Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
[ Tác giả ]
|
Biên soạn: Nguyễn Nam Trân PHẦN IV : THỜI TAISHÔ CHO TỚI NAY |
|
Tiết 1 - Phong trào bảo vệ hiến pháp và cuộc chính biến thời Taishô: |
1.1
Cuộc "đình công" của lục quân:
Ngày 30 tháng 7 năm 1912 (Meiji 45), Thiên hoàng Meiji băng hà, Thiên hoàng Taishô (Đại Chính) tức vị. Ngày đưa ma ông, Tư lệnh quân đoàn 3 trong trận Lữ Thuận là Đại tướng Nogi Maresuke đã tuẫn tử theo chủ. Qua hai sự kiện xảy ra đồng một lúc như thế, dân chúng cảm thấy rõ ràng sự cáo chung của một thời đại. Họ bắt đầu chờ đợi xem sẽ có gì thay đổi lớn hay không. Bên nước láng giềng Trung Quốc kia thì vào năm 1911 (Meiji 11) đã xảy ra cuộc cách mạng Tân Hợi. Thanh triều sụp đổ, lãnh tụ Tôn Văn (Sun Wen, 1868-1925) khai sáng Trung Hoa Dân Quốc, một nhà nước dân chủ. Điều này cũng là một yếu tố thúc đẩy niềm hy vọng dân chủ đó nơi người Nhật. Thiên hoàng Taishô (Yoshihito, 1879-1926) Đương thời, lúc Thiên hoàng Meiji qua đời thì Nhật Bản đang ở trong giai đoạn chính trị thỏa hiệp giữa chính đảng và phiệt tộc (phiên phiệt & quí tộc). Chính quyền Katsura và Saionji nối tiếp nhau cai trị nước Nhật, tạo nên một thời đại gọi là Quế (Katsura) Viên (Saionji). Đó là một thời đại mà chính trị trở thành khuôn sáo (mannerism), thiếu nội dung và thực chất. Thu chi quốc tế thâm thủng trầm trọng làm cho cả nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng. Lý do là trong tương quan mậu dịch, khuynh hướng nhập siêu của Nhật Bản vẫn kéo dài không lối thoát, còn như tài chánh thì lại phải tập trung vào việc bồi hoàn số công trái phát hành và bán ra nước ngoài (ngoại trái) để có tiền trang trải kinh phí thời Chiến tranh Nhật Nga. Thêm vào đó, lời hiệu triệu quốc dân hãy "nằm gai nếm mật" trong thời chiến, hứa bắt họ chịu đựng gian khổ một lúc, nay không còn ý nghĩa nữa bởi vì dù chiến tranh đã chấm dứt mà dân chúng cứ phải oằn vai gánh thêm phụ đảm tô thuế. Chính phủ vẫn còn cần tiền để khuếch trương quân bị nên tiếp tục đòi hỏi sự cố gắng của quốc dân, làm cho họ hết chịu đựng nổi và bắt đầu bực tức. Như thế, bước vào thời Taishô, quần chúng Nhật Bản hầu như chia sẻ chung một tình cảm bế tắc, ngột ngạt. Trong lòng, ai nấy đều nghĩ rằng thời đại mới này cần có một cuộc cải cách đại qui mô như tiền nhân Meiji đã làm, nếu không nói là phải làm một cuộc Duy Tân thứ hai. Về những phong trào của thời đại này, thông qua những sự kiện sẽ tường thuật sau đây, ta thấy chúng đều hướng về một mục đích là tạo ra một sự thay đổi chính trị có tên là "chính biến thời Taishô" (Taishô seihen, Taishô political change) [1] mà trung tâm là cuộc tranh đấu để bảo vệ hiến pháp (hộ hiến). Khi niên hiệu đổi từ Meiji qua Taishô, chính quyền đang nằm trong tay Chủ tịch Lập Hiến Chính Hữu Hội (Rikken Seiyuukai) là Saionji Kinmochi. Để tái kiến tình hình tài chánh đang suy thoái do khủng hoảng kinh tế sinh ra, Saionji đã thi hành một chính sách kiệm ước bằng cách dời lại những công trình tiêu pha công cộng, cùng lúc quyết tâm siết chặt tài chánh và chỉnh lý tương quan giữa hành chính và tài chính. Chính vì thế mà trong bất cứ lãnh vực nào của ngân sách thường niên kế tiếp, ông cũng cho cắt đến nơi đến chốn những khoản chi tiêu hoang phí. Và ông không dành một ngoại lệ nào dù là cho quân đội. Cách xử sự của chính phủ Saionji như thế đã gây ra sự bất bình trong hàng ngũ quân nhân. Tổng trưởng lục quân là Uehara Yuusaku (Thượng Nguyên, Dũng Tác) [[2] được lục quân ủy thác trình bày nguyện vọng "để có thể cai trị được Triều Tiên, cần phải thành lập thêm hai sư đoàn mới và lục quân đang chờ đợi một món tiền dùng vào việc đó". Giữa nội các, nghị luận trong chiều hướng ấy của Uehara xung đột với ý kiến của đa số đồng liêu chủ trương kiệm ước nên bị phủ quyết. Bản thân Thủ tướng Saionji cũng từng ra tuyên bố: "Dù nội các có phải đổ cũng mặc. Không thể nào đưa kinh phí thành lập hai sư đoàn vào trong ngân sách cho năm sau được!". Hình như trong câu trả lời hàm ý một thỏa hiệp: "Nếu đợi thêm một năm nữa thì có khi sẽ xét lại". Nhưng đại tướng Uehara Yuusaku đã nổi giận trước câu trả lời của Thủ tướng Saionji và thượng tấu trực tiếp đến Thiên hoàng Taishô, phê phán ông ta: "Nội các Saionji không ý thức được vấn đề bảo vệ an ninh của quốc gia!", thế rồi một mình tự động từ chức Tổng trưởng Lục quân. Việc Đại tướng Uehara bỏ việc như thế làm cho chức Tổng trưởng lục quân khuyết người.Thủ tướng Saionji bèn nhờ bộ tham mưu lục quân và một vị nguyên lão có ảnh hưởng lớn đối với họ là cựu thủ tướng Yamagata Aritomo tìm giúp một ai khác điền vào chức đó. Chế độ đương thời đòi hỏi người đứng đầu một bộ liên quan đến vấn đề quốc phòng như Tổng trưởng lục quân hay hải quân bắt buộc phải là sĩ quan hiện dịch. Chức vị tổng trưởng lục quân giới hạn trong phạm vi sĩ quan cấp tướng như trung tướng hay đại tướng. Do đó nội các không thể cử một chính trị gia, quan chức hành chính hay nhân vật dân sự vào chức vị này được. Chế độ lúc đó đòi hỏi thủ tướng phải đi thăm dò trong quân đội xem ai là người có uy tín trong hàng ngũ của họ để bổ nhiệm. Tuy nhiên trước lời yêu cầu của Saionji, cả lục quân lẫn Yamagata đều không chịu đưa ra một tên tuổi nào. Rõ ràng là một hành động có tính chất phục thù đối với việc chính phủ đã không chịu chấp nhận yêu cầu ngân sách thành lập hai sư đoàn mới. Biến cố này thường được gọi là "Cuộc đình công của lục quân" (Rikugun no sutoraiki). Có lẽ người trong quân đội nghĩ rằng nếu họ cứ dùng dằng không chịu đề cử người kế nhiệm cho tướng Uehara thì sẽ làm cho nội các chọn giải pháp thỏa hiệp nghĩa là đánh đổi hai sư đoàn mới để lấy ông tổng trưởng mới chăng. Họ cũng có thể nghĩ rằng tùy tình hình, ta sẽ đánh đổ Saionji và thay vào đấy, một nội các biết nghe lời quân đội hơn. Nhưng dù thế nào đi nữa, việc lục quân "đình công" như thế về sau đã dẫn đến một biến cố ngoài sức tưởng tượng của người trong cuộc. Đó là việc nội các Saionji, sau khi bị lục quân làm khó dễ, đã không thèm thương lượng với các nhà lãnh đạo quân đội mà từ chức một lượt. Sỏ dĩ họ tổng từ chức một cách thoải mái như thế có lẽ muốn đổ lỗi cho quân đội trước mặt dư luận, cầm chắc rằng mọi người sẽ chê bai quân đội là chơi xấu và quay ra ủng hộ Rikken Seiyuukai. Họ đã tính toán rằng trong cuộc xung đột giữa hai bên, một bên là lục quân với các thế lực bảo thủ trong chính phủ như các nhóm phiên phiệt, quan liêu và quí tộc viện, một bên là chính đảng (Rikken Seiyuukai), thì chính đảng sẽ nắm lấy phần thắng và bành trướng được thế lực của mình. 1.2 Chính biến thời Taishô: Mặt khác, thấy được chiều hướng của dư luận trong nước, những người được các vị nguyên lão (genrô) - cố vấn tối cao bên cạnh thiên hoàng - thăm dò để đứng ra lãnh đạo chính quyền mới trong chức vụ thủ tướng đều khăng khăng từ chối. Điều này làm cho việc thành lập nội các trở thành khó khăn. Lúc đầu đã có phương án thành lập một nội các chỉ gồm những nhân vật xuất thân từ lục quân nhưng đề nghị này không đưa đến đâu. Cuộc khủng hoảng cứ thế mà tiếp tục vì không có người nào muốn đứng ra lãnh trách nhiệm. Các vị nguyên lão bí quá mới dò ý Saionji xem ông có muốn trở lại chức vụ hay không, nhưng lần này, Saionji đã từ khước một cách dứt khoát. Để thoát khỏi ngõ cụt, Yamagata và các nguyên lão khác mới kêu gọi đến Katsura Tarô (1848-1913), cũng là một con bài cũ. Lúc ấy Katsura mới vừa vào cung nhận chức Nội đại thần kiêm thị tùng. Dùng một nhân vật như Katsura lúc ấy dưới mắt bàn dân thiên hạ là "đem chuyện trong cung cấm trộn lẫn với chuyện ngoài đời" nghĩa là rối loạn kỷ cương. Chưa chi việc Katsura ra làm thủ tướng lần thứ ba đã sớm bị công kích kịch liệt. Hai chính đảng phản đối chính phủ - Rikken Seiyuukai (Lập hiến chính hữu hội) và Rikken Kokumintô (Lập hiến quốc dân đảng) - kết hợp tiếng nói đồng tình với mình trong dân chúng và tổ chức thành một phong trào phản kháng. Những người thuộc cánh lập hiến này và được lòng dân như Ozaki Yukio (Vĩ Kỳ, Hành Hùng, 1858-1954, của Rikken Seiyuukai) và Inukai Tsuyoshi (Khuyển Dưỡng, Nghị, 1855-1932, của Rikken Kokumintô) đã đứng ra đằng trước, giương cao khẩu hiệu "Đả đảo phiệt tộc [3], ủng hộ hiến chính". Họ mở những cuộc thảo luận trong vòng dân chúng ở các địa phương và sau đó đã dấy lên được một phong trào chống chính phủ. Các nhật báo cùng khuynh hướng chống chính phủ cũng đăng tải các ký sự và lời bình luận để ủng hộ lập trường cấp tiến ấy. Ngoài ra, trong khuôn khổ Kôjunsha (Giao tuân xã), một câu lạc bộ giao tế và thông tin của nhà tư tưởng và giáo dục Fukuzawa Yukichi gồm những cựu sinh viên tốt nghiệp Đại học Keiô, những nhà buôn, nhà kỹ nghệ, ký giả, chính trị gia và người trí thức...), nhóm có tên Kensei Yôgokai ( Hiến chính ủng hộ hội) đã được thành lập. Hiến chính có nghĩa là nền chính trị dựa trên cơ sở hiến pháp. Kết quả là phong trào này (thường được biết dưới cái tên là Cuộc vận động ủng hộ hiến chính lần thứ nhất", gọi tắt là Goken 1 (Hộ hiến 1) đã phát động một cách cực kỳ nhanh chóng. Hai chính đảng lập hiến nói trên như thế đã dồn nội các Katsura 3 vào bước đường cùng, bắt buộc họ không cách nào khác hơn là rút lui. Trước tình thế đó, Katsura đã mở cuộc họp báo và tuyên bố sẽ thành lập một chính đảng mới. Trong cấu tưởng của Katsura, ông muốn đoàn kết tất cả các chính đảng về phe với chính quyền lại, kêu gọi sự gia nhập của một số nghị sĩ thuộc nhóm hiến chính đang bất mãn và muốn bỏ đi. Như thế, Katsura nghĩ ông sẽ có một chính đảng mới mạnh mẽ, nắm được đa số quá bán ở quốc hội (hạ viện). Tuy thừa tự tin trước khi hành động nhưng kế hoạch của ông đã hoàn toàn thất bại. Số nghị sĩ trả lời đi theo ông chỉ có 93 người, nghĩa là một nhóm nhỏ chưa đạt được 1/4 ghế trong quốc hội. Thêm vào đó, chẳng có một nghị sĩ hiến chính tỏ ra bất mãn đến độ chạy qua phía ông như Katsura đã dự tưởng một cách quá lạc quan. Vì chuẩn bị cho đảng mới của mình, Katsura đình chỉ các phiên họp của quốc hội và họ chỉ họp lại vào ngày 5 tháng 2 năm 1913 (Taishô 2). Ngày hôm đó, hàng vạn người đã tụ tập chung quanh tòa nhà quốc hội, trên ngực gắn hoa hồng trắng như một thứ huy chương để nhiệt liệt chào đón các nghị sĩ hai chính đảng hiến chính bước vào hội trường. Trong kỳ họp nói trên, Ozaki Yukio đã đọc một bài diễn văn nổi tiếng công kích nội các Katsura. Bài diễn văn nêu lý do tại sao bất tín nhiệm chính phủ đó xuất hiện trong số đặc biệt của công báo tháng 2/1913 đã được nhiều sách giáo khoa về lịch sử in lại như sau: Bọn các ông (chính quyền phiệt tộc của Katsura) thường ngày khi mở miệng nói ra giọng điệu lúc nào cũng là trung quân ái quốc nhưng nhìn mặt mới biết các ông xem điều đó như độc quyền của mình. Qua hành động, rõ ràng các ông chỉ núp bóng bệ ngọc (thiên hoàng), nhất cử nhất động đều nhằm công kích một cách thô bạo và khiếp nhược đối thủ chính trị (có nhiều tiếng vỗ tay). Các ông lấy bệ ngọc (thiên hoàng) làm chiếc khiên che ngực, dùng sắc chiếu như những hòn đạn để bắn ngã các đối thủ chính trị là chúng tôi đây. Này thủ tướng Katsura, nếu ông ngồi cho được vào cái ghế của mình xong rồi mới bắt tay vào việc tổ chức chính đảng thì đó là ông khinh thị hiến pháp và chẳng hiểu ý nghĩa của nó là gì đấy nhé. Vậy trước tiên phải tổ chức chính đảng, phát triển đảng của mình trong chiều hướng mà dư luận quốc dân mong đợi rồi sau đó lập ra nội các. Đó mới là cung cách thường tình.
Khi Ozaki đọc diễn văn như vậy thì cả hội trường tưởng chừng muốn vỡ ra vì những tiếng vỗ tay. Hơn nữa, sau khi chấm dứt bài diễn văn, ông còn hướng về phía Katsura ngồi và ra dấu khoát tay. Người ta kể lại là khuôn mặt của thủ tướng lúc ấy xám ngoét. Thực ra, đúng như lời Ozaki công kích, Katsura đã nhiều phen cầu cạnh sự chi viện của Thiên hoàng Taishô để có thể thành lập nội các một cách khiên cưỡng. Trước tiên, lúc mới được bổ nhiệm vào chức Thủ tướng, để né tránh những lời phê bình của mọi người, ông đã xin thiên hoàng hạ một sắc chiếu nói rõ là mời ông ra cầm đầu chính phủ. Đến khi việc bổ nhiệm (Đô đốc) Saitô Makato làm Tổng trưởng Hải quân trong chính phủ của ông bị bác, ông cũng đến thưa với thiên hoàng xin hạ một sắc chiếu khác để đưa cho bằng được Saitô vào chức vụ đó.Vì những thủ đoạn thiếu dân chủ như vậy nên Ozaki mới giận lên và chê là "không được sạch sẽ". Thế nhưng trước những cáo buộc của Ozaki, Katsura vẫn không hề lay chuyển. Hôm nghị hội tuyên bố bất tín nhiệm mình, ông lại ngừng phiên họp thêm một lần thứ hai trong vòng 5 ngày, và 4 hôm sau, lại chạy đến gặp Thiên hoàng Taishô xin giúp đỡ. Ngày 9 tháng 2, Thiên hoàng Taishô đã cho gọi Chủ tịch Rikken Seiyuukai là Saionji Kinmochi đến phán: "Ông là nhân vật quan trọng của nhà nước. Xin hiểu dùm cương vị của trẫm mà nỗ lực giải quyết những vụ hỗn loạn đang xảy ra". Ý thiên hoàng muốn ngầm bảo Saionji phải đi đến một thỏa hiệp với Katsura và rút lại nghị án bất tín nhiệm chính phủ. Dĩ nhiên sau lưng thiên hoàng còn có nhóm tộc phiệt. Như vậy rõ ràng là Katsura đã nấp đằng sau bệ ngọc (ngai vàng, chỉ thiên hoàng) để tung ra những cú đấm về phía đối phương. Đương thời, thiên hoàng có một tiếng nói hầu như tuyệt đối. Do đó, nhóm các ông Saionji một khi đã tiếp sắc chiếu thì không biết làm gì hơn là tuân theo. Lúc đầu quả thật là như vậy nhưng lần hồi, cùng với phong trào ủng hộ hiến chính lên cao độ, mọi người kể cả những đảng viên bình thường cũng đã quyết tâm đấu tranh trực diện với Katsura nên không còn tuân thủ mệnh lệnh.Và tình huống này không còn có thể khiến họ đi thụt lùi được nữa. Điều này khiến cho Saionji khổ tâm. Ông biết phong trào đã lên đến đỉnh cao, không thể nào bắt mọi người ngừng lại. Tuy nhiên, lấy thái độ như thế sẽ làm mất mặt thiên hoàng. Với tư cách là chủ tịch đảng lại là một công khanh, ông thấy không thể nào làm khác hơn là từ chức. Sau khi Saionji ra đi, nhóm Rikken Seiyuukai thấy như thoát ra khỏi sự ràng buộc của thiên hoàng. Từ đó, họ mới có thể hành động một cách tự do. Cùng với Rikken Kokumintô, lần này họ chĩa mũi dùi tấn công kịch liệt chính phủ Katsura. Sau thời gian đình chỉ việc họp (5 hôm), quốc hội làm việc trở lại. Chính phủ đã đoán trước dân chúng đang tựu tập chung quanh khu vực khi nổi nóng có thể xông vào chỗ hội họp và làm náo loạn nên đã dàn trận chung quanh khu vực với 5.000 người bảo vệ trật tự mà phần lớn là nhân viên cảnh sát. Dù với số người đông đảo như vậy, lực lượng an ninh cũng không trấn áp nổi quần chúng.Vòng rào cảnh sát đã bị phá vỡ, quần chúng tụ tập trước mặt tiền tòa nhà quốc hội đã ùa vào bên trong sân làm cảnh sát phải dùng đến kỵ binh đánh đuổi. Giữa khi cuộc hỗn loạn vẫn tiếp diễn phía ngoài thì bên trong, đảng thân chính quyền phải chống đỡ kịch liệt trước nghị án bất tín nhiệm do các đảng đối lập đưa ra.Nhân vì Rikken Seiyuukai cương quyết đòi quốc hội thông qua cho bằng được nghị án ấy, kết quả là Thủ tướng Katsura đành tuyên bố giải tán quốc hội và thông báo giải pháp đó cho Chủ tịch quốc hội Ôoka Ikuzô. Trước việc ấy, Chủ tịch quốc hội Ôoka Ikuzô đã đáp lại: "Nếu ông muốn giải tán quốc hội thì hàng vạn người dân đang tụ tập trước cổng sẽ không để yên cho đâu. Chưa thấy máu đổ, họ còn chưa thỏa. Tình hình có thể đưa đến một cuộc nội loạn. Vậy xin ông nghĩ lại thêm một lần nữa!". Lời khuyên này của Ôoka dĩ nhiên ẩn dấu đòi hỏi rằng Nội các Katsura phải tổng từ chức. Dù có bướng bĩnh cách mấy, đứng trước tình hình như vậy, Katsura cũng không thể làm cách nào hơn là rút lại lệnh giải tán quốc hội. Ông ta đình chỉ phiên họp trong 3 ngày và đồng thời tuyên bố toàn thể nội các từ chức. Phong trào bảo vệ hiến pháp mà trung tâm là dân chúng đã trở thành phong trào lật đổ chính phủ.Như thế, nội các Katsura 3 lần này từ lúc thành lập đến lúc từ chức chỉ kéo được hơn 50 ngày ngắn ngủi. Sự kiện này có tên là "chính biến thời Taishô". Thời gian tại chức của chính phủ Katsura 3 là ngắn nhất kể từ trước cho đến lúc đó và việc dân chúng có thể dùng áp lực của mình để lật đổ chính phủ cũng chưa hề thấy ở Nhật. Lúc đó người dân như chợt tỉnh ra, họ ý thức được sức mạnh chính trị của mình. Và kể từ ngày hôm ấy, họ còn sẽ có nhiều dịp khác khiến cho chính phủ phải điêu đứng. Đối với dân chúng đang bao vây tòa nhà quốc hội, họ chỉ được thông báo tin đình chỉ hoạt động trong vòng 3 hôm mà không hay biết gì về tin quốc hội từ chức.Sự thiếu sót trong thông tin đã khơi ngòi lửa bất mãn trong lòng họ. Nó đã làm cho họ nghĩ rằng: "Lại đình họp nữa à! Đừng có trêu vào chúng tôi!". Khả năng cuộc bạo động dẫn đến đổ máu, điều mà Chủ Tịch quốc hội Ôoka từng lo lắng, rốt cuộc đã trở thành sự thật. Đám đông đứng trước tòa nhà quốc hội trước hết quay ra tấn công trụ sở các cơ quan báo chí thân chính phủ. Họ đập phá cửa kính của các tòa báo tan tành. Nhân viên tòa báo cũng không vừa gì, họ chỉa súng ra ngoài, bắn loạn xạ vào đám đông, có kẻ còn cầm đao kiếm xông ra chém tứ tung. Trụ sở chính và các bót cảnh sát cũng bị quần chúng tấn công. Nhiều bót gác đã bị dân chúng đập tan hoang và phóng hỏa. Trung tâm thành phố trở thành chỗ xảy ra một cuộc bạo động lớn khiến cho quân đội phải bắt đầu xuất trại đi đàn áp những người gây rối loạn. Thế nhưng cuộc bạo động không chỉ giới hạn ở thủ đô Tôkyô, nó còn lan ra như lửa cháy đến các thành phố lớn ví dụ Ôsaka, Kyôto, Kobe, Hiroshima rồi cả toàn quốc và đã kéo dài trong một khoảng thời gian. 1.3 Sự cố Siemens: Sau cuộc "chính biến đời Taishô", các chính đảng không còn được ủy thác việc thành lập nội các nữa. Người thủ tướng sắp đến sẽ do Hội đồng các nguyên lão quyết định. Nếu như ở vào thời hiện tại thì việc Rikken seiyuukai (từ đây xin gọi là nhóm Seiyuukai) và Rikken Kokumintô (Kokumintô) là 2 nhóm cầm đầu phong trào hộ hiến, có muốn cản trở việc đó thì cũng là chuyện dễ hiểu. Đương nhiên một số đông các thành viên của hai tổ chức trên mong đợi nó xảy ra. Hội đồng các nguyên lão trước tiên cũng đã đưa tên Saionji ra vì ông là một nhà chính trị ôn hòa. Thế nhưng Saionji từ khước sự chỉ định của Hội đồng. Ông thấy mình đã không hoàn thành nhiệm vụ trước kia khi vì khi tuân theo sắc chiếu của Thiên hoàng, ông đã đưa nội các Seiyuukai đến bước đường cùng, phải từ chức. Bấy giờ chỉ còn có hai tên tuổi: Ozaki Yukio hay Inukai Tsuyoshi mà thôi. Ai cũng được miễn là phải có người đứng ra làm cho chính trị chính đảng có thể phục sinh. Thế nhưng chủ trương này lại gặp sức đề kháng của các nguyên lão cánh bảo thủ. Đến nước này, Hội đồng nguyên lão chỉ còn cách đề nghị một nhân vật thuở giờ chưa có tiếng tăm bao nhiêu: Yamamoto Gonbê (Sơn Bản, Quyền Binh Vệ, 1852-1933). Yamamoto sinh năm 1852 (Kaei 5) ở Kagoshima, là một quân nhân thuộc phiên phiệt Satsuma. Sau khi tốt nghiệp ở trường sĩ quan hải quân, ông bắt đầu binh nghiệp. Từng làm hạm trưởng chiếc Takachiho và nhậm chức chủ sự phòng điều hành Bộ Hải Quân. Năm 1898 (Meiji 31) ông tham gia nội các Yamagata 2 và sau đó là nội các Katsura 1 cho đến 1905 (Meiji 38) với tư cách là Tổng trưởng Hải quân. Nếu lục quân là lãnh vực độc quyền của quân nhân phiên Chôshuu thì hải quân là do quân nhân Satsuma nắm giữ. Đương thời, Yamamoto lại là nhân vật có thế lực nhất trong đám người này.
Cũng như Katsura, Yamamoto là một lãnh tụ của phiệt tộc. Do đó, sau khi Hội đồng nguyên lão đề nghị Yamamoto vào chức thủ tướng thì gặp ngay sức chống đối mạnh mẽ của các nghị sĩ. Trong Seiyuukai, người có ý kiến không chấp nhận Yamamoto rất đông nhưng nhóm của Hara Takashi (hay Hara Kei, Nguyên, Kính, 1856-1921) là phái chủ yếu lại nghĩ rằng việc đề cử Yamamoto vào chức thủ tướng là một ý kiến hiện thực vì có như thế, hai phái đang kình chống kịch liệt (chính đảng và phiệt tộc) mới có thể chung sức làm việc. Họ bèn đề nghị với Yamamoto rằng mình sẽ đứng về phía chính quyền nếu ông chấp thuận số thành viên nội các mới sẽ có hơn phân nữa là đảng viên Seiyuukai và chính phủ hứa sẽ thi hành chính trị theo đường hướng, chủ trương của Seiyuukai. Yamamoto quá mừng, bèn chấp thuận ngay yêu cầu thỏa hiệp ấy. Như thế, ngoài Thủ tướng Yamamoto và 3 tổng trưởng ngoại giao, hải quân và lục quân thì hầu hết các thành viên nội các đều được tuyển chọn từ các đảng viên Seiyuukai. Tóm lại, có thể xem như nội các Yamamoto 1 là một nội các có dấu ấn rất đậm nét của Seiyuukai. Tóm lại, Seiyuukai đã khuấy động dư luận khi hô hào "Đạp đổ chính trị phiệt tộc!" thế nhưng khi nội các Katsura vừa sập thì họ đổi hẳn chủ trương, chạy qua bắt tay một chính quyền phiệt tộc khác với người cầm đầu mới là Yamamoto. Có lẽ đây chỉ là một lá bài chính trị nhưng rõ ràng trong chính trị, người ta không mấy quang minh chính đại. Điều đó làm cho nhóm 26 nghị sĩ có lập trường phản đối cuộc "hôn nhân gượng ép" giữa Seiyuukai và Yamamoto đã bỏ đảng để cùng nhau sinh hoạt chính trị trong một tổ chức mới có tên là Seiyuu Club. Trong khi đó Inukai Tsuyoshi, người đứng đầu Kokumintô, đáng lý ra chủ trương hợp nhất hành động với Seiyuukai, chỉ biết phẫn nộ trước sự phản bội của những người bạn cùng chia sẻ tư tưởng lập hiến. Dân chúng cũng không bằng lòng chút nào. Do đó nội các Yamamoto đã bắt đầu cai trị trong một tình huống hoàn toàn thiếu sự ủng hộ của quần chúng. Tuy nhiên, nội các Yamamoto đã tiếp tục chính sách của nội các Katsura 2, tận lực cải tổ hành chánh và kiệm ước tài chính, giảm bớt trên 5.000 quan chức. Nội các này cũng bãi bỏ chế độ dùng sĩ quan cao cấp hiện dịch để giữ các bộ liên quan đến quốc phòng, như vậy, ngăn chặn được ảnh hưởng của nguyên lão Yamagata Aritomo đối với chính trị chính đảng. Thay vào chế độ này, chính phủ đã nới rộng phạm vi tuyển mộ cho các chức ấy cả những sĩ quan thuộc lực lượng trừ bị hay đã hồi hưu. Thế rồi, đi xa hơn nữa, họ còn sửa đổi để có thể bổ nhiệm cả các quan văn vào đó, nghĩa là cho phép chính phủ từ đây có tự do tương đối rộng rãi trong việc chỉ định quan lại. Như thế, vai trò lãnh đạo của Yamamoto đáng được đánh giá cao. Làm như ông thì chính đảng có thể bành trướng thế lực qua những vùng "đất thánh" trước đây vẫn bị phiệt tộc (quân đội và quan liêu) trực tiếp kiểm soát. Hành động này, đối với phiệt tộc, là một sự uy hiếp. Khốn nỗi, trong khi chính phủ đang ra sức cải tổ, đã có một sự kiện không lường trước đã xảy ra. Đó là việc người ta phát giác ra một hãng chế đồ điện của Đức tên là Siemens - Shuckertwerke [4] khi bán máy móc cho hải quân Nhật đã hứa sẽ trả huê hồng cho một số sĩ quan hải quân cao cấp. Nói tóm lại, đây là một vụ tham nhũng trong quân đội. Trong khi cuộc điều tra đang tiếp diễn, người ta lại lôi ra thêm chuyện khác. Cách đó mấy năm, các sĩ quan cao cấp của hải quân khi mua chiến hạm, đã nhận được tiền thù lao cực kỳ lớn đến từ Vickers, một hãng buôn bán vũ khí và đóng tàu chiến của Anh. Nói đến hải quân, tức nói về nơi xuất thân của Thủ tướng Yamamoto Gonbê. Việc hai lần hải quân có hành vi tham nhũng quan trọng như vậy đã làm cho Nội các Yamamoto phải đối đầu với nguy cơ. Tuy trước đây, nội các này đã được quốc dân tỏ ra hài lòng nhưng vì hai vụ tham nhũng đó mà dân chúng bắt đầu nổi dậy chống đối trở lại. Đặc biệt những hội đoàn ủng hộ chính trị lập hiến đã đưa ra khẩu hiệu "Nhỗ rễ Satsuma, thanh lọc hải quân" (Satsuma konzetsu, kaigun kakusei) nghĩa là yêu cầu đánh bật cội rễ thế lực phiên phiệt Satsuma và trừ khử những việc làm xấu xa của hải quân, với lý do hải quân cũng là hang ổ của Satsuma. Như thế, cuộc vận động đánh đổ nội các đã bắt đầu. Ngày 6 tháng 2 năm 1914 (Taishô 3), tại ngôi nhà Kokugikan (Quốc Kỹ Quán) - nơi trình diễn thể thao và võ thuật như sumo, judo - ở Ryôgoku (thuộc Tôkyô), hơn 15.000 người đã làm một cuộc mít-tinh kêu gọi lật đổ chính phủ. Đến ngày 10 tháng 2, phiên họp quốc hội vừa khai mạc thì hàng vạn dân chúng đã bao vây nơi nghị sự. Sau khi đánh đổ Nội các Katsura chưa đầy một năm, lần này dân chúng lại xuống đường thêm một lần nữa. Nếu một năm trước đó, Seiyuukai là những người anh hùng được dân chúng tung hô nhiệt liệt thì giờ đây, họ là một lũ gian ác hứng chịu mọi sự thóa mạ. Chỉ có 365 ngày mà lập trường của quần chúng đã quay vòng 180 độ. Tuy vậy, Nội các Yamamoto không mềm yếu như Nội các Katsura. Tuy là trên diễn đàn quốc hội có những lời đàn hặc chính phủ Yamamoto nhưng nhân vì các thành viên Seiyuukai đang nắm đa số tuyệt đối trong nghị trường, các đề án chống chính phủ đều bị họ phủ quyết. Hơn thế, chính phủ đã ra lệnh cho lực lượng cảnh sát triệt để trấn áp dân chúng đang bao vây trụ sở quốc hội. Lực lượng trị an đã dùng cả đến đao kiếm đuổi theo đám người biểu tình nghĩa là đi đến những hành động có thể gây đổ máu. Tưởng như thế đã vượt khỏi cơn nguy nhưng ngày 24 tháng 3 thì Nội các đã tổng từ chức. Không phải dân chúng du nội các vào bước đường cùng nhưng mà, nực cười thay, chính là Quý tộc viện (viện trên). Họ đã khiến nội các phải đổ vì đã phủ quyết ngân sách Yamamoto đưa ra. Tuy thủ tướng là người phiệt tộc nhưng các tổng trưởng phần lớn đều ra đảng viên Seiyuukai. Nội các Yamamoto, dù muốn dù không, bên trong vẫn là một nội các chính đảng. Khi nội các này bị vụ tham nhũng Siemens làm cho yếu đi thì nhóm phiệt tộc trong Quý tộc viện xem như đó là một thời cơ giúp họ trở lại nắm quyền hành. Họ bèn chủ trương cắt đi phân nữa chi phí dành cho việc phát triển hải quân trong ngân sách mà viện dưới đã thông qua, nhiên hậu họp lưỡng viện lại để thương thảo trên một đề án ngân sách mới. Cuộc thương lượng rốt cuộc gãy đổ và Quý tộc viện đã đi đến việc phủ quyết ngân sách. Thời đó Chúng viện (hạ viện) không có tầm quan trọng như bây giờ cho nên hễ cứ gặp sự chống đối của Quý tộc viện (thượng viện) thì ngân sách không cách chi thông qua. Và điều đó đã dẫn đến sự tổng từ chức của Nội các Yamamoto. Trong phong trào "hộ hiến" lần thứ nhất, Seiyuukai đã được sự ủng hộ của dân chúng. Họ lợi dụng điều đó để lật đổ chính quyền phiệt tộc. Kỳ này, phiệt tộc lại lợi dụng sức dân để đánh đổ nội các mang đậm màu sắc Seiyuukai của Thủ tướng Yamamoto. Nhưng dù nhìn từ phía nào, trong hai trường hợp, chúng ta đều thấy sức mạnh của dân chúng trong việc khuynh đảo đường lối chính trị nhà nước đã trở thành một điều chưa từng có trước đây ở Nhật. |
Tiết 2: Thế chiến thứ nhất bùng nổ. Yêu sách 21 điều. |
2.1
Sự được lòng dân chúng của Nội các Ôkuma 2:
Sau khi Nội các Yamamoto đổ, các vị nguyên lão đã phải mất nhiều thời giờ để thu xếp việc thành lập một nội các mới. Trong Hội đồng nguyên lão vốn có một vị trưởng lão thuộc phiên phiệt Satsuma mà chúng ta đã từng nhiều lần nhắc tới, Matsukata Masayoshi. Họ đã đề nghị ông ra nhận chức thủ tướng nhưng Matsukata từ chối. Đến lượt tên của Chủ tịch Quý tộc viện là Tokugawa Iesato (Đức Xuyên, Gia Đạt, 1863-1940) [[5] được đưa ra. Như tên tuổi cho thấy, ông là người đã thừa kế quyền cai quản dòng họ (gia đốc = katoku) thay cho Shôgun cuối cùng - đời thứ 15 - Tokugawa Yoshinobu. Vậy ông là người kế nghiệp đời thứ 16 của dòng họ nhà chúa. Nay nếu ông trở thành thủ tướng thì coi như quyền hành pháp trở về tay gia đình Tokugawa. Nói là nói thế thôi chứ lúc đó các mạc thần ngày xưa đã chết gần hết, dù có muốn phục hồi chế độ mạc phiên cũng không tài nào làm nổi. Duy có điều người ta tò mò không hiểu là nếu lúc đó Tokugawa Iesato ra nhậm chức thủ tướng thì ông sẽ thi hành chính sách gì? Rất tiếc, cũng như Matsukata, ông đã từ chối lời đề nghị của các nguyên lão. Người thứ ba lọt vào mắt xanh của các nguyên lão là Kiyoura Keigo (Thanh Phố, Khuê Ngô, 1850-1942). Đây là nhân vật được đề cập đến lần đầu tiên ở đây. Kiyoura sinh năm 1850 (Kaei 3) ở Kumamoto, con một ông từ trụ trì, được gửi làm con nuôi cho gia đình Kiyoura. Khi ông làm quan trong chính phủ Meiji, được Yamagata Aritomo để ý tới và tiến cử lên chức cao. Phục vụ dưới quyền Yamagata, ông đã soạn những văn bản và điều lệ về chế độ cảnh sát và trị an, chẳng những thế, lại giữ vai trò Tổng trưởng Tư pháp và Tổng trưởng Nội vụ trong chính phủ Katsura 1. Như vậy, có thể nói ông là dân "phiệt tộc" thứ thiệt, được đào tạo kỹ lưỡng. Có điều lạ là năm 1906 (Meiji 39), sau khi giữ chức Cố vấn Xu mật viện, ông đã có một dạo rời xa chính trường. Kiyoura nhận lời ủy thác của các nguyên lão, bắt tay vào việc tổ chức nội các. Thế nhưng người được mời vào chức Tổng trưởng hải quân - Trung tướng Katô Tomosaburô (Gia Đằng, Hữu Tam Lang, 1861-1923) - lại đưa ra yêu sách khó chấp nhận là chỉ tham gia nội các nếu chính phủ mới đem việc tăng gia ngân sách chi tiêu của hải quân (tiền bổ sung để đóng tàu chiến) ra bàn dù điều đã bị phủ quyết dưới thời nội các Yamamoto. Điều đó làm Kiyoura nản lòng nên đã bỏ cuộc. (Nhân đây, để tiện bề tham khảo, cũng nên nói trước rằng mười năm sau, Kiyoura lại được Quý tộc viện và phiệt tộc ủng hộ để ra thành lập nội các một lần nữa và lần ấy, ông đã làm nên chuyện. Duy có một việc là nội các này lại đụng phải sự chống đối của phong trào vận động "hộ hiến" lần thứ hai và bị đánh sập dễ dàng. Chúng ta sẽ nói thêm về việc đó sau). Dù thế nào đi nữa, nội các Kiyoura lần này chết trong trứng nước. Một vị nguyên lão là Inoue Kaoru mới hạ lá bài cuối cùng. Ông thuyết phục người bạn đồng minh ngày xưa của mình, Ôkuma Shigenobu, nhận chức vụ. Người đứng đầu phiệt tộc, Yamagata Aritomo, cũng nhận thấy đó là một ý kiến thỏa đáng, bèn hiệp lực với Inoue để kêu gọi Ôkuma ra cầm quyền. Chúng ta còn nhớ Ôkuma là người sáng lập Đảng Rikken Kaishin (Lập Hiến Cải Tiến) và luôn hô hào phải có một nội các chính đảng. Ông cũng là người đã có nhiều kinh nghiệm tổ chức nội các chính đảng vào thời Meiji trung kỳ, được biết đến qua cái tên Waihan naikaku (Những nội các Ôi-Phản) với hai ông Ôkuma (Đại Ôi) và Itagaki (Phản Viên) lần lượt thay nhau. Lúc bấy giờ xem như Ôkuma đã rút ra khỏi chính trường nhưng vốn là con người ăn nói bặt thiệp và giao du rộng rãi, ông được lòng các nhân vật trong chính giới cũng như được sự ủng hộ của tuyệt đại quần chúng. Chính ra quốc dân tuy có mong mỏi nhưng không ngờ Ôkuma lại xuất hiện thêm một lần nữa cho nên khi Nội các Ôkuma ra đời, họ tỏ ra rất hoan nghênh. Phản ứng đó làm cho các nguyên lão cảm thấy vui thỏa vì hai lý do. Một là tuy thành phần Nội các Ôkuma có nhiều người trong đám phiệt tộc (quan liêu) là những người mà dân chúng ghét nhưng vì thiện cảm dành cho ông đã làm cho họ quên khuấy mất chuyện này. Hai là nếu biết lợi dụng thiện cảm đó, các nguyên lão còn có thể khiến cho nhóm Seiyuukai - đến lúc đó nắm đa số tuyệt đối ở quốc hội - thành một đảng phái thiểu số, và kết quả là ước mộng của phiệt tộc (đặc biệt quân phiệt Chôshuu trong lục quân) tức việc thành lập thêm hai sư đoàn sẽ được dễ dàng thực hiện hơn. Thủ tướng Ôkuma Shigenobu cũng là nhà văn hoá, đã sáng lập ĐH Waseda Trước khi tổ chức nội các, Ôkuma đã thử kêu gọi những đảng phái phi-Seiyuukai trở thành đảng thân chính quyền để ủng hộ mình. Các đảng gọi là phi-Seiyuukai gồm có Rikken Dôshikai (Lập hiến đồng chí hội), Chuuseikai (Trung chính hội) và Rikken Kokumintô (Lập hiến quốc dân đảng). Xưa kia, chúng ta còn nhớ vì không chịu để Seiyuukai và Kokumintô công kích mình mãi mà Thủ tướng Katsura đã thử dựng lên một đảng phái mới. Kế hoạch ấy đã đẻ ra Rikken Dôshikai (Lập hiến đồng chí hội) nói trên.Thế nhưng hội này chỉ thực sự thành hình sau khi Katsura mất. Còn như Chuuseikai là do Ozaki Yukio lập ra. Khi thất vọng vì thấy Seiyuukai hợp tác với Yamamoto Gonbê để lập chính phủ, ông vá các bạn đã thoát ly khỏi Seiyuukai. Kokumintô dĩ nhiên có từ trước đó. Họ từng cộng tác với Seiyuukai để thành lập liên minh ủng hộ hiến chính để rồi phát triển thành một chính đảng. Đó là một đảng lúc đầu từng bao gồm cả chi nhánh gọi là Rikken Kaishintô (Lập hiến cải tiến đảng) của Ôkuma. Inukai Tsuyoshi, đảng trưởng của Kokumintô, cũng từng có dịp làm việc với Ôkuma trong nhiều năm. Thế nhưng có một sự phức tạp là những người cầm đầu Dôshikai hiện nay lại là dân Kokumintô đã ly khai khỏi đảng cũ. Vì thế, khi Ôkuma tỏ ý mời Inukai vào nội các, ông này đã từ chối. Kokumintô, đảng của Inukai, tuyên bố sẽ hợp tác với Ôkuma nhưng ở tư thế đứng bên ngoài chính phủ. Tuy vậy, mặt khác thì Ozaki Yukio đã trở thành Tổng trưởng Tư pháp trong Nội các Ôkuma 2 này. Chuuseikai của ông trọn vẹn trở thành một đảng thân chính quyền.Ozaki vẫn có tiếng là "ông thần của chính trị lập hiến" và được dân chúng mến mộ cho nên uy tín của Nội các Ôkuma lại được tăng cường. Cũng nên nói thêm rằng nhiều tổng trưởng xuất thân phiệt tộc , trước tiên ghi tên vào Dôshikai rồi mới nhậm chức. Đó là một thủ đoạn khôn khéo để tránh né sự phê phán của quốc dân. Như thế, khi bắt đầu cầm quyền, Nội các Ôkuma đã lợi dụng uy tín rất lớn của mình trước quốc dân như một võ khí. Tháng 12 năm 1914 (Taishô 3), bất chợt đề nghị tăng thêm hai sư đoàn lại được đem ra bàn thảo ở quốc hội nhưng, cũng như lần trước, vì Seiyuukai vẫn nắm đa số tuyệt đối cho nên đương nhiên đề án ấy bị phủ quyết. Tuy nhiên, Ôkuma đã hờm sẳn ở đó! Có nghĩa là ông nhân việc đề án tăng 2 sư đoàn lục quân bị phủ quyết làm cái cớ giải tán quốc hội. Ông tự tin mình có thể thắng nếu tổ chức tuyển cử hạ viện. Lý do của sự tự tin đó trước hết, như đã nói, đó là uy tín của nội các trước quốc dân. Thêm một lý do nữa là lúc đó, Thế chiến thứ nhất vừa mới bùng nổ. Chúng ta sẽ bàn cặn kẽ về nó trong những trang sau. Ở đây, chỉ xin thông tin là trong cuộc chiến tranh này, nhân vì giữa Nhật và Anh có hiệp ước đồng minh nên Nhật đã đứng về phía Anh để tuyên chiến với Đức. Như một hệ luận, họ đã dùng võ lực để trấn áp người Đức trong tô giới của Đức ở Sơn Đông, Trung Quốc. Khi người Nhật thấy nước mình đã tham dự vào chiến cuộc đại chiến thế giới như thế thì không lý gì quốc dân có thể phản đối việc bổ túc 2 sư đoàn cho lục quân nữa vì ai đâu lại muốn nước mình thua. Tháng 3 năm 1915 (Taishô 4), cuộc tổng tuyển cử đã xảy ra và đúng như Ôkuma dự tưởng, Seiyuukai đại bại, mất đi một lèo 80 ghế, rơi xuống ngôi vị đảng hạng nhì. Các đảng thân chính quyền (yotô) nắm được tuyệt đại đa số ghế và chính phủ Ôkuma từ đó trở đi bình chân như vại. Sau đây là một thí dụ cho biết các đảng thân chính quyền đã lợi dụng uy tín của Ôkuma như thế nào. Họ đã sử dụng đến máy thu tiếng (gramophone), một phương tiện truyền thông hiếm hoi thời ấy. Họ thu thanh những cuộc diễn thuyết của hai diễn giả ăn nói rất nhuyễn và được lòng dân là Ôkuma và Ozaki rồi phân phát nó cho các ứng cử viên. Mỗi khi phải ra đứng đầu đường diễn thuyết, những người này đều đem chúng theo để hỗ trợ mình. Ngoài ra, Ôkuma và các thành viên trong nội các đều tích cực chạy tới chạy lui để diễn thuyết ủng hộ lập trường của các ứng cử viên.Việc một thủ tướng và các tổng trưởng hăng hái tham gia vận động tuyển cử như thế cũng là chuyện lần đầu tiên xảy ra ở Nhật. Có điều mới mẻ hơn nữa như việc Ôkuma nhiều lần ngồi xe, đến các ga, dùng một vài phút vào giờ xe đổ lại mà diễn thuyết kêu gọi cử tri dồn phiếu cho người của đảng mình. Ôkuma còn áp dụng những phương pháp tối tân đối với thời ấy như xen các bức ảnh vào ký sự hay xã thuyết trên báo chí, nhằm khơi gợi sự cuồng nhiệt đối với chính trị trong dân chúng. Trong thời gian tuyển cử, nhóm sinh viên trong tổ chức bạn đồng môn thuộc Đại học Waseda (đại học do Ôkuma sáng lập) đã lập ra một Hội chi viện Bá tước Ôkuma. Những thành viên của hội đã đi khắp nơi, vừa diễn thuyết, vừa quyên góp tiền bạc. Ôkuma cũng đã nhận được sự hỗ trợ từ các nhóm tài phiệt Mitsubishi, Mitsui...cho nên ông không thiếu chi nguồn tài chính cho cuộc vận động tuyển cử. Đại thắng trong tuyển cử, các đảng thân chính quyền đã đè bẹp đối phương ở quốc hội, thông qua đề án tăng cường 2 sư đoàn cho lục quân. Seiyuukai trở thành đảng đối lập, thiểu số. Như thế cả hai ước muốn của giới phiệt tộc đều được thỏa mãn hoàn toàn. 2.2 Yêu sách 21 điểm: Nước Đức, một cường quốc mới nổi lên, bước qua thế kỷ 20 đã tăng cường sức mạnh quân sự một cách đáng kể và kiếm được nhiều thuộc địa trên thế giới. Để đối kháng lại, Anh cũng tăng quân bị, thế rồi trên toàn cõi Âu châu, các nước đã có một cuộc chạy đua quân bị, cạnh tranh nhau khuếch trương sức mạnh quân sự. Đức đã cùng Áo và Ý thành lập Tam quốc đồng minh [6]. Giữa Anh, Nga và Pháp lại có Tam quốc hiệp thương [7]. Hai nhóm bắt đầu có những cuộc xung đột lớn, không những thế, quan hệ giữa họ nói chung ngày một xấu đi. Giữa khi đó thì ngày 28 tháng 6 năm 1914 (Taishô 3), hai vợ chồng một vị đại công tước, người sẽ kế vị ngôi hoàng đế của Đế quốc Áo, trên đường viếng thăm thành phố Sarajevo thuộc Bosnia trên bán đảo Balkan (Ba nhĩ cán) bị một người Serbia ám sát. Đó là sự kiện đã gây ra xúc động lớn và nhóm lên ngọn lửa chiến tranh. Nổi giận trước việc này, Áo đã tuyên chiến với Serbia vào ngay tháng sau và làm cho Nga-Anh-Pháp tức 3 nước Tam quốc đồng minh ủng hộ Serbia nhảy vào vòng chiến. Cũng vậy, Đức và Ý trong nhóm Tam quốc hiệp thương cũng đứng về phía Áo để đương cự lại. Như thế chiến tranh lan rộng và khai triển thành ra trận Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Ngày 7 tháng 8 cùng năm, Anh yêu cầu Nhật tham chiến bên cạnh mình. Nhân vì Anh lo ngại hạm đội đông phương của Đức đang đóng ở Thanh Đảo ven Giao Châu Loan có thể tấn công thương thuyền của mình nên mong muốn hải quân Nhật tập kích và tiêu diệt giùm hạm đội này. Anh hết sức trông đợi việc Nhật nhận lời phụ trách an ninh vùng Cực Đông cho họ. Nội các họp lại và xem đây là dịp để chứng minh sự hợp tác đồng minh giữa Nhật và Anh nên đã quyết định tuyên chiến với Đức tức khắc. Có điều họ cho rằng việc phân vùng và công việc trong chiến tranh không thể thực hiện được nên thông báo cho chính quyền Anh biết là họ sẽ tham chiến một cách toàn diện. Thực ra chính phủ xem việc tham chiến lần này như một dịp may. Đặc biệt, nguyên lão Inoue Kaoru đã dùng cả chữ "thiên hựu" (providence) ý nói nó đã đến như một "của trời cho. Tại sao lại có nguồn dư luận như vậy? Lý do thì nhiều. Trước tiên là từ thời cuộc Chiến tranh Nhật Nga cho tới lúc đó, kinh tế Nhật Bản luôn luôn bị khốn đốn. Việc tham gia chiến tranh có thể giúp họ phục hồi. Họ chờ đợi nền kinh tế chiến tranh với hy vọng nó sẽ giống như một cơn bão lốc cuốn đi tình trạng suy sụp đó. Thứ hai là nhân cơ hội này, họ có thể sử dụng võ lực để chiếm đoạt những đặc quyền người Đức đang có ở Trung Quốc. Thứ ba nữa là sắp đến lúc hết kỳ hạn của những đặc quyền mà Nhật thu lượm được ở Trung Quốc sau cuộc Chiến tranh Nhật Nga. Lợi dụng lúc ấy ở Âu châu, các bên liên hệ đang vùi đầu đánh nhau, họ có thể đe dọa Trung Quốc phải gia hạn quyền lợi của mình thêm một khoảng thời gian nữa thay vì trả lại suông. Các người cầm quyền ở Nhật thời ấy đã dựa trên những lý lẽ kể trên để tham chiến và tin rằng mình thức thời. Thế nhưng chính phủ Anh khi thấy Nhật Bản tỏ ra quá sốt sắng đáp lời kêu gọi của mình đã đâm ra lo ngại, không hiểu bên trong có sự tình gì, nên đùng một cái, rút lại lời yêu cầu ấy. Phải chăng người Anh e rằng khi Trung Quốc thành bãi chiến trường thì việc buôn bán của họ trên thị trường Trung Quốc sẽ bị hỗn loạn, tê liệt. Hơn nữa họ cũng hồ nghi không hiểu Nhật Bản có nhân thời cơ ấy mà chiếm trọn Trung Quốc làm của riêng hay chăng! Thế nhưng quyết định ấy đến quá muộn. Không đợi Anh chấp thuận, Nhật đã gửi thông điệp yêu cầu Đức trao Giao Châu Loan cho mình. Nhân vì Đức không trả lời đúng kỳ hạn, sau khi ra tuyên chiến, Nhật đã có hành động quân sự tức khắc, chiếm lĩnh Thanh Đảo ở Giao Châu Loan. Cùng lúc, hải quân Nhật cũng dùng võ lực để trấn áp các thuộc địa của Đức ở vùng biển Nam (Nam Dương chư đảo, vị trí nằm phía bắc đường xích đạo và bên dưới chòm đảo Ogasawara) như các quần đảo Palao, Marshall, Mariana và Caroline. Không biết làm cách nào trước sự biến chuyển quá nhanh chóng của tình thế, Anh đành nhìn nhận sự tham chiến của Nhật. Sau khi đoạt lấy những quyền lợi của Đức trên đất Trung Quốc lẫn các đảo vùng biển Nam rồi, với mục đích nới rộng khu vực lợi ích của mình, Nhật Bản đã gửi cho những người lãnh đạo Trung Quốc thời ấy là chính phủ Viên Thế Khải một bảng liệt kê 21 điều đòi hỏi (mà chỉ có thể gọi là yêu sách vì tính cách cưỡng ép của nó). Người chủ trương thi hành điều này là Ngoại trưởng Katô Takaaki (Gia Đằng Cao Minh, 1860-1926). Yêu sách được chia thành 5 mục. Mục thứ nhất liên quan đến việc Nhật đòi kế thừa quyền lợi của Đức (gồm có 4 điều), mục thứ hai liên quan đến quyền lợi của Nhật ở Mãn Châu và Mông Cổ (7 điều), mục thư ba liên quan đến Công ty Hán Dã Bình (Kanyahyô Konsu) (2 điều), mục thứ 4 liên quan đến lãnh thổ Trung Quốc (1) và mục thứ năm gồm 7 điều linh tinh. Tổng cộng 21 điều. Xin được thuyết minh thêm về nội dung của các mục đó. Trước tiên mục thứ nhất đòi hỏi Trung Quốc phải để cho Nhật Bản thừa hưởng tất cả mọi quyền lợi mà Đức có trong tỉnh Sơn Đông (kể cả vùng vịnh Giao Châu Loan). Thêm vào đó, Trung Quốc không được nhượng hay cho một nước nào khác mướn tỉnh Sơn Đông. Trung Quốc phải mở cửa các thành phố chủ yếu ở Sơn Đông cho Nhật buôn bán và cho phép đặt đường sắt trên đó. Mục thứ hai gồm những đòi hỏi như phải kéo dài thêm thời kỳ cho mướn các tô giới Lữ Thuận, Đại Liên và đường sắt Nam Mãn Châu đến 99 năm, cho phép người Nhật có quyền sở hữu đất đai, tổ chức công thương nghiệp trong vùng Nam Mãn Châu cũng như miền đông Nội Mông Cổ. Viết trên giấy trắng mực đen như thế có nghĩa là Nhật Bản muốn củng cố quyền lợi trong khu vực Mãn Mông mà họ đã có được nhờ thắng trận Nhật Nga trước đó. Mục thứ ba liên quan đến Công ty Hán Dã Bình tức là công ty luyện thép của Trung Quốc được thiết lập vào năm 1908. Nhật Bản đã cho công ty này vay một kim ngạch lớn để phát triển với mục đích là để cho Yawata Seitetsujo, công ty chế thép nhà nước của Nhật Bản thu mua một số lượng lớn quặng sắt mà Hán Dã Bình lấy ra được từ mỏ quặng của họ. Trong mục này cũng nói đến việc thu tóm (merger) công ty HDB trong tương lai để phía Nhật Bản có thể tự do hành động trong mọi tình huống liên quan đến tài chánh và quyền lợi của công ty mà không cần phải xin phép Trung Quốc. Mục thứ tư đòi hỏi Trung Quốc phải bảo toàn lãnh thổ, không nhượng hay cho nước khác thuê các vùng duyên hải, bến cảng và đảo. Mục thứ năm gồm có 7 điều thuộc các phạm vi khác nhau nhưng không hẳn là những yêu sách mà chỉ là ước muốn. Lời lẽ ở đây nhẹ nhàng hơn so với các tiết mục từ một đến bốn nhưng nội dung lại quá đáng, khó thực hiện. Chẳng hạn: -Trung Quốc sẽ mời Nhật Bản làm cố vấn cho mình trong các lãnh vực chính trị, quân sự, tài chính... - Ở những nơi cần thiết, cảnh sát Nhật Trung sẽ làm việc chung. -Trung Quốc cung cấp võ khí cho Nhật. -Hai nước Nhật Trung tổ chức những công ty chung vốn (joint-ventures) chế tạo võ khí. -Trung Quốc nhượng cho Nhật Bản những vùng đất trên đại lục Trung Quốc, nơi mà Nhật Bản muốn đặt đường xe hỏa. -Khi người ngoại quốc muốn đầu tư vào tỉnh Phúc Kiến thì phải thông báo để Nhật biết. -Cho phép người Nhật tự do truyền đạo trên đất Trung Quốc. Qua đó mới thấy lúc đó Nhật Bản coi giá trị của Trung Quốc không là gì cả. Làm như thế chẳng chóng thì chầy họ sẽ biến Trung Quốc thành một xứ bảo hộ, một Triều Tiên thứ hai. Ngoài ra, họ đã hé lộ dã tâm xem Mãn Mông, Sơn Đông, Phúc Kiến..., nghĩa là một phần của đại lục Trung Quốc, như thuộc địa. Bị ép uổng như thế, chính phủ Viên Thế Khải đã cự tuyệt một cách mạnh mẽ. Dân chúng Trung Quốc cũng rất căm phẫn. Phải nói phản ứng đó không có gì khó hiểu. Tuy vậy, kể từ tháng 2 năm 1915 (Taishô 4), chính phủ Nhật đã dùng đủ mọi biện pháp ngoại giao để bắt chính phủ Viên Thế Khải chấp nhận yêu sách của họ. Dĩ nhiên trên căn bản, phía Trung Quốc trước sau như một không thể đáp lại lời yêu cầu nhất là đối với mục thứ 5. Rõ ràng Nhật coi quyền tự chủ của họ như không có. Nội cái việc phải chấp nhận xem đó như vấn đề đem ra thảo luận cũng là việc không ai chịu nổi. Đứng trước tình huống này, chính phủ Nhật đã cho tăng cường lực lượng đồn trú của mình trên đất Trung Quốc hòng gia tăng áp lực. Cách làm ăn như thế của người Nhật lúc đầu va phải sự phản đối của các nước Âu Mỹ. Đặc biệt là những đòi hỏi trong mục thứ 5 mà Nhật có vẻ muốn dấu diếm sự tồn tại của chúng đã làm cho Âu Mỹ cảm thấy khó chịu và mất lòng tin. Đặc biệt Mỹ là nước cực lực phản đối đòi hỏi 21 điểm này. Hai bên Nhật Trung đã họp nhau thương nghị trên 20 lần suốt gần 3 tháng trời, thế nhưng Trung Quốc vẫn không chịu lép. Lý do là họ chờ đợi liệt cường can thiệp bắt Nhật Bản phải rút lại đòi hỏi ấy. Tuy nhiên các nước Âu châu lúc đó đang ngập ngụa trong trận Thế chiến thì có đầu óc đâu mà bảo vệ Trung Quốc, huống chi họ còn đang cần sự tiếp viện của Nhật để thắng trận. Họ lại nghĩ rằng nếu Trung Quốc chấp nhận đòi hỏi nói trên của Nhật thì Nhật sẽ hài lòng và không xâm lấn các phần đất khác trên lãnh thổ Trung Quốc. Các nước Anh, Pháp, Nga đi cả đến chỗ khuyên Trung Quốc nên chịu thỏa hiệp, nghe lời Nhật đi, chứ đừng tạo ra xung đột quân sự làm gì. Ngày 4 tháng 5, cuộc thương thuyết Nhật Trung đổ vỡ. Nhật Bản bèn gửi cho Trung Quốc một tối hậu thư. Họ uy hiếp nếu Trung Quốc không chấp nhận những gì đòi hỏi thì họ sẽ không ngần ngại đánh nhau. Nhưng uy hiếp kẻ yếu đến mức độ này thì Nhật đã làm cho Âu Mỹ chán ghét và sau đó Nhật phải rút lại những điều yêu cầu trong mục thứ 5, yêu cầu mà Trung Quốc khăng khăng từ chối cho đến lúc đó. Trung Quốc cũng nhận thấy rằng liệt cường chỉ có thể bênh vực đến cỡ này thôi nên cũng ngả qua giải pháp thỏa hiệp.Ngày 9 tháng 5, rốt cuộc, chính phủ Trung Quốc đành lòng chấp nhận bảng yêu sách 21 điểm. Về
phía Nhật Bản, giới truyền thông lẫn dân chúng đều tỏ
ra hoan nghênh việc Trung Quốc chấp nhận 21 điều nhưng ngược
lại, quần chúng Trung Quốc không dấu được sự phẫn nộ
trước kết quả đó. Để con cháu không bao giờ quên được
sự nhục nhã, họ đã gọi ngày 9 tháng 5 là "ngày quốc sỉ"
(ngày cả nước mang nhục) và tổ chức khắp nơi những cuộc
vận động bài Nhật, không mua hàng Nhật.
|
Tiết 3: Tình hình kinh thế Nhật Bản trong thế chiến và những cuộc bạo động vì giá gạo. |
3.1
Một thời thịnh vượng chưa từng có:
Bên trên chúng ta có lần nói đến việc kinh tế Nhật Bản bị trầm trệ suốt quãng thời gian từ sau Chiến tranh Nhật Nga trở đi. Thế nhưng chỉ một đỗi sau khi Thế chiến thứ nhất bộc phát, lượng xuất khẩu của Nhật nhanh chóng gia tăng. Kể từ năm 1915 (Taishô 4) trở đi thì lượng xuất khẩu vượt trội lượng nhập khẩu. Chẳng bao lâu, Nhật đã có một mức xuất siêu khổng lồ. Dĩ nhiên, lượng nhập khẩu vẫn không hề giảm sút mà mỗi năm lại càng tăng. Dù vậy lượng xuất khẩu vẫn vượt trội và bứt phá nó một cách dễ dàng. Năm 1914 (Taishô 3), chính phủ Nhật Bản còn mang một món nợ (quốc trái) lớn là 11 ức Yen (1 ức ngang với 100 triệu). Sau đó, số nợ đã giảm xuống nhanh chóng và 6 năm sau (1920, Taishô 9), thay vì là con nợ, Nhật Bản đã trở thành một ông chủ nợ với tổng số 27 ức Yen trái quyền. Chỉ với con số kể trên, ta đã hiểu ngay đây là một thời thịnh vượng đáng kinh ngạc trong lịch sử Nhật Bản. Nhưng sự thịnh vượng này phải nói là sự thịnh vượng do chiến tranh mang lại. Hãy thử xem tại sao lượng xuất khẩu lúc ấy của Nhật Bản đã vọt cao như vậy? Sau đây là một vài lý do mà ta có thể đưa ra: Trước hết, lúc đó Âu châu đã trở thành bãi chiến trường chính làm cho các ước Âu châu phải rút một số lớn vốn đang đầu tư ở Á châu về. Mặt khác và quan trọng hơn cả là đất nước của họ không còn là chỗ để buôn bán nữa. Vì thế, Nhật Bản trở thành kẻ có nhiệm vụ cung cấp hàng hóa cho thị trường Á châu. Đây là một dịp may rất lớn đối với Nhật. Đặc biệt là việc cung cấp đồ dệt cho thị trường Trung Quốc đã đem đến cho họ một mối lợi to tát. Lại nữa, nước cũng hưởng lợi trong cuộc chiến nữa là Mỹ đã mua rất nhiều tơ sống của Nhật và đó là một lý do khác đưa đến sự phồn vinh của Nhật. Mặt khác, nhân vì chiến tranh đã làm cho cơ năng của thị trường Âu châu bị tê liệt, Nhật Bản dần dần xâm nhập vào, giành được thị trường quân nhu quân dụng và y dược phẩm lúc đó đang có rất nhiều đòi hỏi. Cuộc chiến cũng làm cho thế giới thiếu những phương tiện vận chuyển hàng hóa như tàu bè. Thuyền bè hễ cứ làm vừa xong đã có người mua ngay. Số tiền cho thuê tàu hoặc chở mướn cứ thế mà tăng lên, đến độ không còn giới hạn gì nữa. Giới đóng tàu và chuyên chở sướng rơn vì thu tiền vào vô kể. Bỗng chốc, Nhật Bản đã trở thành quốc gia quan trọng thứ 3 trên thế giới về ngành vận chuyển đường biển. Sự thành công của kỹ nghệ đóng tàu và chuyên chở rất quan trọng đối với Nhật vì nó còn kích thích những lĩnh vực kinh tế khác trong nước. Nhờ thành công trong ngành vận tải, có nhiều nhà giàu mới nổi nhờ tàu, gọi là funa-narikin. Những kẻ gặp thời như thế phải kể đến Uchida Nobuya, Yamashita Kamesaburô, Katsuta Kinjirô. Ngoài lãnh vực này ra, sự phồn vinh do chiến tranh đưa tới đã tạo ra một thế hệ các nhà tư bản mới. Những người phấn phát lên như thế có cuộc sống rất xa hoa và còn để lại nhiều giai thoại. Nào là họ sống trong những ngôi dinh thự trần thiết như lâu đài, sang Triều Tiên săn cọp hay là khi không có đèn đóm, đi chơi geisha muốn soi cho sáng để tìm giày thì châm giấy bạc 100 Yen mà đốt (thời đó lương giáo sư một đại học nổi tiếng chỉ có 50 Yen) [8]. Những điều nói trên chỉ muốn tỏ ra rằng kinh tế Nhật Bản lúc đó đang căng phồng như bong bóng (bubble). Những người thành công và hoang phí như thế đến lúc gặp kinh tế khủng hoảng thời hậu chiến, khi bong bóng vỡ toang, tài sản đã tan tành theo bọt nước. Hơn phân nữa bọn họ đã phải sống phần còn lại cuộc đời một cách bi thảm. Chẳng hạn, một hãng như Suzuki Shôten, giao dịch thương mãi ở Kobe, chuyên môn về long não và đường cát Đài Loan. Lợi dụng kinh tế đang lên, hãng này đã mở rộng độc quyền mua đồng, thép, gạo và lúa mạch...cũng như nhúng tay vào những ngành nghề khác. Một thời họ đã trở thành một đại xí nghiệp có sức mạnh ngang ngửa với tài phiệt Mitsui và Mitsubishi...Thế nhưng khi đại chiến kết thúc, kinh doanh hỗn loạn thời chiến lắng dịu và vào nếp trở lại thì thành tích buôn bán của họ xấu đi hẳn. Hiện tượng như vậy là một trong những nguyên nhân của Cuộc khủng hoảng tài chánh về sau. Về cuộc khủng hoảng có tầm cỡ quốc gia này, chúng ta sẽ có dịp nói rõ hơn trong một mục đặc biệt. Đến đây, xin đổi qua đề tài khác. Để có thể đóng tàu và chế tạo vũ khí, đương nhiên người ta cần rất nhiều sắt thép. Vì lý do đó, trong thời kỳ phồn vinh do chiến tranh, kỹ nghệ thép đã phát triển một cách cực kỳ nhanh chóng, mở ra hết hãng này đến hãng khác. Đặc biệt tư nhân đã ồ ạt tiến vào lãnh vực, xây dựng rất nhiều hãng chế thép.Về phía nhà nước, họ mở rộng thêm Yawata Seitetsujo (seitetsujo = chế thiết sở) sẳn có. Công ty đường sắt Mantetsu cũng xây dựng Anzan Seitetsujo (1918) ở An Sơn thuộc Liêu Ninh. Kỹ nghệ hóa học cũng chào đón một thời kỳ phát triển đặc biệt, nhất là trong lãnh vực dược phẩm và phân bón. Cho đến lúc đó, để có đủ dược phẩm, thuốc nhuộm và phân bón, Nhật vẫn phải nương dựa vào hàng nhập khẩu từ Đức. Thế nhưng kể từ khi Nhật và Đức ở trong tình trạng quốc gia đang giao tranh, đương nhiên những món hàng đó không còn vào được trong nước nữa. Vì nó là những nhu yếu phẩm, Nhật phải tìm mọi cách để có thể chế tạo lấy. Tình cảnh như thế đã bắt buộc họ phải xây dựng một nền công nhiệp hóa học cho riêng mình. Chiến tranh còn giúp những ngành kỹ nghệ khác vươn lên. Công nghiệp hóa học nặng (heavy chemical industry) là một. Trong tổng sản lượng của tất cả các kỹ nghệ trước chiến tranh, nó chỉ chiếm một tỷ lệ rất thấp kém nhưng với cuộc chiến, nó đã lên đến 30% của con số ấy. Số công nhân lao động nói chung cũng tăng thêm nhiều. Năm 1914 (Taishô 3) chỉ có 85 vạn người thôi mà chỉ cần 5 năm sau (1919, Taishô 8), Nhật đã có 147 vạn người, nghĩa là gần gấp đôi. Ngược lại, nông nghiệp tức nghề nghiệp chính của người dân Nhật thì khác hẳn. Kể từ khi có cuộc Chiến tranh Nhật Nga, sự phát triển của nó bị đình trệ. Trong thời đại chiến, sản lượng tính theo kim ngạch của nó đã bị các ngành kỹ nghệ qua mặt. Cũng nên biết rằng, mãi cho đến lúc Nhật bại trận hồi Chiến tranh Thái Bình Dương (1941-1945), nông nghiệp của Nhật hoàn toàn không khá hơn được chút nào. Hết mất mùa đến sụt giá nông phẩm, những sự kiện trên thường xuyên xảy ra, đã đưa cuộc sống của nhà nông đến chỗ bần cùng. Giai cấp địa chủ ăn bám (kisei jinushi) càng phát triển thì đám nông dân dưới thấp phải trả một số tiền mướn đất (kosakuryô) cao hơn cho nên sinh hoạt của đám người này rất bi thảm. Đã thế, chính phủ chẳng đưa ra được một phương án nào cải thiện tình trạng đó. Dần dần, nông dân bất mãn đã đổ tội lên đầu các chính đảng cũng như giới tài chính đang nắm quyền hành. Quân đội thì lại bành trướng thế lực ở vùng nông thôn vì được sự ủng hộ của lớp người đông đảo này. Theo một quá trình như thế, họ đã đưa nước Nhật vào con đường sai lầm. Dù nói gì đi nữa, sự phồn vinh do Thế chiến thứ nhất tạo ra đã là một món quà béo bở như "của trời cho" đối với các xí nghiệp lẫn chính phủ Nhật. Thế nhưng, đối với người thường dân thì nó chẳng đem cho họ ơn huệ nào cả, nếu không nói là hoàn toàn ngược lại. Điều này có thể làm chúng ta khó hiểu nhưng kỳ thực sự phồn vinh thời chiến chỉ gieo rắc khổ đau cho lớp người nghèo.Vì xuất khẩu quá mức, trong nước khan hiếm đồ tiêu dùng, vật giá tăng lên đùng đùng. Thành thử đa số quốc dân chẳng những không hề hoan nghênh cảnh tượng phồn vinh chiến tranh mang lại mà, trong lòng họ, có chăng chỉ là sự uất ức, oán hận đối với chính phủ và các xí nghiệp. Vào năm 1917 (Taishô 6), giữa khi Thế chiến thứ nhất còn đang tiếp diễn, Đế quốc Nga đã sụp đổ, nhà nước xã hội chủ nghĩa Xô Viết ra đời. Vì lý do đó, sang năm sau, Nội các (của Đại tướng lục quân) Terauchi Masatake (Tự Nội, Chính Nghị, 1852-1919) đã quyết định thực hiện kế hoạch tiến binh qua Siberia. Thế nhưng cũng ngay lúc ấy, nạn độc quyền về gạo đã làm cho giá gạo tăng vọt, gây nên cuộc bạo động trên toàn quốc có tên là Kome sôdô (Cuộc bạo động vì gạo) khi dân chúng nổi giận trước tình trạng phi lý đó. Sự kiện này đưa đến việc Nội các Terauchi bị lật đổ. Cuộc bạo động vì gạo sẽ được bàn thêm trong những trang sau. Tình hình kinh tế phồn vinh chiến tranh mang lại kéo dài trước sau chỉ có 4 năm. Năm 1919, khi Thế chiến thứ nhất kết thúc, các nước Âu châu vừa tìm lại được sự yên ổn thì các nhà tư bản của họ đã tức tốc tìm cách quay trở lại thị trường Á châu. Đồng thời, thị trường Âu châu cũng hồi phục trở lại. Hàng Nhật chế tạo đâm ra khó bán. Trong năm này (1919), lượng xuất khẩu của Nhật thấp hơn lượng nhập khẩu. Từ đó về sau, càng ngày kim ngạch xuất khẩu càng hao hụt một cách nhanh chóng. Mặt khác, các sản phẩm trong lãnh vực công nghiệp hóa học nặng của Nhật thì bị sản phẩm đến từ Âu châu lấn lướt. Những điều nói trên đã đưa kinh tế Nhật Bản vào một thời kỳ khủng hoảng. Do mậu dịch trầm trệ, năm 1920 (Taishô 9), đã xảy ra một vụ tuột dốc của thị trường vốn khi cổ phần các công ty sụt giá rất mạnh. Từ đó, cuộc khủng hoảng kinh tế hậu chiến đã bắt đầu đối với Nhật. Về cuộc khủng hoảng kinh tế hậu chiến, chúng ta đã nói phớt ở bên trên. Ở đây, xin phép được nhắc lại đôi điều về khái niệm cơ bản thế nào là một cuộc khủng hoảng kinh tế. Khủng hoảng là một tình trạng hoảng hốt, hỗn loạn xảy ra khi người ta bước từ một thời kỳ kinh tế phồn vinh bước sang giai đoạn trầm trệ. Có nhiều hình thức biểu lộ ra như xí nghiệp thi nhau phá sản, số người mất công ăn việc làm gia tăng, dân chúng đổ xô đến ngân hàng rút tiền ra, vật giá suy sụp...Trên thực tế, thời sau Thế chiến I ở Nhật, khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, giá tơ sợi và giá đồ may dệt dã bị hạ xuống chỉ còn có phân nửa vì đồ làm ra bán không có người mua. Về sau, trong suốt 10 năm, Nhật Bản đôi lúc vẫn phải chịu sự đe dọa của tình trạng khủng hoảng như vậy. Điều đó có nghĩa Nhật Bản bị thử thách thường xuyên. Thử thách như thế nào thì xin sẽ trình bày sau này nhưng ở đây, ít nhất cũng nên nhắc đến một vài điều thiết yếu. Khi cuộc khủng hoảng bắt đầu được 3 năm tức là vào năm 1920 (Taishô 12), Nhật Bản đã phải hứng chịu một thiên tai: trận động đất lớn ở vùng Kantô (Kantô daishinsai). Động đất đã đột nhiên tập kích khu vực thủ đô Tôkyô làm cho kinh tế Nhật Bản chịu một cú đấm nằm sàn. Chính phủ đã thất bại trong việc xử lý vấn đề các giấy nợ trong thương vụ mà vì động đất, các con nợ không trả nổi (shinsai tegata). Điều này đã đưa đến Cuộc khủng hoảng tài chính (Kinyuu kyôkô), làm cho nhiều ngân hàng và xí nghiệp phải phá sản. Thế rồi đến năm 1929 (Taishô 14), cả thế giới rơi vào cuộc Đại khủng hoảng (The Great Depression) và chính phủ của chính trị gia xuất thân đảng Rikken Dôshikai là Hamaguchi Osachi (Tân Khẩu, Hùng Hạnh, 1870-1931) đã thất bại trong chính sách tài chính (lệnh cấm xuất vàng ra nước ngoài). Vì thế, bước qua năm 1930 (Shôwa 5), Nhật Bản đã bị Cuộc khủng hoảng Shôwa (Shôwa kyôkô) đến viếng. Kinh tế của họ rơi vào trong một hoàn cảnh hết sức bi đát mà nạn nhân bị đánh nặng nhất là vùng nông thôn như ta đã có dịp trình bày. 3.2 Chiến lược ngoại giao của Nội các Terauchi: Lúc mới can dự vào Thế chiến lần thứ nhất, Nhật Bản đang ở dưới thời Nội các Ôkuma. Trong thời gian chiến tranh diễn tiến, Nhật Bản đã hai lần thay đổi nội các. Trước là Nội các Terauchi, sau là Nội các Hara. Terauchi là một nhân vật thuộc phiệt tộc Chôshuu, hoạt động trong lục quân.Nội các Terauchi cơ bản là một nội các có tính "siêu nhiên" (chôzen, ý nói chịu mệnh trời, không dựa vào chính đảng, không cần dân ý). Trên thực tế, họ được sự ủng hộ ngầm của nhóm Seiyuukai, dù trên danh nghĩa, đảng này coi mình như giữ một vị thế trung lập với chính quyền. Mặt khác, Hara là Chủ tịch Seiyuukai. Ông không phải là công khanh, quí tộc như Saionji Kinmochi mà cũng chẳng thuộc cánh phiệt tộc Satchô. Hara Takashi (Nguyên, Kính, 1856-1921) được quốc dân gọi ông "tể tướng bình dân" (heimin saishô) vì ông xuất thân thường dân. Nội các Hara dựa trên sự ủng hộ của Seiyuukai nên mới đúng là một nội các theo chính trị chính đảng. Chuyện bắt đầu vào tháng 10 năm 1916 (Taishô 5) khi Nội các Ôkuma vốn hết sức được lòng quần chúng đã phải từ chức. Lý do là cả các nguyên lão lẫn quốc dân đều ngoảnh mặt với nó. Sở dĩ nội các ấy làm cho mọi người mất lòng vì nó vừa thắng lớn trong cuộc tổng tuyển cử, một điều khó tin vì nghịch lý. Người phụ trách tổ chức cuộc tổng tuyển cử này là Tổng trưởng nội vụ Ôura Kanetake. Tuy nhiên, trước kỳ tổng tuyển cử, bản thân ông đã bị cáo buộc là - để đề án tăng thêm cho lục quân hai sư đoàn được quốc hội thông qua - đã hối lộ các nghị sĩ đảng Seiyuukai, mong họ đừng ra tranh cử trong kỳ tuyển cử tới hay bỏ đảng ra đi. Việc hối lộ như thế đã bị phát giác. Ngoài vụ Ôura vừa nói, việc chính phủ chỉ thị cho cảnh sát và viên chức hành chánh can thiệp bằng những hành động ti tiện vào cuộc tuyển cử cũng bị lôi ra trước ánh sáng công luận. Giới truyền thông bắt đầu chuyển qua thái độ phê phán. Quần chúng tỏ ra thất vọng với Nội các Ôkuma và mức độ ủng hộ chính phủ của họ hạ thấp xuống rất nhanh. Mặt khác, các nguyên lão từng mời Ôkuma ra tham chính thì giờ đây, khi nhìn thấy Seiyuukai sau cuộc tuyển cử chỉ còn là một đảng thứ nhì, cũng như đạt được điều mong muốn ấp ủ bấy lâu nay là quốc hội thông qua đề án thành lập thêm hai sư đoàn, đã cho rằng từ đây không còn cần đến sự giúp đỡ của Nội các Ôkuma nữa. Nói trắng ra là Nội các này được xem như "hết xài" rồi. Huống chi Ôkuma xưa kia là một nhân vật xuất thân chính đảng, đứng ở vị trí đối lập với phiệt tộc. Trước đó, họ có muốn đưa ông ra chấp chính chỉ vì muốn tránh cái việc phiệt tộc cứ bị phê phán mãi. Khi thấy mức độ tin tưởng của người dân nơi chính phủ bị hạ thấp một cách cực nhanh như vậy, nhóm nguyên lão (cũng là phiệt tộc) bèn vận động với Quý tộc viện để ngăn chận không cho dự án ngân sách của chính phủ Ôkuma được thông qua.Túng quá, Ôkuma bèn đặt điều kiện với những người trong nhóm nguyên lão như Yamagata rằng ông sẽ từ chức nhưng xin để cho dự án ngân sách được thông qua. Như thế, Thủ tướng Ôkuma đã ra đi nhưng việc chọn người thay thế thì giữa ông và Yamagata lại không đạt đến một sự thống nhất. Ôkuma đề nghị Katô Takaaki, một thành viên của nhóm Dôshikai, chính đảng thân cận chính quyền, trong khi đó Yamagata đưa ra tên nhân vật phiệt tộc Terauchi Masatake, người đang giữ chức Tổng đốc Triều Tiên. Hai bên vì không ai nhượng ai nên rốt cuộc thương lượng đi đến chỗ tan vỡ.
Theo thông lệ thì tân thủ tướng phải là người do các nguyên lão chỉ định nhưng vì Ôkuma quá thiết tha với Katô nên ông đã minh định trong lá thư từ chức : "Tôi xin tiến cử Katô Takaaki như người kế nhiệm". Việc một thủ tướng ra đi đề nghị đích danh nhân vật kế nhiệm là chuyện chưa từng xảy ra. Nó làm cho Yamagata nổi giận và khăng khăng thực hiện giải pháp Terauchi, cho nên cuối cùng Hội đồng nguyên lão đã chọn Terauchi vào chức vụ thủ tướng tương lai. Như vậy, chính phủ Terauchi đã thành hình. Dĩ nhiên những thành viên quan trọng của nó đều là người xuất thân phiệt tộc. Nhân đây cũng nhắc đến một sự kiện quan trọng là hôm sau khi Terauchi thành lập chính phủ, những đảng thân cận chính quyền Ôkuma như Dôshikai (Đồng chí hội), Chuuseikai (Trung chính hội) và Kôyuu Kurabu (Công hữu câu lạc bộ, một đảng mới thành lập gồm những nghị sĩ từng nhờ Hội chi viện Bá tước Ôkuma mà thắng cử) đã hợp lại thành một chính đảng mới: Kenseikai (Hiến chính hội). Đó là một đảng lớn với số nghị sĩ chiếm đa số tuyệt đối trong quốc hội. Điều này làm cho Thủ tường mới là Terauchi gặp khó khăn trong việc đối phó ở quốc hội. Ông bèn cho giải tán quốc hội trước kỳ hạn và mở một cuộc tổng tuyển cử mới, với mục tiêu lớn nhất là đánh đổ Kenseikai. Cũng vì cả Kenseikai và Kokumintô đã cùng nhau đưa ra đề án bất tín nhiệm nội các cho nên Terauchi càng quyết tâm.Cuộc tổng tuyển cử sau đó đã xảy ra vào tháng 4 năm 1917 (Taishô 6). Kết quả là Kenseikai với lập trường bảo vệ Nội các Ôkuma đã không được sự ủng hộ của quốc dân. Thêm nữa, chính phủ Terauchi cũng đã có một cuộc vận động tuyển cử khéo léo khiến cho Kenseikai bị tuột xuống hàng thứ hai. Seiyuukai (Chính hữu hội) lại trở về ngôi vị đảng số một. Và ta thấy lần này - như có dịp nói dến bên trên - Terauchi đã hợp tác tay trong tay với Seiyuukai. Đặc điểm của Nội các Terauchi là tích cực trong ngoại giao. Thừa kế chính sách tiến qua đại lục của Nội các Ôkuma, họ lại phát triển thêm bằng phương sách đàm phán. Ở Trung Quốc, đối với chính phủ Đoàn Kỳ Thụy (Duan Qirui, 1865-1936) - một lãnh tụ quân phiệt miền Bắc [9] và là người kế nhiệm Viên Thế Khải - họ viện trợ cho một khoản kim ngạch lớn (như một tá khoản = shakkan), nhằm gia tăng sức ảnh hưởng của Nhật Bản trong mọi lãnh vực tại quốc gia này. Món tiền viện trợ, thực ra chỉ là tiền cho vay, có tên là "tá khoản Nishihara" (Nishihara shakkan), mang tên Nishihara Kamezô, người bí thư riêng đã thực hiện ý kiến Terauchi, bảo chứng các ngân hàng cho Trung Quốc của họ Đoàn vay (Dan.en = Đoàn viện). Món "tá khoản Nishihara" này tổng cộng lên đến 1 ức 7.700 vạn Yen. Đương thời đất nước Trung Quốc đang ở trong tình trạng quân phiệt cát cứ. Nhân vì Đoàn ra tuyên ngôn sẽ giải tỏa tình trạng này và thống nhất Trung Quốc bằng võ lực cho nên có thể là Nhật Bản chờ đợi ở lời nói của ông và muốn đánh cuộc với lá bài Đoàn Kỳ Thụy. Thế nhưng người 10 năm sau thực hiện việc đó không phải là Đoàn mà là một tướng miền Nam, Tưởng Giới Thạch, người lãnh đạo chính phủ Nam Kinh. Hai mươi mốt điều Nhật Bản yêu sách Trung Quốc đã bị các nước Âu Mỹ la ó nhưng Nhật Bản vẫn muốn tìm cách bảo vệ một cách khéo léo quyền lợi mình đã có được ở đấy cho nên họ có một đường lối ngoại giao khá tích cực đối bằng cách ký hiệp ước và trao đổi giác thư (oboegaki = memorandum, còn gọi là bị vong lục) với các nước. Trước thời Terauchi, Ôkuma đã bắt đầu làm như vậy. Tháng 7 năm 1916 (Taishô 5), ông đã ký kết Hiệp ước Nhật Nga lần thứ tư. Nội dung của nó là hai bên đồng ý nhìn nhận những quyền lợi của nhau trên đất nước Trung Quốc. Khi nào vì những quyền lợi này mà một trong hai nước có chiến tranh với một quốc gia thứ ba thì một trong hai sẽ viện trợ quân sự cho nhau. Nước thứ ba họ ám chỉ là Mỹ. Việc Mỹ là quốc gia đối địch giả tưởng kia không thấy trong văn bản chính thức mà chỉ được hiểu ngầm. Tháng 2 năm 1917 (Taishô 6), Terauchi lại trao đổi giác thư với Anh. Vào thời điểm Hội nghị giảng hòa sau trận Thế chiến thứ nhất, Nhật Bản đã nhìn nhận quyền cai trị của Anh trên những quần đảo vùng biển Nam (các đảo biển Nam) thuộc Đức ở phía nam đường xích đạo. Để đánh đổi điều này, Nhật muốn Anh thừa nhận quyền lợi của mình trên bán đảo Sơn Đông xưa kia thuộc Đức cũng như quyền cai trị của Nhật trên các đảo ở phía bắc đường xích đạo (cũng là các đảo biển Nam) mà Đức đã chiếm làm thuộc địa. Sang tháng sau, Nhật cũng đã thiết lập giao ước như vậy với các cường quốc Pháp, Nga, Ý. Vào tháng 11 cùng năm 1917, ngay cả với Mỹ là quốc gia phê phán nặng nề nhất việc Nhật tiến binh vào Trung Quốc, Nhật cũng đã ký được một Hiệp ước có tên là Ishii - Lansing. Nội các Terauchi đã gửi Đặc sứ Ishii Kikujirô (Thạch Tỉnh, Cúc Thứ Lang, 1866-1945) sang Mỹ để yêu cầu Quốc vụ khanh R. Lansing (1864-1928) chấp nhận quyền lợi của Nhật trên đất Trung Quốc. Đứng trước việc này, Mỹ cực lực đòi hỏi Nhật phải đồng ý việc bảo toàn lãnh thổ cũng như khai phóng môn hộ (để tự do thông thương với nước ngoài) của Trung Quốc. Tuy căng thẳng như vậy, hai nước đã tránh được một cuộc xung đột có khả năng xảy ra. Nhật đành chấp thuận lời yêu cầu của Mỹ và Mỹ cũng nhìn nhận quyền lợi của Nhật trên những vùng "đất của Trung Quốc nhưng tiếp cận với quần đảo Nhật Bản". Hiệp định đã được ký kết với nội dung bao hàm cả những ngôn từ khá mù mờ như vậy. Đến năm 1919 (Taishô 8), tại cuộc Hòa đàm Paris (để giải quyết các vấn đề sau Thế chiến thứ nhất) thì những điều nói trên mới được chính thức quyết định dù trước đó khá lâu, Nhật Bản đã thành công trong việc thuyết phục các nước Âu Mỹ nhìn nhận quyền lợi của mình ở Trung Quốc cũng như việc chuyển nhượng các đảo Đức đã thực dân hóa cho mình. Tuy nhiên, khi cuộc Hòa đàm xảy ra thì Nội các Terauchi đã không còn tồn tại nữa. Bỏ bao nhiêu công cán như thế mà kẻ được hưởng sự nhìn nhận các quyền lợi như trên một cách chính thức không phải là ông mà lại là chính phủ đến sau. 3.3 Biến động chung quanh giá gạo. Nội các Terauchi băng hoại. Sự phồn vinh do cuộc thế chiến mang lại đã làm cho vật giá leo thang, khiến sinh hoạt của người dân bình thường trở thành khó khăn. Điều này chúng ta đã có dịp nhắc đến. Đặc biệt khi vừa bước vào năm 1917 (Taishô 6), giá gạo, món ăn chủ yếu của người Nhật, đã tăng lên một cách nhanh chóng. Cũng vì có sự phồn vinh ấy nên công việc ở các xí nghiệp và hãng xưởng được tăng thêm, số công nhân lao động thành ra thiếu hụt. Để bù lấp lỗ trống đó, người ta phải kêu gọi nông dân ở thôn quê lên thành phố làm việc. Dân số các thành phố trở thành đông đảo. Lúc đô thị đông đúc thì mức tiêu dùng lúa gạo dĩ nhiên cao hơn trước. Mặt khác, ở nông thôn không còn ai canh tác nữa vì tất cả đã đổ xô lên thành phố kiếm ăn. Sức sản xuất lúa gạo vì thế mà đình trệ. Cung và cầu mất quân bình, nói chung là không còn đủ lúa gạo cho mọi người dùng. Hệ quả của vấn đề này là giá gạo ở những nơi giao dịch càng ngày càng cao. Một số kẻ đầu cơ trục lợi, nghĩ rằng đây là cơ hội tốt để làm giàu. Đó là bọn địa chủ và con buôn lúa gạo. Địa chủ và các tiệm buôn gạo bèn giữ gạo lại không chịu đem ra bán làm cho giá gạo tăng vọt. Ngoài ra, các hãng buôn cũng chạy đến thu mua trọn gói, để dành gạo cho mục đích đầu cơ. Vì những lý do đó giá gạo càng ngày càng tăng vượt bực. Ở Dôjima thuộc Ôsaka, nơi có thị trường giao dịch về gạo, chỉ trong vòng 1 năm mà giá gạo đã lên gấp đôi. Nội các Terauchi nhận thức được nguy cơ thiếu gạo cũng như sự bất mãn của dân chúng trước vấn đề này, bèn dồn sức vào việc bảo vệ trị an. Họ bèn tăng thêm số lượng cảnh sát, ra pháp lệnh ngăn cấm việc đầu cơ tích trữ lúa gạo, buôn bán độc quyền để thu lợi lớn và cùng lúc, cho nhập lúa gạo từ nước ngoài vào. Tuy nhiên, những chính sách nói trên vẫn không làm sao ngăn chặn được việc gạo tăng giá. Tháng 7 năm 1918 (Taishô 7), ở vùng Uodzu (Ngư Tân) thuộc quận Niikawa tỉnh Toyama đã xảy ra một cuộc biến động. Số là vợ con của những người dân chài lúc gặp nhau ở chỗ tắm giặt đã bàn bạc đại ý là : "Nơi đây là bến đậu của thuyền thu mua gạo để chở sang tỉnh khác. Nếu họ làm vậy, giá gạo chỗ mình sẽ lên cao mất. Vậy chúng mình phải tìm cách ngăn chặn không cho họ tải gạo xuống thuyền" và họ đã hiệp lực để ngăn chặn việc tải gạo cũng như chở gạo đi đến nơi khác. Việc này chính ra chưa phải là một sự kiện to tát nhưng các tờ báo đương thời đã tranh nhau viết thành những ký sự hào hứng với cách dùng chữ gợi hình như "Cuộc ikki (nổi loạn nông dân) của người phụ nữ Toyama", "Đoàn quân phụ nữ"...Những bài phóng sự giàu cảm tính như thế đã kích thích dư luận. Các nơi khác cũng bắt chước Toyama, hăm dọa các con buôn gạo và bắt buộc họ phải bán ra với giá rẻ. Nhân đó, có những kẻ lợi dụng tình thế để đập phá các tiệm buôn gạo và nhà cửa phú hào, lược đoạt lúa gạo và cả những món đồ quí giá. Tình hình nói trên xảy ra thường xuyên và cuộc bạo động vì giá gạo đã bắt đầu. Vậy mà chính phủ Terauchi đã chọn một thời điểm xấu như vậy để tiến binh sang Siberia. Hoặc giả họ làm thế với chủ tâm giải quyết rắc rối bên trong bằng cách hướng dư luận ra bên ngoài như ngón đòn thông thường của các chính trị gia? Dù sao, trên thực tế, sự việc đã diễn tiến như sau: Năm 1917, Cuộc cách mạng vô sản đã xảy ra ở Nga. Đế chính Nga sụp đổ, qua năm sau thì chính quyền Xô Viết (Liên Xô) thành hình. Nga trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới theo xã hội chủ nghĩa. Đương thời, Nhật Bản là một quốc gia thể chế thiên hoàng. Nhà nước Nhật Bản nhất quyết sẽ không để cho ảnh hưởng của cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga cũng như thể chế chính trị do nó sinh ra đặt được chân lên quần đảo (Muốn biết rõ hơn về không khí chính trị Nhật Bản thời ấy xin xem lại những trang cuối của Phần 3). Chính phủ Nhật cho rằng nay nước láng giềng bỗng nhiên trở thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa thì sẽ là một lực lượng uy hiếp sự tồn vong của mình. Đồng thời, nhân thấy lực lượng quân sự hùng mạnh của đế quốc Nga đã tiêu ma, các bộ lục quân và ngoại giao xem như dịp may có một không hai đã tới. Nhật Bản phải lập tức xua quân vượt biển sang Siberia để làm chủ phần đất đó. . Cũng phải nói đến một động cơ thúc đẩy khác là lúc đó Anh đã yêu cầu Nhật Bản tiến binh qua Siberia. Đối với Anh và Pháp thì việc Liên Xô có khuynh hướng một mình một chợ giảng hòa với Đức là hành vi phản bội. Để đối địch với chính quyền xã hội chủ nghĩa này, họ đã kêu gọi sự giúp sức của người Nhật. Thế nhưng, có một quốc gia từ trước vẫn phản ứng mạnh mẽ đối với những lần tiến binh qua đại lục của Nhật. Đó là Mỹ. Lần này cũng vậy, họ phản đối việc Nhật điều quân sang Siberia. Chính quyền Terauchi lẫn Hội đồng nguyên lão do dự và chùn bước, việc xuất quân vì vậy không thành. Bất chợt vào năm 1918 (Taishô 7), Mỹ cho tới nay vẫn nghi ngại việc Nhật Bản tiến binh vào đại lục đã trở ngược lá bài và lên tiếng mời mọc cho một đề án chung: "Nhật Bản có thể cùng chúng tôi đem binh qua Siberia không?". Do đó, tháng sau, Terauchi lại ra tuyên ngôn xuất quân. Thử hỏi cớ sao Mỹ đã đột ngột đưa ra đề án như thế? Đó là vì Mỹ vừa nhận được yêu cầu khẩn thiết của Anh và Pháp nhờ đến giải cứu Tiệp Khắc (Czekoslovakia). Chính ra khi ấy người Tiệp Khắc muốn giành độc lập từ Áo (Austria) nên đã thành lập một quân đội riêng, chiến đấu bên cạnh quân Nga chống Liên minh Đức-Ý-Áo trong Thế chiến thứ nhất. Sự xuất hiện của chính quyền Xô Viết đã làm thay đổi tất cả. Liên Xô lại quyết tâm một mình giảng hòa với Đức nên ra lệnh cho quân đội Tiệp Khắc phải tự giải giáp. Đoàn quân này đã cự tuyệt lệnh ấy, chiếm đóng phía Tây vùng Siberia và tổ chức một chính quyền chống lại nhà nước Xô Viết. Việc cứu giúp chính quyền của quân đội Tiệp Khắc đã được đa số dân chúng Mỹ tán đồng. Với chiêu bài "trừng trị kẻ mạnh hiếp yếu", chính phủ Mỹ bèn động binh. Như thế, 12.000 lính Nhật, 7.000 lính Mỹ, 5.800 lính Anh-Pháp đã đổ bộ lên Vladivostock thuộc vùng Đông Siberia.Thế nhưng sau đó, chính phủ Nhật gửi viện binh mỗi lúc càng nhiều, tổng cộng con số lên đến 72.000 người. Chẳng bao lâu, các nước Âu Mỹ đều kéo quân về (1922, Taishô 11) trong lúc quân Nhật vẫn tiếp tục đồn trú tại chỗ. Các nước, nhất là Mỹ bèn cáo buộc, cho rằng Nhật đang nuôi tham vọng gì khác. Cuộc xuất quân này đã tạo ra một kinh phí lên đến 10 ức Yen với thiệt hại nhân mạng trên chiến trường là 3.000 người chết, 20.000 người bị thương. Ở quốc nội, công luận bắt đầu lớn tiếng phê phán. Như vậy chúng ta đã hiểu được phần nào nguyên do và hậu quả của cuộc tiến binh sang Siberia (1918-1922). Nay xin trở lại cuộc biến động xã hội vì giá gạo. Cuộc biến động bắt đầu từ tháng 7 năm 1918 tại Toyama đã lan rộng như đám cháy qua các tỉnh bên cạnh và phát triển thành một cuộc bạo động với qui mô toàn quốc. Việc gửi quân sang Siberia vừa nói đến có nghĩa là một số lớn thóc gạo đã phải gửi ra chiến trường để nuôi quân. Đoán trước được điều đó, số con buôn đi thu gom càng ngày càng trở nên đông đảo. Giá gạo nhân đó lại tăng vọt. Đầu tiên, những cuộc bạo động vì giá gạo (kome sôdô) đã xảy ra ở các thành phố lớn. Sau đó nó đi xuống các thành phố nhỏ rồi về tới cả nông thôn. Đặc biệt những người xem như cốt cán nhất trong đám người nổi loạn là đám dân nghèo nằm dưới đáy xã hội, hàng ngày vẫn phải sống rất cơ cực. Chính phủ bèn ra lệnh không cho phép báo chí viết phóng sự về những cuộc bạo động do giá gạo gây ra nữa.Họ còn gửi quân đội đi khắp các nơi để đàn áp. Kết quả là vào cuối tháng 9, tình hình lần hồi lắng dịu trở lại. Cuộc bạo động vì giá gạo đã có khoảng 700.000 người tham gia, trong đó chừng 25.000 người đã bị bắt giữ để điều tra, 8.000 người bị truy tố và 2 người bị tuyên án tử hình. Đó là một cuộc bạo động lớn chưa từng thấy. Nó đã phát triển trên một địa bàn rộng lớn gồm 1 đạo (là Hokkaidô), 3 phủ, 38 huyện (tỉnh), 38 thành phố chính, 153 quận (đinh) và 177 thôn. Trách nhiệm chính của cuộc bạo động này là Terauchi nên ông và nội các đã từ chức. Lần này (tháng 7 đến tháng 9 năm 1918) cũng như thời phong trào vận động "hộ hiến" lần thứ nhất (1912-1913), tuy không được tổ chức qui mô và trật tự nhưng nguời dân đã chứng tỏ cho chính phủ biết thế nào là sức mạnh của mình. Đồng thời bản thân họ cũng bắt đầu tự giác về sức mạnh đó. Danh sách các thủ tướng giai đoạn cuối Meiji đầu Taishô (1911-1918)
|
Chú thích : |
[1] - Seihen (chính biến) trong Nhật ngữ hàm chứa nhiều nghĩa, từ nghĩa rộng tới nghĩa hẹp: biến chuyển trong giới chính trị (political change), đảo chính (coup d'Etat) hay thay đổi nội các (change of government). [2] - Uehara Yuusaku (1856-1933), đại tướng lục quân, sau là nguyên soái. Xuất thân phiên phiệt Satsuma. [3] -Danh từ phiệt tộc (batsuzoku) kết hợp các từ phiên phiệt (hanbatsu) và quí tộc (kizoku) , hoa tộc (kazoku), nói chung ám chỉ thế lực thủ cựu. [4] -Tập đoàn điện khí và viễn thông quốc tế do anh em người Đức Werner von Siemens và Carl Wilhelm von Siemens thành lập ở Munchen (Đức) năm 1847, hợp một với Shuckertwerke năm 1903. [5] -Dòng dõi nhà Tokugawa, từng lưu học ở Anh. Đứng đầu Quí tộc viện từ 1903-1933. [6] -Triple Alliance tức Tam Quốc Đồng Minh, hiệp ước bí mật ký kết năm 1882 giữa Áo, Đức và Ý. Hủy bỏ năm 1915 khi Ý rút ra. Cần phân biệt với phe Trục gồm 3 nước Đức, Ý, Nhật vào năm 1940. [7] -Tripartite Agreement tức Tam Quốc Hiệp Thương, Hiệp ước giao hiếu giữa Anh, Pháp, Nga bắt nguồn từ Hiệp ước Pháp Nga năm 1894. Đến năm 1904 thì có Hiệp ước Anh Pháp và năm 1907 lại thêm Hiệp ước Anh Nhật. Chủ ý là làm thành mạng lưới bao vây Đức. [8] -Chẳng khác nào các vị công tử Bạc Liêu của chúng ta, con cháu đại điền chủ thời Pháp thuộc. [9] -Còn gọi là quân phiệt Bắc Dương. Việc phân biệt Bắc Dương và Nam Dương tính từ Thượng Hải trở về bắc hay trở về nam. |
|