Tùng
Lâm Lê Cương Phụng đả kích thơ mới
Sang đến Văn Học tuần san số
6, 1-6-1935, Tùng Lâm tấn công thơ mới ra mặt.Vì chưa có trích
tuyển ở đâu nên tôi trích vào đây toàn bài để cácbạn
tiện bề so sánh. Trong bài này Tùng Lâm đề cập đến các
điểm sau đây :
1) Chỉ có hạng dốt mới muốn
thơ mà lại thơ dễ dãi không niêm luật.
2) Thơ mới là thứ thơ bừa
bãi,vô kỹ luật.
3) Minh chứng những chỗ dở
của các bài thơ mới.
4) Trách Đông Hồ đã đi lầm
đường bỏ thơ cũ là chỗ sở trường của ông để đi vào
thơ mới với những bài thơ vô vị :
" Thi vẫn một món trong các
thứ văn vần, nhưng đối với các thứ ấy nó lại rắc rối
mắc mỏ hơn nhiều. Người đã từng chơi với nó và nếu
được ý vị nó ít nhiều, thì lại càng thấy cái khó của
nó ; trừ ra những hạng " bướng " hoặc chưa có nhà " đại
gia " " căng nọc " ra chỉ vạch những chỗ khuyết điểm cho,
thì bao giờ họ cũng vẫn cho là dễ.
" Mà thật thế, có khó chi,
cứ đủ vần đủ chữ, đừng thất niêm thất luật, ấy
là thi đó chứ gì. Đó là nói về lối thi ngũ ngôn, thất
ngôn, chớ còn cái lối thi như hiện thời gọi là " thơ mới
" đó, lại càng dễ hơn thập bội nữa. Cứ việc kéo, tha
hồ kéo, kéo lượt bượt, mấy vần cũng được, mấy chữ
cũng xong, không có khuôn sáo nào, luật nào bó buộc, dễ biết
bao nhiêu, không trách gì hạp với thời thượng cũng phải.
" Họ bảo rằng : Cái thời
đại này là thời đại máy móc, trăm ban vạn sự gì cũng
cần sự mau chóng tiện lợi, đâu có phải như cái đời cũ
kỹ trước kia, bất kỳ việc gì cũng chần chờ, chậm chạp,
làm phí mất thì giờ, nhà văn cũng thế, ngồi rung đùi tối
ngày, tằn mằn tỉ mỉ, đẽo gọt từng câu từng chữ, đối
với thời buổi này không dùng lối ấy được đâu ". Nghe
có lý lắm ! Nhưng có người cắc cớ hỏi vặn lại một
câu :" Thi là một món chơi, để tiêu khiển thì giờ, nó đối
với nhân sanh thực tế không quan thiết gì, có cũng được,
không không sao, ai bảo đeo đuổi nó làm chi, rồi chê bai nó,
ghét ghen nó, mắng nó là lối văn chặt chịa, ở trong quyền
sáo niêm luật, không được tự do ? Nếu muốn dễ dãi thì
hẳn cứ viết văn xuôi đi, cho người ta dễ hiểu, việc gì
phải ngụy tạo ra cái lối văn " cổ chẳng ra cổ, kim chẳng
ra kim " ? Thì đây, tôi xin đem ra một bài này để làm đại
biểu cho trăm nghìn bài khác :
CẢNH
TRỜI XUÂN
" Cảnh
trời xuân,
" Em dạo
ra sân,
" Đứng
trông, em càng khoan khoái tinh thần.
" Kìa
kìa, con chim nó hót cái giọng
" Thảnh
thót như một vị mỹ nhơn, khảy khúc đờn.
" Khúc
đờn này, tiếng nhặt tiếng khoan, tiếng cao tiếng
" Thấp,
dường như khêu gợi mối xuân tình của em
" Từ
bấy lâu nay dồn dập
" Rồi
em nghĩ vơ nghĩ vẩn, tâm hồn em lẩn thẩn.
" Nghĩ
cái tuổi xanh này, là cái tuổi thơ ngây
" Một
mai xuân này đã qua, thân em già
" Lúc
bấy giờ, em tưởng tượng lại,
" Em chi
xiết ngậm ngùi, nỗi ngậm ngùi.
" Mây
bay, nước chảy, hoa trôi ".
(Xin dấu
tên của tác giả)
" Đó, thơ mới đó ! Tác giả
chính là tín đồ của thơ mới, thật tôi ráng đọc ; tôi
muốn nói thơ, thì thơ chẳng ra thơ, tôi muốn nói ca, thì
ca cũng chẳng ra ca. Tôi chỉ hiểu cái bài ấy là bài ấy
đó thôi !
" Song, cái bài này đây, nghe
ra còn có câu, có nghĩa, chỉ hiềm nó không ở trong một khuôn
sáo là " thể " gì cả.
" Tác giả bài này trước kia
là tín đồ của thơ luật, có nhiều bài thần tình lắm,
chẳng biết bị cái phong trào thơ mới nó lôi cuốn thế nào,
nay lại xoay sang làm tín đồ thơ mới ?
" Lại gần đây, có nhiều
nhà phỏng theo điệu thơ Tây làm ra nhiều bài, cũng tự cho
là thơ mới.
Như bài này :
BÊN
GỐC CÂY DỪA
" Ánh nắng
trời thu dịu dàng êm mát,
" Bên
gốc dừa, cô em ngồi lặng buông câu.
" Trên
thảm cỏ xanh, bên sông bát ngát,
" Cô đăm
đăm nhìn dưới nhịp cầu.
" Phong
cảnh đẹp bóng cây in bóng nước,
" Lá rung
rinh, tàn xanh lả lướt.
" Mặt
cô em tròn trắng xinh tươi,
" Dưới
vành khăn, phơ phất mái tóc mai.
" Mắt
lóng lánh, làn môi tươi thắm ;
" Khiến
cho tôi nhìn cô em say đắm.
" Nhẹ
nhàng tôi bước lại một bên.
" Ngồi
gần cô, tôi lẳng lặng ngắm xem,
" Giờ
lâu tôi mới tìm lời ướm thử
" Rằng
" câu cá vẫn là một cái thú :
" Những
người thanh tao ẩn dật xưa nay,
" Chỉ
biết thanh nhàn với cỏ cây,
" Sớm
vác cần câu bên khóm trúc...
" Buông
cần cô em ngảnh nhìn tôi :
" Cặp
mắt ngây thơ, cô trả lời :
" Em nào
phải thanh nhàn phong phú,
" Mượn
cảnh thiên nhiên làm vui thú.
" Nhà
nghèo sớm tối em nhọc nhằn,
" Lúc
dưới nắng hạ, lúc mưa xuân,
" Lúc
gió đông thổi lạnh lùng rét mướt,
" Và sương
thu rơi thấm ướt,
" Em vẫn
phải làm với ngày tháng cho qua,
" Bên
gốc cây, câu để nuôi nấng mẹ già,
" Trong
túp lều tranh, sớm mong chiều đợi.
" Hai mắt
đã loà, hai chân đã mỏi,
" Chỉ
trông vào em, kiếp sống chiều tàn...
" Cần
lòng yêu, để che nỗi khóc than...
" Em nào
phải thanh nhàn phong phú,
" Mượn
cảnh thiên nhiên làm vui thú,
" Sớm
câu, chiều câu, lại mai câu.
" Mong
có cá nhiều và mong mẹ sống lâu,
" Bữa
qua bữa với tấm lòng vui vẻ,
" Của
một mẹ già trông mong ở con trẻ.
" Thể thơ đó, bắt vần như
thể thơ Tây, nhưng tác giả phun châu nhả ngọc, muốn bao
nhiêu tuỳ ý. Có bài gấp đôi, lại cũng có bài ngắn bằng
nửa.
" Mà rồi ta thử lẳng
lặng ngâm coi, coi cái giọng ngâm nó ra sao ? Ngâm như ngâm
thi thì ngâm thế nào được, hay là phải ca như ca Văn Thiên
Tường ? Hoặc phải bắt giọng như giọng ca Tiều của cô
Phùng Há ?
" Xét cho kỹ, chẳng qua tác
giả chán nản cái công phu đặt thi luật, nó chỉ có bốn
câu tám câu năm vần, ba vần mà phải cho đủ ý, đủ lời,
không thất niêm, không phản luật, không lạc vần, thấy khó
chơi, rồi thì băng qua một con đường khác đặng cho dễ
dãi, nhưng không ngờ lại đâm ra cái bãi đại sa mạc minh
mông !
" Muốn cho dễ dãi một ít,
khỏi mất công phu đẽo gọt, thì tôi xin hiến cho một kế
là hẵng làm theo lối thơ Đường, mà thể Đường cổ phong.
Thì như bài này :
THƠ
VUA SIAM MỚI GỬI CHO VUA CŨ
" Năm xưa
chú bảo chú đau mắt ;
" Bà con
ai cũng cho là thật ;
" Cả
nước chờ chú về làm vua ;
" Ai ngờ
tin chú ngày một mất
*
" Bây giờ
thơ chú gửi về nhà,
" Rằng
chú ở lại nước người ta,
" Ngôi
vua chú không muốn ngó đến,
" Thịnh
suy mặc kệ nghiệp ông cha.
*
" Không lẽ
nước có, vua không có,
" Đình
thần mới chọn cháu lên đó,
" Cháu
đã nghĩ tới rồi nghĩ lui,
" Cháu
biết làm vua là chuyện khó
*
" Vì rằng
trong nước đảng phái nhiều,
" Quân
chủ, dân chủ biết bao nhiêu,
" Rầy
nhất là chính sách lập hiến,
" Quyền
vua chỉ còn có một thiu.
*
Cũng vì mẹ
cháu bàn giải mãi,
" Cháu
không làm vua cháu cũng dại,
" Dầu
chỉ có vị không có quyền,
" Nhưng
mình ăn tiêu còn rộng rãi.
*
" Huống chi
kinh tế buổi khó khăn,
" Tay làm
không đủ cho miệng ăn,
" Ai chê
ai cười chi cũng mặc,
" Làm
vua còn sướng hơn làm dân.
ĐƯỜNG
QUANG
(Trích ở
báo Ánh Sáng)
" Đó cũng là lối thơ dễ
dãi, mà nghe hay, lại có lý thú nữa. Nếu muốn văn hoa thêm
thì phỏng như bài này :
HOA
THẬT HOA GIẢ
(Lời
cô hàng hoa)
" Cô em
hàng xóm sinh nhà nghèo,
" Trồng
hoa tưới hoa sớm lại chiều,
" Gió
đông vừa thổi hoa vừa nở,
" Cắt
bó vội vàng đem bán chợ,
" Chợ
chiều lác đác người hồ quang,
" Gánh
hoa còn nặng cô bàng hoàng.
" Nào
đâu quà em, nào cháo mẹ,
" Mẹ
yếu em thơ lòng những thương !
" Đổ
hoa xuống rãnh bưng mặt khóc,
" Khóc
ra giọt lệ như giọt ngọc.
" Cúi
đầu gạt lệ sợ người cười,
" Nhìn
hoa dưới rãnh mắt khôn rời.
" Thương
hoa thương cả công vun xới,
" Sương
nắng công trình biết mấy mươi !
" Ô hay
! người đời riêng tính lạ !
" Hoa thật
chẳng thích, thích hoa giả,
" Hoa thật
hỏi mua nào mấy người ?
" Hoa giả
đắt hàng như tôm tươi,
" Cô em
ngẫm nghĩ bụng sực nhớ,
" Vì nghèo
nên phải liệu chiều đời,
" Mua lụa
mua phẩm, mua giây sắt,
" Nhuộm
đủ các màu đem kéo cắt,
" Nào
cành, nào cánh, nào đài trang,
" Khéo
làm chẳng khác chi hoa thật.
" Làm
xong hoa giả bán nhiều tiền,
" Lãi
lời tấn tới ngày một lên.
" Mẹ
khỏe, em học, chị buôn bán,
" Tay không
bỗng chốc dư bạc nghìn !
" Có khi
thong thả thăm vườn cũ,
" Mắt
trông trăm hoa chiều ủ rũ,
" Tàn
tàn, nở nở biết bao lần,
" Mưa
mưa, gió gió ai là chủ ?
" Tần
ngần ngắm nghía cô thương tâm !
" Chứa
chan dòng lệ khôn ngăn cầm !
" Thương
hoa, thương cả nghề buôn bán,
" Lai láng
tình riêng năm lại năm.
NHƯỢNG
TỐNG
" Gần đây lại nổi cái phong
trào thi bình dân. Thấy có nhiều tờ báo đăng những bài
thi, trong đó tác giả dùng nhiều tiếng rất tục tĩu khó
nghe quá. Như là : ỉa phẹt phẹt, ăn ngủ đ..., bày mổng
trôn...Bảo rằng đó là thơ bình dân. Lại còn ngụy biện
bảo là lối tả chân. Gớm thật !
" Đâu có hiểu rằng, thơ bình
dân nghĩa là thơ có tính chất bình dân, không cái " mốt "
thưởng nguyệt xem hoa, đề non vịnh nước, tiêu sầu khiển
hứng như những trang tài tử phong lưu, không mơ mộng lên
cung quế, gặp Hằng Nga, uống rượu đào, nghe khúc sinh ca,
như phái thi ông lãng mạn. Chỉ cốt lời văn mộc mạc, tả
ra cái phong vị của hạng bình dân mà thôi.
" Muốn tập làm thi bình dân
thì hẵng bắt chước như bài dưới này :
ĐI
LÀM THUÊ
" Miền
tôi ở lở dở,
" Đã
cách với nguồn lại xa chợ.
" Muốn
buôn, không có đồng vốn nào,
" Muốn
cày ruộng, không có một sở ;
" Học
mới học cũ cũng dỡ dang,
" Không
phải thầy, cũng không phải thợ.
" Trong
tay không có nghề,
" Thêm
nạn khủng hoảng gớm ghê !
" Ma đói
dục thúc mãi
" Buộc
mình bước chưn đi làm thuê
" Nghe
nói miệt trong đường xe lửa,
" Các
ông đứng thầu làm nhiều sở.
" Lật
đật mang gói đi ngay vào,
" Cùng
bạn cô li làm dọi bữa.
" Đào
đất đập đá,
" Công
việc vất vả.
" Mong
rằng mồ hôi đổi bát cơm.
" Đồng
công đồng nợ có tiền trả,
" Nào
hay vài tháng nay,
" Làm
rồi tiêu rồi, không có đồng nào còn dính tay.
" Chỉ
lưa cái mình mộc,
" Đi về
lỡ cười lại lỡ khóc !
Người
Làm Thuê
(Trích
ở báo Tiếng Dân)
" Đó, xem có chữ nào quê kịch,
sống sượng, tục tỉu không ?
" Luôn dịp nói chuyện thơ,
tôi xin nói đến thơ Đông Hồ :
" Đông Hồ tiên sinh, một nhà
thi sĩ đã viết ra nhiều tập, in ra nhiều cuốn, hình như
tác giả có cái sở thích về thơ.
" Tôi để ý xem thì đoán được
ngay nhà thi sĩ này có mấy cái đặc tính :
" Mấy năm trước, nhà thi sĩ
vẫn là tín đồ của phái thi niêm luật, khoảng trung gian
lại ít chuyên về lối ấy, thường dùng " Thơ tản văn ".
" Tôi không hiểu lối này là
lối gì. Xin trích ra một hai bài dưới đây :
BÓNG TRĂNG
TÀN
" Bàng
hoàng tỉnh giấc, mảnh trăng khuya chấp chới giải bên màn,
ngửa mặt nhìn trăng, lầu sầu quấn quít. Cùng ai dưới bóng
trăng này : Gió hắt, sương bay, đêm thu lạnh. Cảnh xưa tình
cũ nào đâu : tay ngọc ai cầm, lòng son ai tựa, tóc mây ai
buông toả bên vai.
" Vói
bóng bắt trăng, bức màn rung động, nào phải đâu tay ngọc
ai đưa, để âu yếm mối ân tình trên đầu năm ngón...gối
nghiêng trằn trọc suốt canh dài ! "
CÀNH HOA
HỒNG
" Bình
pha lê lóng lánh, cắm cành hoa hồng, tay ai vừa cắt trước
sân nhà, buổi tan sương sớm. Đôi má hây hây, kề tựa đóa
hoa mơn mởn, vẻ đẹp như lấn, khiến cho bông hoa hồng thèn
thẹn nụ cười. Một ngày qua trở lại, cánh hồng bay tơi
tả khắp bàn...
" Một
năm qua trở lại, đôi má hây hây đâu đã vắng, cánh hoa
hồng năm trước đã héo khô rồi. Đôi má hây hây, nay có
lẽ, đang kề tựa đóa hoa mơn mởn nào đâu, nhưng vẻ đẹp
biết có như lấn, mà khiến cho bông hoa hồng thèn thẹn nụ
cười nữa không ? "
" Còn nhiều nữa, vô khối
! Tôi chỉ trích ra hai bài đó cũng như các bài khác.
" Tản văn là tản văn, mà
thơ là thơ, đâu có thơ với tản văn chung với nhau làm một
được ? Nếu bảo thơ thì tất nhiên phải có vần nghe mới
được chớ, dầu cổ, dầu kim, dầu Đông, dầu Tây, chưa
tầng thấy lối thơ nào mà thơ không vần, xin hỏi Đông Hồ
tiên sanh ?
" Gần đây, nhà thi sĩ lại
cũng chịu ảnh hưởng " thơ mới " ít thấy làm tứ tuyệt,
bát cú như trước nữa, hoặc giả bị cái trào lưu thời
thượng nó lôi cuốn rồi chăng ? Nhưng xem thơ mới của tác
giả thì có phần kém hơn thơ luật nhiều. Tôi chưa nói chỗ
hay chỗ dở, ý thì ít mà lời thì nhiều, đại khái như bài
thơ này :
TRƯỚC
GIÓ
(Tặng
Thanh Lan)
" Chập
tối hôm qua, ta gặp một người trong mộng.
" Người
có cái đẹp dịu dàng, xinh tươi lồng lộng.
" Là cái
đẹp mặn mà, đằm thắm của người con gái đến thì,
" Cái
đẹp dễ khiến cho người nhìn đắm đuối say mê.
" Nàng
đứng chỗ ào ào cơn gió rét,
" Hơi
gió lạnh như thấm vào trong xương thịt,
" Chiếc
áo lụa phong phanh màu tuyết trắng bong, giải khăn san phơn
phớt màu hồng bay lả lướt, phất phơ theo chiều gió lốc,
như một áng mây tàn lờn vờn trên cành cây ngọc.
" Ta, bấy
giờ, thấy người giá buốt, mà trông nàng thì như chẳng
chút lạnh lùng. Âu yếm, ta sẻ hỏi : Em ơi ! Lạnh nhỉ ?
Mỉm cười, đáp lại lời ta : Anh ơi ! Tuổi trẻ ! tuổi trẻ
là tuổi êm đềm, đầm ấm, nồng nàn, thì chi có sợ nỗi
lạnh lùng của sương gió, của thời gian.
" Mặc
gió thổi, sương gieo, thời gian lãnh đạm, ánh than hồng của
lòng ta vẫn ấm và vui với văn chương, trăng gió, cỏ hoa,với
non sông, ánh sáng và nhất là với tình ái của đôi ta ?
ĐÔNG
HỒ
"
Tôi xin mạn phép tác giả,
cũng trong bài ấy, bấy nhiêu chữ, tôi xin rút lại tám câu
như thế này :
Gặp
người trong mộng tối hôm qua,
Trạt
tuổi xuân xanh nét mặn mà.
Chiếc
áo phong phanh màu tuyết nhuộm,
Giải
khăn phơn phớt áng mây qua.
Lạnh
lùng chẳng quản cơn sương gió,
Đầm
ấm như say thú cỏ hoa.
Âu yếm,
ta vừa lên tiếng hỏi,
Mỉm cười,
liền tỏ tấm tình ra.
" Như vậy cũng đủ ý, đủ nghĩa,
mà chẳng gọn hơn sao ?
" Tôi đã đọc qua các tập
thơ Đông Hồ, tôi có để ý đoán xét được tác phẩm của
nhà thi sĩ này hầu hết chín phần mười là thư tình, mà
là tình mơ mộng cả, thành ra hão và phù phiếm quá, ít có
bài nào vịnh vật hoặc kỷ sự như mấy nhà thi nhơn khác.
Thử lật một tập " Thơ Đông Hồ " ra xem, thì nhan nhản
những bài : Chơi hoa, Khóc hoa, Nhớ Mai,
Trông trăng nhớ người, Dưới hoa, Buồn nhớ người xưa,
Buồn vơ buồn vẩn, Gặp nhau, Trách nhau...chan chứa
cả giọng bi sầu ảo não.
" Rồi xem đến cuốn
"
Cô gái xuân " cũng thấy rặt những bài :
" Ngấn
lệ, Quả tim, Cái hôn lần đầu, Giấc mộng tình, Đưa nhau,
Hôn em, Dưới cây, Hỏi nhỏ, Gió buồng xuân...cũng
là lai láng cả tình là tình !
" Thì ra cái tâm hồn nhà thi
sĩ này thường vơ vẩn ở cõi " Cánh hoa thuỷ nguyệt " cùng
là tiêu dao nơi hận hải tình thiên " trừ ra không mấy khi
thấy lối văn nào khác nữa. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cũng
bị mấy cái tật ấy mà Phạm Quỳnh tiên sanh tặng cho cái
tiếng " văn chơi " " Ngông " chỉ nghĩa là không thiết thực.
" Vậy xin thi sĩ Đông Hồ cũng
nên bớt bớt cái lối văn tình đi, xin luôn đừng chơi thơ
mới nữa, hãy khôi phục lại lối thơ như các bài mấy năm
trước đã từng làm, mong sau này sẽ trở nên một thi gia
thằng mặc "
Sau khi chửi bới thơ mới và
khuyên Đông Hồ nên bỏ thơ mới trở về với thơ cũ, Tùng
Lâm Lê Cương Phụng còn lên tiếng cực tán thơ Đường mà
ông cho là hơn hết mọi thứ thơ vì năm lý do sau đây (xem
bài
Những cái đặc sắc của Đường
thi, V.H.T.S. số 9 tháng 9 năm 1935).
1) Là nấc tiến cuối cùng,
tột đỉnh của thi ca Tàu.
2) Là vì nó là thể thơ được
xã hội cực văn minh Trung Hoa trau dồi tô điểm trong mấy
trăm năm.
3) Là vì nó là một kho tàng
văn chương vô cùng phong phú, đủ màu, đủ sắc.
4) Là vì nó là thể thơ thuần
nghệ thuật chứ không phải là thể thơ đạo đức.
5) Là vì lắm khi nó còn bao
hàm ý nghĩa bình dân, phô thông.
" Đều là thi, trước đời
Đường thì Hán, Tấn, Nguỵ cũng có thi, sau đời Đường
thì Tống, Nguyên, Minh, Thanh cũng có thi. Thế sao lại Đường
thi vẫn có giá trị hơn ? Các nhà thi sĩ phê bình nhau cũng
lấy thi Đường làm căn cứ, các nhà nho học, cũng lấy thi
Đuờng làm thi pháp nhập môn. Cho đến mấy câu sáo ngữ ở
Tàu thường nói " Đường thi, Tống Tự, Hán văn chương "
" Đường nhân phong vị " v.v... Thì biết thi Đường có giá
trị hơn các thi khác. Nhưng, ta nên biết cái đặc sắc của
nó ở chỗ nào ?
" Có người nói : Lục triều
vẫn có thi, nhưng thi ấy phần nhiều phức tạp, Tống, Nguyên,
Minh vẫn có thi, nhưng thi ấy không được phong tao, không bằng
Đường thi gồm đủ các thể tài. Nói thế, vẫn có lẽ,
song chỉ lấy một phương diện chớ sự thật thì còn nhiều
chứng tá. Muốn biết cái đặc sắc của Đường thi, nên
xem lời phê phán của ông Hồ Vân Đực thì mới biết rõ
là xác đáng hơn.
" Ông Hồ là một thi sĩ có
tiếng ở đời nhà Thanh, người có công nghiên cứu về thi
học, có viết ra cuốn nghiên về Đường thi, trong có nhiều
đoạn bài bác các nhà thi sĩ xưa nay nhiều chỗ ngộ giải
; nay tôi chỉ xin lược trích ra một chương nói về chỗ đặc
sắc của Đường thi, hiến cho các thi nhân được biết một
ít Đường nhân phong vị.
" Đường thi sở dĩ hơn các
thi khác, có bốn cái đặc sắc :
" Một là do thể thi của Tấn,
Nguỵ mà biến thành mới, có niêm luật, có cổ, cận thể,
có trường đoản thiên. Tức như các bài đã tuyển trong bộ
Đường thi tam bách thư.
" Hai là đời Thạch Đường
từ vua Cao Tôn về sau, hơn ba trăm năm triều đình chỉ chăm
một mặt dùng thi phú từ chương làm nấc thang cho sĩ phu trong
nước. Đại để như ông Lý Thái Bạch làm ra bài
"
Thanh bình Điệu " thì được vua Huyền tôn yêu quí
lạ thường, ông Bạch Cư Dị làm bài Trường
Hận Ca thì vua Hiến Tôn vời làm chức Hàn lâm học
sĩ, vua Mục Tôn thấy tập thi ca của Nguyên Thận thì vời
làm chức xá nhân, cho đến các cung phi, hoàng hậu như Võ
Hậu, Vi Hậu, Mai Phi, Dương Phi đều là các bà thích ngâm
vịnh cả. Người bề trên đã ham chuộng, tự nhiên kẻ bề
dưới phải lấy đó làm con đường tiến thân, thành ra một
phong khí tập quán.
" Ba là ảnh hưởng của thời
cuộc ; vì đời Đường từ khai nguyên Thiên hửu sắp về
sau, trong nước thường gặp nhiều cảnh éo le, những cảnh
ấy dễ làm đề tài cho thi nhơn đề vịnh, đại khái như
việc An Lộc Sơn đời Minh Hoàng, việc Sử Tư Minh đời Túc
Tôn, việc Trần Hoàng Chí đời Hiến Tôn, việc Chu Toan Trung
đời Chiêu Tôn, thảy thảy những đại biến trong nước,
nhà làm thi hay dùng sử liệu vào thi ca, mở xem một bộ Đường
thi bao nhiêu bài đáng ca tụng, đều là những bài thời thế,
như
Điếu chiến trường, Yên ca, Tùng
quân, Khuê oán, Cung Trung từ ...Có nhiều cảnh nên
thơ, thơ mới nảy ra nhiều tình tứ, mới thấy chỗ đặc
sắc.
" Còn một lẽ nữa, đời nhà
Đường lấy thi làm tác phẩm văn chương, chứ không như Hán,
Nguỵ và Tống chỉ lấy thi làm tác phẩm đạo đức, vì người
đời ấy cho rằng đã là thi mà ngụ cái giọng đạo đức
thì lời văn không được thôi xao, thành ra không lưu truyền
được rộng, xem như thi của Châu Mậu Thúc, Thiệu Nghiên
Phu ở Tánh Lý thì đủ biết.
" Vả lại, Đường thi thì
có cái đặc sắc là phần nhiều chứa chất nhiều qua niệm
văn học bình dân. Đại khái như thi của Nguyên Thận, Vương
Xương Linh, Bạch Cư Dị, Cao Thích, Vương Duy... Phần nhiều
thi của các ông ấy lời văn giản dị mà thâm, ý tứ dồi
dào càng dễ cảm, thành ra một lối thi phổ thông trong đám
bình dân. Lục trong thi Đường có nhiều bài miêu tả cảnh
thống khổ của xã hội, như là trọng phú (thuế nặng), Phụ
nhơn khổ (cái khổ của người đàn bà), Mãi thán ông (ông
bán than) Chiết tí ông (ông gãy tay)...Nay tôi xin trích mấy
câu trong bài Ông bán than dịch ra đây, để cho các bạn
đọc biết rằng lối thi bình dân đã xuất hiện từ đời
Đường :
" Mãi thán ông, phạt tân thiêu
thán nam san trung, mãn diện trần khôi yên hoả sắc, lưỡng
mấn thương thương thạp chỉ hắc, mãi thán đắc tiên hà
sở dinh, thân thượng y phục khẩu trung thực, khả liên thân
thượng y chánh đan, tâm ưu thán tiện nguyện thiên hàn "...
" Ông bán than, đốn củi đốt
than núi Nam san, mặt mày khói khém lem lọ bôi, mái tóc xanh
kịt, tay đen thùi, bán than kiếm tiền lo mưu sanh, lo ăn trong
miệng, mặc trong mình, thương hại mình ông áo mỏng lét,
ông lo than ế, cầu trời rét... ". Lối thi đó đủ chứng
là một lối thi bình dân ".
Thế rồi, để kết luận bài
"
Những cái đặc sắc của Đường thi ", Tùng Lâm
kết luận bằng việc hô hào các ông làm thơ mới hãy thôi
lập dị :
" Hỡi các nhà thơ mới của
ta ! Đừng tưởng rằng Đường thi là thi cổ hãy chịu khó
tìm kiếm trong thi Đường mà xem thử coi, không có lối nào
mà thi Đường không có, cái đặc sắc của nó là gồm đủ
các phương diện, các thể tài, cảnh có, tình có, tả chân
có, quí phái có, cần gì phải bịa ra thơ mới làm chi, làm
cho nhiều bạn trẻ em học cách háo kỳ, tập làm theo, đã
bất thành cú, mà rồi một ngày kia không còn ai biết Đường
thi là gì, chẳng là uổng cho văn nghệ ba trăm năm của một
đời toàn thạnh lắm sao ? " |