Chim Việt Cành Nam [ Trở Về ] [ Trang Chủ ]
LỊCH SỬ THIỀN TÔNG NHẬT BẢN Biên dịch: Nguyễn Nam Trân Chương 2 : Giai đoạn Thiền nhà Tống xác định được vị trí ở Nhật
(thời Kamakura)
Tiết 1- Thiền nhà Tống đặt bàn đạp lên Nhật
(giai đoạn nửa trước thời Kamakura)Thời của samurai. Tân Phật giáo ra đời
Sự bất mãn của tầng lớp quí tộc và giới lãnh đạo các chùa chiền thần xã đối với sự thống trị của tập đoàn Taira càng ngày càng lớn, cuối cùng đã dẫn tới cuộc sống mái giữa hai họ Minamoto (Genji) và Taira (Heiji). Sự tranh chấp giữa hai bên chấm dứt khi họ Minamoto dứt tuyệt họ Taira và thắng cuộc. Minamoto no Yoritomo (Nguyên Lại Triều, 1147-99) được phong chức Chinh Di Đại Tướng Quân (tại chức 1192-99), nói gọn là shôgun. Ông khai sáng ra chính quyền quân sự (tức Bakufu) ở Kamakura, mở màn cho thời đại Kamakura (1192-1333).
Yoritomo đặt các chức shugo (thủ hộ) và jitô (địa đầu) coi về trị an và quản lý hành chính ở các địa phương cũng như phụ trách thu thuế. Sau khi ông mất, con là Yoriie (Lại Gia, tại chức 1202-03) lên thay nhưng để giảm bớt sự chuyên chế của ông, các cận thần có thế lực tổ chức một hội đồng chấp chính nhằm cai trị tập thể. Những người giữ vị trí chủ yếu trong đó đều thuộc họ Hôjô, gia đình mẹ ruột của Yoriie là Hôjô Masako (1157-1225). Hôjô Tokimasa (1138-1215, giữ chức shikken 1203-05), cha của bà, lần lượt thanh toán các đối thủ rồi đến năm 1204, giết cả cháu ngoại là Yoriie để cùng với con gái nắm trọn thực quyền.
Địa vị shikken (chấp quyền) của ông truyền cho Yoshitoki (tại chức 1205-24). Năm 1219, nhân shôgun đời thứ 3 là Sanetomo (Thực Triều, tại chức 1203-19) bị con trai Yoriie là Kugyô (1200-19) ám sát, Yoshitoki bèn mời người trong quí tộc Fujiwara về làm shôgun với mục đích duy trì sự tồn tại của mạc phủ. Những nhân vật này gọi là sekke shôgun (nhiếp gia tướng quân). Trước việc đó cựu hoàng Go Toba (Hậu Điểu Vũ, thứ 82, trị vì 1183-1198) mới âm mưu đảo chính để trung hưng tôn thất. Sử gọi đó là Jôkyuu no ran (cuộc loạn năm Thừa Cửu, 1221). Sau khi trấn áp xong, mạc phủ cho đặt cả các chức shugo và jitô ở vùng quanh kinh thành cũng như miền Tây và như thế, mạng lưới cai trị đã trùm lên khắp nước. Về sau, chức shikken là Hôjô Yasutoki (tại chức 1224-1242) đặt ra Go seibai shikimoku (Ngự thành bại thức mục), văn bản luật pháp cơ sở gồm 51 điều nhằm kiểm soát hành động của giới samurai. Pháp điển này còn truyền mãi đến đời Edo. Với nó, "chính trị chấp quyền" đã thành hình. Thế rồi, đến đời shikken Tokiyori (tại chức 1246-56), họ Hôjô dứt được kẻ đối đầu là họ Miura, và thành công trong việc thay đổi sekke shôgun (tướng quân "mượn" từ người thuộc gia đình Fujiwara) thành shinnô shôgun (tức thân vương tướng quân nghĩa là shôgun "mượn" từ người trong hoàng tộc).
Vào thời này, giới võ sĩ nắm hết quyền lực trên danh nghĩa cũng như thực chất cho nên văn hóa cũng đáp ứng theo tình thế mà thay đổi để có một khuôn mặt mới. Ví dụ như thơ waka, như thể muốn đánh dấu sự suy vi của xã hội quí tộc, có khuynh hướng duy mỹ và tượng trưng nhiều hơn.Những nhà biên tập và thi nhân lỗi lạc mang lý tưởng đi tìm cái đẹp sâu lắng và u tịch như hai cha con họ Fujiwara, tức Shunzei (1114-1204) và Teika (1162-1241), đã xuất hiện. Tuyển tập mới về thơ waka xưa nay" (Shin Kokin Waka-shuu = Tân Cổ Kim Hòa Ca Tập, 1205) là tuyển tập thơ tiêu biểu ca phong của thời đại ấy. Lại nữa, đó cũng là một thời đại mà chiến tranh xảy ra liên tiếp cho nên giới trí thức đâm ra bi quan yếm thế. Thái độ muốn lánh đời của nhà ẩn sĩ Kamo no Chômei (Áp, Trường Minh, 1155?-1216), người viết tập tùy bút "Cảm Nghĩ Trong Am " hay Hôjôki (Phương Trượng Ký, 1212) là một thí dụ cụ thể.
Mặt khác, thể loại gunki (quân ký) tức ký sự chiến tranh thuật lại sinh hoạt và chiến đấu của từng lớp võ sĩ tân hưng cũng bắt đầu xuất hiện. Đại diện cho thể loại này là Truyện họ Heike (Heike Monogatari = Bình Gia Vật Ngữ ) của tác giả khuyết danh, có lẽ là một nhà sư. Lại nữa, trong việc trùng tu chùa Tôdaiji bị chính tập đoàn Heike đốt phá, đã có bàn tay tài hoa của nhà điêu khắc Unkei (Vận Khánh, ? -1223) [1] và những người thuộc trường phái tên Kei-ha của ông (Khánh phái) [2] . Trong những bức họa truyền thần (gọi là tự hội = nise.e; tự = giống) của thời kỳ này, người ta nhận thấy có một phong cách tả chân chưa hề có từ trước đến giờ.
Thời đại mới cũng đem lại sinh khí mới cho hoạt động của giới trí thức. Nhờ các tăng sĩ như Hônen (Pháp Nhiên, 1133-1212) và Eisai (còn đọc là Yôsai, Vinh Tây, 1141-1215), Shinran (Thân Loan, 1173-1262), Dôgen (Đạo Nguyên, 1200-1253), Nichiren (Nhật Liên, 1222-1282) mà một tân Phật Giáo thành hình. Như để phản ứng lại tư trào đó, từ phía cựu Phật Giáo cũng thấy xuất hiện những nhà hoạt động như Jôkei (Trinh Khánh, thuộc tông Pháp Tướng, 1155-1213), Kôben (Cao Biện tức Minh Huệ Thượng Nhân, tông Hoa Nghiêm, 1173-1232), Eison (Duệ Tôn, thuộc Luật Tông, 1201-1290).
Tuy vào thời này, bang giao với Trung Quốc chưa khôi phục được như cũ nhưng các hoạt động mậu dịch với Nam Tống (1127-1279) vẫn được duy trì. Tiền bạc nhà Tống do đó vẫn tràn ngập và nền kinh tế hóa tệ phát triển mạnh. Tăng lữ hãy thường xuyên lui tới. Hai cao tăng Eisai và Dôgen nhờ đó lại một lần nữa có cơ hội chuyển về Nhật Bản tư tưởng của Thiền Tông Trung Quốc, lúc đó đang ở trong giai đoạn sung mãn và hưng thịnh nhất.
Hai cao tăng Eisai (Vinh Tây) và Nô.nin (Năng Nhẫn)
Những người sớm biết lập chùa để có cơ sở bố giáo cũng như đào tạo học trò tiếp tục sự nghiệp của mình, để lại ảnh hưởng lớn đến xã hội thời đó là hai thiền tăng: Myôan Eisai (còn được đọc là Yôsai, Minh Am Vinh Tây, 1141-1215) và Dainichi Nô.nin (Đại Nhật Năng Nhẫn, năm sinh năm mất không rõ).
Trong cuộc đời của Eisai, hai lần ông đã đến Trung Quốc. Trong lần thứ hai, ông đã nhận được pháp của cao tăng tông Lâm Tế phái Hoàng Long là Hư Am Hoài Sưởng (năm sinh năm mất không rõ) rồi về nước (1191). Sau đó, ông bị các tăng lữ trên núi Hieizan hãm hại vì cho là đề xướng tà thuyết nhưng nhờ thế lực của Hôjô Masako và Minamoto no Yoriie (mẹ con Shôgun đời thứ hai của mạc phủ Kamakura), hai người này đã qui y với ông, nên ông đã mở được chùa Jufuji (Thọ Phúc Tự) ở Kamakura (vào năm 1200) và Kenninji (Kiến Nhân Tự) ở Kyôto (1202) sau đó ra sức truyền bá Thiền Tông. Môn hạ ông có những người ưu tú như Myôzen (Minh Toàn, 1184-1225), Taikô Gyôyuu (Thoái Canh Hành Dũng, ? - 1241), Eichô (Vinh Triều, ? - 1247) (họ lập được môn phái gọi là Thiên Quang Phái). Từ cửa các cao đồ ấy đã đào tạo được Dôgen (Đạo Nguyên), Shinchi Kakushin (Tâm Địa Giác Tâm, tức Hotto Kokushi = Pháp Đăng Quốc Sư, 1207-1298, từng theo học Eichô), Tôfuku Enni (Đông Phúc Viên Nhĩ, còn gọi là Shôichi Kokushi = Thánh Nhất Quốc Sư, 1202-80). Như ai cũng biết là ba ông Dôgen, Kakushin, Enni đều nhập Tống và truyền Thiền về Nhật, mở ra được môn phái riêng.
Myôan Eisai (Minh Am, Vinh Tây, 1141-1215), ông tổ của trà đạo?
Thiền sư Myôan Eisai (Minh Am Vinh Tây)
Ông người đất Bichuu (nay là Okayama), năm 11 tuổi vào tu ở chùa Anyôji (An Dưỡng Tự) nơi quê nhà. Đến năm 13 tuổi, lên núi Hieizan theo phái Tendai rồi đến núi Ôyama ở Tottori học Mật Giáo. Năm 1168 vào đất Tống lần thứ nhất, đi hết các núi Thiên Thai và A Dục Vương tham học, đem về nhiều sách vở chú thích của phái Thiên Thai. Năm 1187, lại vào đất Tống với mục đích sang Ấn Độ chiêm bái các di tích của Phật tổ nhưng mộng không thành đành lên chùa Vạn Niên núi Thiên Thai học đạo với Hư Am Hoài Sưởng. Ông được Hoài Sưởng truyền pháp tự phái Hoàng Long tông Lâm Tế. Về nước năm 1191, ông đi bố giáo trên đảo Kyuushuu. Thế nhưng chùa Hieizan đã thành công trong việc vận động để chính quyền cấm ông truyền bá Thiền Tông. Do đó, năm 1194, ông phải lên Kyôto phân giải. Về sau ông qua miền Đông, đóng vai trò chủ trì ngày giỗ lần thứ nhất của Shôgun Yoritomo. Với tư cách là tăng lữ Mật Giáo, ông đã qui y người của mạc phủ, trong đó có vợ con Yoritomo. Năm 1200, ông khai sơn chùa Jufuku,năm 1202 lại dựng được chùa Kennin. Chùa này được xem như một biệt viện của Hieizan. Ở đó ông phối hợp 3 lối tu (kiêm tu) của Thiên Thai, Mật Giáo và Thiền. Năm 1206, thái thượng hoàng Go Toba bổ nhiệm ông việc xây cất chùa Tôdaiji (Đông Đại Tự). Ông tận lực xây dựng chùa này. Sang đến năm 1213, ông được bổ chức Gon Sôjô (Quyền Tăng Chính), một giáo phẩm cao thứ hai. Ông mất năm 1215, thọ 75 tuổi. Còn để lại các trứ tác như Kôzen Gokokuron (Hưng Thiền Hộ Quốc Luận, 1198), Nihon Buppô Chuukô Ganbun (Nhật Bản Phật Pháp Trung Hưng Nguyện Văn, 1204), Kissa Yôjôki (Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký, 1211) (hai quyển Kozen Gokokuron và Nippon Buppô Chuukô Ganbun bị nghi là sách giả). Ông được biết là một người tinh thông về Mật Giáo, về sau đã mở một môn phái gọi là Yôjôryuu (Diệp Thượng Lưu). Lại nữa, vì có công giới thiệu trà cho người Nhật nên thường được tôn vinh là "ông tổ của trà đạo" (trà tổ=chaso).
Riêng về Nônin thì ông là người "vô sư độc ngộ" nghĩa là tự học mà hiểu được lẽ đạo. Ông nỗ lực truyền giáo ở chùa Sanbôji (Tam Bảo Tự) vùng Settsu (thuộc Ôsaka). Tông phái tên là Đạt Ma Tông. Chính vì bị người đời chê là không học thầy nào, ông mới gửi đệ tử sang nhà Tống cầu đạo. Qua trao đổi thư tín, ông được Chuyết Am Đức Quang (1121-1203) nhìn nhận và truyền pháp tự. Tương truyền Nônin là người có sức cảm hóa rất lớn.Hai cha con thi hào Fujiwara no Shunzei và Teika đều muốn nhắm tới những lý tưởng thi ca có phong vị Thiền Tông như yuugen (u huyền) là vì chịu ảnh hưởng của tông phái ông. Thơ của hai người bị chê là tối nghĩa, gọi là "thơ ca kiểu Đạt Ma (Đạt Ma Ca) cũng vì lẽ ấy. Thế nhưng sau khi Nônin đột ngột qua đời, đa số môn đệ của ông chuyển qua học với Dôgen, sự kiện này sẽ là một nhân tố quan trọng trong việc hình thành Sôtô-shuu (Tào Động Tông) do Dôgen đứng đầu.
Đạt Ma Tông
Tông này là một phái Thiền do Dainichi Nô.nin xây dựng nên. Chính ra lúc đầu, Nônin theo học phái Tendai (Thiên Thai) nhưng nhờ đọc các kinh sách từ xưa đã truyền đến Nhật Bản mà một mình ngộ đạo. Ông trụ trì ở Sanbôji (Tam Bảo Tự) trong vùng Settsu (nay là một khu trong thành phố Ôsaka) và bắt đầu truyền bá giáo lý nhưng các môn đồ của chùa Hieizan (phái Tendai) dâng biểu tâu lên xin cấm ông giảng dạy. Sau đó ông bị tai nạn qua đời, đệ tử là Tôzan Kakuan (Đông Sơn Giác Án, năm sinh năm mất không rõ) mới thừa kế tông môn. Tôzan cùng đám môn đệ của tông này như Ejô (Hoài Trang, 1198-1280) lấy ngọn núi Tô no Mine (Đa Vũ Phong) vùng Yamato (thuộc Nara) làm cứ điểm tiếp tục hoạt động. Thế nhưng chùa của họ bị nhóm tăng nhân của Kôkuji (Hưng Phúc Tự, tông Pháp Tướng) đốt phá nên phải bỏ chạy về vùng Echizen (tỉnh Fukui bây giờ). Họ mới lấy Hajaji (Ba Trước Tự), một cứ điểm của giáo đoàn Tendai chi phái Hakuzan, làm chỗ dung thân. Sau khi Tôzan Kakuan mất (1241), các đệ tử trong nhóm như Ekan (Hoài Giám, ? -1251), Giin (Nghĩa Doãn, 1217-1300), Gien (Nghĩa Diễn, ? -1314) mới đi theo Dôgen (Đạo Nguyên) lúc ấy hoạt động ở Kôjôji (Hưng Thánh Tự) vùng Fukakusa gần Kyôto (Về phần Ejô (Hoài Trang) thì ông đã nhập bọn với các đệ tử của Dôgen từ năm 1234 rồi). Kể từ đấy, Đạt Ma Tông hầu như biến mất. Tuy vậy, cuối thời trung cổ đến mãi gần đây, hãy còn chứng cứ rằng ở chùa Sanbôji vẫn còn một chi lưu giữ gìn được truyền thống Đạt Ma Tông. Họ xem mình mới là dòng chính và môn phái của Tôzan Kakuan chỉ là bàng hệ.
Thiền của Eisai là lối tu ghép 3 thứ (tam tông kiêm tu: Thiên Thai & Mật Giáo & Thiền). Ông dùng chùa Kennin - một biệt viện của Hieizan - làm đạo trường (từ lúc đầu đã có Chỉ Quán Viện và Chân Ngôn Viện) cho nên không thể nói là ông hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của cựu Phật Giáo. Rõ ràng lý do của việc "tu ghép" đó là ông ngại sự chống đối của thế lực truyền thống, chủ yếu đến từ các chùa trên ngọn Hieizan. Mặt khác, bản thân ông vốn mang tư tưởng Mật Giáo, có kiến thức sâu sắc về nó, lại liên hệ gần gũi với giáo phái ấy. Do đó ta có thể suy ra rằng ông đã truyền bá Thiền Tông trong khuôn khổ lý luận "tứ chủng tương thừa" của phái Tendai (Thiên Thai Nhật Bản). Lối suy nghĩ dung hợp ấy ông sau sẽ được tiếp nối bởi hai đệ tử là Gyôyuu (Hành Dũng) và Eichô (Vinh Triều) cũng như môn hạ của họ là Kakushin (Giác Tâm) và Enni (Viên Nhĩ).
Sự phát triển của Thiền theo lối "tu ghép" (kiêm tu)
Về phần tăng Kakushin, ông nhập Tống vào năm 1249, nhận pháp tự của Vô Môn Huệ Khai (1183-1260), khi về nước, khai sơn chùa Saihôji (Tây Phương Tự, sau đổi tên thành Kôkokuji = Hưng Quốc Tự). Ông định cư ở vùng Yura (tức Kii nay thuộc tỉnh Wakayama) và ra sức truyền đạo, đào tạo được nhiều nhân tài (phái Hottô = Pháp Đăng) trong đó có Kohô Kakumyô (Cô Phong Giác Minh, 1271-1361).
Enni thì khi ở Tống nhận pháp tự của Vô Chuẩn Sư Phạm (1177-1249). Về nước, được đại thần Kujô Michiie [3] qui y và mời khai sơn chùa Tôfuku (Đông Phúc Tự, đại bản sơn của tông Lâm Tế phái Đông Phúc). Michiie rất kính trọng Enni cho nên cấm tất cả những người nào không thuộc pháp hệ Shôichi-ha (Thánh Nhất phái) của ông được phép trụ trì ở đấy. Do đó chùa Tôfuku trở thành chùa của riêng một phái Shôichi, như là một "nhất lưu tương thừa sát" (hay Tsuchien = Đồ đệ viện).
Enni tự mình mang giáo lý trong Phật Pháp Đại Minh Lục giảng thuyết "tam giáo nhất trí" cho Hôjô Tokiyori (Bắc Điều Thì Lại, 1227-1268) [4] . Ông lại dùng Tông Kính Lục để trình bày tư tưởng "Giáo Thiền nhất trí" cho Thiên hoàng Go-Saga (Hậu Tha Nga, thứ 88, trị vì 1242-46). Nghe nói ông còn tự mình trước tác Dainichikyô Kenbun (Đại Nhật Kinh Kiến Văn), một quyển sách có liên quan đến Mật Giáo. Tư tưởng muốn dung hợp các giáo lý khác nhau của Enni đã được người đương thời chấp nhận một cách rộng rãi. Ông đã dạy dỗ được nhiều nhân tài như Tôzan Tanshô (Đông Sơn Đam Chiếu, 1231-91), Mukan Fumon (Vô Quan Phổ Môn, 1212-91), Hakuun Egyô (Bạch Vân Huệ Hiểu, 1228-1297), Chigotsu Daie (Si Ngột Đại Huệ, tức Phật Thông Thiền Sư, 1229-1312)...Họ đều là những nhà truyền bá Thiền Tông có tiếng, riêng Chigotsu Daie đã khai sơn Anyôji (An Dưỡng Tự) và Daifukuji (Đại Phúc Tự), đưa Thiền tiến về vùng Ise (tỉnh Mie ngày nay).
Kakushin (Giác Tâm) và Enni (Viên Nhĩ)
Thiền sư Shinchi Kakushin (Tâm Địa Giác Tâm) quê vùng Shinano (tỉnh Nagano bây giờ), tên thế tục là Tsuneuji (Hằng Thị), hiệu Muhon (Vô Bản). Năm 29 tuổi mới xuất gia thụ giới, học Mật Giáo trên núi Kôyasan. Thờ Taikô Gyôyuu (Thái Canh Hành Dũng) lúc đó ở Kim Cương Tam Muội Viện làm thầy, rồi theo ông đến Jufukuji (Thọ Phúc Tự). Sau khi tham học với Dôgen và Eichô, năm 1249 nhập Tống cầu đạo. Ông nhận pháp tự của Vô Môn Huệ Khai (1183-1260) xong về nước, lại lên núi Kôyasan tu hành. Lúc về, ông có mang theo tác phẩm Vô Môn Quan của Huệ Khai. Năm 1258, ông khai sơn Saihôji (Tây Phương Tự, sau đổi tên thành Kôkokuji = Hưng Quốc Tự), định trú ở vùng Yura xứ Kii và ra sức truyền đạo. Thái thượng hoàng Kameyama (Qui Sơn, thứ 90, sống 1248 -1305, trị vì 1260-74) đến qui y với ông, nghe nói có mời ông đến trụ trì thiền viện mới mở (tức Nanzenji = Nam Thiền Tự về sau) nhưng ông không nhận. Được Thái thượng hoàng Kameyama và Thiên hoàng Go-Daigo (Hậu Đề Hồ, thứ 96, trị vì 1318-1339) ban cho thụy hiệu Pháp Đăng Thiền Sư, Pháp Đăng Viên Minh Quốc Sư. Ông giao lưu rộng rãi với người thuộc tông Sôtô (Tào Động) như Keizan Jôkin (Oánh Sơn Thiệu Cẩn, 1268-1325) nên đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phái này tiếp nhận ảnh hưởng Mật Giáo. Đời sau, nhân biết ông thích thổi nhạc khí làm bằng ống tre gọi là shakuhachi (xích bát), nên tôn làm tổ của Fukeshuu (Phổ Hóa Tông) [5] .
Còn về Tôfuku Enni (Đông Phúc Viên Nhĩ) thì ông người Suruga (vùng Shizuoka bây giờ), tên thế tục là Heiji (Bình Thị).Xuất gia hồi mới lên 5, học phái Tendai, năm 18 tuổi thụ giới ở Tôdaiji (Đông Đại Tự), có đến tham học với Eichô (Vinh Triều) ở Chôrakuji (Trường Lạc Tự) ở Ueno (tỉnh Gunma). Ông qua bên nhà Tống năm 1235, nhận pháp tự của Vô Chuẩn Sư Phạm. Đến năm 1241, về nước, được đại thần Kujô Michiie xin qui y. Năm 1255, đại thần lại mời ông về trụ trì ở Tôfukuji, chùa của dòng họ mình, lúc ấy mới mở. Kể từ đó, chùa này chỉ tiếp nhận những trụ trì xuất thân từ môn phái của ông nghĩa là chùa ấy trở thành "Thánh Nhất Tông Nhất Lưu Tương Thừa Sát" (Đồ Đệ Viện). Chức shikken là Hôjô Tokiyori và Thiên hoàng Go Saga (Hậu Tha Nga, thứ 88, trị vì 1242-46) đều tôn kính ông. Ông còn trụ trì ở các chùa lớn như Jufukuji và Kenninji. Ông để lại những trước tác như Thánh Nhất Quốc Sư Ngữ Lục, Thánh Nhất Quốc Sư Pháp Ngữ vv...Nhân vì ban đầu Tôfukuji là một đạo trường để "kiêm tu" Thiền, Thiên Thai, Chân Ngôn và Luật cho nên ở đấy có thiết lập những Quán Đính Đường và A Di Đà Đường, những điện đường xưa nay hầu như chẳng dính líu đến Thiền Tông. Trong hành lang chùa, không chỉ thấy vẽ hình các thiền tăng mà còn có cả hình ảnh của bát tổ phái Chân Ngôn cũng như Lục Tổ phái Thiên Thai nữa. Tuy nhiên, về sau, chùa này đã hoàn toàn trở thành một thiền tự.
Cần nhắc thêm rằng chỉ sau Eisai (Vinh Tây) ít lâu, có một nhân vật đóng vai trò quan trọng không kém trong việc truyền bá Thiền ở Nhật Bản. Đó là Shunjô (Tuấn Nhưng, 1166-1227). Ông này, sau khi đã theo học Thiên Thai, Chân Ngôn và Luật, đã sang Trung Quốc, tham Thiền ở các chùa trên Đậu Sơn và Kính Sơn. Về nước năm 1211, lúc đầu Shunjô (Tuấn Nhưng) đến tu với Eisai ở Kenninji thế nhưng sau dời ra Sennyuuji (Tuyền Dũng Tự, 1224), mở đạo trường "tứ tông kiêm học" Thiên Thai, Chân Ngôn, Luật và Thiền.
Ngày nay, lối tu này thường được gọi là "kiêm tu Thiền" hay Thiền tu ghép với các giáo lý khác, phân biệt với "thuần Thiền" tức Thiền thuần túy. Thế nhưng, nếu ta để ý rằng ở vùng Kyôto, nơi mà thế lực của các nhà tu núi Hieizan rất mạnh, mãi về sau vẫn còn có những lúc họ bài xích Thiền Tông, mới thấy lối "kiêm tu" đương thời đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nó là phương tiện để có thể du nhập Thiền vào đất Nhật dễ dàng hơn.
Trên thực tế, hai tăng Shinkuu (Chân Không, 1204-68) và Enshô (Viên Chiếu, 1221-1277) của Tam Luận Tông ở Tôdaiji, cũng như tăng Jômyô (Tịnh Minh, năm sinh năm mất không rõ) của Thiên Thai Tông đã đến học Thiền với Tôfuku Enni. Ta cũng có thể thấy ảnh hưởng của tư tưởng Thiền Tông trong các trước tác như Shinjin Yôketsu (Chân Tâm Yếu Quyết) của tăng Ryôhen (Lương Biến, 1194-1252), người có quen biết với Enni, hoặc trong Kankôruijuu (Hán Quang Loại Tụ), sách nghị luận tiêu biểu của "tư tưởng Thiên Thai bản giác" [6] . Ngoài ra, cũng nên chú ý đến một điều là trong hệ tư tưởng tông Kegon (Hoa Nghiêm), lập luận "Giáo Thiền nhất trí" của Khuê Phong Tông Mật (780-841) và Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975) cũng được đem vào. Ví dụ như đệ tử của Kôben (Cao Biện , tức Minh Huệ = Myôe, 1173-1232) là Shôjô (Chứng Định, 1194-1255?) đã viết Zenshuu Kômoku (Thiền Chủng Cương Mục) để cổ xúy rầm rộ cho tư tưởng này. Qua đó, ta có thể hiểu rằng có một khuynh hướng của những người thuộc phái Kegon (Hoa Nghiêm) [7] muốn dung hợp tư tưởng của họ với tư tưởng Thiền Tông (đời Tống) mới đến.
Sau khi "thuần Thiền" tức Thiền thuần túy được du nhập vào, ở các tự viện, màu sắc "kiêm tu Thiền" tức Thiền "tu ghép", "tu song đôi", dần dần phai nhạt đi cho dù không vì thế mà hoàn toàn biến mất.Đặc biệt yếu tố Mật Giáo (thần bí, bùa chú) hãy còn tồn tại mạnh mẻ mãi đến về sau.Một lý do về sự kéo dài của yếu tố Mật Giáo là việc Thiền đời Tống tự nó đã bao hàm tính chất cúng tế cầu đảo để khuông phò xã tắc. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng sự duy trì tính chất ấy giúp ích cho việc phổ biến Thiền trong quần chúng. Điều này được chứng minh qua sự giao lưu mật thiết giữa nhóm Kakushin (tăng Giác Tâm, phái Hottô =Pháp Đăng) và Keizan Jôkin (Oánh Sơn Thiệu Cẩn, 1268-1325) của tông Sôtô (Tào Động).
Sự thành lập Sôtô-shuu (Tào Động Tông Nhật Bản). Vai trò của thiền sư Dôgen (Đạo Nguyên)
Người tiếp nối được hoạt động của Eisai và lần đầu tiên đưa được lối tu "thuần Thiền" đi lên là Dôgen (Đạo Nguyên). Ông từ Tống về nước năm 1227, sau khi nhận pháp tự của Thiên Đồng Như Tịnh (1162-1227). Đến nơi, ông vào tu ở Kenninji, tức khắc soạn tác phẩm Fuken Zazengi (Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi,1228) nói về phương pháp thực hành tọa thiền để minh định ngay lập trường của mình. Thế nhưng bị áp lực của tăng nhân núi Hieizan, ông phải dời về Fukakusa vùng Yamashiro (thuộc Kyôto), và trụ trì ở chùa Kôshôji (Hưng Thánh Tự) mới lập. Trong khoảng thời gian này, nhờ tiếp nhận một số đệ tử cũ của Dainichi Nônin như Ekan (Hoài Giám, ? -1251) và Ejô (Hoài Trang, 1198-1280) nhập môn cho nên giáo đoàn của ông trở nên hưng thịnh. Chùa Kôshôji thiết lập tăng đường và áp dụng đúng nguyên phương pháp tu hành có ở Trung Quốc. Để giúp cho việc đó được qui củ hơn, Dôgen soạn thêm sách Tenza Kyôkun (Điển Tọa Giáo Huấn) và Gakudô Yôjin-shuu (Học Đạo Dụng Tâm Tập).
Tuy vậy, ông chịu sự uy hiếp từ cánh theo "kiêm tu" tức chùa Tôfukuji của Enni, vốn được sự bảo trợ của giới quan liêu quí tộc. Phía chùa trên Hieizan cũng chưa bỏ qua việc khuấy phá, đàn áp. Để tránh hai hiểm họa đó, ông lìa xa trung tâm, dời về địa phương (1243) tức vùng Echizen (tỉnh Fukui) bây giờ. Ông nhận được sự bảo trợ của họ Hatano, vào tu ở chùa Daibutsuji (Đại Phật Tự, 1244) do gia đình ấy mới dựng lên. Daibutsuji sau được đổi tên là Eiheiji (Vĩnh Bình Tự, 1246), ngôi chùa nổi tiếng và là trung tâm bố giáo của tông Tào Động trên đất Nhật.
Nhân vì Dôgen chủ trương tuyển chọn môn đồ một cách gắt gao (tinh thần "nhất cá bán cá" nghĩa là chỉ lấy "một hay phân nửa" thôi) để có một lực lượng tinh nhuệ cho nên lúc đầu giáo đoàn ở Eiheiji chỉ vỏn vẹn một nhúm người. Thế nhưng sau khi Dôgen mất đi rồi, đệ tử thừa kế ông ở Eiheiji là Koun Ejô (Cô Vân Hoài Trang) đã nỗ lực bành trướng cho nên thể chế của giáo đoàn mới lần hồi hoàn chỉnh.
Eihei Dôgen (Vĩnh Bình Đạo Nguyên, 1200-1253), tông tổ Tào Động.
Nói thêm về Dôgen (Đạo Nguyên)
Eihei Dôgen (Vĩnh Bình Đạo Nguyên) còn gọi là Dôgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền). Con trai của Nội Đại Thần Kuga no Michichika (Cửu Ngã Thông Thân) (có thuyết cho cha ông là quan Dainagon tên là Kuga no Michitomo, Cửu Ngã Thông Cụ, con của Michichika). Mẹ ông là con gái nhà quí tộc Fujiwara no Tomofusa. Ông ra đời ở Kyôto. Năm 3 tuổi, bố mất, 8 tuổi, mẹ lại mất. Mới lên núi Hieizan tu học và năm 14 tuổi thì xuống tóc và thụ giới với tọa chủ Kôen (Công Viên, năm sinh năm mất không rõ). Trước tiên theo học Thiên Thai và Mật Giáo, sau hạ sơn đi vân du nhiều nơi. Năm 1217, vào chùa Kenninji, theo học Myôzen (Minh Toàn). Năm 1223, ông cùng Myôzen nhập Tống.Ông đến Thiên Đồng Sơn hỏi đạo Vô Tế Liễu Phái (1149-1224) thuộc phái Đại Huệ tông Lâm Tế. Sau khi du hành nhiều nơi, ông trở lại tu học ở Thiên Đồng Sơn, giác ngộ và nhận được ấn khả (1225) của vị trụ trì đến sau là tăng Như Tịnh (Tào Động Tông, 1162-1227). Năm 1227, về lại Nhật và tu ở Kenninji. Năm 1230, dời đến Anyôji (An Dưỡng Tự) ở Fukakusa (thuộc Yamashiro). Năm 1233, ông xây lên Quan Âm Đạo Lợi Viện (sau là Kôshôji =Hưng Thánh Tự) ở đó nhưng sang năm 1243 lại được người hào tộc địa phương vùng Echizen mời về tu. Năm sau, lập chùa Daibutsuji (Đại Phật Tự, sau là Eiheiji = Vĩnh Bình Tự) ở Echizen. Kể từ năm 1247, ông đi Kamakura, hội kiến với quan shikken Hôjô Tokiyori rồi trở về Eiheiji. Sang năm 1252, mắc bệnh và để nghĩ dưỡng sức, chữa chạy, ông lên Kyôto nhưng bệnh tình không thuyên giảm. Ông mất lúc mới 54 tuổi. Trước tác rất nhiều. Trong số đó, phải kể đến Jôbô Genzô (Chính Pháp Nhãn Tạng), Eihei Kôku (Vĩnh Bình Quảng Lục), Eihei Genzenji Goroku (Vĩnh Bình Nguyên Thiền Sư Ngữ Lục), Eihei Shingi (Vĩnh Bình Thanh Quy), Fuken Zazengi (Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi), Tenza Kyôkun (Điển Tọa Giáo Huấn), Gakudô Yôjin-shuu (Học Đạo Dụng Tâm Tập), Hôkyôki (Bảo Khánh Ký), Sanshô Soshi Dôei (Tán Tùng Tổ Sư Đạo Vịnh) vv...Ngoài ra, cũng nên chú ý là Ejô (Hoài Trang), đệ tử của ông, cũng có viết Shôbô Genzô Zuimonki (Chính Pháp Nhãn Tạng Tùy Văn Ký), qua đó, chân dung của Dôgen được miêu tả một cách sống thực.
Tông môn của Dôgen truyền đến đời thứ ba thì ở Eiheiji xảy ra cuộc tranh chấp giữa Gikai (Nghĩa Giới, 1219-1283) và Gi.en (Nghĩa Diễn, ? - 1314). Kết cuộc, Gikai phải bỏ chùa ra đi, nhận được sự ngoại viện của họ Togashi ở Kaga (nay là tỉnh Ishikawa) và tu ở chùa Daijôji (Đại Thừa Tự, 1293) vùng ấy. Năm 1314, kể từ đời đồ đệ đời thứ 5 là Gi.un (Nghĩa Vân) về sau, Eiheiji duy trì được tổ thống là nhờ sự ủng hộ của chi phái của Jakuen (Tịch Viên, 1207-1299) chùa Hôkyôji (Bảo Khánh Tự) ở vùng Echizen (nay là tỉnh Fukui). Người trụ trì Eiheiji cho đến đời thứ 38 (cận đại) là Ryuugan Ganryuu (Lục Nham Nghiêm Liễu, ? -1716) đều là người đến từ chi phái Jakuen.
Sự tranh chấp giữa hai đồ đệ đã làm cho từ trong giáo đoàn của Eiheiji có một sự đối lập rõ rệt.Trong khi Gi.en và Jakuen chủ trương giữ nguyên truyền thồng của Dôgen thì Gikai lại cho rằng việc mở rộng giáo đoàn phải là ưu tiên số một.
Ngoài những nhân vật vừa nhắc đến bên trên, trong đám đệ tử của Dôgen có Sen.e (Thuyên Huệ, năm sinh năm mất không rõ) đã dựng ngôi chùa Yôkôji (Vĩnh Hưng Tự) ở núi Higashiyama (Đông Sơn) thuộc Kyôto trên mảnh đất có trà tì của Dôgen. Ông cùng với đệ tử của mình là Gyôgô (Kinh Hào, năm sinh và mất không rõ) ra sức nghiên cứu Shôbô Genzô (Chính Pháp Nhãn Tạng) của tôn sư. Kết quả là ông đã hoàn thành bộ Shôbô Genzô Okikigaki-shô (Chính Pháp Nhãn Tạng Ngự Văn Thư Sao, 1303-1308), tác phẩm tham khảo mà cho đến ngày nay vẫn là kinh điển không thể nào thiếu được cho những ai muốn nghiên cứu Shôbô Genzô.
Lan Khê Đạo Long và Ngột Am Phổ Ninh đến Nhật. Việc xây Kenchôji
Nhờ có những học tăng ra nước ngoài trở về truyền bá, chức shikken là Hôjô Tokiyori đã được Thiền Tông cảm hóa. Cùng lúc, vì muốn nâng cao uy tín của Mạc phủ Kamakura trong cuộc chạy đua với thế lực của triều đình Kyôto, ông hạ lệnh cho xây dựng chùa thiền một cách đại qui mô. Nhân đó mà Kenchôji (Kiến Trường Tự) đã xây xong ở Kamakura vào năm 1253. Người được mời khai sơn là Lan Khê Đạo Long (Rankei Dôryuu, tức Đại Giác thiền sư, 1213-1278), cao tăng phái Đại Giác, từ nhà Tống sang Nhật năm 1246. Có thể nói Kenchôji là ngôi chùa thiền qui củ nhất đầu tiên có trên đất Nhật, mô phỏng theo dạng thức kiến trúc của chùa thiền Trung Quốc (gọi là zenshuuyô - Thiền Tông dạng). Ở chùa này, người ta cũng quản lý theo phương pháp lưỡng ban và mọi sinh hoạt đều rập khuôn tùng lâm Trung Quốc. Hình như họ đã áp dụng những qui tắc tu hành chép trong Thiền Uyển Thanh Qui.
Lan Khê Đạo Long sau khi theo học Vô Chuẩn Sư Phạm và Bắc Giản Cư Giản (1164-1246), lại nhận pháp tự của Vô Minh Huệ Tính (1162-1237), một cao đồ của Tùng Nguyên Sùng Nhạc (1132-1202). Năm 1246, ông dẫn dắt một số đệ tử, cùng nhau sang Nhật. Lý do của chuyến đi này là vì ông có quen biết và nghe thuật chuyện về nước Nhật từ một học tăng bên nhà Tống, vốn xuất thân ở Senyuuji (Tuyền Dũng Tự), là Gettô Chikyô (Nguyệt Ông Trí Kính, năm sinh năm mất không rõ). Vì thế ông có mối quan tâm đối với tình hình đạo pháp ở nước này nên khi Gettô về Nhật, ông mới bắt liên lạc và đi sang. Lúc đầu ông trú tại Jôrakuji (Thường Lạc Tự) ở Kamakura, Hôjô Tokiyori mới đón về Kenchôji để khai sơn. Sau đó, ông trụ trì ở Kenninji (Kyôto) nhưng cũng có khi bị người đời dèm pha và không được tin dùng. Tuy vậy, trước sau 3 lần, ông đã trụ trì ở Kenchôji, bố giáo rộng rãi, xây dựng được cơ sở cho Thiền Tông ở Kamakura.
Người đến Nhật sau Lan Khê Đạo Long một ít lâu và cũng được họ Hôjô ở Kamakura trọng vọng là Ngột Am Phổ Ninh (Gottan Funei, 1197-1276, sang Nhật năm 1260, về lại Trung Quốc năm 1265, thuộc phái Ngột Am). Hình như ông đến Nhật do lời mời của cựu đồng môn là Tôfuku Enni.Khi Phổ Ninh đến nơi, Tokiyori bèn giao ngay cho ông việc cai quản Kenchôji (trụ trì đời thứ 2) cho nên các đệ tử của Đạo Long có vẻ không bằng lòng. Vì vậy, khi người tín đồ nhiệt thành là Tokiyori mất đi chẳng bao lâu, Phổ Ninh bỏ về Trung Quốc. Cũng có thuyết cho là Phổ Ninh vì bất mãn với vây cánh của Đạo Long nên mới rút ngắn thời gian ở lại Nhật.
Tiết 2 - Thiền nhà Tống xác định vị trí (giai đoạn nửa sau thời Kamakura) Giặc Nguyên Mông. Sự suy vi của Mạc phủ Kamakura
Nhà Nguyên (1237-1260-1367) sau khi diệt Tống xong, đòi Nhật Bản phải triều cống. Shikken thời đó, Hôjô Tokimune (Bắc Điều Thì Tông, 1251-84, tại chức 1268-84) [[8] cự tuyệt, hai lần (1274 và 1281) nghênh chiến và chặn được quân Mông Cổ (sử gọi là chiến dịch năm Bun.ei và Kôan). Tuy nhiên, sau khi đuổi được giặc Nguyên, không ban thưởng đủ cho bầy tôi và còn tập trung quyền lực vào mỗi một dòng họ Hôjô, mạc phủ đã gây nên bất mãn trong giới quân nhân. Mặt khác, việc cắt vụn đất đai thừa kế và sự phát triển của nền kinh tế hóa tệ đã làm cho đám bầy tôi (gọi là gokenin [9] nghèo đi. Đến đời shikken Hôjô Sadatoki (Bắc Điều, Trinh Thì, 1271-1311, tại chức 1284-1301), để cứu giúp họ, mạc phủ phải ban bố "Lệnh năm Einin về việc thi hành đức chính" (1297) [10] . Tuy nhiên hiệu quả chỉ nhất thời. Đến đời shikken Takatoki (Cao Thì, 1303-33, tại chức 1316-26) thì lại có việc chức naikanrei (quản lý việc nhà cho họ Hôjô) là Nagasaki Takasuke (?-1333) chuyên quyền, khiến cho uy tín của mạc phủ Kamakura lại càng suy sụp.
Tuy có cuộc chiến tranh với Nguyên Mông nhưng giao lưu Nhật-Nguyên không vì thế mà bị cắt đứt. Năm 1325, mạc phủ lại cho phép thuyền mậu dịch sang buôn bên Trung Quốc để gây quĩ xây dựng lại Kenchôji bị hỏa tai (loại thuyền ấy gọi là Kenchôji-bune) cho nên sự tiếp xúc giữa hai bên càng được nới rộng. Các tăng sĩ thường xuyên qua lại, họ đem về Nhật đủ loại sách vở, từ kinh điển cho đến tác phẩm văn học. Nhờ đó mà các luồng tư tưởng như Chu Tử Học mới được người Nhật tiếp thu.
Dười thời Takatoki chấp chánh, đã có sự xung đột trong hoàng tộc giữa hệ Jimyô.in (Trì Minh Viện, của con cháu Thiên hoàng Go-Fukakusa) và hệ Daikakuji (Đại Giác Tự, cánh Thiên hoàng Kameyama) [11] để xem ai là chính thống. Mạc phủ mới can thiệp bằng cách khuyên họ thay phiên nhau lên ngôi. Nhân người lên nối ngôi Thiên hoàng Hanazono (Hoa Sơn, thứ 95, 1297-1348, trị vì 1308-18) là Go-Daigo (Hậu Đề Hồ, thứ 96, 1288-1339, trị vì 1318-39) theo Chu Tử Học, tiếp nhận ảnh hưởng Nho Giáo nên mới muốn tự mình nắm chính quyền. Mưu ấy bị lộ (sử gọi là loạn năm Genkô, 1331), ông bị đày ra ngoài hoang đảo Oki nhưng chẳng bao lâu đã trốn thoát Thế rồi nhờ có sự hiệp lực của Kusunoki Masashige (Nam Mộc [12] Chính Thành, 1294-1336) và một danh tướng phản mạc phủ là Ashikaga Takauji (Túc Lợi, Cao Thị, 1305-1358), cuối cùng đã tiêu diệt được Mạc phủ Kamakura (1333).
Danh sách các thiền tăng vãng lai
Trong số những thiền tăng Trung Quốc đến Nhật thời này, tiêu biểu hơn cả là các vị sau đây:
- Đại Hưu Chính Niệm (Daikyuu Shônen, còn được goi là Phật Nguyên Thiền Sư, 1215-89, đến Nhật năm 1269, thuộc phái Phật Nguyên).
- Vô Học Tổ Nguyên (Mugaku Sogen, còn có tên Phật Quang Quốc Sư. 1226-1286, đến Nhật năm 1279, phái Phật Quang).
- Nhất Sơn Nhất Ninh (Issan Ichi.nei, 1247-1317, đến Nhật năm 1299, phái Nhất Sơn).
- Đông Minh Huệ Nhật (Tômei E.nichi, tông Tào Động phái Hoằng Trí, 1272-1340, đến Nhật khoảng năm 1308, phái Đông Minh).
- Thanh Chuyết Chính Trừng (Seisetsu Shôchô, tức Đại Giám Thiền Sư, 1274-1339, đến Nhật năm 1326, phái Thanh Chuyết, phái Đại Giám).
- Minh Cực Sở Tuấn (Minki Soshun, 1262-1336, đến Nhật năm 1329, phái Minh Cực).
- Trúc Tiên Phạm Tiên (Jikusen Bonsen, 1292-1348, đến Nhật năm 1229, phái Trúc Tiên).
Còn về những thiền tăng Nhật Bản đi du học thì có những vị như sau:
- Mukan Fumon (Vô Quan Phổ Môn, 1212-91, về nước năm 1262).
- Nanpo Jômin (Nam Phố Thiệu Minh, tức Đại Ứng Quốc Sư, 1235-1308, về nước năm 1267, phái Đại Ứng).
- Kohô Kakumyô (Cô Phong Giác Minh, 1271-1361, nhập Nguyên năm 1311).
- Gida Daichi (Kỳ Đà Đại Trí, tông Tào Động, 1290-1366, nhập Nguyên năm 1314).
- Enkei Soô (Viễn Khê Tổ Hùng, 1286-1344, về nước năm 1316, phái Huyễn Trú).
- Kaô Sônen (Khả Ông Tông Nhiên, ? -1345, về nước năm 1326).
- Jakushitsu Genkô (Tịch Thất Nguyên Quang, 1290-1367, về nước năm 1326).
- Sesson Yuubai (Tuyết Thôn Hữu Mai, 1290-1346, về nước năm 1329).
- Tengan Ekô (Thiên Ngạn Huệ Quảng, 1273-1335, về nước năm 1329).
- Getsurin Dôkô (Nguyệt Lâm, Đạo Hạo, 1293-1351, về nước năm 1330).
- Betsugen Enshi (Biệt Nguyên Viên Chỉ, 1294-1364, về nước năm 1330).
- Chuugan Engetsu (Trung Nham Viên Nguyệt, 1300-1375, về nước năm 1332).
Nhiều người sau đó đã mở môn phái riêng của mình.
Trong bọn họ, không ít người đã chịu ảnh hưởng của chi lưu Mật Am Hàm Kiệt (1118-86) phái Dương Kỳ tông Lâm Tế cũng như đi theo hai phái Tùng Nguyên và Phá Am nghĩa là những môn phái quan trọng phản ánh được tình hình của tùng lâm Trung Quốc thời bấy giờ [13] . Đặc biệt Ngột Am Phổ Ninh, Vô Học Tổ Nguyên, thầy của Tôfuku Enni (Nhật) là Vô Chuẩn Sư Phạm , thầy của Nanpo Jômin (Nhật) là Hư Đường Trí Ngu (1185-1269), thầy của Gida Daichi (Nhật), Trúc Tiên Phạm Tiên (Trung), Jakushitsu Genkô (Nhật), Getsurin Dôkô (Nhật), Kaô Sônen (Nhật), Betsugen Enshi (Nhật), Chuugan Engetsu (Nhật) là Cổ Lâm Thanh Mậu (1262-1329), cũng như thầy của Kohô Kakumyô (Nhật), Enkei Soô (Nhật), Kaô Sônen (Nhật), Jakushitsu Genkô (Nhật) là Trung Phong Minh Bản (1263-1323) ...đều là những bậc danh sư trong thiền giới Trung Quốc giai đoạn Nam Tống-Nguyên. Tuy vì cá tính nên sự suy nghĩ của họ có khác nhau chút ít, chứ thực ra tư tưởng căn bản mà họ chia sẻ vẫn nằm trong phạm trù của "thiền công án" (kôanzen) đã được khẳng định và củng cố với Viên Ngộ Khắc Cần (1063-1135) và Đại Huệ Tông Cảo (1089-1163).
Giao lưu Trung Nhật thời Kamakura và Muromachi. Chuyện về các thiền tăng hai bên qua lại
Sau khi nhà Tống tái thống nhất Trung Quốc, sự giao thương Trung Nhật ngày càng phát triển mạnh. Người để ý đến chuyện đó là quyền thần Taira no Kiyomori (Bình, Thanh Thịnh, 1118-1181) đã trang bị bến Ôwada no Tomari (nay là cảng Kobe) dùng vào việc khuếch trương mậu dịch với Nam Tống. Do việc buôn bán với Tống càng ngày càng phồn thịnh, thuyền Trung Quốc chở vật dụng, thư tịch, đồ mỹ nghệ cũng như đem hóa tệ nhà Tống qua... ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của người Nhật. Thêm vào đó, con số thiền tăng vãng lai càng đông đảo: số tăng Nhật nhập Tống có hơn 80 vị, tăng Tống sang Nhật có trên 20 vị. Đến đời nhà Nguyên thì tuy có hai cuộc đụng độ quân sự nhưng việc mậu dịch không vì thế mà bị cấm đoán cho nên cũng phồn thịnh không kém trước. Mạc phủ Kamakura từng chống trả nhà Nguyên về mặt quân sự nhưng đến khi cần tiền để trang trải kinh phí trùng tu Kenchôji, đã cho phép thuyền mậu dịch Kenchôji-bune sang Tống (1325). Chức Shôgun đầu tiên của Mạc phủ Ashikaga là Ashikaga Takauji (1305-1358, tại chức 1338-58) [14]nghe thời lời khuyên của tăng phái Rinzai (Lâm Tế Nhật Bản) là Musô Soseki (Mộng Song Sơ Thạch, 1275-1351) gửi thuyền mậu dịch gọi là Tenryuuji-bune (1342) đi qua Tống kiếm ngân quĩ xây dựng lại Tenryuuji (Thiên Long Tự). Tăng nhà Nguyên sang Nhật rất nhiều đến nỗi thời đó, Mạc phủ Kamakura nhiều khi muốn hạn chế. Còn tăng Nhật Bản nhập Nguyên có đến hơn 200 người, nhiều hơn cả con số tăng nhập Tống lúc trước. Đến đời Minh, để đối kháng với cướp biển Wakô (Nụy khấu) [15], việc mậu dịch bị giới hạn. Kể từ năm 1404 trở đi, việc mậu dịch giữa nhà Minh và Mạc phủ Muromachi đổi sang hình thức kangô bôeki (khám hợp mậu dịch) nghĩa là buôn bán chính thức có kiểm tra sổ sách và ghép hai mảnh ấn tín (warifu = cát phù) cho ăn khớp giữa hai cơ quan kiểm soát của nhà nước (nhằm ngăn chận buôn lậu, cướp biển và mậu dịch tư nhân). Vì lý do đó, việc đi lại của các tăng lữ trở nên gian nan hơn. Tuy nhiên, mậu dịch Nhật Minh vẫn phải dựa vào sự trợ giúp của các thiền tăng vì họ giỏi ngôn ngữ, biết soạn thảo văn bản ngoại giao (quốc thư). Các sứ bộ do Nhật gửi đi đều có tục lệ sung các thiền tăng vào chức chính sứ hay phó sứ. Việc viên chính sứ sang nhà Minh (khiển Minh sứ) là thiền sư Liễu Am Quế Ngộ (1425-1514) khi về nước rồi có chơi thân với Vương Thủ Nhân (Dương Minh, 1472-1528) và từng được ông này tặng thơ là một giai thoại khá nổi tiếng. Qua việc họa tăng Sesshuu Tôyô (Tuyết Chu Đẳng Dương, 1420-1526) vào đất Minh (1467-69), ta thấy việc các thiền tăng nhập Minh vẫn được tiếp nối lâu dài. Trong đó có những người như Musho Tokushi (Vô Sơ Đức Thủy, ? - 1429) đã đến Trung Quốc, nhận pháp tự của Quý Đàm Tông Lặc (1318-91), hoạt động trong chốn thiền lâm Tứ Xuyên và Hà Bắc trước khi mất ở Bắc Kinh. Dù vậy, kangô bôeki (khám hợp mậu dịch) cũng chỉ tổ chức được có 17 lần. Sau khi kẻ nắm thực quyền chỉ huy những chuyến đi này là họ Ôuchi (Đại Nội) bị diệt vong thì chuyến đi năm 1547 trở thành chuyến chót.
Sở dĩ có nhiều danh tăng Trung Quốc đến Nhật Bản là vì chính quyền Hôjô ở Kamakura và tầng lớp võ sĩ cao cấp rất nhiệt tình trong việc đón tiếp họ. Sau khi Lan Khê Đạo Long chết rồi, Hôjô Tokimune muốn mời danh sư Trung Quốc khác đến để dạy Thiền. Vô Học Tổ Nguyên đã đáp lời mời của ông đến Kamakura, sau đó Đông Minh Huệ Nhật và Thanh Chuyết Chính Trừng cũng nhận lời mời của hai shikken kế tiếp là Hôjô Sadatoki và Hôjô Takatoki, lên đường qua Nhật. Lại nữa Minh Cực Sở Tuấn và Trúc Tiên Phạm Tiên cũng nhận lời mời của các võ tướng Adachi Takekage (An Đạt Cao Cảnh, năm sinh năm mất không rõ) và Ôtomo Sadamune (Đại Hữu, Trinh Tông, ? - 1333) mà sang Nhật truyền đạo.
Thế nhưng việc các ông ra nước người cũng còn có động cơ khác, đó là tình hình quốc nội. Đương thời, triều đình nhà Nguyên của tộc Mông Cổ đã đặt xong nền móng cai trị Trung Quốc. Các thiền tăng không thể nào thích thú được trước cảnh tượng làm bầy tôi cho ngoại tộc như vậy nên tìm đường ra nước ngoài hoạt động. Chẳng hạn Nhất Sơn Nhất Ninh, được gửi theo sứ bộ nhà Nguyên sang Nhật, đã xin ở lại, ra sức truyền bá Thiền Tông dưới sự bảo trợ của shikken Hôjô Sadamune.
Thiền bám rễ ở Nhật
Như thế, Thiền đã bắt đầu có tiếng nói ở Nhật. Nói chung, dù được bình yên để truyền đạo nhưng các thiền sư không phải không gặp sự chống đối nào. Rokujô Arifusa (Lục Điều, Hữu Phòng, 1251-1319), tác giả Nomori no Kagami [16] (Dã Thú Kính, 1295) là một trong những người chống đối. Thế nhưng, chính ông Rokujô này sau lại qui y với Nhất Sơn Nhất Ninh, đủ thấy sức mạnh của Thiền đã thấm sâu vào giai cấp lãnh đạo thời ấy đến mức nào.
Nhất Sơn Nhất Ninh (Issan Ichi.nei)
Sư người châu Thai (tỉnh Chiết Giang), họ Hồ. Xuất gia từ thưở nhỏ,trước đeo đuổi giáo lý Luật và Thiên Thai, sau đổi qua Thiền. Đã tham học nhiều chùa danh tiếng như Thiên Đồng Sơn, A Dục Vương Sơn, Tịnh Từ Tự và nhận pháp tự của Ngoan Cực Hành Di (người hậu bán thế kỷ 13). Sau đó lại tiếp tục theo học Hoàn Khê Duy Nhất (1202-81). Xong mới đi truyền đạo ở nhiều nơi, được Temul (Nguyên Thành Tông, trị vì 1294-1307) ban tặng danh hiệu Diệu Từ Hoằng Tế Đại Sư. Nhận lệnh triều đình cùng với Tây Giản Tử Đàm (1249-1306) theo sứ bộ sang Nhật. Lúc đầu tình nghi là gián điệp nên bị bắt giam ở chùa Shuzenji (Tu Thiền Tự) ở vùng Ise (tỉnh Shizuoka) nhưng sau được thả ra, đến trụ trì ở các chùa nổi tiếng Kenchôji (Kiến Trường Tự), Engakuji (Viên Giác Tự) cũng như Nanzenji (Nam Thiền Tự). Ông mất ở Nanzenji, được Thiên hoàng Go-Uda (Hậu Vũ Đa, thứ 91, trị vì 1274-87) ban thụy hiệu (tên hèm) là Nhất Sơn Quốc Sư. Đệ tử nhận pháp tự của ông là Sesson Yuubai (Tuyết Thôn Hữu Mai). Ông còn để lại tập Nhất Sơn Quốc Sư Ngữ Lục. Nhất Sơn học vấn uyên thâm, thông hiểu văn học và các chế độ, lại giỏi thư đạo. Chính ông là người đã gây dựng cơ sở cho văn học Gozan (Ngũ Sơn Nhật Bản). Những người như Kokan Shiren (Hổ Quan Sư Luyện, trong khoảng 1299-1312) và Musô Soseki (Mộng Song Sơ Thạch) đều có một thời theo học ông.
Những thiền tăng tiêu biểu thời này, cho dù là người Nhật, đều đã hấp thụ tư tưởng Thiền Tông trên đất Trung Quốc. Điều này đã trở thành một điều kiện không thể thiếu được cho những ai muốn có một địa vị trong chốn tùng lâm. Thế nhưng không thể nói là những người chỉ học trong nước không có ai giỏi. Có nhiều bằng chứng như trường hợp các danh tăng Chigotsu Daie (Si Ngột Đại Huệ), pháp tự của Tôfuku Enni và là người đã khai sơn Anyôji (An Dưỡng Tự) ở Ise, Kôhô Kennichi (Cao Phong Hiển Nhật (Phật Quốc Quốc Sư, 1241-1316), vốn là hoàng tử của Thiên Hoàng Go-Saga (Hậu Tha Nga, thứ 88, trị vì 1242-46) và là pháp tự của Vô Học Tổ Nguyên, Kokan Shiren (Hổ Quan Sư Luyện, 1229-1312), pháp tự của Tôzan Tanshô (Đông Sơn Đam (Trạm) Nhiên, có lúc theo học Nhất Sơn Nhất Ninh.
Chigotsu Daie (Si Ngột) đã viết Juugyuuketsu (Thập Ngưu Quyết) để giải thích ý nghĩa thâm sâu (quyết) trong Thập Ngưu Đồ, trước tác của Khuếch Am Sư Viễn, thiền sư Bắc Tống. Ông cũng có tác phẩm bằng quốc ngữ kana là cuốn pháp ngữ Koboku-shuu (Khô Mộc Tập, 1283). Còn Kokan Shiren (Hổ Quan) có thể xem như là người đầu tiên đã viết đăng sử khi ông thu thập truyện ký các danh tăng trong Genkô Shakusho (Nguyên Hưởng Thích Thư, 1322). Với Butsugo Shinron (Phật Ngữ Tâm Luận, 1326), Kokan Shiren đã chú thích kinh Lăng Già, so sánh Thiền Tông với các tông phái khác và trình bày tính ưu việt của nó trong Shuumon Jisshô-ron (Tông Môn Thập Thắng Luận), còn để lại tập thi văn Saihoku-shuu (Tế Bắc Tập) và biên tu Zengi Gaibun-shuu (Thiền Nghi Ngoại Văn Tập), một cuốn sách gồm các loại văn như giải nghĩa, thông báo và cáo tế (sớ, bảng, tế văn) đời Tống (cuốn sách này được xem như khuôn mẫu cho lối hành văn của Gozan). Ngoài ra, cuốn Bukkoku Kokushi Goroku (Phật Quốc Quốc Sư Ngữ Lục, 1326) của Kôhô Kennichi (Cao Phong) chép lại đối thoại giữa ông và Vô Học Tổ Nguyên, là một tác phẩm ghi được những cuộc vấn đáp có chất lượng cao. Lại nữa, học trò của Enni là Mujuu Dôgyô (Vô Trú Đạo Hiểu, tức Ichien-bô hay Nhất Viên Phòng, 1226-1312) đã thông báo cho chúng ta về đường hướng hoạt động tôn giáo đương thời trong Shaseki-shuu (Sa Thạch Tập, "Góp Nhặt Đá Cát" , 1283), một văn kiện quí báu.
Sau những người nói trên một ít lâu, ba nhân vật khác lại xuất hiện: Shuuhyô Myôchô
(Tông Phong Diệu Siêu, tức Hottô Kokushi = Đại Đăng Quốc Sư, 1282-1325), Musô Soseki (Mộng Song Sơ Thạch tức Musô Kokushi =Mộng Song Quốc Sư, 1275-1351) và Keizan Jôkin (Oánh Sơn Thiệu Cẩn, 1268-1325). Mỗi người đều có cá tính riêng nhưng đã góp phần cống hiến của mình trong việc xây dựng một hệ thống tư tưởng Thiền độc đáo của người Nhật. Việc các vị ấy chưa từng ra nước ngoài du học cũng là một yếu tố đáng chú ý.
Việc xây dựng ba ngôi chùa Engakuji, Nanzenji và Daitokuji
Một khi đã mời các tăng lữ Trung Quốc sang (gọi là toraisô = độ lai tăng) cũng như chào đón các du học tăng từ bên ấy trở về (gọi là qui triều tăng = kichôsô), mạc phủ có bổn phận tìm ra nơi ăn chốn ở để họ có thể chuyên tâm tu hành và truyền đạo. Do đó mới có việc xây dựng thêm chùa chiền. Ở Kamakura, nơi đã có Kenchôji (Kiến Trường Tự, 1249), nay cho xây tiếp Engakuji (Viên Giác Tự, 1282), một ngôi chùa lớn. Người được mời đến khai sơn là Vô Học Tổ Nguyên. Tổ Nguyên dùng hai chùa này làm địa bàn hoạt động, đào tạo được nhiều học trò giỏi như Kôhô Kennichi (Cao Phong Hiển Nhật), Ittô Ingô (Nhất Ông Viện Hào, 1210-81) vv...
Vô Học Tổ Nguyên (Mugaku Sogen)
Sư người phủ Khánh Nguyên tỉnh Chiết Giang, họ Hứa. Năm 13 tuổi xuất gia dưới trướng Bắc Giản Cư Giản (1164-1246). Sau đó tham học với Vô Chuẩn Sư Phạm, Thạch Khê Tâm Nguyệt ( ?-1254), Hư Đường Trí Ngu...Sau đó theo Vật Sơ Đại Quan (1201-68) và Hoàn Khê Duy Nhất (1202-81) tu hành. Năm 1278 khi Lan Khê Đạo Long mất, Hôjô Tokimune mới gửi học trò của Đạo Long sang Trung Quốc để tìm thầy dạy thiền thế vào chỗ khuyết Lúc đầu định mời học trò của Vô Chuẩn Sư Phạm là Hoàn Khê Duy Nhất nhưng Duy Nhất lại tiến cử đồng môn của mình là Tổ Nguyên. Đó là cái cơ duyên đưa đẩy Tổ Nguyên đến Nhật.
Tới nơi, sư được mời trụ trì ở Kenchôji (vào năm 1279), chỉ dạy môn đệ trong 5 năm trời. Năm 1282, chính quyền Hôjô xây thêm Engakuji (Viên Giác Tự) và mời ông đến khai sơn. Được ban thụy hiệu Phật Quang Quốc Sư. Tác phẩm có Phật Quang Quốc Sư Ngữ Lục.
Về Tổ Nguyên, có một giai thoại nhiều người biết. Đó là câu chuyện xảy ra năm 1275, lúc ông 50 tuổi và còn ở Trung Quốc. Ông có lần bị quân Nguyên bắt và sắp sửa đem chém, có đọc một bài "Lâm kiếm tụng" (Bài tụng lúc đối mặt với lưỡi kiếm) như sau:
乾坤無地卓弧筇
喜得人空法亦空
珍重大元三尺剣
電光影裏斬春風Càn khôn vô địa trác cô cung,
Hỉ đắc [17] nhân không pháp diệc không.
Trân trọng Đại Nguyên tam xích kiếm,
Điện quang ảnh lý trảm xuân phong.Ý nói giữa cõi trời đất không một chỗ cắm dùi (cung = cây gậy để chống). Rằng mình mừng vì đạt đến chỗ không có thân cũng không có pháp. Ba thước kiếm oai phong của nước Đại Nguyên kia nếu có chém ta đi nữa thì cũng vô ích như chém vào ngọn gió xuân ở đằng sau một tia chớp. Nghe nói rằng, tướng nhà Nguyên kinh sợ đạo lực của ông mà bỏ đi. Qua câu chuyện, người ta có thể nghĩ rằng mạc phủ đã thêm thắt để nâng cao uy tín của một thiền sư mà họ đã mời từ nước ngoài về.
Như thế, mạc phủ đã hết sức gắn bó và qui phục Thiền Tông, và điều này cũng kích thích hoàng tộc. Năm 1291, Thiên hoàng Kameyama (Qui Sơn, thứ 90, 1249-1305, trị vì 1260-74) dã lập nên Nanzenji (Nam Thiền Tự) và mời thiền sư Nhật Bản Mukan Fumon (Vô Quan Phổ Môn) khai sơn. Vì Mukan Fumon qua đời ít lâu sau đó, đáng lý ra đệ tử bổn tự của ông là Kian Soen (Quy Am Tổ Viên, tức Nam Viện Quốc Sư, 1261-1313) sẽ nối nghiệp thầy mà tu ở đó. Nhưng Soen lại tôn trọng ý chỉ của Thiên hoàng Kameyama chỉ muốn mời trụ trì là người thập phương đến nên mới "bái tháp tự pháp" (xin làm học trò một vị sư đã chết), trở thành đệ tử của Tổ Nguyên. Nhiều người không bằng lòng sự dàn xếp như vậy nhưng Thái thượng hoàng Go-Uda (Hậu Vũ Đa, thứ 91, 1267-1324, trị vì 1274-87) - một đàn việt thế lực - ra tuyên cáo (gọi là "viện tuyên" vì là chiếu chỉ của viện sảnh) chấp nhận điều đó. Từ ấy, Nanzenji vừa là chùa của hoàng gia, vừa giữ được đặc tính của hệ phái (và đứng vượt lên trên) Gozan tức 5 chùa của Ngũ Sơn Nhật Bản. Tiền lệ đó sẽ làm cho các chùa Thiền không những được sự ngoại viện, bảo hộ của mạc phủ mà của cả hoàng gia nữa. Cùng lúc, địa vị của Thiền trong giới Phật Giáo được xác định và đấy là một sự kiện hết sức quan trọng.
Mukan Fumon (Vô Quan Phổ Môn)
Sư người Shinano (thuộc tỉnh Nagano bây giờ), mới 7 tuổi đã xuất gia. Năm 19 vào chùa Chôrakuji (Trường Lạc Tự) ở Ueno (tỉnh Gunma bây giờ) theo Eichô (Vinh Triều) học cả Mật Giáo lẫn Hiển Giáo. Sau đó ông lại tham thiền với Tôfuku Enni và nhận pháp tự. Năm 1251 nhập Tống, đi khắp nơi cầu đạo suốt 12 năm. Khi về nước, tiếp tục tu hành ở các chùa Tôfukuji (Đông Phúc Tự) và Jufukuji (Thọ Phúc Tự). Năm 1291, Thiên hoàng Kameyama sau khi quy y Thiền bèn lấy ly cung Ryuuzan (Long Sơn) của mình để dựng một ngôi chùa tiếng tăm. Đó là Nanzenji (Nam Thiền Tự). Mukan Fumon được vinh dự khai sơn những chẳng bao lâu ông qua đời. Được truy tặng danh hiệu Phật Tâm Thiền Sư và Đại Minh Quốc Sư.
Đất Kyôto sau đó còn mọc thêm một ngôi chùa mới cũng rất tiếng tăm: Daitokuji (Đại Đức Tự, 1326). Người khai sơn là Shuuhô Myôchô (Tông Phong Diệu Siêu, tức Daitô Kokushi (Đại Đăng Quốc Sư, 1282-1336). Chùa tuy được xây dựng bằng tiền tiến cúng của những người quy y nhưng về sau, khi Thái thượng hoàng Hanozono (thứ 95, trị vì 1308-18) và Thiên hoàng Go-Daigo (Hậu Đề Hồ, thứ 96, trị vì 1318-39) cũng quy y, thì đến năm 1325, nhận được sắc lệnh đổi chùa thành đạo tràng của hoàng gia. Đặc biệt Thiên hoàng Go-Daigo gọi nơi ấy là "bản triều vô song thiền uyển". Ông đặt Daitokuji ngang với vị trí của Nanzenji. Từ đó, nó trở thành chùa "nhất phái tương thừa", độc quyền ấy dành cho hệ phái Shuuhô Myôchô tức phái Đại Đăng (Daitô-ha). Sau khi Myôchô mất, học trò nhận pháp tự của ông là Tettô Gikô (Triệt Ông Nghĩa Hưởng, 1295- 1369) tiếp tục trụ trì và sau đó là các đồ tôn trực hệ (nhưng lúc đó gọi là phái Tettô = Triệt Ông).
Tuy lịch sử thành lập của nó là như thế nhưng Daitokuji chỉ có một qui mô nhỏ bé nếu đem so sánh với các danh sát trong Ngũ Sơn (Gozan). Trên thực tế, cho đến cuối đời trung cổ, Daitokuji vẫn chưa có nổi một cái hattô (pháp đường = chỗ giảng kinh), phải dùng điện Phật kiêm luôn việc đó. Già lam của chùa có hình dáng trông được mắt như ngày nay cũng chỉ là chuyện từ đầu thời cận đại về sau mà thôi.
Shuuhô Myôchô (Tông Phong Diệu Siêu, 1262-1337)
vị quốc sư 7 năm sống đời khất thựcShuuhô Myôchô (Tông Phong Diệu Siêu)
Ông người vùng Harima (tỉnh Hyogô), tên thế tục là Uragami. Năm 11 tuổi xuất gia, theo học Thiên Thai và giới luật, sau mới chuyển qua Thiền. Tham học với Kôhô Kennichi (Cao Phong Hiển Nhật) tại chùa Jufukuji (ở Kamakura) và nhận được pháp tự. Nhưng vẫn không thơa mãn, ông tìm đến Nanpo Jômin (Nam Phố Thiệu Minh), người đã từ Kyushuu thượng kinh theo lời mời của Thái thượng hoàng Go-Uda (Hậu Vũ Đa, thứ 91, 1267-1324, trị vì 1274-87). Ông lại cùng Jômin dời về Kenchôji (Kamakura) tu hành và sau nối được pháp tự của thầy. Khi Jômin chết, ông về Kyôto, theo di mệnh tôn sư, sống cuộc đời ẩn dật trong nhiều năm rồi ra ở ngoài am vùng Murasakino. Thượng hoàng Hanazono biết được vời ông làm thầy. Năm 1325, theo lời yêu cầu của nhóm Cựu Phật Giáo, ông tham gia với tư cách thiền gia trong cuộc tranh luận với họ ở điện Thanh Lương (Seiryôden) gọi là "cuộc tranh luận về tông phái năm Seichuu" (Chính Trung tông luận). Qua cuộc đấu lý, ông tỏ rõ kiến thức sâu xa làm cho Thiên hoàng Go-Daigo phải kính nễ. Cũng trong khoảng thời gian này, nhiều đàn việt hâm mộ đạo đức của ông đã tiến cúng tiền xây chùa, và nhờ thế mà Daitokuji đã thành hình (1326). Thiên hoàng Go-Daigo đánh giá cao Daitokuji chẳng khác Nanzenji và liệt nó vào 5 chùa Gozan. Thái thượng hoàng Hanozono ban tặng ông danh hiệu Hưng Thiền Đại Đăng Quốc Sư. Trong đám đồ đệ của ông, ngoài Tettô Gikô (Triệt Ông Nghĩa Hưởng) đã nhắc đến bên trên, còn có Kanzan Egen (Quan Sơn Huệ Huyền, 1277-1360), người đã khai sơn Myôshinji (Diệu Tâm Tự) [18] vv...Trước tác Shuuhô Myôchô để lại có Đại Đăng Quốc Sư Ngữ Lục, Đại Đăng Quốc Sư Giả Danh (kana) Pháp Ngữ.
Những ngôi chùa danh tiếng Nhật Bản như Kenchôji, Engakuji và Nanzenji đều được kiến tạo theo kiểu mẫu Trung Quốc, nghi thức thì rập đúng khuôn mẫu cung cách của Thiền Tông Nam Tống và Nguyên. Các tăng Trung Quốc "độ lai" và Nhật Bản "quy triều" đã lập ra các qui tắc theo Thiền Uyển Thanh Qui và Tùng Lâm Hiệu Định Thanh Qui Tổng Yếu họ đã học được ở đại lục. Họ còn tổ chức những nghi lễ tôn giáo kiểu "cúng cô hồn" (segaki = thí ngạ quỷ) vốn rất phổ biến trong dân gian bên Trung Quốc từ dưới triều Tống. Vào thời điểm này, Lan Khê Đạo Long (1213-78) đã trước tác Zazengi (Tọa Thiền Nghi, 1246) và Thanh Chuyết Chính Trừng tức Đại Giám Thiền Sư soạn Taikan Shingi (Đại Giám Thanh Quy) (1332). Những tác phẩm đó dù sao cũng rất cần thiết cho cuộc sống ở chốn tùng lâm. Lại nữa, ở Nhật người ta cũng bắt chước các "quan tự" tức chùa nhà nước ở Trung Quốc mời người trụ trì từ trong vòng các tăng sĩ thập phương. Chế độ này nhằm tuyển dụng những tăng sĩ có khả năng thực sự mà không nề hà đến pháp hệ của họ. Về mặt đào tạo các thiền tăng, chế độ này đóng một vai trò rất quan trọng.
Nhờ có sự qua lại thường xuyên của các thiền tăng mà những tư tưởng mới mẻ trong chốn tùng lâm Trung Quốc được truyền ngay sang Nhật. Ví dụ như tu tưởng "tam giáo nhất trí" có từ đời Tống trở về sau đã đến Nhật. Phong trào nghiên cứu Chu Tử Học trong tùng lâm thời Nam Tống cũng gây ảnh hưởng như vậy. Thiền sư Nhật Bản Chuugan Engetsu (Trung Nham Viên Nguyệt) đã được biết đến như một đại gia về Chu Tử Học. Không những thế, tư trào văn học nhuốm màu Thiền của Cổ Lâm Thanh Mậu, tư tưởng "Thiền Tịnh song tu" đặc sắc và khuynh hướng ẩn dật của Trung Phong Minh Bản đều được các thầy ấy trực tiếp truyền sang trò và sau đó họ đem về nước thực hành. Đặc biệt tư tưởng "Thiền Tịnh song tu" tuy ít khi thấy nhưng vẫn hiện diện ở Nhật nếu ta để mắt vào hành trạng của các thiền tăng như Minh Cực Sở Tuấn, Trúc Tiên Phạm Tiên và Jakushitsu Genkô (Tịch Thất Nguyên Quang). .
Sự phát triển của Sôtô-shuu (Tào Động Tông)
Tuy rằng sau cuộc tranh chấp về đường lối phát triển với đồng đạo là Gi.en (Nghĩa Diễn), đồ tôn của Dôgen là Tettsuu Gikai (Triệt Thông Nghĩa Giới) bắt buộc rời khỏi Eiheiji (Vĩnh Bình Tự) thế nhưng từ cửa đó đã xuất hiện Keizan Jôkin (Oánh Sơn Thiệu Cẩn), một nhân vật có tầm cỡ, người tạo ra được một cuộc thay đổi lớn cho tông Sôtô. Ông bắt đầu công việc đó tại Daijôji (Đại Thừa Tự) ở Kaga (tỉnh Ishikawa bây giờ) mà ông thừa kế từ thầy mình, sau lan ra đến hai trung tâm khác là những ngôi chùa do ông lập ra như Yôkôji (Vĩnh Quang Tự) và Sôjiji (Tổng Trì Tự) ở Noto (cũng thuộc Ishikawa). Ông soạn Keizan Shingi (Oánh Sơn Thanh Quy (còn gọi là Động Cốc Thanh Quy, 1324) chỉnh đốn qui củ cho tăng chúng và ra sức đào tạo đệ tử. Không những ông đã dạy dỗ được nhiều học trò giỏi như Myôhô Sotetsu (Minh Phong Tố Triết, 1277-1350) và Gazan Jôseki (Nga Sơn Thiều Thạc, 1276-1366) mà còn soạn được Denkôku (Truyền Quang Lục, 1300) ghi lại thành tích truyền pháp của tông môn Sôtô.
Tuy nhiên, một mặt ông lại coi trọng thuyết ngũ vị và đưa khán thoại thiền (thiền công án) vào trong giáo lý của mình nghĩa là cổ xúy cho một tư tưởng khác lạ đối với Dôgen. Mặt khác, để có dịp thẩm thấu vào các tầng lớp dân chúng, ông tom góp luôn vào đó những yếu tố Mật Giáo và tín ngưỡng dân gian nữa. Như thế, lập trường của ông còn đi xa hơn, triệt để hơn lối suy nghĩ của Gikai (Nghĩa Giới), thầy ông. Có thể xem sự việc này đã bắt nguồn từ truyền thống của ngôi chùa mà Keizan dùng làm căn cứ (trước kia nơi đây là tự viện của tông Thiên Thai hệ phái Bạch Sơn), cũng như ảnh hưởng khuynh hướng "kiêm tu" của phái Hottô (Pháp Đăng) ông vốn đi lại thân thiết.
Điều đó có thể thấy qua việc Kohô Kakumyô (Cô Phong Giác Minh), người thuộc phái Pháp Đăng nhưng nhận được ấn khả từ Keizan (Oánh Sơn) và là một trong số vài đệ tử thân tín vì Kohô được Keizan kể vào nhóm "tứ môn nhân lục huynh đệ" mà ông đặt ra để hợp lực duy trì Yôkôji (Vĩnh Quang Tự) về sau. Do đó, ngay lúc Keizan đã qua đời rồi, Kohô vẫn ngầm vận động để thầy mình được ban tặng đạo hiệu thiền sư. Còn đối với Gazan Jôseki thì ông xin cho mình được đổi qua Sôtô-shuu (Tào Động Tông). Lại nữa, Kyôô Unryô (Cung Ông Vận Lương, 1267-1341) tuy là người phái Pháp Đăng nhưng vẫn thờ Keizan làm thầy. Hai bên giữ được sự thân thiết bền vững đến nỗi sau ông nhận mệnh của Keizan làm trụ trì chùa Daijôji (Đại Thừa Tự). Mối liên hệ giữa môn đệ của Keizan và phái Pháp Đăng vẫn còn tiếp tục mãi về sau. Như thế, ảnh hưởng của phái Pháp Đăng đến tư tưởng Tào Động có thể nói là cực kỳ to lớn.
Muốn nói gì thì nói, nhờ có cơ sở hoạt động do Keizan (Oánh Sơn) tạo ra mà Sôtô-shuu (tức Tào Động Nhật Bản) mới phát triển để thành được một đại giáo đoàn hùng hậu như ngày nay. Chúng ta không nên quên rằng vì muốn làm được điều đó, đồ đệ đồ tôn của Dôgen đã bắt buộc phủ nhận tài sản tinh thần của ông.
Ngoài ra cũng nằm trong giáo đoàn Sôtô-shuu và đã phát triển rộng rãi, ngang ngữa với hệ thống của Gikai (Nghĩa Giới) là môn phái của Kangan Giin (Hàn Nham Nghĩa Doãn, 1217-1300). Phái này đã rạch một ranh giới ảnh hưởng với hệ thống của Gikai ở Kyuushuu. Họ đóng chốt ở chùa Daijiji (Đại Từ Tự) vùng Higo (tỉnh Kumamoto), dùng nó làm bàn đạp để lan tỏa khắp hòn đảo miền nam nước Nhật. Đến đời Muromachi (1333-1568), môn phái này đã trở thành một lực lượng đáng kể, lấn mãi lên tận vùng Tôkai (ven biển phía nam Tôkyô).
Keizan Jôkin (Oánh Sơn Thiệu Cẩn)
Ông sinh năm 1268 ở vùng Fuchuu xứ Echizen. Năm lên 8 đã vào Eiheiji, xuất gia với Tettsuu Gikai (Triệt Thông Nghĩa Giới). Năm 13 tuổi thì đắc độ với Ejô (Hoài Trang). Từ 1285, lên đường tu học với nhiều danh sư như Jakuen (Tịch Viên) của tông Sôtô (Tào Động Nhật Bản), Tôzan Tanshô (Đông Sơn Đam (Trạm) Chiếu), Hakuun Egyô (Bạch Vân Huệ Hiểu) và Shinchi Kakushin (Tâm Địa Giác Tâm)...của tông Rinzai (Lâm Tế Nhật Bản). Năm 1295, lúc 28 tuổi, được mời đến Jômanji (Thành Mãn Tự) ở Anami (thuộc Fukushima) để khai sơn. Năm 1299, lúc 32 tuổi, nhận pháp tự của Gikai (Nghĩa Giới) và trở thành thủ tòa của Daijôji (Đại Thừa Tự) ở Kaga (tỉnh Ishikawa). Năm 1302, giữ chức trụ trì đời thứ hai của chùa này. Đến năm 1317, khai sơn Yôkôji (Vĩnh Quang Tự), năm 1321, Sôjiji (Tổng Từ Tự). Năm 1325, viên tịch ở Yôkôji lúc mới 58 tuổi. Ngoài những trước tác đã nói đến bên trên, còn có Tôkokuki (Động Cốc Ký, 1318-25), Zazen Yôjinki (Tọa Thiền Dụng Tâm Ký), Shinjinmei Nentei (Tín Tâm Minh Niêm Đề). Ông còn được biết đến như người đã xây thiền viện Tào Động đầu tiên dành cho nữ tu.
Tiết 3 - Lý do Thiền nhà Tống tìm được chỗ đứng ở Nhật.
Những vấn đề phải giải quyếtLý do Thiền nhà Tống tìm được chỗ đứng
Dưới triều Heian Thiền vẫn không bám sâu hơn triều Nara, phải đợi đến thời Kamakura, nó mới bắt đầu lôi cuốn được sự chú ý của mọi người và bắt rễ trong xã hội Nhật, nhất là đối với giai cấp trung tâm tức tầng lớp samurai. Lý do của sự hưng thịnh đó có thể giải thích bằng nhiều lý do:
Trước tiên, so với trước đây, phải nói là bản chất của Thiền đã thay đổi. Thiền của thời này là Tống Thiền tức là Thiền dưới triều Tống. Nó khác Thiền đời Đường rất nhiều. Thiền phát triển mạnh mẽ trong hoàn cảnh loạn lạc cuối đời Đường nên có màu sắc hoang dã. Đến thời Tống thì xã hội đã an định, chính quyền quân chủ chuyên chế, trung ương tập quyền, và mạng lưới quan liêu đã giăng ra, Thiền bắt buộc đi song đôi với chính quyền để duy trì sự hiện hữu của mình trong một xã hội đã được quản lý chặt chẽ. Thêm nữa, trước áp lực của thế lực quân sự những dân tộc kỵ mã phương bắc, Thiền không còn cách chọn lựa nào hơn là tích cực khẳng định quyền lực của vương triều tộc Hán, nhấn mạnh lòng ái quốc. Nói tóm lại, Thiền Tông phải tìm cách phát triển thế nào để không làm hại đến sự tồn vong của quốc gia.
Thứ đến, khi bị kềm kẹp bởi những qui chế như thế và du vào ngõ cụt, Thiền Tông không còn sức để phát triển ra ngoài. Thiền gia phải quay vào bên trong nghĩa là đặt trọng tâm vào việc tập trung suy nghĩ phương pháp tìm cho ra tâm cảnh giác ngộ (satori). Và từ đó đã phát sinh ra "thiền công án" (kôanzen), một hình thức tu học với phương pháp luận vừa rõ ràng vừa hiệu quả mà người thầy có thể hướng dẫn đệ tử trong thể nghiệm kiến tính. Hơn thế, phương pháp luận này lại dựa trên trạng thái tâm lý phổ quát của loài người cho nên cả người ngoại quốc vốn hấp thụ một nền văn hóa khác cũng có thể tiếp nhận dễ dàng. Vì lẽ đó, ta rất dễ trả lời câu hỏi tại sao Tống Thiền có nhiều thuận lợi khi được du nhập vào đất Nhật.
Thế nhưng không riêng vì mỗi một lý do Thiền đã thay đổi mà người Nhật tiếp nhận nó một cách dễ dãi hơn. Chính ra về phía kẻ tiếp nhận tức là người Nhật cũng đã có những thay đổi. Vào đúng thời điểm lịch sử đó, giới võ sĩ (samurai) đã thay thế giới quí tộc cung đình trong việc lãnh đạo xã hội. Đặc biệt, sự thực cho thấy giai cấp võ sĩ là những kẻ tiếp thu Tống Thiền trước nhất.
Cũng như những gì đã xảy ra bên Trung Quốc, ở Nhật cũng vậy, Thiền Tông đã thành công trong việc thu phục giai cấp tân hưng trong xã hội. Có thể giải thích sự thành công đó qua hai lý do:
1) Người samurai lấy việc chiến đấu làm lẽ sống và muốn biện minh cho lẽ sống đó, cần phải dựa vào một tôn giáo mới. Thiền Tông vốn là một tôn giáo của hành động nên đã ăn khớp với đòi hỏi của giai cấp võ sĩ.
2) Văn hóa Thiền Tông của người samurai giúp họ có một điểm tựa tinh thần để đối kháng văn hóa cung đình mà giới quí tộc, đối thủ của họ, rất tự hào.
Ngoài ra cũng không nên tác dụng của một yếu tố có tính ngẫu phát là hai lần giặc Nguyên (Genkô = Nguyên khấu) tấn công Nhật Bản. Sự xâm lăng của người Mông Cổ trên quê hương Trung Quốc đã thúc đẩy các danh tăng nhà Tống bỏ nước sang Nhật và tư tưởng mà họ mang theo là sự cổ xúy về lòng ái quốc và lòng trung thành với hoàng đế (nay chuyển qua Thiên hoàng). Nó trở thành thức ăn tinh thần không thể thiếu được cho người samurai đang đối mặt với hiểm họa giặc Nguyên.
Cho dù sự thực là Tống Thiền đã tìm được chỗ đứng của mình trên đất Nhật là nhờ sự đồng thuận của giới samurai mới hưng thịnh và sự liên kết của Thiền với Mật Giáo, phải nói rằng lúc bấy giờ, các giáo phái khác như Tịnh Độ Tông, Nhật Liên Tông, Tịnh Độ Chân Tông, gọi chung là "tân Phật Giáo Kamakura" đều hoạt động mạnh mẻ cả. Cho nên không thể phủ nhận việc phải có một lý do căn bản khác nằm ngoài những lý do vừa đưa ra. Để hiểu được vấn đề đó, có lẽ nên quan sát sự ra đời của Đạt Ma Tông do Đại Nhật Năng Nhẫn (Dainichi Nô.nin) khai sáng.
Như ta đã nhắc tới trong những trang trước, Dainichi Nô.nin cùng với Myôan Eisai là hai người được xem như đi tiên phong trong làng Thiền thời Kamakura và hoạt động của hai ông hầu như tương phản. Việc Eisai đem Thiền từ Trung Quốc về Nhật có thể là chuyện tình cờ nhưng đối với Nô.nin thì không phải vậy.Ông là người "vô sư độc ngộ", nhận ấn khả của thiền sư Trung Hoa là Chuyết Am Đức Quang chỉ qua lối "hàm thụ", nghĩa là ông phải nhờ đệ tử sang Trung Quốc du học đem thư trình bày hộ cho. Điều này chứng tỏ rằng ông đã thu nhận Thiền một cách tự nguyện. Chuyện ông "vô sư độc ngộ" thế nào, thật không ai nắm rõ. Tuy nhiên, trong tông phái Đạt Ma của ông, những sách vở được coi như nền tảng là Phá Tướng Luận, Ngộ Tính Luận, Huyết Mạch Luận (về sau được gọi là Đạt Ma Đại Sư Tam Luận hay sơ tổ tam luận) thường được in lại.Phá Tướng Luận, còn có tên Quán Tâm Phá Tướng Luận được xem là một cái tên khác của quyển Quán Tâm Luận, tác phẩm Thần Tú đã viết, đó là điều chúng ta cần chú ý. Như vậy, kể từ đời Heian trở về sau, những người đọc kỹ các văn bản Thiền Tông (như tăng Nô.nin), có thể dựa vào đó để tổ chức cuộc sống tu hành và tự đưa đường cho mình đến chỗ giác ngộ.
Như vậy, Nô.nin cũng như chư đệ tử đã nhìn thấy được giá trị của một số văn bản Thiền Tông đến lúc đó vẫn có ít ai quan tâm dù chúng cũng là sách vở truyền lại tự đời xưa. Phải nói rằng Nô.nin và học trò đã muốn đi tìm một lối tư duy mới khác với những gì người khác đã có cho đến bây giờ. Có thể hoàn cảnh chiến tranh liên tục từ cuối đời Heian (1185) trở đi đã làm cho người Nhật luôn luôn cảm thấy tính mạng bị đe dọa, nó bắt buộc họ phải đối đầu thường xuyên với vấn đề sinh tử. Tóm lại, có thể là đến thời điểm này, câu hỏi về lẽ sinh tử, tồn tại hay hư vô... mà Thiền Tông thường xuyên đặt ra mới mang một ý nghĩa thiết thân đối với người Nhật hơn trước.
Thế nhưng ít mấy ai hiểu được ý nghĩa của Thiền là triết lý để giải quyết những vấn đề tâm linh như thế. Trường hợp Thiên hoàng Kameyama chẳng hạn. Sở dĩ ông quy y với thiền sư Mukan Fumon (Vô Quan Phổ Môn) là vì muốn hàng phục yêu quái vẫn đến phá quấy ở điện chùa Senrinji (Thiền Lâm Tự) [19] . Rất nhiều người chỉ hâm mộ thiền tăng vì sức mạnh siêu nhiên của họ do sự tu hành khổ luyện, rồi hy vọng vào điều đó nên lâu lâu lại nhờ cậy họ tổ chức các buổi cầu đảo, cúng dường. Sôtô-shuu (tức Tào Động Nhật Bản) từ thời Keizan Jôkin (Oánh Sơn Thiệu Cẩn) trở đi, nhờ biết đem vào giáo lý của mình những yếu tố Mật Giáo và tín ngưỡng dân gian mà trở nên hưng thịnh. Sự thành công của tông phái ấy chỉ là do biết cách đáp lại lòng mong mỏi của đại chúng mà thôi.
Khó thể nói rằng điều đó thể hiện bản chất của tư tưởng Thiền Tông, thế nhưng dù rằng đi lệch đường chăng nữa, người ta cũng có khả năng chấp nhận nó dưới dạng tôn giáo. Ngoài ra, Thiền còn có thể được quan tâm từ bên ngoài phạm vi tôn giáo. Điều đó có nghĩa là người đương thời đã xem Thiền như là một yếu tố tiêu biểu cho văn hóa tiên tiến của Trung Quốc. Nhìn từ góc độ này thì cho dù là kẻ không có chút tư chất nào để hiểu về tôn giáo hay triết học cũng có thể bị lôi cuốn bởi sức hấp dẫn của Thiền. Đây là động cơ đã giúp cho Thiền được phổ cập sâu rộng. Có lẽ chỉ cần nhìn vai trò đảm nhiệm bởi năm chùa Gozan thời Muromachi thì đã đủ hiểu điều đó.
Những vấn đề đã lộ diện từ khi Thiền tìm được chỗ đứng
Kể từ lúc Thiền đời Tống du nhập vào, các chùa Nhật Bản cũng theo khuôn mà tổ chức những buổi thượng đường và vấn đáp. Từ đó mới thấy xuất hiện các tập ngữ lục ghi chép nội dung những trao đổi ý kiến. Có thể kể ra Shôichi Hôshi Hôgo (Thánh Nhất Quốc Sư Ngữ Lục) của Tôfuku Enni (Đông Phúc Viên Nhĩ), Đại Giác Thiền Sư Ngữ Lục của Lan Khê Đạo Long, Phật Quang Quốc Sư Ngữ Lục của Vô Học Tổ Nguyên, Daiô Kokushi Kana Hôgo (Đại Ứng Quốc Sư Ngữ Lục) của Nanpo Jômin (Nam Phố Thiệu Minh), Hottô Kokushi Hôgo (Đại Đăng Quốc Sư Ngữ Lục) của Shuuhô Myôchô (Tông Phong Diệu Siêu)...Trong số các tác giả tuy có những tăng lữ Nhật Bản nhưng nội dung các ngữ lục hoàn toàn viết bằng Hán văn. Và điều này là một vấn đề trọng đại khi câu hỏi "Người Nhật đã tiếp thu tư tưởng Thiền bằng cách nào?" được đặt ra.
Nếu là trường hợp các tăng sĩ đến từ Trung Quốc thì không nói làm chi nhưng vào thời bây giờ, trong số tăng sĩ Nhật Bản du học Trung Quốc về nước, có nhiều người thuyết pháp bằng tiếng Hoa như trường hợp Gesshin Keien (Nguyệt Tâm Khánh Viên) ở chùa Kenninji vào giữa thế kỷ 14. Nhân vì người nghe giảng là những tăng sĩ Nhật Bản không thông hiểu tiếng Hoa cho nên sự trao đổi giữa hai bên khó thể nói là không vấp váp. Cuộc vấn đáp khá nổi tiếng giữa Vô Học Tổ Nguyên và Kôhô Kennichi (Cao Phong Hiển Nhật) thực ra đã được diễn ra bằng bút đàm.
Ta có thể phỏng đoán rằng giữa các tăng sĩ Nhật Bản, trong trường hợp thuyết pháp hay vấn đáp, họ chắc đã sử dụng thuật ngữ trong tùng lâm đọc theo kunyomi (huấn độc hay lối đọc theo âm Nhật). Nếu thế thì sự trao đổi về mặt tư tưởng sẽ được thực hiện một cách dễ dàng. Thế nhưng khi chép lại thành ngữ lục bằng Hán văn, sự bất nhất giữa văn nói và văn viết sẽ lộ ra ngay. Nếu đối chiếu việc này vói những gì đã xảy ra lúc Thiền mới thành lập ở Trung Quốc, ta thấy nó rất trái ngược. Vào thời đó, người ta xem việc trở về với cuộc sống thường nhật và sử dụng ngôn ngữ hằng ngày để diễn tả tư tưởng là một sự chuyển hướng quan trọng mà Thiền đã mang lại.
Dĩ nhiên chúng ta biết rằng "giả danh pháp ngữ" nghĩa là lời thuyết giáo viết bằng văn tự kana, một loại ký hiệu biểu âm vay mượn Trung Quốc, đã xuất hiện từ rất sớm nhưng nó chỉ có mục đích giúp đỡ người không đọc dược chữ Hán hay giới phụ nữ chứ khó lòng kết luận các tăng sĩ đã có chủ tâm sử dụng phương tiện ấy một cách tích cực. Nói tóm lại, tư tưởng của thiền tăng Nhật Bản vào thời ấy chịu ảnh hưởng rất nặng nề của Thiền nhà Tống, trước sau nó chỉ rập khuôn chứ không có gì khác.
"Giả danh pháp ngữ" hay những tập thuyết giáo viết bằng quốc ngữ kana
Thiền tăng ngày xưa khi muốn trước tác để trình bày điều gì với bên ngoài thường sử dụng Hán văn. Tuy văn tự kana chỉ được thông dụng từ thời cận đại về sau mà thôi nhưng khi các vị ấy muốn truyền đạt cho người thường dân thì họ bắt buộc sử dụng văn tự kana. Những pháp ngữ bằng kana (giả danh pháp ngữ) viết ra dưới thời Kamakura và Muromachi còn được truyền lại là:
-Về tông Rinzai (Lâm Tế):Thánh Nhất Quốc Sư Pháp Ngữ của Tôfuku Enni,Pháp Đăng Quốc Sư Pháp Ngữ của Shinchi Kakushin, Đại Ứng Pháp Sư Giả Danh Pháp Ngữ của Nampo Jômin, Daitô Kokushi Kana Hôgo (Đại Đăng Quốc Sư Giả Danh Pháp Ngữ) của Shuuhô Myôchô, Koboku-shuu (Khô Mộc Tập, 1283) của Chigotsu Daie, Muuchuu Mondô-shuu (Mộng Trung Vấn Đáp Tập, 1344) của Musô Soseki, Wadei Gassui-shuu (Hòa Nê Hợp Thủy Tập, 1386) [20] và Enzan Kana Hôgo (Diêm Sơn Giả Danh Pháp Ngữ) của Bassui Tokushô (Bạt Đội Đắc Thắng, 1327-1387), Gaikotsu (Hài Cốt) và Ikkyuu Kana Hôgo (Nhất Hưu Giả Danh Pháp Ngữ) của Ikkyuu Sôjun (Nhất Hưu Tông Thuần, 1394-1481).
-Về tông Sôtô (Tào Động): Kômyôzô Sammai (Quang Minh Tạng Tam Muội) của Koun Ejô (Cô Vân Hoài Trang, 1198-1280), Tôkoku Kaizan Hôgo (Động Cốc Khai Sơn Pháp Ngữ) của Keizan Jôkin (Oánh Sơn Thiệu Cẩn), Chishuso ni atafuru hôgo (Dữ Trí Thủ Tòa Pháp Ngữ, 1336) của Myôhô Sotetsu (Minh Phong Tố Triết), Gazan Ôshô Hôgo (Nga Sơn Hòa Thượng Pháp Ngữ) của Gazan Jôseki (Nga Sơn Thiều Thạc).
Bản chép tay của các pháp ngữ kể trên đều đã được in ra vào thời Edo, duy Mộng Trung Vấn Đáp Tập và Hòa Nê Hợp Thủy Tập đã xuất bản lúc trứ giả hãy còn sống.
Về điểm này phái nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của Shôbô Genzô (Chính Pháp Nhãn Tạng) [21] của tăng Dôgen (Đạo Nguyên). Sách này viết bằng tiếng Nhật và với một văn thể độc đáo. Bởi vì tác giả đặt đối tượng độc giả là những người đã xuất gia cho nên trong nội dung đã triển khai một tư duy triết học ở trình độ cao. Qua đó ta tìm thấy bản chất con người, cá tính, giá trị quan, cái độc đáo của tư tưởng tác giả. Đặc biệt, ta thấy trong đó Dôgen đã chỉ trích mạnh mẻ và nghiêm khắc các quan điểm "Thiền Giáo nhất trí", "Thiền Tịnh song tu", "Công án Thiền" cũng như đưa ra nhận định độc sáng của mình về sự giải thích các công án, đặt câu hỏi về bản chất của Thiền và của Phật Giáo. Chỉ tiếc một điều là Sôtô-shuu, tông phái của ông, trên con đường phát triển đã không biết phát huy được những ý tưởng tân kỳ của ông.
Về Shôbô Genzô (Chính Pháp Nhãn Tạng)
Đây là tác phẩm cơ sở của Dôgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền, 1200-53). Ông đã có nhiều cơ hội giảng pháp và chư đệ tử thu thập lại trong nhiều tập pháp ngữ khác nhau.Nổi tiếng hơn cả có các tập Bendôwa (Biện Đạo Thoại), Genjô Kôan (Hiện Thành Công Án), Ikka Myôju (Nhất Khỏa[22]Minh Châu), Uji (Hữu Thì), Sansuikyô (Sơn Thủy Kinh), Busshô (Phật Tính) vv..., Buổi vãn niên, Dôgen có ý biên tập lại một công trình từ những quyển đó và thêm vào để đạt mục tiêu là được100 quyển nhưng giữa chừng lại qua đời (ông mất lúc mới 54 tuổi) nên ước vọng không thành. Về sau, các đệ tử đã sắp xếp các di cảo của ông dưới nhiều hình thức khác nhau, có cái 60, cái 75, cái 83 hay 84 quyển. Thời Edo, các đồ tôn ở chùa Eiheiji (Vĩnh Bình Tự), nơi ông từng trụ trì, mới biên tập lại 95 quyển và cho in thành bản Honzan (Bản sơn bản, 1816). Tuy nhiên, trải qua mấy trăm năm bị giữ kín, nó hầu như không được ai nghiên cứu, học hỏi nên coi như không để lại ảnh hưởng gì đến giới Phật Giáo cũng như văn hóa Nhật Bản. Sở dĩ Shôbô Genzô được mọi người chú ý là nhờ sự hưng thịnh của Shuugaku (Tông Học)[23]bắt đầu từ đời Edo mà thôi. Đặc biệt là kể từ thời cận đại trở đi, người ta mới bắt đầu khám phá ra tính độc sáng trong tư tưởng của ông. Dôgen còn viết một tác phẩm cùng tên nhưng bằng Hán Văn gọi là Shinji Shôbô Genzô (Chân Tự (= bằng mana hay chữ Hán) Chính Pháp Nhãn Tạng), trong đó ông thu thập những công án trích từ các sách khác. Quyển sách này có thể xem như tài liệu chuẩn bị cho Shôbô Genzô viết bằng tiếng Nhật sau đó.
Tư tưởng của Dôgen
Ông dựa vào tư tưởng gọi là honshô myôshuu hay "bản chứng diệu tu", trong đó "diệu tu" được biểu hiện qua việc zazen (tọa thiền), một hành động để người ta tìm ra con người có Phật tâm của mình (bản chứng) . Ông nhấn mạnh đến phương pháp shikantaza (chỉ quản đả tọa) nghĩa là chỉ có việc"ngồi xuống mà thiền thôi", không nương bám vào vật gì, không cần cả sự hổ trợ của các phương pháp như đếm hơi thở (sổ tức) hoặc quán (minh sát bằng trí huệ). Ông lại thuyết về sự cần thiết của hành động "xuất gia". Đứng trên lập trường coi trọng việc ngồi thiền, ông kịch liệt phê phán chủ trương của tăng Lâm Tế Trung Quốc là Đại Huệ Tông Cảo (1089-1163) [24] vốn lấy "kiến tính" (trực nhận chân lý) làm mục đích của sự tu học. Ông ghét hai chữ "kiến tính" đến nỗi Lục Tổ Đàn Kinh vì chứa đựng hai chữ này nên đã bị ông đánh giá là "ngụy thư". Theo ông, thế giới hiện ra trước mặt ta như một chân lý nên cứ thế mà trực tiếp tìm đến với nó. Đó là tư tưởng "hiện thành công án"[25] ông chủ trương. Ngay cả đối với các công án thông thường gọi là "cổ tắc công án", ông cũng đứng trên lập trường này mà đưa ra những giải thích riêng biệt của mình. Lại nữa, Dôgen không thích sự phân chia tông phái. Ông xem kiểu Thiền của mình là trực hệ của Phật Thích Ca (Phật pháp chính truyền) và phủ nhận giáo ngoại biệt truyền. Ông phê phán cả việc phân chia Thiền ra làm 5 nhà (ngũ gia), ông không thích những danh xưng tông này tông nọ, dù là Tào Động Tông hay Thiền Tông. Dĩ nhiên căn bản tư tưởng Thiền của Dôgen nằm trong sự thể nghiệm cá nhân nhưng mặt khác để hình thành lý luận đó, ông đã sử dụng cả tư tưởng Tendai (Thiên Thai, được xem như giáo lý Phật Giáo tiến xa nhất ở Nhật) lẫn thiền công án của Thủy Giác Môn [26] (hệ chủ lưu của Thiền Trung Quốc), hai phương pháp vốn hoàn toàn đối nghịch, cũng như tư tưởng mặc chiếu thiền...như những nhân tố. Nhìn vào đó, ta thấy rằng tuy trong hệ tư tưởng Thiền nhà Tống và trong lịch sử tư tưởng Nhật Bản, hãy còn có nhiều vấn đề cần bàn cãi, nhưng phải nhìn nhận Dôgen đã tìm ra một quan điểm độc đáo khi biết vượt lên trên những mâu thuẫn phía dưới [27]. Dĩ nhiên, với con mắt của người ngày nay, ta khó lòng khẳng định là lập luận của ông không có vấn đề nhưng khi đọc tác phẩm của Dôgen, ta đánh giá được ông là một nhà tư tưởng nghiêm túc, tinh tế mà cách suy nghĩ hiện thực ấy 700 năm sau vẫn còn hết sức gần gũi với chúng ta.
Hệ phổ Thiền Nhật Bản (1)
a- Chi lưu Myôan Eisai (tăng Nhật Bản du học Trung Quốc):
1 Myôan Eisai [28] (Minh Am Vinh Tây) -> 2 Eichô (Vinh Triều) -> 3 Zôsô Ryôyo (Tàng Tẩu Lãng Dự) -> 4 Jakuan Jôshô (Tịch Am Thượng Chiêu) -> 5 Ryuuzan Tokken (Long Sơn Đức Kiến) -> 6 Tenshô Ichirin (Thiên Tường Nhất Lân) -> 7 Kôsai Ryuuha (Giang Tây Lưu Phái). Đồng 2 Taikô Gyôyuu (Thái Canh Hành Dũng), 2 Myôzen (Minh Toàn).
b- Chi lưu Shinchi Kakushin (tăng Nhật Bản du học Trung Quốc):
1 Shinchi Kakushin (Tâm Địa Giác Tâm) -> 2 Kyôô Unryô (Cung Ông Vận Lương) -> 3 Zetsugan Unki (Tuyệt Nham Vân Kỳ). Đồng 2 Kôzan Jishô (Cao Sơn Từ Chiếu). Đồng 2 Kohô Kakumyô (Cô Phong Giác Minh) -> 3 Bassui Tokushô (Bạt Đội Đắc Thắng) -> 4 Shun.ô Reizan (Tuấn Ông Lệnh Sơn) , đồng 4 Kessô Jigen (Kiệt Tẩu Tự Huyền) -> 5 Zettsugaku So.nô (Tuyệt Học Tổ Năng). Đồng 3 Jiun Myôi (Từ Vân Diệu Ý). Đồng 3 Koken Chinô (Cổ Kiếm Trí Nạp) -> 4 Taigan Nôshuu (Đài Nham Năng Tú).
c- Chi lưu Dainichi Nô.nin (tăng Nhật Bản tự tu tự học trong nước):
1 Dainichi Nô.nin (Đại Nhật Năng Nhẫn) -> 2 Tôzan Kakuan (Đông Sơn Giác Án) -> 3 Ekan (Hoài Giám).
d- Chi lưu Lan Khê Đạo Long (tăng từ Trung Quốc sang Nhật):
1- Lan Khê Đạo Long (Rankei Dôryuu) -> 2 Dôgen Dôhon (Đồng Nguyên Đạo Bản) -> 3 Ryôdô Soan (Liễu Đường Tố An) -> 4 Daigyô Tôkki (Đại Nghiệp Đức Cơ) ...........Ishin Shuuden (Dĩ Tâm Tông Truyền). Đồng 2 Yakuô Tôken (Ước Ông Đức Kiệm) -> 3 Jakushitsu Genkô (Tịch Thất Nguyên Quang) ->Yaten Eishaku (Di Thiên Vĩnh Thích). Đồng 2 Bikô Dônen (Vi Hàng Đạo Nhiên). Đồng 2 Tôkei Tokugo (Đào Khê Đức Ngộ).
e- Chi lưu Nanpo Jômin (tăng Nhật Bản du học Trung Quốc):
1- Nanpo Jômin (Nam Phố Thiệu Minh) -> 2 Shuuhô Myôchô (Tông Phong Diệu Siêu)-> 3 Tettô Gikyô (Triệt Ông Nghĩa Hưởng, xem tiếp hệ phổ 2). Đồng 3 Kanzan Egen (Quan Sơn Huệ Huyền, xem tiếp hệ phổ 2). Đồng 2 Butsugai Kajuu (Vật Ngoại Khả Thập), đồng 2 Kaô Sônen (Kha Ông Tông Nhiên).
f- Chi lưu của Nhất Sơn Nhất Ninh (tăng từ Trung Quốc sang Nhật):
1- Nhất Sơn Nhất Ninh (Issan Ichinei) -> 2 Sesson Yuubai (Tuyết Thôn Hữu Mai) -> Taisei Sôi (Thái Thanh Tông Vị, xem tiếp hệ phổ 2). Đồng 2 Kankei Ryôsô (Quan Khê Lương Thông) -> 3 Tenjuu Ryuusai (Thiên Trụ Long Tế) ->4 Ten.in Ryuutaku (Thiên Ẩn Long Trạch).
g- Chi lưu Tôfuku Enni (tăng Nhật Bản du học Trung Quốc):
1 Tôfuku Enni (Đông Phúc Viên Nhĩ) -> 2 Tôzan Tanshô (Đông Sơn Đam (Trạm) Nhiên) -> 3 Kokan Shiren (Hổ Quan Sư Luyện). Đồng 2 Mukan Fumon (Vô Quan Phổ Môn)..........--> Keian Genjuu (Quế Am Huyền Thụ). Đồng 2 Nanzan Shiun (Nam Sơn Sĩ Vân) -> 3 Kempô Shitan (Càn Phong Sĩ Đàm). Đồng 2 Zôzan Junkuu (Tàng Sơn Thuận Không) -> 3 Daidô Ichii (Đại Đạo Nhất Dĩ). Đồng 2 Mui Shôgen (Vô Vi Chiêu Nguyên). Đồng 2 Hakuun Egyô (Bạch Vân Huệ Hiểu) -> 3 Kyoshitsu Kihaku (Hư Thất Hy Bạch)......-> Kiyô Hôshuu ( Chi Dương Phương Tú) -> Zôsen Kaigen (Tượng Tiên Hội Nguyên) -> Seigan Shôtetsu (Thanh Nham Chính Triệt). Đồng 3 Chikuzan Shigen (Trúc Sơn Chí Nguyên). Đồng 2 Chigotsu Daie (Si Ngột Đại Huệ). Đồng 2 Mujuu Dôgyô (Vô Trú Đạo Hiểu).
h- Chi lưu Vô Học Tổ Nguyên (tăng từ Trung Quốc sang Nhật):
1 Vô Học Tổ Nguyên (Mugaku Sôgen) -> 2 Kôhô Kennichi (Cao Phong Hiển Nhật) -> 3 Muusô Soseki (Mông Song Sơ Thạch, xem tiếp hệ phổ 2). Đồng 3 Tengan Ekô (Thiên Ngạn Huệ Quảng). Đồng 3 Taihei Myôjun (Thái Bình Diệu Chuẩn) -> 4 Daiki Hôkin (Đại Hỷ Pháp Hân) -> 5 Isen Hôei (Vĩ Tiên Phương Duệ) . Đồng 2 Ittô Ingô (Nhất Ông Viện Hào). Đồng 2 Kian Soen (Quy Am Tổ Viên).
i- Chi lưu Enkei Soô (tăng Nhật Bản du học Trung Quốc):
1 Enkei Soô (Viễn Khê Tổ Hùng) -> 2 Ryôan Gengo (Liễu Am Huyền Ngộ) ............-> Genseki Shakkei (Huyền Thất Thích Khuê) -> Ikke Sekiyuu (Nhất Hoa Thạc Do, xem tiếp hệ phổ 2).
j- Chi lưu Eihei Dôgen (tăng Nhật Bản du học Trung Quốc):
1 Eihei Dôgen (Vĩnh Bình Đạo Nguyên) -> 2 Koun Ejô (Cô Vân Hoài Trang) -> 3 Keizan Jôkin (Oánh Sơn Thiệu Cẩn) -> 4 Myôhô Sotetsu (Minh Phong Tố Triết, xem tiếp hệ phổ 2). Đồng 4 Gazan Jôseki (Nga Sơn Thiều Thạc, xem tiếp hệ phổ 2). Đồng 3 Gien (Nghĩa Diễn). Đồng 3 Hôkei Jakuen (Bảo Khánh Tịch Viên) -> 4 Gi.un (Nghĩa Vân) ......-> Kenshi (Kiến Ty). Đồng 3 Kangan Giin (Hàn Nham Nghĩa Doãn) -> Ninsô Jôki (Nhân Tẩu Tịnh Hi) -> Nôô Gen.e (Năng Ông Huyền Huệ).........-> Ban.an Eishuu (Vạn An Anh Chủng) -> Raizen Shunnyuu (Lại Thiền Thuấn Dung) -> Ryuuban Shôun (Long Bàn Tùng Vân) -> Baihô Jikushin (Mai Phong Trúc Tín). Đồng 4 Tetsuzan Shian (Thiết Sơn Sĩ An). Đồng 2 Ryônen Hômyô (Liễu Nhiên Pháp Minh). Đồng 2 Sen.e (Thuyên Huệ) -> 3 Keigô (Kinh Hào)
Địa lý Thiền Nhật Bản (1)
Chủ yếu thời này các chùa Thiền tập trung trên đảo Honshuu, vùng Kamakura, nơi có mạc phủ, vùng Echizen Echigo, ven biển Nhật Bản và nhìn về phía đại lục, cũng như khu vực Kyôto-Nara, chung quanh những kinh đô mới và cũ. Phía bắc đảo Kyuushuu (hướng đại lục) cũng có một số chùa.
Miền đông đảo Honshuu:
Vân Nham Tự (Hiển Nhật trụ trì). Vùng Echizen Echigo: Tổng Trì Tự, Vĩnh Quang Tự, Đại Thừa Tự, Vĩnh Bình Tự (Đạo Nguyên), Ba Trước Tự, Trường Lạc Tự (Vinh Triều) Vĩnh Nguyên Tự (Nguyên Quang). Vùng Kamakura: Thọ Phúc Tự, Kiến Trường Tự, Viên Giác Tự, Vạn Thọ Tự.
Miền tây đảo Honshuu:
Vùng Kyôto: Tỷ Duệ Sơn (Tối Trừng, Giác A trụ trì), Cao Nguyên Tự (Tổ Hùng), Tam Bảo Tự (Năng Nhẫn), Đàn Lâm Tự (Nghĩa Không), Kiến Nhân Tự, Tông Phúc Tự, Tuyền Dũng Tự, Đại Đức Tự, Nam Thiền Tự, Tam Thánh Tự (Đam Nhiên), Hưng Thánh Tự (Đạo Nguyên), Vĩnh Hưng Tự (Thuyên Huệ, Kinh Hào), Vĩnh Nguyên Tự (Quang Nguyên). Vùng Nara: Bình Thành Kinh Đại An Tự (Đạo Tuyền), Phi Điểu Pháp Hưng Tự (Đạo Chiêu), Đa Vũ Phong, Cát Dã Tỉ Tô Sơn Tự (Đạo Tuyền), Cao Dã Sơn Kim Cương Tam Muội Viện (Hành Dũng), Hưng Quốc Tự (Giác Tâm), An Dưỡng Tự (Đại Huệ).
Miền nam ( đảo Kyuushuu):
Tỉnh Fukuoka: Thừa Thiên Tự (Viên Nhĩ trụ trì), Thánh Phúc Tự (Vinh Tây), Sùng Phúc Tự (Thiệu Minh). Đại Từ Tự (Nghĩa Doãn)
---------------
[1] - Unkei (Vận Khánh) là nhà điêu khắc sống đầu đời Kamakura (1185-1333) với nét búa đẽo mạnh mẽ và tả thực. Ông còn để lại nhiều tác phẩm như các tượng Phật ở chùa Kôfukuji và tượng thần hộ pháp ở đông đại môn chùa Tôdaiji.
[2] - Keiha (Khánh phái): trường phái điêu khắc có từ cuối đời Heian, hoạt động đến tận đời Edo. Họ chuyên môn tạc tượng Phật. Cuối đời Heian sang đầu đời Kamakura, những người trong bọn có tên tuổi đều đặt hiệu với chữ Kei (Khánh) như Kôkei (Khang Khánh, Unkei (Vận Khánh), Kaikei (Khoái Khánh) vv...
[3] - Kujô Michiie (Cửu Điều ĐạoGia, 1193-1252), quí tộc họ Fujiwara và đại thần đầu triều (kiêm nhiệm Nhiếp Chính & Quan Bạch & Thái Chính Đại Thần) đầu đời Kamakura. Người bảo trợ cho Enni.
[4] - Hôjô Tokiyori (Bắc Điều Thì Lại, 1227-1268) chức chấp quyền (shikken) của mạc phủ Kamakura, phụ chính cho Shôgun. Mẹ ông cũng là người xuất gia, đạo hiệu là thiền ni Matsushita.Vào thời ông, quyền hành độc đoán của dòng họ Hôjô đã được vững mạnh. Sau xuống tóc, lấy hiệu là Đạo Sùng, thường đi khắp nước quan sát dân tình.
[5] - Shakuhachi vốn là một nhạc khí có từ đời Đường mà các tăng sĩ có tên là komusô (hư vô tăng) thuộc phái Thiền Phổ Hóa Tông (Fukeshuu) do tăng Phổ Hóa bên Trung Quốc sáng lập, thường hay thổi khi họ trên đường du hành từ vùng này sang vùng khác. Tương truyền phái ấy bắt đầu có ở chùa Tôfukuji (Nhật Bản) với Kakushin từ năm 1254.
[6] - Bản giác (hongaku) là trí huệ giác ngộ thanh tịnh vốn có sẵn nơi chúng sinh, nếu tu hành thì bản giác ấy sẽ hiện ra (hiện tượng gọi là thủy giác). Đối nghịch với bất giác.Nguyên là điều chép trong Đại Thừa Khởi Tín Luận. Tư tưởng bản giác là một trào lưu tư tưởng của phái Thiên Thai thời trung cổ Nhật Bản, chủ trương bản giác có thể hiện ra ngay trong cuộc đời này (hiện thế bản giác khẳng định thuyết).
[7] - Hoa Nghiêm là một tông phái Phật giáo Đại Thừa đã được Thẩm Tường truyền từ Trung Quốc qua Nhật năm 740. Đại sư người Nhật đầu tiên của Hoa Nghiêm là Ryôben (Lương Biện, 689-722).(TĐPH, Đạo Uyển)
[8] - Hôjô Tokimune (Bắc Điều Thì Tông) là con trai Tokiyori, thường được gọi là Sagami Tarô. Năm 1274, 23 tuổi, đã lãnh đạo đẩy lui giặc Nguyên Mông trên bờ biển Hakata (Kyuushuu). Năm 1281, lại đắp lũy ở Bắc Kyuushu, phòng chống được Nguyên Mông lần thứ hai. Đã dựng Enkakuji (Viên Giác Tự) và mời thiền sư Vô Học Tổ Nguyên từ Tống sang khai sơn. Chết năm mới 33 tuổi.
[9] - Gokenin (ngự gia nhân) đời Kamakura và Muromachi có nghĩa là tầng lớp samurai đời đời thân cận với gia đình Shôgun.
[10] - Tokuseirei (đức chính lệnh): Lệnh trả lại mà không cần bồi thường cho địa chủ (trong trường hợp này là gokenin) số đất đai đã cầm cố cho mạc phủ với mục đích cứu họ ra khỏi cảnh túng bấn.
[11] - Jimyôin và Daikakuji đều là tên những ngôi chùa trong thành phố Kyôto. Hoàng tộc thường có người ra đấy tu, nhất là sau khi họ lìa khỏi chính trường. Dòng Jimyôin gọi là dòng Bắc Triều, dòng Daikakuji là dòng Nam Triều (gồm cả các Thiên Hoàng hiện đại).
[12] - Nam mộc có nghĩa là "gỗ lim". Tên đúng như người, đối với dân Nhật, Kusunoki là biểu tượng của người samurai trung quân ái quốc mọi thời.
[13] - Mật Am Hàm Kiệt, Phá Am Tổ Tiên và Tùng Nguyên Sùng Nhạc đều là môn đồ tông Lâm Tế phái Hổ Khâu của Hổ Khâu Thiệu Long. Riêng Daibutsu Nônin và Chuugan Engetsu học với phái Đại Huệ của Đại Huệ Tông Cảo nhưng cũng thuộc tông Lâm Tế.
[14] - Người khai sáng và shôgun đầu tiên của Mạc phủ Muromachi (1338-1568). Họ này vốn là một chi của dòng họ Minamoto. Sau loạn năm Genkô (1331), Takauji theo phò hoàng thất, lập chính quyền mới thời Kenmu (Kiến Vũ,1334-38) dưới trướng Thiên hoàng Kômyô (Quang Minh, thứ 2 của Bắc Triều). Được phong Chinh Di Đại Tướng Quân năm 1338.
[15] - Tên người Trung Quốc, Triều Tiên gọi cướp biển ở vùng duyên hải của họ hay nhắm những tàu thuyền mậu dịch. Nụy ám chỉ người Nhật tuy thực ra nguồn gốc đa dạng hơn ta tưởng.
[16] - Nomori no Kagami nghĩa là "cái kính của người đi săn" theo tích Thiên hoàng Yuryaku thời cổ (hậu bán thế kỷ thứ 5) lúc đi săn, theo dấu con chim ưng trốn thoát đã tìm ra nó nhờ thấy bóng nó in trên gương nước hồ. YÙ nói "thấy được cái đáng lý khó lòng nhận ra".
[17] - Có nơi chép là "Thả hỉ" thay vì "Hỉ đắc".
[18] - Chùa đại bản sơn của phái Myôshinji (Diệu Tâm Tự) thuộc tông Rinzai (Lâm Tế Nhật Bản) ở Kyôto, xây năm 1337, trước đó cũng là một ly cung của Thái thượng hoàng Hanazono.
[19] - Tên chính thức của Eikandô (Vĩnh Quán Đường), chùa tổng bản sơn phái Tào Động Nhật Bản ở Kyôto, xây năm 855.
[20] - Còn có thể gọi là "hợp thủy hòa nê" (nhào trộn bùn với nước) nghĩa là phương pháp sử dụng lời lẽ để làm rõ thiền lý.
[21] - Tên sách có nghĩa là "con mắt thấu suốt chân lý bao hàm trong mọi hiện tượng". Nhãn = con mắt, tạng (tàng) : bao trùm cất giữ , chinh pháp = "chân lý"
[22] - Khỏa có nghĩa là hạt. Nhất khỏa minh châu = một hạt minh châu.
[23] - Môn học chuyên nghiên cứu giáo lý của các tông môn danh tiếng.
[24] - Đại Huệ Tông Cảo nhận pháp tự của Viên Ngộ Khắc Cần, tác giả Bích Nham Lục. Ông là một nhà tư tưởng lớn của tông Lâm Tế, có công phổ biến thiền công án. Ông phê phán mặc chiếu thiền của Hoằng Trí Chính Giác và bị Dôgen phê phán ngược lại.
[25] - Hiện thành là cái bày ra trước mắt, chỉ có mình thấy được nó là gì, không cần đi tìm ở đâu xa.
[26] - Phái chủ trương cho rằng người ta tự lúc đầu đã có sẳn khả năng giác ngộ rồi.
[27] - Giáo sư Ibuki dùng chữ shiyô (chỉ dương. Chỉ = ngừng, dương = đưa lên, một từ Nhật tương đương với khái niệm gọi là Aufheben trong triết học Hegel. Đại ý nói trong biện chứng pháp, khi vượt những mâu thuẫn cấp dưới để tiến lên trên thì những gì thực hiện ở bên trên đã bao gồm cả những mâu thuẫn ở phía dưới rồi.
[28] - Gạch dưới là những nhân vật được biết đến nhiều.
[ chương trước ] <- -> [ chương sau ]