Chim Việt Cành Nam          [  Trở Về   ]        [ Tác giả ]

KÝ SỰ ÐI THÁI TÂY :

Phi-Li-Phê Bỉnh (1759-1830 ?) 
Phạm Phú Thứ (1821-1882)
-
Nguyễn Thị Chân Quỳnh

Từ thế kỷ thứ XVII đã có sách viết khá tường tận về Việt-Nam, hoặc của các giáo sĩ Tây phương như :

- năm 1617 có C. Borri, người Ý, viết về Ðàng Trong (Relation de la Nouvelle Mission des Pères de la Compagnie de Jésus au Royaume de la Cochinchine) ;

- năm 1651, A. de Rhodes viết về Ðàng Ngoài (Histoire du Royaume de Tonquin) ;

hoặc do những người lai đã sinh sống lâu năm trên đất Việt như :

- năm 1685 có S. Baron, lai Hoà-lan, sinh trưởng ở Kẻ Chợ (Thăng-long), viết Description du Royaume de Tonquin, giới thiệu Ðàng Ngoài ;

- năm 1867, Michel Ðức Chaigneau, lai Pháp (cha là Jean-Baptiste, một đại thần dưới triều vua Gia-Long) sinh trưởng ở Huế, viết Souvenirs de Hué, giới thiệu Huế.

Nhờ phương pháp ghi chép tỉ mỉ của Tây Âu, tuy cũng có những nhận xét sai lầm nhưng nói chung thì họ đã hé mở cho ta thấy từng mảng quá khứ khá sát với sự thật.

Còn cha ông chúng ta đã nhận xét Tây dương như thế nào ?

Những người chưa từng bước chân ra khỏi nước rất dễ có những ngộ nhận : tác giả Ðại Nam Việt Quấc triều Sử ký tả cảnh nước Pháp có "cửa son chói lói, lầu vàng oai nghi", và Bá-đa-lộc vào bệ kiến quốc trưởng Pháp thì "quỳ lạy" ! Trong cuộc chiến chống Pháp, người ta còn đồn rằng "Tây không có đầu gối, cứ rải ổi xanh ra đường nó dẫm phải trượt chân ngã, bắt dễ như chơi" (có lẽ vì thấy Tây đi ủng cao che lấp đầu gối ?).

Thời xưa, những người được nhìn tận mắt các nước Tây Âu là chuyện hi hữu, phần đông hoặc được các giáo sĩ gửi đi du học, hoặc do triều đình phái đi quan sát. Năm 1839, vua Minh-Mạng sai một phái đoàn gồm hai quan đại thần (Tôn Thất Thường/Liễu và Trần Viết Xương) cùng với hai người thông ngôn trẻ (Võ Dũng nói tiếng Pháp và một người nữa thông thạo tiếng Anh) sang Âu châu. Vì chỉ là phái đoàn bán chính thức, đi để bầy tỏ tình hữu nghị và nghiên cứu phong tục, thăm các xưởng đóng tầu, chế tạo binh khí vv. không có quốc thư nên không được Pháp Hoàng Louis Philippe tiếp đón, nhưng được vào yết kiến Tổng Trưởng bộ Hàng Hải. Các nhà báo [1] thấy lạ, viết bài tường thuật, tả các quan ta "có luồng mắt nhanh như chớp, nước da mầu đồng đỏ, răng đen nhuộm bằng cao chanh, mặc áo lụa xanh dài chấm gót, bổ tử thêu hình chim [2] bằng chỉ mầu và kim tuyến trên nền đỏ viền bạc, mũ đen che kín gáy, chóp đính quả cầu nhỏ bằng bạc (...) Họ mang theo hai thứ tiền, một bằng vàng hình giống thoi mực tầu, thứ kia cũng bằng vàng, tựa như các đồng 20 louis vàng, còn tiền giấy thì giống những tờ 6 hay 4 quan của Pháp (...) Họ thường dùng bàn tính gồm những con toán tròn xâu vào giây thành từng hàng, làm tính rất nhanh (...) Khi thấy điều gì đáng ghi nhớ, họ điềm nhiên rút ở thắt lưng ra một cái bảng nhỏ bọc giấy, bình tĩnh đứng ngay giữa đường lấy bút ghi chép".

Theo Ðào Trinh Nhất, phái đoàn Phan Thanh Giản khi đi Pháp về kể những chuyện lạ nước ngoài như "đèn thắp không dầu, ngọn lửa chúc xuống (đèn điện), giếng nước vọt lên cao (nước phun trong công viên) vv... Vua kinh dị giao cho đình thần bàn. Các quan bàn xong tâu :"Quy luật tự nhiên là nước chẩy xuống, lửa bốc lên cao, trái lại là nghịch thường, không đúng sự thật. Bọn Phan Thanh Giản bị họ bầy trò quỷ thuật làm cho quáng mắt" [3]. Thoạt nghe rất hữu lý, nhưng suy nghĩ lại tôi lấy làm ngờ là những lời đồn bậy :

- Trong Tây Hành Nhật Ký, Phạm Phú Thứ chép rằng Marseille và Paris đều thắp đèn khí đốt. Cũng không có gì lạ bởi khi phái đoàn sang Pháp (1863-4) thì Thomas Edison (1847-1931) mới có 16 tuổi, phải đợi thêm 16 năm nữa (1879) Edison mới sáng chế ra bóng đèn điện.

- Từ đời Khang-Hy (1662-1729) Trung quốc đã có những bể nước phun trong ngự viên do các giáo sĩ Tây phương kiến tạo, vậy mà từ cuối thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19, sứ thần ta vẫn thường đi cống Trung quốc lại không một ai thấy nước phun, phải đợi phái đoàn Phan Thanh Giản sang Tây mới biết ?

Vì thế, muốn rõ cảm nghĩ đích thực của những người Việt đầu tiên đặt chân đếnTây phương, tôi muốn chỉ dựa vào bút chứng. Tôi đã tìm được hai quyển ký của Phi-li-phê Bỉnh và Phạm Phú Thứ. Khi biết Trương Vĩnh Ký cũng có mặt trong chuyến đi Tây với sứ bộ Phan Thanh Giản và có viết một bài về chuyến đi này bằng tiếng Y-pha-nho, tựa đề là "Alguna reflexions de su viaje por Europa", đã đăng trên báo Y-pha-nho, tôi có ý tìm nhưng chưa tìm ra. Dường như ông có viết cả Nhựt trình đi sứ Lang-sa (1863) song tiếc rằng tôi cũng chưa được đọc. Do đó tôi phải từ bỏ ý định dành riêng một phần nói về Trương Vĩnh Ký.

Mặt khác, nhận thấy Phạm Phú Thứ và Nguyễn Trường Tộ có rất nhiều ý kiến giống nhau về cải cách duy tân : giáo dục, binh bị, khai mỏ, đánh thuế vv. nên tôi cũng muốn tìm hiểu về những điểm dị đồng giữa hai ông.

Một vấn đề khiến tôi thắc mắc không ít là tiểu sử Phạm Phú Thứ nói rõ chính ông đã biến bến Ninh-hải ra thương cảng Hải-phòng, song Phan Trần Chúc, Bảo Vân... lại quả quyết đấy là công của Bùi Viện, mà Bảo Vân thì nhận Bùi Viện là tổ phụ của mình. Ðâu là sự thực ? Chỗ khó khăn ở đây là thiếu tài liệu chính xác về Bùi Viện, bút chứng của ông vỏn vẹn có mấy bài thơ và văn tế, Thực Lục chép về ông chỉ có hai dòng, Liệt Truyện thì đến cái tên Bùi Viện cũng không thấy ! Tài liệu chính là hai quyển sách của Phan Trần Chúc và Bảo Vân, nhưng sách của Phan Trần Chúc lại nhiều chi tiết sai lầm, sách của Bảo Vân thì ngoài chuyện sửa một số sai lầm của Phan Trần Chúc -như Bùi Viện đã gập Tổng Thống Grant chứ không phải Lincoln- còn thì hầu như giống hệt sách của Phan Trần Chúc nên tiếng là hai nhưng chỉ kể là một, do đó tiểu sử của Bùi Viện còn nhiều lỗ hổng.

Vì chưa được thấy nhật ký đi Tây của Trương Vĩnh Ký, mặt khác vì nhận thấy Phạm Phú Thứ có liên hệ với cả Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ và Bùi Viện, đều là những người đã từng xuất ngoại, nên tôi dành phần thứ ba để so sánh Phạm Phú Thứ với các nhân vật lịch sử trên.
 

Các quan ta tiếp đãi Simon, thuyền trưởng chiến hạm Le Forbin, đến Đà-Nẵng yêu cầu triều đình gửi Toàn quyền đại thần vào Gia-định thương thuyết.
Thông ngôn: Trương Vĩnh Ký và Cố Trường (Le Grand de la Liraye)
***
I - PHI-LI-PHÊ BỈNH (1759-1830 ?) VỀ "SÁCH SỔ SANG CHÉP CÁC VIỆC"

A - TIỂU SỬ

Phi-li-phê Bỉnh quê ở Hải-dương. Năm 27 tuổi thụ phong chức Thầy Cả (linh mục) Dòng Tên (Compagnie de Jésus). Ba năm sau ông cầm đầu một phái đoàn gồm toàn linh mục người Việt sang Bồ-đào-nha để xin vua Bồ can thiệp với Toà Thánh La-mã bãi lệnh đóng cửa Dòng Tên. (Nguyên do các giáo sĩ Dòng Tên cho phép giáo dân được giữ tục thờ cúng tổ tiên nên Giáo hoàng Clément XIV ra lệnh đóng cửa dòng này từ năm 1773, và vì vua Bồ là người cai quản giáo hội tất cả vùng Á Ðông nên muốn gì đều phải xin Giáo hoàng qua trung gian Bồ-đào-nha).

Tháng 7/1796, phái đoàn lên đường. Hơn 6 tháng sau đến thủ đô Lisbonne rồi sống lưu vong ở đấy cho tới khi chết.

Ngoài thì giờ hành đạo, Phi-li-phê Bỉnh đã viết tới 21 bộ sách, không kể những quyển viết về đạo còn có :

1797 Sách tự vị tiếng nước ta cùng tiếng nước người (Việt Bồ - Bồ Việt).

1822 Truyện Anam đàng ngoài cuyển nhất

Truyện Anam đàng trong cuyển nhị

Sách sổ sang chép các việc.

Có lẽ P. Bỉnh mất năm 1830 vì Sách sổ sang... cho biết khởi sự viết và hoàn tất năm 1822 nhưng mấy trang cuối lại ghi năm 1830.

B - SÁCH SỔ SANG CHÉP CÁC VIỆC

Ðây là một quyển hồi ký chép tỉ mỉ đời sống hàng ngày và tổ chức xã hội của Bồ-đào-nha vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Sau đây tôi lược lại những nhận xét của tác giả, cố giữ nguyên văn, duy phần chính tả đôi khi phải đổi, thí dụ "nc" sẽ viết là "nước" vì máy điện toán của tôi nhất định không chịu thêm dấu sắc vào "nc".

1 - Ðời sống hàng ngày

Trước hết về chuyện ăn uống, Phi-li-phê Bỉnh nhận xét :"Thói phương Tây không uống nước lã, chè thì bỏ đường vào mới uống được. Chè Ðại Minh là chè quý (...) Ðể muôi vào trong chén có nghĩa là chẳng muốn uống nữa (...) Ăn rau sống, khoai lang củ tròn tròn, chim thì không mổ ruột, giết lợn ăn cả năm, jambon và dồi chẳng sánh nem chạo của ta vv.".

Ăn tiệc thì mỗi người có tới 15, 20 điã. Lễ trọng, phần mỗi người nửa con gà. "Làm tiệc mà chẳng có thịt bò con, gà nướng thời chẳng gọi là tiệc trọng thể, cũng như xứ Bắc làm ma mà chẳng có thịt chó thì chẳng gọi là đám ma lớn".

"Thói nước người bổn đạo cho cho nam nữ cùng ngồi vuối Vít-vồ cùng Thầy Cả mà thói Anam là thói lịch sự, cho đến nỗi có nhà thì vợ chồng cũng chẳng ngồi ăn cơm vuối nhau, vì cha thì ngồi vuối các con blai, mà mẹ thì ngồi vuối các con gái".

Làm bếp dùng chảo phẳng lòng đỡ tốn dầu mỡ. Bếp cao đứng làm đỡ mệt.

Cối xay bột chạy bằng gió không tốn sức lực.

Về vệ sinh thì quần áo mỗi tuần hai lần thay giặt, giường trải trắng muốt.

"Sinh đẻ chẳng cho nằm trên giường, cứ giắt tay mà đem đi bách bộ chung quanh nhà cho tới khi dở dạ thì mới bảo ngồi xuống mà sinh. Con trẻ phương Tây chẳng có mớm".

"Người phương Ðông ít máu hơn người phương Tây".

Chữa bệnh bằng tắm nước mỏ sắt. Bệnh phù mỗi ngày dùng hai lọ rượu khai thông, (ăn) một con gà mái. "Thầy thuốc nước ta, khi chẳng chữa được, thì cáo từ kẻo phải xấu hổ. Thầy thuốc nước người chẳng cáo từ, vì khi thấy bệnh nặng thì bảo nhà kẻ liệt rằng phải gọi hai thầy thuốc nữa" (cả ba cùng được trả công).

2 - Tổ chức xã hội

Về giáo dục thì trẻ em "nên 5, nên 6" [4] cho đi học. Thầy dậy ăn lương nhà nước. Sách in ghép 24 chữ cái. "Con trẻ nước người có phép tắc, đứa nào nói cả tiếng thì mẹ nó lấy ngón tay để lên miệng mình, nghĩa là đừng nói thì nó liền ở lặng".

"Loài lục súc thì ở hiền lành mà vâng theo chúa mình. Bán gà, bò thì đánh ra chợ, chẳng phải buộc trói vì chủ nó đứng đâu thì nó đứng đấy".

Ði bán hàng quà mà rao các phố thời cũng có xe ngựa chở của. Bán hạt dẻ ngoài đường cũng phải nộp thuế.

"Cuân lính nước người chẳng phải cắt cỏ trâu cỏ ngựa như ta. Nhà Vương phải phát cuần áo, phát lang mỗi ngày cho nó ăn là bánh cùng rượu và thịt. Khi yếu đuối chẳng cầm khí giới được nữa thì cũng phải phát lang cho đến khi nó chết".

Tối thứ bẩy thì chúa nhà phải trả công cho các kẻ làm việc trong tuần.

Nhà cửa cao 5, 6 từng. Chẳng có ai tin sự tìm hướng nhà để đạt phú quý. Nộp thuế cho phường thì hễ nhà cháy phường xây lại cho. Chữa lửa có xe thụt nước.

Ở Kẻ Chợ có nhà chứa thư, nhận thư rồi chia ra từng thành phố, từng làng... bỏ vào túi da cho người cưỡi ngựa chạy cả ngày đêm, mưa gió cũng phải đi, rồi lại nhận thư đem về Kẻ Chợ, lại chia ra từng khu, niêm yết tên những người có thư theo thứ tự A, B, C... để đến mà nhận thư, nhà Dòng cho đầy tớ đem tiền đến chuộc thư về.

Nhà nước tổ chức rút sổ số, in thẻ giấy ra mà bán. Cho bốn thằng trẻ con mặc trọng thể, ở trần hai cánh tay đến nách mà bắt thăm vv...

C - NHẬN XÉT VỀ "SÁCH SỔ SANG..."

Sách sổ sang... là một cuốn hồi ký không chỉ ghi chép đời sống xã hội Bồ-đào-nha mà còn đề cập đến nhiều vấn đề khác.

Viết về đạo giáo, Phi-li-phê Bỉnh thường tỏ ra có thiên kiến, tựa như cuốn Ðại Nam Việt Quấc Triều Sử Ký, hay bài bác những đạo khác, viện cả những lý lẽ hoang đường.

Về sử, ông cũng chép những điều không chính xác như "khi vua Ðinh Thiên Hoàng giết được Liễu Thăng mà lên trị (thực ra Liễu Thăng bị Lê Lợi giết)... Tha vụ Liễu Thăng cho nước Anam (tha cống người vàng để thế mạng hai tướng Liễu Thăng và Lương Minh bị ta giết) thì bởi vì Thầy Dòng ÐCJ tâu xin, chẳng phải là ông Thượng Chắy (?) (sử chép là nhờ Nguyễn Công Hãng) làm được việc ấy đâu" [5].

Có lẽ về đạo cũng như về sử, ông chỉ nhắc lại một cách máy móc những "kiến thức" ông đã tiếp thu, đã được truyền dậy, chứ không tìm hiểu ngọn nguồn. Chỉ những gì ông mục kích tận mắt rồi chép ra mới thật là kinh nghiệm của ông và là những chi tiết có giá trị. Chẳng hạn ông viết :"Người phương Tây chẳng muốn những đồ ăn thói cách Anam cũng như tôi chẳng muốn thói cách phương Tây".

Tất nhiên đôi khi cũng có những đìều võ đoán như :"Người phương Ðông ít máu hơn người phương Tây", hoặc chỉ đúng một nửa như "giường trải trắng muốt, ăn nửa con gà, một tuần thay giặt quần áo hai lần..." bởi ông là Thầy Cả nên mới được biệt đãi, không phải người dân Bồ nào thời ấy cũng được như thế.

Nói chung thì Sách sổ sang... vẫn là một bút chứng quý hiếm, chứa đựng nhiều chi tiết xác thực về xã hội Bồ lúc ấy và cả về xã hội Việt-Nam (đám ma lớn ở Bắc phải có thịt chó đãi khách). Không những thế, hồi ký của P. Bỉnh còn là một cứ liệu về chữ quốc ngữ trong giai đoạn hình thành, đồng thời cho ta thấy ngôn từ, pháp cú của tiếng Việt thời bấy giờ.
 
 

II - PHẠM PHÚ THỨ (1821-82) và TÂY HÀNH NHẬT KÝ

A - TIỂU SỬ

Phạm Phú Thứ hiệu là Trúc Ðường, biệt hiệu Giá Viên, tổ tiên họ Ðoàn gốc ở Bắc, vào Quảng-nam mới đổi ra họ Phạm Phú. Năm 1843, đỗ Tiến-sĩ (vì thi Hương và thi Hội đỗ đầu nên gọi là Song nguyên ; thi Ðình ông đứng thứ ba, đầu bảng đệ tam giáp).

Ra làm quan năm 1844, bắt đầu với chức Hành tẩu hàm Biên tu ở Nội các.

Năm 1850, ông giữ chức Kinh Diên Khởi Cư Chú (chép những lời nói và hành động của vua nơi giảng sách). Vì thấy Tự-Ðức ham xướng ca, ngại rét ít lâm triều hoặc nghe giảng sách, ông dâng sớ can, lời lẽ cứng cỏi, bị đầy đi chăn ngựa ở trạm Bưu chính Thừa-nông (phía Nam Huế), ba tháng sau nhờ bà Từ Dũ can thiệp, được về Kinh giữ chức Tu Thư Hiệu Lực (biên chép sách vở để chuộc tội) rồi năm 1851, ông "Xuất Ngoại Hiệu Lực", với danh nghĩa đưa tiễn quan nhà Thanh, Ngô Hội Liên (bị bão dạt vào Cửa Thuận) về Quảng-châu. Lần đầu ra khỏi nước, được mở rộng tầm mắt, đặc biệt thấy Ma-cao, trung tâm buôn bán quốc tế, phồn thịnh : thuyền máy nhiều từng, súng đạn, hàng hóa, thực phẩm chất đống... Các tiểu thương người Hoa làm việc có quy củ, người bán rau cũng có cân, có sổ ghi chép. Phạm Phú Thứ viết :"Quang cảnh thế giới đã thức tỉnh giấc mộng trần tục của tôi" [6].

Năm 1856, làm Án-sát Thanh-hóa, ông đã hướng dẫn việc chế tạo một chiếc tầu thủy vận tải kiểu mới và một chiếc tầu bọc đồng, được khen thưởng bốn lần.

Năm 1857, ông dâng sớ xin thuê thuyền buôn tư nhân -nhỏ và dễ xoay sở hơn tầu nhà nước nặng nề, cồng kềnh- để vận chuyển và tuần phòng bờ biển.

Năm 1858, được chuyển về Nội các, thăng Thị lang (1861) rồi Tả Tham tri bộ Lại (1863).

Ðầu năm 1863, giữ chức Khâm sai đại thần lĩnh Hiệp Biện Ðại Học Sĩ, cùng với Chánh, Phó Toàn quyền đại thần Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp (cũng gọi là Hiệp) vào Gia-định trì hoãn việc phê chuẩn hoà ước Nhâm-Tuất (ký ngày 5/6/1862, nhường ba tỉnh miền Ðông : Biên-hoà, Gia-định và Ðịnh-tường) với phái đoàn Pháp (Bonard) và Tây-ban-nha (Palanca). Kết quả không tốt, ông bị giáng chức. Trong thời gian này, ông đã gập Nguyễn Trường Tộ.

Năm 1863-64, Phạm Phú Thứ sung chức Phó sứ cùng với Chánh sứ Phan Thanh Giản và Bồi sứ Ngụy Khắc Ðản sang Pháp điều đình xin chuộc ba tỉnh miền Ðông. Khi về, dâng Tây Hành Nhật Ký. Nguyễn Trường Tộ đã gập ông trước và sau chuyến đi, và đã nhờ ông chuyển lên triều đình ba bản điều trần.

Sau khi đi Tây về, ngay từ 1865, giữ chức Thượng Thư bộ Hộ tới năm 1874, ông đã thuyết phục được triều đình ban cách thức chế "xe trâu" (do ông vẽ kiểu học được ở Ai cập, dùng trâu kéo tiện lợi gấp mấy gầu tát nước của ta), tạo 27 cỗ phát cho các tỉnh làm mẫu.

Năm 1867, ông đề nghị mở cảng ngoại thương ở Hải-yên (Hải-dương, Quảng-yên) và dâng sớ trình bầy những mục tiêu cần thực hiện để duy tân, tự cường, gồm ba giai đoạn :

a - lúc đầu nên đối xử hòa hoãn với Pháp để có thì giờ chấn chỉnh, nhờ họ huấn luyện quân sĩ và dậy khoa thương mại ;

b - khi đã đủ sức, điều đình bồi thường để Pháp rút về ;

c - khi đã mạnh mà họ còn ngoan cố thì "thề quyết chẳng đội trời chung".

Từ 1874 đến 1880, Phạm Phú Thứ giữ chức Thự Tổng đốc Hải-yên kiêm Tổng lý Thương chính đại thần, và đã thực hiện được một số cải cách như :

4/1878 : mở trường dậy chữ Tây cho nha Thương chính Hải-dương, mỗi tháng cấp một quan tiền và một phương gạo cho những người đi học [7].

Dựng lại nhà xuất bản Hải Học Ðường (có từ đời Gia-Long nhưng đã đóng cửa), cho in lại một số sách dịch sang chữ Hán về khoa học và kỹ thuật của các giáo sĩ Tây phương viết :

Bác vật tân biên (về khoa học)

Khai môi yếu pháp (khai mỏ)

Hàng hải kim châm (cách đi biển)

Vạn quốc công pháp (giao dịch với ngoại quốc).

Thực Lục cũng chép :"Tháng 5 nhuận,1876, Nha Thương chính Hải-dương dịch Phép diễn tập súng Tây dâng lên".

Tự ông dịch Tùng chính di quy về kinh nghiệm quản lý hành chính và dự tính cho in những sách :

Ðịa cầu thuyết lược

Cách vật nhập môn... [8]

Công việc đang dang dở thì năm 1879 ông bị cáo tội thiếu công minh : đối xử dễ dãi với Hoa thương và nghiệt với người Pháp. Vua chuẩn cho về kinh dưỡng bệnh và nghĩ tội, đợi xét án, song đến tháng 3/1880 ông mới thực sự về Kinh vì Tổng đốc mới Hải-yên, Lê Ðiều, xin cho ông ở lại mấy tháng để giúp am tường công việc.

Năm 1882, Phạm Phú Thứ mất, tước Vĩnh Lộc Ðại Phu, Trụ Quốc Hiệp Biện Ðại Học Sĩ.

- Tác phẩm của Phạm Phú Thứ :

Giá Viên Toàn Tập gồm 26 quyển, một nửa là thơ (chữ Hán), phần còn lại là phú, biểu, luận, ký, minh... đề cập đến các lĩnh vực khác nhau như khoa học, kỹ thuật, hành chánh vv.

Tây Hành Nhật Ký cũng gọi là Giá Viên Biệt Lục hayTây Phù Nhật Ký.

Tây Phù Thi Thảo.

Liệt triều thông hệ niên phả toản yếu.

Bắc quốc lịch triều thông hệ niên thứ.

Bản triều liệt thánh sơ lược toát yếu.

B - TÂY HÀNH NHẬT KÝ (1863-64)

Tây Hành Nhật Ký do Phạm Phú Thứ viết, Phan Thanh Giản và Ngụy Khắc Ðản duyệt lại, ghi chép việc từng ngày trong chuyến công du sang Âu châu. Khởi hành ngày 27/6/1863 trên chiếc tầu Européen, đi qua Poulo Condor, Tân-gia-ba, Sumatra, Tích-lan, Aden, Ai-cập, Jérusalem, La-mã, Corse... Ngày 13/9/1863 đến Paris sau khi qua Toulon và Marseille. Ngày mồng 5/11/1863 phái đoàn vào triều kiến hoàng đế Napoléon III ở điện Tuileries.

Từ 10/11/1863 đến 22/11/1863 đi thăm Tây-ban-nha rồi lên đường về, qua Ý-đại-lợi. Ngày 2/12/1863, Trương Vĩnh Ký yết kiến Giáo hoàng ở Roma. Ngày 18/3/1864 phái đoàn về tới Saigon, 28/3 đến Huế, ba hôm sau Phạm Phú Thứ dângTây Hành Nhật Ký lên vua Tự-Ðức.

Sau đây là những nhận xét chung của Phạm Phú Thứ về Tây phương, đặc biệt về nước Pháp :

1 - Ðời sống hàng ngày

Cũng như Phi-li-phê Bỉnh, cái làm Phạm Phú Thứ ngạc nhiên là người Tây uống trà phải bỏ đường. Bữa cơm thì có thịt rán hay quay, ăn rau sau cùng. Mời ăn tiệc mà giấy đứng tên cả hai vợ chồng có nghĩa là khách quý. Nam nữ cùng ngồi chung vì người Tây tôn trọng phụ nữ. Bàn tiệc trải khăn trắng muốt, giữa bàn bầy bình hoa to, trên bàn điểm những bó hoa nhỏ. Muỗng nĩa bằng bạc mạ vàng, đĩa sứ viền chỉ vàng. Mỗi thực khách có tới 5, 7 cái cốc để uống nước, uống rượu vang, sâm banh vv., lại có mảnh giấy nhỏ ghi rõ tên họ, chức tước thực khách đặt ở chỗ ngồi, chỗ bên phải chủ nhà trọng hơn chỗ bên trái.

Nếu có nhạc giúp vui thì nhạc trưởng ghi tên những khúc sẽ trình tấu lên một tờ giấy nhỏ.

Phương Tây có tục khi chào thì bỏ mũ, bắt tay phải tháo bao tay bên phải để tỏ ý kính trọng. Bao tay làm bằng lụa hay bằng da, với người Trung quốc thì dùng bao tay trắng, bình thường dùng mầu lam hay đen tùy thích.

Khách sạn ở Marseille, nơi sứ bộ trú ngụ, có tới bẩy từng, hàng trăm phòng, màn và rèm cửa đều bằng gấm vóc.

Nóc nhà có thu lôi hút điện sét đánh. Nhà nào cũng có ống dẫn nước và dẫn khí đốt đến tận nơi. Ðèn khí đốt sáng hơn nến và đèn dầu.

Ði tầu hỏa gập tiết trời lạnh thì sưởi bằng ống đồng chế nước nóng đóng chặt nút, bọc nhung đỏ, để ở dưới chân, hễ nguội lại thay nước nóng mới.

Xe chở hàng hóa chạy cả ngày đêm, dùng 8 ngựa, xe quốc trưởng dùng 6 ngựa.

Paris có trên năm mươi cửa, mở suốt ngày đêm. Ðường đi lát đá nhẵn như mài, hơi hư hỏng là được sửa chữa ngay. Ngày nào cũng quét đường, dù trời mưa cũng không nghỉ. Xe ngựa đi lại như mắc cửi. Hai ven đường đi, cứ cách nhau độ ba, bốn trượng lại có cột đèn cao chừng 5, 6 thước ta. Ðèn thủy tinh, đốt bằng hơi. Phố nhỏ cũng có đèn sáng trưng như ban ngày. Các cửa hiệu đều treo đèn trước cửa, hàng hóa bầy trong tủ kính. Không có ăn mày rách rưới ở ngoài đường.

Cứ độ vài dẫy nhà là lại có một khoảng đất trồng hoa, hoặc công viên cây cối um tùm, có bể nước phun để dân chúng du ngoạn, hít khí trời trong sạch. Cây được tưới bằng vòi nước, có ống dẫn nước đến tận nơi. Vườn Bách thảo có đủ loại cây lạ với bảng treo ghi tên. Vườn Bách thú thì đủ loại muông thú. Nếu là loài thú sống ở rừng thì nuôi trong hang hốc, những loại sống ở đồng bằng thì nhốt

trong chuồng. Chim nuôi trong lưới sắt, cá to trong hồ ao, cá nhỏ trong bồn thủy tinh.

Các hí trường thường diễn những tuồng mô tả đời sống hàng ngày, ngụ ý răn dậy. Khán giả vỗ tay tán thưởng nhưng không nói chuyện ồn ào. Có bán trà, bánh, chương trình in thành một quyển sổ nhỏ. Ở đây cấm hút thuốc vì phụ nữ không ưa, ở nhà thì người chồng phải hút trong phòng riêng.

2 - Tổ chức xã hội

Ngưồi Pháp bầu nghị sĩ vào Hạ viện, cứ 35 000 người thì bầu một người, sáu năm một lần. Người đắc cử phải làm lễ tuyên thệ. Hàng năm các nghị sĩ họp ở Paris mấy tháng, thảo luận những đề tài do quốc trưởng lựa chọn như đóng thuế muối, thuế thuốc lá...

Nhà thương do thầy thuốc và các bà sơ đảm trách, chữa những bệnh hiểm nghèo, những người tàn tật...

Nghĩa trang có tường vây quanh, rộng độ một lý, đường đi trồng cây hai bên, có người quét dọn. Mộ vừa đủ chỗ cho một quan tài, thỉnh thoảng có mái che. Vòng hoa bằng lụa mầu, ngụ ý mầu sắc không phai nhạt chẳng khác gì lòng người tưởng nhớ kẻ đã khuất. Ngày ngày, đàn ông, đàn bà đến đây cầu nguyện cho vong linh người chết.

Chính phủ tổ chức đưa thư cho cả công lẫn tư gia bằng tầu hỏa hay tầu thủy, đến nơi nhanh chóng. Mỗi lá thư phải trả công ít nhiều tùy xa hay gần.

Sứ bộ đã tham quan trên hai chục xưởng máy to nhỏ về các kỹ nghệ luyện kim, đóng tầu thủy, làm đạn dược, đồng hồ, đồ gốm, dệt thảm...

C - ẢNH HƯỞNG CHUYẾN ÐI TÂY

Ngay từ trước khi đi Tây, Phạm Phú Thứ đã nhận biết kỹ thuật Tây phương tinh xảo, đáng cho ta học hỏi, bắt chước. Xuất ngoại có đem lại gì thêm cho ông ?

Trong một lá thư gửi cho Lương văn Tấn/Tiến, người em con cô, ông nói rõ :"Ðến Tuyết-sơn (Mont Blanc) và Hồng-hải, không có cái gì mà không thu thập. Mắt đã tìm được nhìều cái mới, cần cho ta sau này" [9].

Sau chuyến viễn du, ngoài Tây Hành Nhật Ký, Phạm Phú Thứ còn dâng 11 lá sớ, và gửi khoảng 20 lá thư đến các đại thần như Trần Tiễn Thành, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn văn Tường, Hoàng Kế Viêm... trình bầy những biện pháp cải cách cần phải gấp rút thi hành về binh bị, kinh tế, giáo dục, tiểu công nghệ...

Cụ thể là từ 1865, ông đã cho thực hiện "xe trâu" ; 1867, ông đề nghị mở cảng ngoại thương ở Quảng-yên [10] ; 1868, mở trường Thủy học nghiên cứu kỹ thuật hàng hải, tuần phòng [11] ; thời gian làm Tổng đốc Hải-yên, ông cho lập trường dậy tiếng Pháp, in những sách phổ biến khoa học kỹ thuật Tây phương vv.

Ông vẫn thừa nhận văn minh cơ khí Tây phương cực kỳ tinh diệu, nhưng chỉ để phục vụ vật chất mà nhẹ về mặt đào luyện nhân phẩm, ông viết :

"Tứ đoan thâm ý tích vô truyền"

nghĩa là :"Tiếc rằng ý nghĩa sâu xa của bốn tiêu chuẩn đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí thì không được truyền lại" [12], ngụ ý chỉ có kỹ thuật đáng cho ta học hỏi. Ý kiến này cũng được biểu lộ trong hai câu thơ :

Tảo giao Ðông thổ kiêm trường kỹ (=Giá như Ðông phương sớm giỏi kỹ thuật)

Pha-lý, Long-đôn vị túc hiền (=Paris, London đã chắc gì hơn ta ?).

Song dường như Phạm Phú Thứ chỉ chú tâm học hỏi kỹ thuật mà ít lưu ý phần "nhân sự phiền toái" nên ông mới viết trong Tây Hành Nhật Ký :"Nếu ta muốn gửi người sang học tập, họ sẵn sàng truyền thụ phương pháp", và khi về (1867), ông còn đề nghị ba giai đoạn đối phó với Pháp mà giai đoạn đầu là phải tạm thời hòa với họ để nhờ họ huấn luyện binh sĩ và dậy khoa thương mại. Phạm Phú Thứ đúng là nho gia nên mới đặt tin tưởng ở thiện chí của đối phương chứ Pháp đã đem súng ống, dùng vũ lực khống chế, xâm lược nước ta, chẳng qua vì lợi lộc, đời nào lại thành tâm dậy cho ta tiến đến chỗ phú cường để có thể đánh đuổi họ đi, thoát ly khỏi ách đô hộ của họ ?

Trong Tây Hành Nhật Ký tác giả ghi chép rất tỉ mỉ những điều mắt thấy tai nghe từng ngày từng giờ. Tuy chuyến đi chỉ non 9 tháng nhưng Tây Hành Nhật Ký cho ta một cái nhìn khá đầy đủ về cả địa lý, chính trị, kinh tế, tôn giáo, phong tục vv. những nơi ông đã đi qua. Phạm Phú Thứ không do Tây học đào tạo nhưng nhật ký của ông tường tận không khác gì của một người theo Tây học. Có lẽ ông là người duy nhất đã thực hiện đúng ý muốn của Minh-Mệnh. Ngay từ năm 1832, nhà vua đã phán :"Các bản nhật ký về việc đi sứ chỉ thấy ghi tên đất và số dậm đường, còn tình hình dân, công việc nước không từng nói đến. Sắc cho bộ Lễ từ nay truyền chỉ cho sứ thần phải hỏi han dân tình được sung sướng hay bị đau khổ, trong nước có tai biến hay có điềm lành thì ghi chép rõ ràng, còn tên đất, số dậm đường đã có trong sách, có thể khảo cứu được".
 
 

I I I - PHẠM PHÚ THỨ VỚI TRƯƠNG VĨNH KÝ, NGUYỀN TRƯỜNG TÔ VÀ BÙI VIỆN

A - PHẠM PHÚ THỨ  (1821-82) VÀ TRƯƠNG VĨNH KÝ (1837-98)

Năm 1862, khi theo chân thuyền trưởng Simon ra Huế đòi bồi thường chiến tranh, Trương Vĩnh Ký có gập Thị lang bộ Lại Phạm Phú Thứ hay không thì không rõ nhưng chắc chắn sau đó họ đã gập nhau nhiều lần bởi cả hai cùng có mặt trong chuyến đi Âu châu năm 1863-64. Về nước rồi, ít nhất còn gập nhau lần nữa : Khi Trương Vĩnh Ký ra Bắc năm 1876 có đến thăm Tổng đốc Hải-dương Phạm Phú Thứ mà ông nhận là quen biết từ chuyến đi Tây năm 1863-4.

1 - TIỂU SỬ P.J.B. TRƯƠNG VĨNH KÝ

Trương Vĩnh Ký còn gọi tắt là Pétrus Ký hay Pétrus Key, tự là Sĩ Tải, sinh ở Cái-mơn, Vĩnh-long.

Lên 5 tuổi được học chữ Hán, 11 tuổi đi Cao-mên học ở Pinha-lu, nơi đây cậu bé họ Trương gập g" nhiều bạn ngoại quốc, đã tỏ ra có khiếu về ngôn ngữ, tự học tiếng Ðông phương để chuyện trò với chúng bạn. Hai năm sau được gửi đi học ở Ðại Chủng Viện Hội Truyền Giáo Nước Ngoài (Mã-lai). Tại đây, Trương đã đoạt giải nhất về la-tinh. Bouchot kể rằng một hôm Trương Vĩnh Ký nhặt được ở ngoài sân một lá thư, tuy không biết tiếng Pháp nhưng nhờ biết la-tinh Trương hiểu lá thư đó gửi cho một ông thầy người Pháp và đem đến trả kèm với bản lược dịch của mình. Ông thầy ngạc nhiên trước sự thông minh của cậu bé nên cho mượn sách học tiếng Pháp, thế là Trương Vĩnh Ký biết tiếng Pháp.

Năm 1858, mẹ chết, Trương Vĩnh Ký về nước chịu tang, đồng thời cũng để suy ngẫm vấn đề có đi tu hay không, nhưng rồi ông quyết định lập gia đình (1861).

Năm 1859, vì có nạn cấm đạo gắt, Trương Vĩnh Ký lên Saigon ở với giám mục Lefèbvre. Năm sau giám mục giới thiệu cho làm thông ngôn với Trung tá Hải quân Jauréguibéry. Năm 1862, ông theo thuyền trưởng Simon ra Huế đòi triều đình bồi thường chiến tranh, cũng vẫn với chức thông dịch viên cho Pháp. Bouchot viết rằng chính Phan Thanh Giản đã yêu cầu người Pháp gửi Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn trong chuyến đi Tây năm 1863-4 và chính Trương Vĩnh Ký đã dịch bài diễn văn của Phan Thanh Giản đọc ở điện Tuileries. Nhờ thông thạo ngoại ngữ, ở Pháp Trương đã làm quen được với giới trí thức như Victor Hugo, Littré, Duruy, Chavannes, E. Renan, Paul Bert... Theo H. Gautier, trong buổi nói chuyện ở trú quán Việt-Nam, Trương Vĩnh Ký đã so sánh khá lý thú hai nền chính trị Âu Á [13].

Về nước, ông lần lượt được giữ những chức vụ ngày một cao : 1866, Giám đốc trường Thông ngôn ; 1869, Chủ bút tờ Gia-đinh Báo ; 1872, Giám đốc trường Sư phạm vv. Khi Paul Bert được cử làm Toàn quyền Ðông-dương (1886) đã triệu ông ra hợp tác. Do sự sắp đặt của Paul Bert, Trương Vĩnh Ký giữ chức Tham Tá Cơ Mật Viện sung Hàn-lâm-viện Thị Giảng Học Sĩ, dậy chữ Pháp cho vua Khải-Ðịnh. P. Bert chết cuối năm 1886, những người kế chân như Paulin Vial hay Noel Pardon không tín dụng Trương Vĩnh Ký nên ông lui về dậy học và viết sách cho đến khi mất (1898).

- Những đặc điểm của Trương Vĩnh Ký

Trương Vĩnh Ký có biệt tài về ngôn ngữ học, biết 27 thứ tiếng Âu Á, cả sinh ngữ lẫn tử ngữ.

Trong vòng 35 năm, ông vừa phiên âm Hán văn ra quốc âm, vừa trước tác, vừa sưu tầm, nghiên cứu... đề cập đủ mọi lĩnh vực : ngôn ngữ, sử, địa, phong tục, văn hóa, khoa học, luật, kinh tế... tổng cộng lớn nhỏ 121 "tác phẩm". Tuy đấy là những tài liệu có giá trị song ta cũng cần phải dè dặt khi sử dụng, thí dụ ông chép là Minh-Mạng giết Nguyễn văn Thiềng/Thành trong khi sử chép là Gia-Long, hoặc ông dự định đưa trình tại Paris "phương pháp sinh con trai hay con gái tùy theo ý muốn" do ông tìm ra [14].

Năm 1868, nhờ làm thông ngôn đóng góp vào việc lập Thương Ước giữa hai nước Việt và Y-pha-nho. ông được huân chương Chevalier de l'Ordre royal d'Isabelle la Catholique.

Năm 1874, có vinh dự được xếp thứ 17 trong 18 danh sĩ hoàn cầu.

Năm 1886, sau nhiều năm phục vụ cho chính quyền Pháp ở Việt-Nam, ông được giới hữu trách Pháp thưởng Bắc đẩu Bội tinh (Chevalier de la Légion d'Honneur).

Cũng năm ấy ông được Nam triều ban Long Bội tinh.

2 - SO SÁNH PHẠM PHÚ THỨ VÀ TRƯƠNH VĨNH KÝ

Về chuyến đi Âu châu, Phạm Phú Thứ để lại Tây Hành Nhật Ký, Trương Vĩnh Ký cũng viết "Alguna reflexiones de su viaje por Europa" và có lẽ cả Nhựt trình đi sứ Lang-sa nhưng dường như chưa người Việt nào được đọc.

Tuy song phương cùng có mặt trong chuyến đi Âu châu nhưng với danh vị khác nhau : Phạm Phú Thứ là quan đại thần của triều đình, không biết tiếng Pháp, giao dịch phải qua thông ngôn ; Trương Vĩnh Ký là thông ngôn của soái phủ Pháp, nhờ thông thạo ngoại ngữ, trực tiếp giao dịch được với người ngoại quốc. Hai người gần như ở hai cương vị đối lập, liệu cả hai có những quan điểm tương đồng ?

a - Về Chính trị

- Phạm Phú Thứ là quan, chính trị nằm trong nhiệm vụ của ông nên trong chuyến Tây du ngoài sứ mạng xin chuộc ba tỉnh miền Ðông ông còn có trách nhiệm khảo sát tình hình ngõ hầu cải cách đất nước. Ông nhìn nhận Việt-Nam yếu kém so với Pháp nên chủ trương bước đầu không nên vọng động, phải uyển chuyển với người Pháp, nhờ họ huấn luyện binh sĩ, truyền dậy ngành thương mại... tiến dần đến chỗ hùng cường, khi đủ mạnh thì điều đình bồi thường để họ rút về, nếu họ ngoan cố thi đánh.

Trương Vĩnh Ký cũng nhận định Việt-Nam không thể chống nổi Pháp, phải nhờ Pháp dìu giắt nhưng khác với Phạm Phú Thứ chỉ coi hòa với Pháp là một giai đoạn tạm thời khi còn yếu thế, Trương Vĩnh Ký hoàn toàn tin tưởng ở "tổ quốc thứ hai" của ông, đinh ninh Pháp và những kế hoạch chấn chỉnh Việt-Nam của Paul Bert là những mẫu mực để noi theo, vì thế ông dự tính viết hẳn một quyển sách về P. Bert, với tựa đề Kỷ Nguyên Mới.

- Khác với Phạm Phú Thứ đi thi để ra làm quan, gánh vác việc nước, Trương Vĩnh Ký thường nói mình bị hoàn cảnh "xô đẩy" vào chính trường... Có thể khi bắt đầu ra làm thông ngôn cho Pháp, do giám mục Lefèbvre dẫn giắt, ông còn trẻ, chưa ý thức được rõ rệt vai trò của mình như Nguyễn Trường Tộ (hơn ông 7 tuổi). Nguyễn Trường Tộ ngay từ khi còn trẻ đã nuôi dư"ng ý chí phục vụ tổ quốc, nên thoạt đầu khước từ không làm thông ngôn cho Pháp, sau nhận làm với mục đích đóng góp vào việc hòa giải, đến khi thấy mình không đóng góp được vào việc hòa giải đã xin từ chức, bị ép thì trốn lánh (điều trần 13/5/1863), còn Trương Vĩnh Ký chưa có chủ định, do hoàn cảnh xô đẩy ra làm cho Pháp. Mặc dầu bị P. Bert ép vào chính trường, ông vẫn chu đáo hoàn tất nhiệm vụ đối với người dùng mình, không làm gì phi phận, vượt chức năng như Nguyễn Trường Tộ, đã từng đánh tráo công văn nếu thấy bất lợi cho Nam triều (điều trần 13/5/1863).

Cũng bởi Trương Vĩnh Ký chưa có chủ kiến, không suy xét tận tường mọi khía cạnh, đến tầm quan trọng của câu nói việc làm nên khi ra mắt Giáo hoàng, ông mới ngỏ lời cám ơn các nhà truyền giáo đã thực hiện những "hảo sự" cho Việt-Nam, thậm chí còn phác họa "nỗi vui mừng" của người dân Việt được thấy nước nhà bước vào thời kỳ "ổn định và hòa bình" [15]. Chắc ông lên tiếng với tư cách người có đạo chứ ông đã từng làm thông ngôn trong nhiều chuyến hòa đàm, làm sao lại có thể nói là người dân Việt "vui" và nước Việt đã bước vào giai đoạn "ổn định và hòa bình", thứ nhất lúc ấy ông biết rõ mục đích chuyến đi năm 1863 là điều đình xin chuộc ba tỉnh vừa mất vào tay Pháp và phái đoàn đã thất bại trong việc xin chuộc ba tỉnh ? Thiết nghĩ với tư cách một thông dịch viên được Pháp tin cậy ắt ông được đọc nhiều tài liệu quan trọng và ông thừa thông minh để hiểu chiến tranh bùng nổ do ai châm ngòi, không thể thoái thác là ra ngoài sở liệu của ông được.

b - Về Văn hóa

Trương Vĩnh Ký thường tự nhận chỉ là con người của văn hóa nên muốn phục vụ cả "hai tổ quốc" bằng con đường văn hóa. Trong thư gửi cho Stanislas Meunier ông viết :"Tôi chỉ có thể làm cái gạch nối giữa hai dân tộc vừa mới gập nhau tại Nam kỳ. Tôi chỉ có thể giúp hai dân tộc này hiểu nhau và thương yêu nhau, do đó tôi thường dịch từ tiếng Việt ra tiếng Pháp và từ tiếng Pháp ra tiếng Việt với nhận thức rằng sau ngôn ngữ, sau chữ nghĩa, một ngày nào đó các tư tưởng sẽ được hấp thụ và chúng tôi bắt đầu làm quen với nền văn minh mới của xứ sở ông" [16]. Trương Vĩnh Ký muốn "khai trí" người dân Việt bằng cách truyền thụ những cái hay, cái mới, học hỏi được ở Tây phương, đồng thời vẫn tiếp tục truyền thống phương Ðông để "tiến đức". Ông đã thực hiện những gì ?

Theo Nguyễn văn Trấn, Trương Vĩnh Ký đã viết về chuyến đi Âu châu :"Tôi trở về với tâm hồn sung sướng vô cùng. Thành phố Ba-lê, một đô thị uy nghi nhứt hoàn cầu mà tôi có dịp thăm viếng vào năm 1863, và tôi cũng đã gập g" nhiều thân hữu danh tiếng và bác học, nhứt là văn học và khoa học. Khi xa rời những buổi học tập cao quý đó, tôi đã thu thập nhìều kinh nghiệm và nhiều kiến thức" [17]. Quả thật sau chuyến đi mới thấy ông viết những bài nghiên cứu về kiến vàng và kiến hôi, về rau câu, về các loại chim, các loại cây trái vv. đăng trên Bulletin du Comité Industriel et Agricole de la Cochinchine (Tập San Nông Công Nam-kỳ). Nhưng đây là báo chuyên môn ít người đọc được nên không phổ biến.

Về những tác phẩm Trương Vĩnh Ký đã biên soạn, ngoài sách dậy ngôn ngữ thì không thấy ông gieo rắc văn minh Tây phương cho người Việt, quanh đi quẩn lại chỉ thấy ông toàn viết về văn hóa Á đông và Việt-Nam, ông dịch và phiên âm Tứ Thư cho người Pháp hiểu thì có, nhưng đến một bài giới thiệu hay dịch La Fontaine cho người Việt biết thì không, thế là ông giúp cho người Pháp hiểu người Việt hơn song ông không giúp gì cho người Việt "làm quen với nền văn minh mới" của Pháp. Tuy ông đã giải thích trong "Lời nói đầu" của Thư mục 1892 là cần phổ biến cái "Chính đạo (đạo Nho) đang bị suy đồi" song nhiệm vụ giúp cho đôi bên hiểu nhau hơn, tự ông vạch ra, ông chỉ mới hoàn thành có một nửa. Sau này Phạm Quỳnh với tờ Nam Phong đã thay ông giới thiệu cùng độc giả cả hai nền văn hóa Á Âu.

Rút cục, ta chỉ thấy ảnh hưởng của chuyến đi Pháp thể hiện rõ qua những bài nghiên cứu khoa học và dự tính dịch tự vị của Littré sang tiếng Việt (chẳng may ông mới dịch đến chữ "cheval" thì mất). Có thể do những người bạn quen ở Pháp đề bạt nên năm 1874 ông đã được vinh dự xếp chung với các danh sĩ hoàn cầu. Ðến 1886, khi Paul Bert sang làm Toàn quyền đã nhớ đến ông, yêu cầu ông cộng tác. Khi trường Thông ngôn đóng cửa, nhờ những người bạn ở Pháp can thiệp, ông vẫn còn có chỗ dậy học vv. Nói tóm lại dường như ảnh hưởng của chuyến đi Pháp chỉ thấy rõ trong sự nghiệp bản thân của ông.

Phải chăng đến cuối đời ông cảm thấy có điều bứt rứt nên mới ký thác tâm sự uẩn khúc trong bài thơ thường được gọi là "Cuốn sổ bình sanh", hoặc "Tuyệt mệnh thi" :

Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai,
Xô đẩy người vô giữa cuộc đời.
Học thức gởi tên con mọt sách,
Công danh rốt cuộc cái quan tài !
Dạo hòn, lũ kiến men chưn bước,
Bò xối, con trùng chắt lư"i hoài !
Cuốn sổ bình sanh công với tội,
Tìm nơi thẩm phán để thừa khai. [18]

B - PHẠM PHÚ THỨ (1821-82) VÀ NGUYỀN TRƯỜNG TỘ (1830-71)

Nguyễn Trường Tộ đã gập Phạm Phú Thứ năm 1863 trước khi phái đoàn đi Tây, chính Nguyễn Trường Tộ đã nhờ giám mục Croc (Hòa) giới thiệu Phạm Phú Thứ với một số chính khách ở Pháp, và cũng chính Phạm Phú Thứ đã giúp chuyển những bản điều trần quan trọng nhất của Nguyễn Trường Tộ lên Cơ Mật Viện. Năm 1864, khi phái đoàn về, họ lại gập nhau ở Gia-định. Vì đồng chí hướng, chắc rằng đôi bên còn nhiều lần hội diện khác, bởi các điều trần của Nguyễn Trường Tộ gửi Cơ Mật Viện phần lớn đều qua trung gian Phạm Phú Thứ.

1 - TIỂU SỬ NGUYỀN TRƯỜNG TỘ

Nguyễn Trường Tộ sinh quán ở Bùi-chu, Nghệ-tĩnh. Giỏi chữ Hán, mở trường dậy học, rồi dậy ở nhà Chung, quen giám mục Gauthier (Ngô Gia Hậu), được giám mục dạy chữ Pháp và một ít khoa học thường thức. Khi có nạn "phân tháp" (chính sách phân những gia đình có đạo ra ghép ở chung với người bên lương) Nguyễn Trường Tộ theo giám mục Gauthier lánh ra Ðà-nẵng. Lúc ấy Pháp đã chiếm Ðà-nẵng, có mời ông làm thông ngôn nhưng ông từ khước. Theo Nguyễn Trường Cửu, con trai Nguyễn Trường Tộ, thì khoảng 1859-60 Nguyễn Trường Tộ có sang Pháp và Ý, đã vào chầu Giáo hoàng Pie IX, được ban một chữ tiền lớn hơn đồng bạc (gia đình còn giữ được) nhưng Trương Bá Cần lại tỏ ý hoài nghi vì trước chuyến đi năm 1867, chỉ thấy Nguyễn Trường Tộ viết chung chung về Âu châu chứ không có những chi tiết tỏ ra đã sống ở Âu như sau năm 1867. Tuy nhiên, Thực lục chép :"Tháng 9/1870, Nguyễn Trường Tộ trước có sang Tây học lâu ngày" [19].

Tháng 3/1861, Nguyễn Trường Tộ theo giám mục Gauthier về Gia-định. Ðến tháng tư, thấy Chí-hoà thất thủ, ông nhận làm thông ngôn cho Pháp với dụng ý đóng góp phần nào vào cuộc nghị hòa. Ông từng mạo hiểm đánh tráo công văn khi thấy bất lợi cho Nam triều, hay bí mật gửi thư cho khâm mạng Nguyễn Bá Nghi mách nước vv... nhưng đến cuối năm 1861, khi Bonard mở rộng chiến tranh Nguyễn Trường Tộ thấy không trông mong tiếp trợ gì được cho cuộc nghị hòa thì ông kiên quyết từ chức (1862).

Nguyễn Trường Tộ đã tìm gập Phạm Phú Thứ trước và sau khi phái đoàn đi Pháp, sau đó liên tiếp gửi điều trần lên Cơ Mật Viện qua trung gian của Phạm Phú Thứ. Năm 1867, ông được triều đình gửi đi Pháp cùng với giám mục Gauthier tìm mua máy móc, sách học, tìm thầy, thợ chuyên môn mang về. Công việc còn dang dở thi mất thêm ba tỉnh miền Tây, lúc ấy triều đình chỉ muốn tìm cách lấy lại đất đai chứ không màng tới chuyện khác nên gọi ông về. Rút cục chuyến đi này không đem lại nhiều kết quả mong đợi.

Năm 1871, ông lại được triệu vào Kinh để tính chuyện thực hiện những đề nghị về quân sự, ngoại giao... trình bầy trong các điều trần, song cũng không đi đến đâu. Ông trở về quê ở Nghệ-an rồi mất, thọ 41 tuổi.

- Những đặc điểm của Nguyễn Trường Tộ

Trước hết là ý chí cương quyết vì nước canh tân. Tuy không biết nhiều thứ tiếng bằng Trương Vĩnh Ký nhưng ngoài chữ Hán ông nói được tiếng Pháp, tiếng Anh. Ông cũng rất thông minh lại hiếu học. Trong bản điều trần cuối tháng 5/1865, ông nêu rõ những mục đích xuất dương :"Tôi sở dĩ khinh danh lợi... vì thâm ý là đi sang các nước xem nắm tình hình... để trở thành một kẻ mưu trí gấp lo chống đỡ hoạn nạn cho nước". Ðiều trần 3/1868 :"Mấy chục năm nay tôi bôn tẩu trong thiên hạ, thu thập những tình thế biến thiên xưa nay, đem những điều đã đọc trong sách nghiệm ra việc đời. Dù trao đổi với ai một lời nói, một câu chuyện, thâm tâm tôi cũng có ý muốn thu lấy sự hiểu biết của người làm của mình". Hoặc :"Về việc học không môn nào tôi không để ý tới : cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số không môn nào là tôi không khảo cứu, nhất là để ý về sự thế dọc ngang tan hợp trong thiên hạ" (điều trần13/5/1863).

Trên thực tế, ông quả đã tỏ ra học rộng biết nhiều. Trong một điều trần, ông cắt nghĩa rành rọt nguyên do phát minh phong vũ biểu, cách chế tác và sử dụng vv.

Những điều ông học hỏi không phải chỉ được phát biểu suông trong các điều trần mà còn được thực hiện như công trình xây dựng tu viện thánh Phao-lồ ở Saigon [20]. Ông giỏi về thuyền máy nên năm 1867 ông được triều đình tin cậy gửi đi mua sắm máy móc, và khi triều đình bị lừa, mua lầm phải chiếc tầu thủy London cũ nát, cũng phải nhờ ông về Kinh giúp giải quyết. Ông biết chữa đồng hồ :"Tôi nghe nói cái đồng hồ không chạy, tôi sẽ đích thân chỉnh lại cho tốt, nếu tôi chưa khỏi bệnh thì tôi thuê thợ Tây, họ biết tôi cũng chỉnh được nên không dám làm cẩu thả" (điều trần cuối 1864 đầu 1865).

Các bản đìều trần của ông trình bầy những dự kiến cải cách về đủ mọi phương diện : giáo dục, quân sự, ngoại giao, khai mỏ, đánh thuế... ông luôn luôn so sánh Tây với ta, nêu rõ nhược điểm của ta do đâu mà ra, nói rõ những việc nào cấp bách nên làm trước.

Người đương thời mệnh danh ông là "Trạng Tộ". Khi nước Anh mở Hội nghị Cách trí đã mời ông tham dự [21].

Tóm lại, về ngoại ngữ, ông thua kém Trương Vĩnh Ký nhưng về nghiên cứu, xem ra ông đi sâu hơn, nghị luận chính xác hơn tác giả Cours d'Histoire annamite và "Phương pháp sinh con trai hay con gái tùy ý muốn".
 

Từ tháng 9-1862 cho tới tháng 7-1864 trong lúc ở Sài Gòn, Nguyễn Trường Tộ đã đảm trách công việc xây dựng cơ sở của Dòng Thánh Phaolô ở số 4 đường Tôn Đức Thắng ngày nay. Đây là một trong những cơ sở đầu tiên được xây dựng theo lối kiến trúc Tây Phương ở Sài Gòn vào những năm 60 của thế kỷ XIX.
Trên đây là phối cảnh được vẽ lại theo một bức ảnh chụp cơ sở của Dòng Thánh Phaolô ở Sài Gòn, đăng trên báo MISSIONS CATHOLIQUES năm 1876, nghĩa là 12 năm sau khi cơ sở này được hoàn tất. Đây có lẽ là nguyên trạng cơ sở do Nguyễn Trường Tộ xây cất.

2 - SO SÁNH PHẠM PHÚ THỨ VÀ NGUYỀN TRƯỜNG TỘ

Chúng ta biết Phạm Phú Thứ đã thu hoạch những gì trong chuyến đi Âu châu, còn Nguyễn Trường Tộ về nước đã thảo 58 điều trần trong vòng mười năm.

Phạm Phú Thứ và Nguyễn Trường Tộ có rất nhiều điểm tương đồng về canh tân, nhưng thường là "đại đồng, tiểu dị".

a - Về đối ngoại

Ngay từ đầu, Nguyễn Trường Tộ đã có thái độ bất hợp tác với người Pháp. Ông có cái may hơn Phạm Phú Thứ là biết ngoại ngữ và trong thời gian nhận làm thông dịch viên của Pháp, ông được đọc những tài liệu khá hệ trọng nên mới có thể ngầm giúp triều đình. Ông nhận thức rõ trọng trách của vai trò trung gian của người thông dịch nên tỏ ý bất mãn với thái độ của một viên thông ngôn khác (điều trần 2/1865) :"Thuyền của Tây đã đến Kinh, tôi đã ngầm hẹn với ông Hoằng (Nguyễn Hoằng, một linh mục thường cộng sự với triều đình) cùng đi với tôi là có thâm ý riêng : thuyền Tây nói thẳng là không trả ba tỉnh và sẽ đòi bồi thường hàng năm. Tôi nghĩ có lẽ triều đình đã có lời bàn riêng với họ, nhưng viên thông ngôn đã bị họ sai khiến, nên hễ có lời nào nói không hợp với họ thì hắn ta bênh che không dám nói hết lời. Như thế thì thật hỏng việc. Như việc thông dịch của Trung quốc đối với các nước ngoài trước kia, vì những sự thêm bớt mà đến hỏng việc nước. Cho nên tôi thầm hẹn với ông Hoằng cùng nhau đến đấy. Nếu triều đình có những việc gì cần nói cứng hoặc cần đấu dịu cứ việc nói thẳng không ngại gì".

Tuy rất ngoan đạo và được giám mục Gauthier nâng đ" song khi đụng đến sự mất còn của dân tộc thì Nguyễn Trường Tộ không ngại căn dặn triều đình chớ có sơ hở, tiết lộ những điều ông bàn dù là với giám mục và đặc biệt "chớ có cho các đạo đồ cùng đến dự nghe, sợ có những trở ngại khác" (điều trần tháng 8/1866).

Vì nắm rõ tình hình, ông kiên quyết chủ hòa :"Hòa là thượng sách, đến Trung quốc còn phải cắt đất cầu hòa. Có hòa trăm việc mới chỉnh đốn...". Ý kiến cũng như Phạm Phú Thứ chỉ khác ở chỗ ngoài việc chỉnh đốn ông còn bầy mưu thiết kế như lợi dụng sự cạnh tranh và "mối thù truyền kiếp" giữa Anh và Pháp để mà liên kết với Anh, xúi giục, mượn tay họ chống Pháp, hoặc tìm những người Pháp không phục chủ trương của Tây soái để ly gián vv.

Có lẽ nhờ biết tiếng Pháp, từng làm thông ngôn, tiếp cận nhiều với người Pháp, ông hiểu rõ Pháp hơn. Phạm Phú Thứ dường như tin Pháp sẵn lòng dìu giắt ta đến chỗ phú cường, có thể đìều đình bồi thường cho họ rút về còn Nguyễn Trường Tộ tỏ ý hoài nghi, ví Pháp "như cô dâu mới cưới, tật xấu chưa lộ". Ông cam quyết :"Pháp đã đến là không đi, đánh cũng không đi mà hòa cũng không đi" (điều trần tháng 3-4/1863).

b - Về giáo dục

Cả hai cùng trọng thực học. Phạm Phú Thứ khuyên cải cách khoa cử, nhưng vẫn trọng nhân nghĩa, đạo đức của Nho giáo. Nguyễn Trường Tộ bài bác cái học cũ quyết liệt hơn :"Thơ phú không đuổi được giặc (...) Ta toàn học những chuyện xa xưa (...) người xưa đã mất không thể dựng lên mà hỏi. (.. ) muốn đem những điều được truyền dậy ra thực hành thì phải trở ngược lại với nhân dân thời thượng cổ (...) Ta học thiên văn, địa lý, chính sự, phong tục bên Tầu (nay họ đã sửa đổi khác hết rồi) lớn lên lại dùng địa lý, thiên văn, phong tục nước Nam hoàn toàn khác hẳn..." (điều trần 15/11/1867). Và " Cái học của phương Tây công hiệu vì chia ra từng môn từng loại mà học, tùy tính chất của mỗi người, đáp ứng được cả trăm việc. Ta chỉ trọng đạo Nho, dùng một sở trường, bỏ phí nhân tài" (điều trần 1/9/1866).

Phạm Phú Thứ khuyên học thêm ngoại ngữ, Nguyễn Trường Tộ chủ trương bỏ hẳn chữ Hán, dùng chữ Nôm :"Có những người mỗi lần mở miệng ra nói lại phải nhờ người khác dịch giải. Ta một nước tại sao lại có hai thứ ngôn ngữ ? (...) Nước ta có tên tuổi vào hàng nhì phương Ðông, không có chữ viết riêng mà chỉ dùng chữ Nho, phát âm đã không đúng giọng Trung quốc, cũng không phải tiếng phổ thông của nước ta, nói với người Tầu người Tầu chẳng nghe, nói với dân ngu, dân ngu chẳng hiểu..." (điều trần 15/11/1867).

c - Về quân quyền

Phạm Phú Thứ xuất thân Nho học thì tôn quân là chuyện dĩ nhiên nhưng Nguyễn Trường Tộ đã từng du lịch nhiều nơi, tham bác Ðông Tây, nghiên cứu các thể chế, thế mà cũng chủ trương "Ngôi vua là quý, chức quan là trọng" (điều trần cuối tháng 5/1866). Nguyên vì thời của ông nhiễu nhương, ngai vàng của Tự-Ðức lung lay do hai mối đe dọa là nội loạn và ngoại xâm : Hồng Bảo, anh cả Tự-Ðức, mưu phế lập và các giáo sĩ muốn đưa lên ngôi một ông vua ít chống đạo hơn ; de la Grandière định lợi dụng tình thế ép triều đình đổi Vĩnh-long, Châu-đốc, Hà-tiên để được viện trợ quân sự. Nguyễn Trường Tộ hiểu rõ âm mưu thôn tính của Tây soái nên chủ trương tôn quân với lý do nước muốn yên trị phải có người nắm chủ quyền, nếu hơi bất mãn là đòi phế lập thì nước sẽ loạn, có nội loạn tất dễ bị ngoại xâm.

C - PHẠM PHÚ THỨ (1821-82) VÀ BÙI VIỆN (1839-78)

Phạm Phú Thứ và Bùi Viện cùng trong Tân đảng chắc có gập nhau nhiều lần, nhưng chỉ một lần được sách sử ghi lại : tháng 7/1873, khi Bùi Viện được cử đi ngoại quốc khảo sát tình hình thế giới, Phạm Phú Thứ đã làm thơ tiễn bằng chữ Hán, dịch như sau :

Mạch Tây cảng mới nước xuôi dòng,
Bốn cõi doanh hoàn, một lối thông.
Bầu trời thăm thẳm bao la rộng,
Muôn dậm làn thu thẳng ruổi dong [22].

1 - TIỂU SỬ BÙI VIỆN

Bùi Viện hiệu là Mạnh Dực, sinh ở Trình-phố, Thái-bình. Năm 1868, đỗ Cử-nhân. Vì hỏng thi Hội, lưu lại Huế học ở Quốc Tử Giám, trọ tại nhà quan Tế tửu Võ Duy Thanh. Bùi Viện coi thường cái học từ chương không thực dụng, hàng ngày đọc binh thư, để tâm nghiên cứu các ngành nông, công, thương, được Võ Duy Thanh mến, những lúc rảnh rỗi thường gọi ông vào phòng bàn quốc kế dân sinh, lại giới thiệu các đại thần có kiến thức như Lễ bộ Tham tri Lê Tuấn... Khi Lê Tuấn làm Thị sư Ðề đốc ra Bắc dẹp loạn, vì là người Trung không am tường tình hình ngoài Bắc, đã đem theo Bùi Viện và được giúp đ" rất đắc lực.

Phan Trần Chúc chép rằng sau khi giúp Lê Tuấn chiến thắng, Bùi Viện được thư của Doãn Uẩn mời ra giao trọng trách vừa đánh dẹp hải tặc, vừa xây dựng kiến thiết Hải-phòng, lúc ấy Doãn Uẩn giữ chức Doanh Ðiền Sứ ở Nam-định, chuyên việc mở mang khai khẩn ruộng đất, và được triều đình ủy thác việc biến bến Ninh-hải thành thương cảng. Bảo Vân, Sở Bảo, Lãng Nhân vv. cũng chép là Doãn Uẩn, nhưng theo Liệt Truyện Thực Lục thì Doãn Uẩn mất từ năm 1849, khi Bùi Viện mới có 10 tuổi ; Doãn Khuê, em Doãn Uẩn, mới giữ chức Nam-định Doanh Ðiền Sứ năm 1871, và đến khi Nam-định thất thủ (1873) Doãn Khuê có tội, phải đi tuần phòng ngoài biển chuộc tội, rồi được phục chức, năm1876 sung Thương biện, coi khai khẩn ruộng đất, mất năm 1879. Như vậy phải sửa là thư của Doãn Khuê mời Bùi Viện mới đúng.

Năm 1873, Francis Garnier đánh chiếm các tỉnh Hà-nội, Nam-định... Lê Tuấn được cử làm Chánh sứ đi Tây, vào Gia-định trước để thương lượng với Thống đốc Dupré lấy lại mấy tỉnh miền Bắc vừa bị mất. Lê Tuấn xin được đem theo Bùi Viện nhưng lúc ấy Bùi Viện đang về thăm quê, triều đình viết thư gọi ra. Phái đoàn phải cấp tốc lên đường, Lê Tuấn không chờ được nên khởi hành trước. Theo Phan Trần Chúc, khi Bùi Viện được thư, trở lại Kinh thì Lê Tuấn đã mất, sau đó Bùi Viện được cử đi tham quan các nước để định hướng canh tân. Sự thực Bùi Viện không phải xuất ngoại sau khi Lê Tuấn chết vì đến 15/3/1874 Lê Tuấn còn ký hoà ước Giáp Tuất ở Gia-định, mà Bùi Viện đã bái biệt vua ở núi Thúy Vân để lên đường từ tháng 7/1873. Trước khi đi vua còn dặn dò đừng sơ xuất để lộ cái kém cỏi của nước mình và đừng quá tiết kiệm để nhục quốc thể.

Thoạt đầu, Bùi Viện đến Hương cảng tình cờ gập sứ thần Hoa-kỳ khuyên không nên trông cậy ở Trung quốc, khác nào chết đuối vớ phải bọt, nên cầu viện Hoa-kỳ, và viết thư gửi gấm Bùi Viện với một người bạn thân cận Tổng thống Grant (Lâm Khẳng).

Thế là mùa đông 1873, Bùi Viện lên đường đi Nhật để lấy tầu sang Mỹ. Ðến Hoa-thịnh-đốn, vì không biết tiếng nên phải dàn xếp qua thông ngôn người Hoa mới được diện kiến Tổng thống Grant. Trong thì giờ chờ đợi, Bùi Viện đi tham quan các thị trấn lớn Hoa-kỳ. Bởi không có quốc thư, Tổng thống Mỹ nói không lấy danh nghĩa gì xin quốc hội giúp được. Bùi Viện phải trở về lấy quốc thư, nhưng đến khi quay lại năm 1875 thì cục diện thay đổi, Hoa-kỳ không muốn giúp nữa. Theo Lãng Nhân, lúc đầu Hoa-kỳ thuận giúp với điều kiện được tự do thông thương, đồng thời cũng muốn trả thù Pháp đã can thiệp vào vụ Mễ-tây-cơ nhưng khi Bùi Viện trở lại với quốc thư thì Mỹ thấy Pháp đã củng cố địa vị ở Việt-Nam nên không muốn giúp nữa, đòi đưa 2 triệu quan để chi dụng vào việc xuất binh. Bùi Viện thất vọng, trở về tay không. Mùa thu 1875, ông dừng chân ở Nhật, đến Hải Vân quan thì được tin mẹ mất, ông về triều phục mạng rồi về quê chịu tang. Mới được ba tháng lại có chỉ triệu ra Kinh để giao trọng trách.

Theo Bảo Vân thì ngày 12 tháng 4 năm Bính Tý (1876) ở cửa bể Thuận-an (cách Huế 15 cây số) có hai chiếc thuyền của giặc Tầu ô đánh cướp đoàn thuyền vận tải gồm 9 chiếc của nha Kinh Lược chở hàng hóa và binh lính về Huế, ngay khi vua ra chơi Thuận-an. Bùi Viện làm bài vè chế nhạo, đến tai vua. Tự-Ðức bèn triệu về Kinh, phong chức Tham Biện Thương Chính, sai đi thám thính tình hình hải tặc. Tháng 5/1876, sau khi nhận chức, Bùi Viện đi kinh lý ; tháng 7 dâng biểu nói : Cần phải trừ nạn hải tặc thì dân mới có thể yên ổn làm ăn, buôn bán như triều đình vẫn khuyến khích. Tuy nhiên, không thể trông cậy ở người Thanh vì là cảnh "mẹ gà, con vịt", không tận tâm ; cũng không thể trông cậy ở tầu vận tải của nhà nước vừa nặng nề, vừa cồng kềnh khó xoay sở, giặc đi thuyền nhỏ mà trốn vào chỗ nước nông là ta bó tay. Các nhà buôn sẵn sàng đóng tiền bảo hiểm, nên lấy tiền đó lập đội Tuần dương quân, vừa để tuần phòng, vừa để hộ vệ các thương thuyền, vừa vận tải hàng hóa nhà nước. Tuần dương quân sẽ thuộc quyền chỉ huy của một viên quan cao cấp, lập bản doanh ở Nam-định ; trên mỗi cửa bể trọng yếu nên đặt một tiểu đồn phòng, có pháo đài, súng đại bác, trước hết đặt ở Nam-định, rồi đến Ninh-hải...

Thực lục xác nhận :"Tháng 8/1877, bắt đầu đặt Nha Tuần tải, lấy Biên tu lãnh trước tác Bùi Viện sung chức Tuần tải Nha Thương chánh Quản đốc" [23]. Bùi Viện đã thi hành kế hoạch chiêu mộ hải tặc thông thạo thủy chiến và dân chài giỏi võ nghệ, lập thành đội Tuần dương quân gồm hai đoàn Thanh dũng (người Thanh) và Thủy dũng (người Việt). Chính Bùi Viện làm Thượng tướng, được vua trao sắc ấn. Ông thân đốc Thủy dũng luyện tập, đặt ra quân luật, lập các nha đồn, đóng được 200 chiếc tầu lớn, đặt trụ sở Nha Tuần tải -coi như bộ Tổng Tư lệnh Tuần dương quân- ở lầu Thương Bạc, tại Huế. Ðây cũng là nơi điều khiển Chiêu Thương Cục, công ty xuất nhập cảng lớn nhất nước ta hồi ấy, đem lại những món tiền quan trọng cho công quỹ vì triều đình có một nửa cổ phần [24].

Ðến tháng 5/1878 Tuần dương quân đã hai lần giao chiến với Tầu ô ở hải phận Hà-tĩnh và Thanh-hóa, bắt được thuyền giặc cùng súng ống, lương thực...

Một năm sau khi lĩnh chức Chánh Quản đốc, 4 tháng sau khi được triệu về Kinh, Bùi Viện từ trần vào ngày mồng một, tháng mười một, năm Tự-Ðức thứ 31 (1878). Triều đình xét ông có tội tiêu lạm công quỹ 36 vạn, ra lệnh tịch biên gia sản, nhưng vô hiệu vì ông chỉ có một mái nhà tranh. (Có thuyết nói ông bị giam và chết trong ngục).

2 - PHẠM PHÚ THỨ HAY BÙI VIỆN ÐÃ BIẾN NINH-HẢI RA HẢI-PHÒNG ?

Tháng 11/1872, khi Jean Dupuis từ Saigon ra, lần theo sông Nhị-hà tìm lối sang Vân-nam, đã bỏ neo ở bến Ninh-hải (thuộc Hải-dương), lúc ấy Ninh-hải chỉ có mấy xóm chài lơ thơ và đầy hồ ao, bùn lầy.

Theo Quang Uyển thì từ 1867 Phạm Phú Thứ đã đề nghị mở cảng ngoại thương ở Hải-yên và khi làm Tổng đốc Hải-yên ông đã lập "thành tích sáu năm mở cảng Ninh-hải (Hải-phòng)" [25].

Thái Nhân Hoà cũng viết :"Chưa quá ba năm (1874-76), Phạm Phú Thứ đã góp phần thay đổi bộ mặt Hải-yên nói chung và tỉnh lỵ với cảng Hải-phòng nói riêng" [26].

Tùng Phong cũng chép :"Năm 1874, triều đình ký với Pháp cho lập toà Lãnh sự ở Hải-phòng. Cung chức được mấy tháng, Phạm Phú Thứ cùng Tuần phủ Nguyễn Tăng Doãn kinh lý từ Hải-dương đến Hải phòng, cho lập mấy đồn lính coi việc tuần phòng, Nha Thương chính ở Hạ-lý để thu thuế tầu bè qua lại (...) sau đó mới lập Toà Lãnh sự" [27].

Thực Lục cũng ghi :"Tháng 8/1874 Lại bộ Thị Lang Nguyễn Tăng Doãn sung giảng định Thương Ước làm Khâm phái ở Hải dương khám xét địa thế Hải-dương và ngoại thành Hà-nội, chọn chỗ làm nhà cho quan quân Pháp ở và khám xét chỗ quân Pháp đóng ở cửa bể nào, hình thế như thế nào, vẽ bản đồ chung cả tỉnh và vùng phụ cận dâng lên".

- Thế nhưng Phan Trần Chúc lại viết :"Triều đình muốn lập cửa bể Hải-phòng, người đương thời gọi là bến Ninh-hải, thuộc địa phận Hải-dương, vốn chỉ có mấy chiếc lều tranh, bãi biển bùn lầy (...) Doãn Uẩn (Doãn Khuê) giao cho Bùi Viện biến thành một thương cảng kiêm quân cảng nơi giao thiệp với các nhà buôn ngoại quốc (...) Chỗ mà J. Dupuis bước xuống đầu tiên chính là bến Ninh-hải, hoặc thành phố Hải-phòng bây giờ, một công trình kiến trúc của Bùi Viện" [28].

Sở Bảo cũng ghi :"Doãn Uẩn (Doãn Khuê) ủy thác cho ông (Bùi Viện) việc mở rộng bến Ninh-hải thành một hải cảng để buôn bán với các nước, tức Hải-phòng" [29].

Xét rằng năm 1874 bắt đầu mở nha Thương chính, công việc thù tiếp nặng nề, triều đình mới cử Phạm Phú Thứ làm Tổng đốc Hải-yên kiêm Tổng lý Thương chính. Sung chức được mấy tháng ông đã cùng Tuần phủ Hải-dương Nguyễn Tăng Doãn đi kinh lý để trù tính kế hoạch. Ninh-hải thuộc Hải-dương, do Phạm Phú Thứ quản lý. Về phần Bùi Viện thì năm 1874 còn đang xuất dương, đến1876-77 mới đảm nhận chức Tuần-tải-nha Chánh-quản-đốc lĩnh Thương Chính Tham Biện, vừa giữ trách nhiệm về hải phòng vừa mở mang kinh doanh. Bùi Viện đặt đại bản doanh Tuần dương quân ở Nam-định, đặt tiểu đồn cũng ở Nam-định trước rồi mới đến Ninh-hải, tức là Nam-định đối với ông quan trọng hơn Ninh-hải.

Phạm Phú Thứ giữ chức Tổng đốc Hải-dương kiêm Tổng lý nha Thương chính có thể coi là chức quan cao nhất ở ngoài, là người chủ sự từ năm 1874 ; còn Bùi Viện mãi đến 1876/7 mới sung chức Thương chính Tham biện và Tuần-tải-nha Chánh-quản-đốc (Phan Trần Chúc cho là ngang với chức Tổng trưởng bộ Hải quân) chắc là thuộc cấp của Phạm Phú Thứ. Có thể ông là người thực hiện việc biến Ninh-hải thành thương cảng Hải-phòng nhưng Phạm Phú Thứ là người điều khiển ? Thiếu tư liệu, thực sự khó mà phân biệt rõ được nhiệm vụ của hai người ở Ninh-hải.

- Ðiều đáng chú ý là thời bấy giờ phong trào duy tân đã mạnh, những người thức thời không phải chỉ có Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ và Bùi Viện. Thí dụ :

Ta biết năm 1858 Phạm Phú Thứ đóng được thuyền máy kiểu mới, nhưng Nguyễn Trường Tộ cũng là một tay rất am tường thuyền máy, từng viết điều trần góp ý mua và đóng thuyền máy.

Theo Ðào Trinh Nhất và Sở Bảo thì Võ Duy Thanh, người cùng thời với Phạm Phú Thứ, cũng đã nghĩ và cùng Bùi Viện đóng được một chiếc chiến thuyền nhỏ, thí nghiệm ở cửa Thuận-an, và lúc gần mất (1861) còn viết sớ khuyên vua gấp tổ chức Hải quân theo Thái Tây vì hình thế nước ta nhìều bờ bể, địch đổ bộ chỗ nào cũng được, việc phòng thủ bờ bể rất khẩn yếu [30].

Chính các ông vua nhà Nguyễn cũng là những người giỏi chế tạo máy móc :

Trong Trung Bắc Chủ Nhật, Quán Chi cho biết Gia-Long đã chế tạo được bốn chíếc thuyền theo kiểu Tây. Thoạt tiên mua một chiếc tầu chiến cũ về tháo tung ra xem rồi ráp lại như cũ, sau thử chế tạo một chiếc mới nguyên theo kiểu mẫu ấy, tự mình giám đốc thợ thuyền, chỉ bảo từng li từng tí, có lúc phải sắn tay áo cầm thước đo. Làm được chiếc đầu nhà vua đóng thêm ba chiếc nữa, có chiếc không đầy ba tháng đã xong, trên đặt được 26 khẩu thần công, có chiếc tới 36 khẩu và 300 thủy binh. 3 chiếc đầu giao cho thủy quan Pháp cai quản, chiếc thứ tư nhà vua tự điều khiển [31].

Thực lục chép : "Năm 1838 (Minh-Mệnh) sai Vũ Khố đóng thuyền máy hơi nước (theo kiểu thuyền Tây dương mà làm), thưởng cho đốc công, thợ làm việc100 quan tiền".

Năm 1834, vua Minh-Mệnh phán :"Những chỗ đông nhà ở mùa hè rất sợ cháy. Ta đã chế cái xe chữa cháy đ" tốn sức mà lửa nào cũng phải tắt" [Làm một cái máy chứa nước trong thùng, do bốn hay năm người đẩy xe, một người cầm sào dài buộc vòi (bằng da cuộn lại) vào đầu sào giơ lên, bốn người ở hai bên vặn máy, nước trong thùng chẩy qua vòi tuôn như mưa].

o O o

- Phi-li-phê Bỉnh được đào tạo để thành linh mục, vì đạo mà xuất dương rồi phải sống lưu vong đến chết. Ở nước ngoài, ông chỉ giao thiệp với người trong đạo nhiều nhất chứ không phải với từng lớp trí thức nên những gì ông được mục kích thường chỉ là đời sống hàng ngày. Ông không có trách nhiệm chính thức với quốc dân đồng bào, không hi vọng được về nước và cũng không có gì đảm bảo nhật ký của ông sẽ được lưu truyền, song ông vẫn kiên trì ghi chép tường tận những điều học hỏi được ở nước ngoài với hi vọng sẽ giúp cải thiện đời sống của dân Việt. Ông đã tận dụng sở học và sở năng của mình để phục vụ dân tộc.

- Phạm Phú Thứ làm quan, dĩ nhiên có phận sự chăm lo cho dân song ông không chỉ làm một cách tắc trách. Ngay từ trước khi đi Tây ông đã thiết tha với việc canh cải đất nước, sau khi xuất dương, chiêm nghiệm tận mắt kỹ thuật tinh xảo của Thái Tây, ông đã cố công học hỏi, ghi nhớ để về áp dụng, nào chế tạo "xe trâu", nào mở trường Thủy học, trường dậy tiếng Pháp, in sách phổ biến khoa học kỹ thuật vv. Tuy tâm phục kỹ thuật của Tây, ông vẫn tôn trọng cái "học để thành người" của Nho giáo.

- Nguyễn Trường Tộ rất gắn bó với tiền đồ dân tộc. Tuy không chính thức giữ một trách vụ gì, song ông kiên quyết đem những sở đắc của mình ký thác vào 58 bản điều trần, đưa ra những giải pháp canh tân để phục vụ đất nước. Là một người có đạo, đương nhiên ông bị hiềm nghi nhưng nhờ lòng nhiệt thành ông đã khiến triều đình chuyển sang tín nhiệm, ủy thác cho ông thảo thư gửi Tây soái, sang Pháp mua máy móc, tìm thầy thợ... Tự-Ðức còn sai Trần Tiễn Thành thu thập các điều trần và thư từ của Nguyễn Trường Tộ đóng thành một tập theo thứ tự ngày tháng dâng lên vua xem. Từ chỗ bị nghi ngờ, nhờ lòng chí thành, ông đã biến thành chỗ sở cậy của triều đình. Tuy bài bác Nho học nhưng tác phong của Nguyễn Trường Tộ lại vẫn là tác phong của một chân Nho : tận tụy vì nước dù ốm đau "chân bị tê bại, phải nằm ngửa mà viết" (điều trần cuối cùng đang viết dở thì mất), không màng danh lợi "Triều đình có việc gì cần tôi xin vâng mệnh xong lại xin về như trước, còn tước lộc quyết không dám nhận" (điều trần 9/2/1871).

"Mặt trời cho dẫu không soi đến,
Hướng dương xin vẫn nếp hoa quỳ".
(điều trần 13/5/1863)

Tiếc rằng ông không gập thời, lại mệnh đoản nên chưa thực hiện được những sở học đã thu thập ở nước ngoài.

- Bùi Viện cũng như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ đều là những người có tâm huyết, ý thức rất rõ về thực trạng nước nhà, quyết tâm học hỏi để canh cải, ôm ấp nguyện vọng xoay chuyển tình thế. Sau hai chuyến công du Bùi Viện đã được giao cho việc lập đội Tuần dương quân, và đóng góp vào việc biến bến Ninh-hải thành thương cảng Hải-phòng. Tuy không thành công trong vấn đề cầu viện Hoa-kỳ, tuy ông để lại trong công quỹ một lỗ hổng là 36 vạn quan khi mất, song ông cũng đã đem hết sở năng của mình học hỏi được ở ngoại quốc để phục vụ đất nước.

- P. Bỉnh, Nguyễn Trường Tộ và Trương Vĩnh Ký đều có đạo, song xem ra về mặt tôn giáo, Trương Vĩnh Ký công bình hơn cả, trong khi P. Bỉnh chỉ suy tôn một đạo Thiên Chúa và Nguyễn Trường Tộ tin rằng trong vụ tranh chấp lương-giáo, lỗi tại triều đình :"Chỉ từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm mới sinh ra kỳ thị nhau... nước vốn trong, có quấy lên mới đục" thì Trương Vĩnh Ký nhìn nhận rằng trong vụ hiềm khích này đôi bên lương giáo cùng có lỗi.

Trương Vĩnh Ký là một kỳ tài, thông minh, uyên bác, thông thạo ngoại ngữ, thân cận với rất nhiều trí thức Pháp, hẳn ông phải là người lĩnh hội được nhiều nhất những cái hay cái mới của Tây ; ông lại có phương tiện phổ biến những điều hấp thụ được qua các tác phẩm biên soạn đã được ấn hành, đương nhiên chúng ta đặt kỳ vọng nơi ông. Song ý định "giúp cho hai dân tộc hiểu nhau hơn" do chính ông vạch ra, chung qui ông chỉ thực hiện có một nửa, tức là giúp cho người Pháp hiểu người Việt. Sự nghiệp trước tác của ông tuy đồ sộ nhưng ngồi nhà cũng viết được hà tất phải là người đi xa ngàn dậm. Tìm một người biết 27 thứ tiếng thì mới khó chứ tìm một người hiểu văn hóa Á-Ðông thì thiếu gì, ông không viết vị tất đã không ai làm nổi ? Do đó chúng ta có quyền thất vọng.

Nói thế không có nghĩa là phủ nhận công đóng góp của Trương Vĩnh Ký cho văn hóa nước nhà. Dù ông chỉ tuân hành chỉ thị của Tây mà viết sách báo bằng quốc ngữ nhưng hiển nhiên ông là người Việt đầu tiên phổ biến chữ quốc ngữ, đem chữ quốc ngữ từ lĩnh vực tôn giáo sang lĩnh vực văn học, ông đã gián tiếp góp phần vào sự hình thành của quốc ngữ mà lợi ích của quốc ngữ thì ngày nay không ai chối cãi. Ngoài ra, những sách viết về văn học, sử, địa, phong tục vv. của ông để lại tuy cũng có những chỗ cần phải dè dặt nhưng tựu chung vẫn là những chứng liệu hiếm quý để ta trân trọng.

Châtenay-Malabry, tháng 7, 2000
 
CHÚ THÍCH

[1] - L'Armoricain 25/11/1840 - Moniteur Universel 5/1/1841 theo Hồng Lam, Trung Bắc Chủ Nhật 2/4/1944 và A. Delvaux, Bulletin des Amis du Vieux Hué, Oct.-Déc.1928.

[2] - Bổ tử = miếng vải vuông đáp trước ngực áo, thêu hình chim nếu là quan văn, hình thú nếu là quan võ, cấp bậc cao thấp tùy loại chim hay thú.

[3] - Ðào Trinh Nhất, Trung Bắc Chủ Nhật, 17/10/1943.

[4] - "Nên 5 nên 6" chép theo chính tả của tác giả.

[5] - P. Bỉnh, tr. 494 - 499.

[6] - PPThứ với Tư tưởng canh tân, tr. 49.

[7] - Thực Lục, XXXIV, tr. 118.

[8] - PPThứ với Tư tưởng canh tân, tr. 57.

[9] - PPThứ với Tư tưởng canh tân, tr. 51.

[10] - PPThứ với Tư tưởng canh tân, tr. 64.

[11] - PPThứ với..., tr. 64, 67.

[12] - PPThứ với..., tr. 59.

[13] - Nguyễn văn Trấn, tr. 203-4.

[14] - Cours d'Histoire annamite, II, tr. 259 - Nguyễn văn Trung, tr. 14.

[15] - Bouchot, tr. 18.

[16] - Lê Trọng Văn, tr. 32-3.

[17] - Nguyễn văn Trấn, tr. 25, không cho biết xuất xứ. Tôi chưa tìm ra thư gửi cho ai.

[18] - Nguyễn văn Trấn, tr. 228 - Bằng Giang, tr. 192 - Lê Trọng Văn, tr. 100.

[19] - Thực Lục, XXXII, tr. 60. Trương Bá Cầ n, tr. 426.

[20] - Trương Bá Cần, tr. 28.

[21] - Trương Bá Cần, tr. 30.

[22] - Phan Trần Chúc , tr. 41.

[23] - Thực Lục, XXXIV, tr. 65.

[24] - P.T.Chúc, tr. 118-22, 132.

[25] - PPThứ với Tư tưởng canh tân, tr. 47.

[26] - PPThứ với..., tr. 80.

[27] - Tùng Phong, Trung Bắc Chủ Nhật, số 104, 29/3/1942.

[28] - PTChúc, tr. 24, 32.

[29] - Sở Bảo, Trung Bắc Chủ Nhật, 21/3/1943.

[30] - Thực Lục XX, tr. 252 - Ðào Trinh Nhất, Trung Bắc Chủ Nhật, số 227, 5/11/1944.

[31] - Quán Chi, Trung Bắc Chủ Nhật , 21/3/1943.
 
 


SÁCH THAM KHẢO

BẰNG GIANG, Sương mù trên tác phẩm Trương Vĩnh Ký. Văn Học, 1994.

BẢO VÂN, Bùi Viện, một nhà nho sáng suốt, lỗi lạc, phi thường. Canada : Quê Hương, 1988.

BARON Samuel, Description du Royaume de Tonquin. Bản dịch của H. Deseille, không đề năm xuất bản.

Phi-li-phê BỈNH, Sách sổ sang chép các việc. Viện Ðại học Ðà-lạt, 1968.

BOOTH Ninette & DÉTRIE Muriel, Le Voyage en Chine. Paris : Robert Lafont, 1992.

BORRI Christoffe, Relation de la nouvelle Mission des Pères de la Compagnie de Jésus au Royaume de la Cochinchine. Dịch giả : Père Antoine de la Croix, Rennes, 1631.

BOUCHOT Jean, Pétrus Trương Vĩnh Ký, Erudit Cochinchinois (1837-98), 1925.

CHAIGNEAU Michel Ðức, Souvenirs de Hué. Paris, 1867.

CHƯƠNG DÂN, "Chuyện quan Hiệp Biện Phạm Phú Thứ", Nam Phong số 22, 4/1919.

ÐÀO TRINH NHẤT, "Câu chuyện con cá sấu của Hàn Dũ", Trung Bắc Chủ Nhật, số 179, 17/10/1943.

" " " , "Võ Duy Thanh, người biết có mỏ than Hongay trước nhất", Trung Bắc Chủ Nhật, số 227, 5/11/1944.

DAUDIN Pierre & LÊ VĂN PHÚC, Phan Thanh Gian (1796-1867) et sa famille, d'après quelques documents annamites. Saigon : Société des Etudes Indochinoises, 1941.

ÐẶNG THÚC LIÊNG, Trương Vĩnh Ký - Hành Trạng. Saigon : Nhà in Xưa Nay, 1927.

DELVAUX A., "L'Ambassade Phan Thanh Gian en 1863 d'après les documents français", Bulletin des Amis du Vieux Hué, Janv.-Mars 1926.

DELVAUX A., "L'Ambassade de Minh-Mang à Louis Philippe, 1839 à 1841", BAVH, Oct.-Déc. 1928.

GAUTIER H., Les Français au Tonkin (1787-1883). Paris : Challamel aîné, 1884.

HÉDUY Philippe, Histoire de l'Indochine. Paris : H. Veyrier, 1983.

HỒNG LAM, "Năm 1840, cuối triều Minh-Mạng, một sứ bộ Việt-nam đã được phái sang triều đình hai nước Pháp và Anh", Trung Bắc Chủ Nhật, số 197, 2/4/1944.

LÃNG NHÂN, Giai Thoại Làng Nho Toàn Tập. Saigon : Nam Chi Tùng Thư, 1966 ; tái bản ở Mỹ.

LÊ TRỌNG VĂN (Cửu Long), Pétrus Trương Vĩnh Ký - Tuyển tập. San Diego, CA : 1996.

NGÔ ÐỨC THỌ, Các nhà khoa bảng Việt-Nam (1075-1919). Hà-nội : Văn Học, 1993.

NGUYỀN DUY OANH, Chân dung Phan Thanh Giản. Saigon : Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên, 1974.

NGUYỀN HỮU TIẾN, "Nói về truyện các cụ ta đi sứ Tầu", Nam Phong, số 92, 2/1925.

NGUYỀN QUANG HỒNG chủ biên, Bia nhà thờ họ Phạm, số 1444 và 1445,Văn khắc Hán Nôm Việt-Nam. Hà-nội : KHXH, 1992.

NGUYỀN VĂN TRẤN, Trương Vĩnh Ký - Con người và sự thật. TPHCM : KHXH, 1993.

NGUYỀN VĂN TRUNG, Chữ văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc. Saigon : Nam Sơn, 1975 ; Xuân Thu tái bản ở Mỹ.

NGUYỀN VĂN TRUNG, Trương Vĩnh Ký - Nhà văn hóa. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 1993.

PHẠM PHÚ THỨ, Tây Hành Nhật Ký. Bản dịch của Ngô Ðình Diệm (phần đầu) : "L'Ambassade de Phan Thanh Gian", BAVH, Av.-Juin & Juil.-Sept. 1919 ; bản dịch của Trần Xuân Toán (phần giữa) : BAVH, Juil.-Sept. & Oct.-Déc. 1921. Thiếu phần cuối.

Bản dịch của Quang Uyển, nhà xuất bản Ðà-nẵng, 1999.

PHAN TRẦN CHÚC, Bùi Viện và chính phủ Mỹ. Paris : Ðông Nam Á tái bản, 1985.

QUÁN CHI, "Vua Gia-Long tự làm kỹ sư đóng lấy chiến thuyền theo kiểu Tây", Trung Bắc Chủ Nhật, 21/3/1943.

QUANG UYỂN, HẢI NGỌC, PHÚ HẠT, Phạm Phú Thứ với Tư tưởng canh tân. TPHCM : Hội Khoa Học Lịch Sử, 1995.

RHODES Alexandre de, Histoire du Royaume de Tunquin. 1652. Hồng Nhuệ dịch. TPHCM : Ủy ban Ðoàn kết Công giáo, 1994.

SỞ BẢO, "Việc tổ chức Hải quân của ông Bùi Viện trong đời Tự-Ðức", Trung Bắc Chủ Nhật, 28/3/1943.

TRƯƠNG BÁ CẦN, Nguyễn Trường Tộ - Con người và Di thảo. TPHCM, 1988.

TRƯƠNG VĨNH KÝ, Cours d'Histoire annamite à l'usage des écoles de la Basse Cochinchine. Saigon : Imprimerie du Gouvernement, 1875.

TRƯƠNG VĨNH KÝ, Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (1876).

TRƯƠNG VĨNH KÝ, Ước lược truyện tích nước Annam. Saigon (không rõ in năm nào vì chỗ này bị xé mất).

TÙNG PHONG, "Một người Việt đã lập ra thương cảng Hải-phòng", Trung Bắc Chủ Nhật, số 104, 29/3/1942.

VISSIÈRE Isabelle & J. Louis, Lettres édifiantes et curieuses de Chine par des Missionnaires Jésuites (1702-76). Paris : Garnier-Flamarion, 1979.

VƯƠNG HỒNG SỂN, Hơn nửa đời hư. Hồ Chí Minh : Tổng Hợp, 1992.

Ðại-Nam Liệt Truyện, IV, Thuận-hóa : Viện sử học, 1993.

Ðại-Nam Thực Lục Chính Biên, XX, XXX, XXXI, XXXII, XXXIII, XXXIV. Hà-nội : KHXH, 1968, 1974, 1975, 1976.



 [  Trở Về   ]