Tôi
nhớ đến một quyển tiểu thuyết Pháp đọc hồi còn trẻ:
Một anh chàng giàu có ở Paris một hôm tình cờ đi qua một
cái ngõ mang tên một người không nổi tiếng. Anh nghĩ phải
tìm hiểu cặn kẽ xem vì sao họ được đặt tên đường
phố, không chỉ trường hợp này! Và thế là anh bỏ hàng
chục năm đi điều tra, vào tòa thị chính các thành phố,
làng xóm, hỏi dân các địa phương, lùng các thư viện để
thỏa mãn trí thức. Sự tò mò tìm hiểu ấy đã đem cho đời
anh một lẽ sống.
Ở Việt Nam, tôi không
ngờ lại có một trường hợp tương tự, nhưng có ý nghĩ
đóng góp cho xã hội hơn nhiều! Chuyện chị Chân Quỳnh, Việt
kiều ở Pháp. Có lần chị về Hà Nội để dự một cuộc
hội thảo của Trung tâm nghiên cứu Quốc học. Người nhỏ
nhắn, tóc đã đốm bạc, ăn nói nhẹ nhàng, áo quần giản
dị. Chỉ dăm ba câu trao đổi chúng tôi đã thấy hợp chuyện,
vì cùng thế hệ trên dưới bát tuần, cùng học thời Pháp
và cùng là dân Hà Nội chính cống, chị gốc Hàng Bồ, tôi
Hàng Gai. Mặc dầu rời Việt Nam vào tuổi 21, sau hơn nửa
thế kỷ, chị vẫn nhớ như in Hàng Bồ với những ngôi nhà
lớn như cửa hiệu Quảng Hưng Long, trụ sở báo chữ Tây
của Phạm Lê Bổng, nhà in Lê Cường ... Gia đình chị là
tư sản nhỏ, có cửa hàng đồ dệt với khoảng chục công
nhân dệt. Năm 1952, ở Hà Nội, bố mẹ chị cho con trai sang
Pháp để tránh bị bắt lính, chị Quỳnh đã học Trường
Albert Sarraut, nay đòi đi cùng em sang Pháp học, chị được
học 4 năm ở thành phố dệt Lyon và tốt nghiệp Trường cao
học kỹ thuật dệt. Tiếc thay vì dị ứng với hóa chất,
chị chuyển sang học Anh ngữ và đỗ tiến sĩ Trường Sorbonne
- Paris, từ kỹ thuật chuyển sang văn chương. Chị tham gia
dịch thơ Việt sang tiếng Anh và cộng tác với một số tạp
chí hải ngoại. Chị cũng dịch một số tuyển tập truyện
ngắn nước ngoài sang tiếng Việt, nhan đề là Hoa thơm
cỏ lạ.
Nhưng
công phu nhất và có giá trị nhất là hai tập của bộ sách
nghiên cứu về khoa cử Việt Nam: Thi hương (425 trang) và Thi
hội, thi đình (515 trang khổ to) có những ảnh lịch sử rất
quý, tầm cỡ tác phẩm của Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp.
Bộ sách này ra đời do một sự ngẫu nhiên, biến chị Quỳnh
thành một "thám tử văn hóa" bất đắc dĩ. Đầu đưôi câu
chuyện là thế này: Năm 1985, đã ngoài năm chục tuổi, chị
mua được cuốn sách của người Pháp viết về Đông Dương
có một loạt ảnh về lễ xướng danh trường thi Hà Nam năm
1897 (do Salles chụp). Chị thích quá vì đã đọc sách về thi
cử của Ngô Tất Tố và Chu Thiên. Chị nảy ra ý nghĩ sưu
tầm một bộ ảnh đầy đủ hơn. Được biết là ở Thư
viện Quốc gia Paris còn 2 chiếc bưu ảnh thời kỳ này. Chị
xuống thang máy 5-7 tầng hầm, tìm ra hai tấm bưu thiếp đã
mờ. Hiểu biết kỹ thuật ảnh, chị định xuất bản một
cuốn sách ảnh, kèm thơ văn về thi cử và một ít chú thích
đơn giản, cho đối tượng là Việt kiều và người nước
ngoài. Bản thảo xong từ năm 1989, sau chị thấy cần viết
lại kỹ hơn, vì phần chú thích vẫn còn nhiều nghi vấn lịch
sử. Bản thảo cuốn sách phổ thông dày dần thành sách nghiên
cứu, đòi hỏi công phu tìm tòi, điều tra. Chị bảo:"Vì mới
đầu cần chú thích ảnh tôi phải đọc sách và khám phá
ra sách sử của ta viết không giống nhau, cần tìm ra ai đúng
ai sai, tìm ra các bằng chứng, tôi dần thấy vui thích với
công việc mình làm. Ấy là chưa kể nhờ đọc sách, tôi đã
mở rộng kiến thức, sửa được những ý nghĩ sai lầm của
mình. Khoa cử không phải chỉ là thi văn chương, kỳ thi văn
sách bàn về thuật trị nước mới là trọng yếu".
Xin kể lại một số
vụ rắc rối mà "thám tử văn chương" chị Quỳnh đã điều
tra được. Vụ cái biển phụng chỉ: sao chữ trên lại nhỏ,
chũ duới lại to và lệch sang bên phải ? Lại viết ngược,
chữ trên là chỉ, dưới là phụng. Tìm hiểu,
thì ra: chữ Nho đọc từ phải sang trái, phụng là việc
của quan, viết nhỏ; chỉ là việc của vua, ra lệnh
viết to. Vụ tài liệu Pháp ghi địa danh không có dấu, tra
mãi mới ra Cau Do là Câu Đơ (chỉ Hà Nội). Rivière de Thu là
sông Thù (điển tích trong kinh Lễ). Vụ thời trước có học
Nam sử không hay chỉ học Bắc sử ? Phải chăng khi Pháp cải
cách khoa cử năm 1909 mới đưa Nam sử vào chương trình. Nghiên
cứu thì thấy các cụ đã học sơ học vấn tân, một phần
ba về Nam sử. Việc toàn quyền Paul Doumer bôi nhọ Văn thân,
cho là vì các nhà Nho thi hỏng nên bất mãn. Việt kiều có
người hỏi: thời hiện đại hóa, bỏ hàng chục năm nghiên
cứu khoa cử xưa có ích gì ? Chị đáp là để đóng góp cho
quốc học, để hiểu ông cha ta đã đào tạo trí thức tu
thân trị quốc thế nào, đạo Nho đến nay vẫn còn chỗ đứng,
khoa cử liên quan đến vận mệnh nước nhà trong gần nghìn
năm. Sao ta không quan tâm?
Hữu
Ngọc
28-6-2008
|