Sơn Khuếch Am Tắc H�a Thượng Thập Ngưu Tụng n�i tr�n Tự Đắc Huy H�a Thượng Lục Ngưu Đồ. Trường hợp của Khuếch Am, t�n t�c phẩm ch�p l� Thập Ngưu Tụng, c�n Tự Đắc l� Lục Ngưu Đồ. Thật l� một điều kh� hiểu! Tuy vậy, nếu Lục Ngưu Đồ của Tự Đắc được thu thập v� cho v�o đ�y th� hẳn l� n� kh�ng c� t�c dụng n�o kh�c ngo�i việc gi�p ch�ng ta củng cố sự tin tưởng của m�nh v�o văn bản của Thập Ngưu Tụng. Trước đ�y đ� th�ng tin l� Thiền M�n Chư Tổ Sư Kệ Tụng đ� được truyền đến Nhật kh� sớm, trong thư mục  của Văn khố Kanazawa[10] từng thấy t�n. Ng�y nay bản Kanazawa của s�ch n�y kh�ng c�n thấy nhưng c� lẽ v�o thời đ�, người bi�n soạn tập Thập Ngưu Quyết phải biết đến n�.

Về truyện k� của Thạch Cổ Hi Di v� Hoại Nạp Đại Li�n đều c� ch�p trong Tăng Tập Tục Truyền Đăng Lục. quyển 1 v� 2. Cũng như trường hợp của Khuếch Am, hầu như kh�ng c� chi tiết ch�nh x�c n�o về họ. Chỉ được c�i l� to�n thể c�c b�i họa tụng của Thạch Cổ đều được tr�nh b�y ở đ�y v� ph�p hệ của �ng được liệt k� r� r�ng. Ri�ng về họa tụng của Hoại Nạp Đại Li�n, chỉ thấy trong bản Gozan. H�nh như họ đều l� những nh�n vật chỉ được biết đến nhờ ở Thập Ngưu Đồ!

Sau c�ng, tiện đ�y xin liệt k� v�i bản Thập Ngưu Đồ đ� được dịch ra ngoại ngữ. Ch�ng đều đến từ văn bản thuộc hệ Khuếch Am:

1) D.T.Suzuki, The Ten Oxherding Pictures, Manual of Zen Buddhism.

2) D.T. Suzuki, The Ten Cow-herding Pictures, Essays in Zen Buddhism, First Series, 1949, New York.

3) Nyogen Senzaki and Paul Reps, 10 Bulls, Zen Flesh, Zen Bones, A Collection of Zen and Pre-Zen Writings (1957, Rutland, Vermont and Tokyo).

4) Meister Daizokhustu R. Ohtsu und Koichi Tsujimura, Der Ochs und sein Hirte, 1958, Pfullingen.

Những tư liệu n�y c� mục đ�ch tr�nh b�y rằng lối suy nghĩ trong Thập Ngưu Đồ v� những mối quan t�m của triết học T�y Phương cận đại c� nhiều điểm chung, cũng như l�m s�ng tỏ những điểm tranh luận tiềm ẩn b�n trong. Đặc biệt khi t�i cộng t�c với l�o sư Kajitani S�nin ch�a Tướng Quốc (Sh�kokuji ở Ky�to) viết quyển Thập Ngưu Đồ trong bộ Thiền Ngữ Lục, c� cậy t�c giả Tsujimura (xem 4) đặc biệt viết một phần giới thiệu về Thập Ngưu Đồ. Ngo�i những s�ch vở đề cập b�n tr�n, c�n c� b�i viết của l�o sư Shibayama Zenkei về Lục Ngưu Đồ của Tự Đắc Huy H�a Thượng (xem Zenkei Shibayama, The Six Oxherding Pictures, Colgate University, 1965). Đ�y cũng l� một t�c phẩm viết theo lối tiếp cận triết học đ�ng ch� �.  

 

             (Xin chờ đợi Phần II trong một số sau)


 

[1] B�i kệ tụng gồm 584 chữ. C� c�u: �Ch� đạo v� nan, tuy hiềm gi�n trạch� xem sự ph�n biệt, chọn lựa l� trở ngại lớn tr�n đường t�m đến được đạo (theo TĐPH nh�m Đạo Uyển).

[2] B�i ca về sự tiếp nhận trực tiếp ch�n l�. Trong b�i kệ đầu đ� c� c�u: V� minh thực t�nh tức Phật t�nh. Huyễn h�a kh�ng th�n tức ph�p th�n. Nhấn mạnh tư tưởng �Bản lai v� nhất vật�. (theo TĐPH nh�m Đạo Uyển)

[3] Huyền Sa cũng c� nhiều học tr� giỏi như La H�n Quế S�m v� đồ t�n nổi tiếng như Ph�p Nh�n Văn �ch nhưng dường như v� họ kh�ng li�n quan đến Thập Ngưu Đồ n�n t�c giả Yanagida Seizan ngừng lại ở đ�y kh�ng ch� th�ch tiếp.

[4] Di t�ch của nền văn minh Indus ở ph�a nam Pakistan, ở hữu ngạn hạ lưu s�ng Indus. Dấu vết của đ� thị c� 6 � 7 tầng, phồn vinh v�o thời điểm khoảng 1800 đến 2300 năm trước c�ng nguy�n.

[5] Tr�i với điều ta c� thể tưởng tượng, tượng Phật chỉ c� sau 5, 6 thế kỷ ở v�ng Trung � (như v�ng Kiện Đ� La tức Gandhara, t�y bắc Pakistan b�y giờ) từ khi Đức Th�ch Ca nhập diệt v� khuynh hướng h�y kỵ thờ thần tượng (iconolast) phổ biến trong v�ng v� bản th�n Đức Phật kh�ng phải l� một vị thần. Phật gi�o l�c đầu chỉ được thể hiện qua h�nh ảnh c� t�ng tượng trưng (symbols) như ph�p lu�n, Phật t�c t�ch (dấu ch�n Phật) hay cội bồ đề rồi mới đến c�c ph� đi�u về cuộc đời đức Phật.

[6] Thời đại mộ cổ (Kofun Jidai) của Nhật được qui định l� khoảng thời gian từ cuối thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 7. Kofun l� những ng�i mộ ho�nh tr�ng h�nh tr�n hoặc vu�ng hoặc trước tr�n sau vu�ng, ch�n c�c vua ch�a hay h�o tộc đương thời. Tập trung ở v�ng Kinki (nay l� Ky�to-�saka). Thời n�y người Nhật đ� c� những tiếp x�c với lục địa.

[7] Tấm k�nh Yata no kagami l� 1 trong 3 b�u vật truyền quốc (sanshu no jingi) của người Nhật.

[8] Long Thọ (Thụ) một trong những luận sư vĩ đại nhất của Phật gi�o. �m tiếng Phạn l� N�g�rjuna (Na-gi�-�t-thụ-na). Sống v�o thế kỷ thứ 1-2 v� l� người lập ra Trung Qu�n t�ng, c� c�ng hệ thống h�a c�c tư tưởng trong kinh B�t-nh�-ba-la-mật-đa v� đ�o s�u n�. Ngo�i ra cũng c� một Long Thọ thứ hai, triết gia v� nh� giả kim (alchemist), nhưng thường được đồng h�a với Long Thọ trước. (theo TĐPH nh�m Đạo Uyển).

[9] Người dịch cố gắng trung th�nh với nguy�n t�c nhưng th� thực kh�ng nắm trọn � nghĩa huyền vi của đoạn văn n�y. Tuy nhi�n v� kh�m ph� về Thuận Chi c� t�nh c�ch lịch sử qu� quan trọng n�n xin ph�p dịch tất cả đoạn.

[10] T�n Nhật l� Kanazawa Bunko, do H�j� Sanetoki lập trong khu�n vi�n Sh�my�ji (Xứng Danh Tự) khu Kanazawa ở Yokohama (xin đừng lầm với th�nh phố Kanazawa ở tỉnh Ishikawa) v�o giữa thời Kamakura (thế kỷ 13) thu thập c�c tư liệu H�a H�n quan trọng cho việc gi�o dục.