Âm
nhạc
Chúng ta đều biết
không có một nền âm nhạc nào không mang tính kế thừa và
phát triển, hai mặt này đi song song với nhau, cùng nằm trong
hiện tượng văn hoá-nghệ thuật qua nhiều thế hệ, bắt
gốc từ yếu tố tộc người trong thời kỳ sơ khai. Nó đã
ăn sâu và tác động vào điều kiện tâm-sinh lý của con người,
và mang tính di truyền. Nó là một hiện tượng mang tính qui
luật tạo thành mầm mống cho ngôn ngữ âm nhạc dân tộc.
Âm nhạc cải lương cũng không tách khỏi qui luật này.
Người
ta thường nói cải lương xuất phát từ Nam Bộ, đó là cách
nói rút gọn, nhưng đứng về mặt lịch sử thì nhạc cải
lương là một loại nhạc sân khấu, được phát triển dựa
trên phong trào ca nhạc tài tử (phong trào chơi nhạc không
chuyên nghiệp lan rộng khắp Nam bộ thời trước). Loại nhạc
này bắt nguồn từ nền ca nhạc dân gian lâu đời của nước
ta. Nó nằm trong kho tàng văn hóa dân tộc, và đồng thời
phát triển với những cuộc di dân về phương Nam của ông
cha ta. Cũng những cây đàn ấy, càng đi khỏi vùng đất Tổ
thì càng trở nên linh động với những màu sắc mới lạ
và biến thành một loại hình nghệ thuật độc đáo dân tộc.
Có thể nói đó là đức tính của con người Việt Nam được
hun đúc qua những cuộc di dân lớn, đấu tranh với thiên nhiên
khắc nghiệt, vượt qua muôn nghìn khó khăn gian khổ để xây
dựng thôn ấp, phát triển xã hội.
Âm
nhạc cải lương chịu ảnh hưởng của hai nền nhạc lớn
đã có từ thời cổ và tồn tại đến bây giờ, đó là nền
ca hát dân gian và nền nhạc khí dân gian. Hai nền nhạc này
tạo cho cải lương một phong cách đặc biệt, do đó trong
âm nhạc cải lương, yếu tố ca hát và yếu tố nhạc khí
cùng thúc đẩy nhau phát triển và tạo ra một hình thức đối
lập trong nhiều bè, mở đường cho sự nảy nở của tính
chất sân khấu. Tại Nam Bộ, hiện nay nhân dân chỉ còn được
nghe khí nhạc thuộc loại tế tự (nhạc lễ) còn âm hưởng
của nhạc cung đình thì đã thuộc về dĩ vãng.
Từ khi chữ Nôm
bắt đầu xuất hiện thì thơ ca dân gian càng phát triển,
chữ Nôm dùng để sáng tác các bản nhạc. Sau thắng lợi
vẻ vang của ba lần chống quân xâm lược Nguyên, nghệ thuật
âm nhạc và hát xướng càng phát triển mạnh và mãi cho tới
thời nhà Lê, ngoài các bậc công hầu ra, trong hàng sĩ phu
phần đông đều có hiểu biết về niêm luật âm nhạc. ở
Huế đã hình thành nền nhã nhạc, yếu tố bác học làm cơ
sở cho sự kế thừa và phát triển của phong trào ca nhạc
tài tử Nam bộ.
Nghệ thuật âm
nhạc miền Trung dần dần phát triển ra khắp thôn xã song
song với sự phát triển của một vài yếu tố âm nhạc dân
gian Trung Quốc. Phương thức cải biến vật chất thành nhu
cầu cần thiết cho con người, ảnh hưởng khá lớn đến
phương thức biểu hiện tư tưởng bằng hiện tượng nghệ
thuật. Tài khéo léo và óc sáng tạo của con người làm thay
đổi rất nhiều các loại hình nghệ thuật phù hợp với
thẩm mỹ quần chúng lúc bấy giờ.
Nhạc cải lương
được hình thành từ trong lòng người Việt Nam cần cù và
gian khổ, lớn lên trong những thử thách đầy khó khăn nguy
hiểm mà con người đấu tranh để sinh tồn. Nhạc miền Trung
khi phát triển vào Nam bộ thì bị mất một phần đặc điểm,
chủ yếu là bị lệ thuộc vào tiết tấu sinh hoạt và ngôn
ngữ của người dân Nam bộ.
Từ khi triều đình
nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp, xã hội Nam Kỳ bị phân
hóa nhanh chóng, sự đổ vỡ có mức độ của ý thức hệ
phong kiến trong xã hội Nam Kỳ chủ yếu là do phương thức
sản xuất mang yếu tố tư bản xuất hiện, tư tưởng và
tình cảm con người đã thoát ly dần những tục tập cũ kỹ,
lỗi thời. Sự thoái trào của nền nhạc lễ để nhường
cho phong trào của ca nhạc tài tử phát triển từ trong lòng
của nó là một sự kiện rất mới.
Phong
trào dân ca được quần chúng ưa thích dần dần phát triển
trong toàn Nam bộ và trở thành phong trào ca tài tử. Số người
biết đàn biết ca ngày càng đông, nhất là ở vùng nông thôn,
với hình thức nghệ thuật đơn giản tao nhã như vậy, người
nông dân nào cũng có thể học tập được. Trong khối quần
chúng to lớn, sau này đã xuất hiện nhiều nhân tài của nghệ
thuật âm nhạc và sân khấu cải lương. Nhạc tài tử dần
dần phát triển về nội dung lẫn hình thức, tiếp thu thêm
những luồng nhạc khác như dân ca địa phương, hò, lý, nói
thơ...đồng thời có một sự cách tân trong toàn bộ nhạc
lễ: trước kia nhạc lễ chỉ là loại khí nhạc, sau khi được
cách tân thì trở thành những ca khúc tự sự với nội dung
phản ánh tinh thần của thơ ca truyền thống như: Chinh phụ
ngâm, Cung oán ngâm khúc, Kim Vân kiều, Lục Vân Tiên... Phong
trào đó phát triển từ thành thị đến nông thôn thành nhu
cầu thiết yếu của các tầng lớp, kể cả giới trí thức
trong những cuộc liên hoan, hội hè, cưới hỏi và song song
với sự phát triển đời sống vật chất, nhạc tài tử đem
đến cho họ một tình cảm mới mẻ.
Phong trào tạo thành
những trung tâm như Sài Gòn, Chợ Lớn, Cần Thơ, Bạc Liêu...
Ngoài những cố gắng sáng tạo thêm hình loại khúc thức
mới, các nhà âm nhạc còn khái quát hóa toàn bộ hệ thống
điệu thức trong nhạc truyền thống và phân chia thành các
loại hơi chủ yếu như: hơi Bắc, hơi Nam, hơi Oán, v.v..
Hơi Bắc khái quát
các điệu thức mang tính chất trong sáng, vui khỏe.
Hơi Nam khái quát
các điệu thức mang tính chất trang nghiêm và đồng thời
được phân chia thành một số hơi cụ thể như sau: hơi Xuân,
hơi Ai, hơi Ðảo.
Hơi Oán là hơi
được sáng tạo sau này, hoàn toàn thoát ly những hình thức
cấu tạo theo kiểu nhạc lễ, đó là hơi thở của cuộc sống
thời bấy giờ.
Sự phân chia thành
các loại hơi, xuất phát từ các mẫu giai điệu hoặc điệu
thức giai điệu có tác dụng lập thành các mô hình âm thanh,
và xếp loại các âm hình cơ bản (motif) được sử dụng
trong quá trình nhạc khúc. Trong thực tế đời sống hằng
ngày của nhân dân ta, chúng được cấu trúc trên nguyên tắc
tập hợp và mang những ý nghĩa cụ thể đã trở thành một
tập quán trong sự sáng tạo âm nhạc qua nhiều thời đại.
Ðể minh hoạ, dưới
đây sẽ giới thiệu một lớp Văn Thiên Tường nhan đề là
Bá Lý Hề:
Vì tình kia thân
sanh sao đắng cay
Thay thương thay
đương khi gian truân
Bâng khuâng lúc
chia tay
Thiếp yểm lụy
ngỏ cùng chàng
Vì cảnh nhà
hàn vi
Nên mới chia
ly
Khi đưa nhau
nắm tay dặn dò
Ðến lúc đắc
lộ chàng có nghĩ
Ðến chút tình
tào khang
Tay dâng chén
này hôm nay
Khuyên lương
nhân
Vững lòng rủi
dong lần bước sang
Cách núi ải
Non cao vực thẳm
ráng dò
Em lo đương
khí
Qua đèo ải
ngăn ghềnh đá chập chồng
Sớm thơ nhạn
tả mấy hàng
Cho nhãn những
điều
Ðiều ấm lạnh
dường bao
Trên đây là lời
ca diễn tả tâm trạng vợ Bá Lý Hề tiễn chồng lên đường
lập công danh. Hình thức cấu trúc của loại này, khác với
cấu trúc chân phương của nhạc lễ, chịu ảnh hưởng hình
thức thơ liên hoàn, mỗi đoạn gồm tám câu.
Về mặt nghệ thuật,
nhạc tài tử trong giai đoạn này đã đóng góp nhiều yếu
tố mới trong đời sống âm nhạc của quần chúng, được
bà con nông dân ưa mến và bảo vệ đã tiến đến một thời
kỳ rực rỡ hơn bao giờ hết, mở đầu cho sự xuất hiện
một loại hình nghệ thuật mới, đó là nghệ thuật sân khấu
cải lương. Từ một hình thức ca hát thính phòng của phong
trào nhạc tài tử, một bộ phận tách ra mang tính chất diễn
xướng (nói lối, ngâm thơ, ca hát) tức là hình thức ca ra
bộ (vừa ca vừa ra bộ). Như vậy, đứng về mặt nghiên cứu
của âm nhạc, chúng ta thấy có hai phong cách, trong phương
pháp diễn tấu nhạc cụ và ca hát, đó là phong cách tài tử
và phong cách cải lương.
Phong
cách tài tử: mang tính chất thính phòng, không đông người,
được tổ chức ở trong nhà, công viên, trên thuyền lúc đêm
trăng đi sâu vào chiều sâu của tình cảm, người đàn và
hát chủ yếu là để phục vụ người nghe.
Phong cách cải lương:
thể hiện tính sân khấu, vì trung tâm của nghệ thuật diễn
xuất là diễn xuất, các bộ môn nghệ thuật khác như âm
nhạc, giúp nó đạt đến một hiệu quả nhất định, hợp
thành toàn bộ một hình thức nghệ thuật sân khấu.
Vấn đề ca hát
hoặc diễn tấu nhạc cụ trong cải lương cũng phải mang tính
chất hành động- không như biểu diễn theo phong cách tài tử
vì đặc trưng của sân khấu cải lương là ca hát. Ca hát
tài tử và ca hát sân khấu là hai lĩnh vực khác nhau và trong
mỗi lĩnh vực đều có những nghệ sĩ tiêu biểu. Chẳng hạn,
trong ca hát sân khấu cải lương, có những ngôi sao như Phùng
Há, Ba Vân, Năm Châu... và những ca sĩ tài tử nổi tiếng
như cô Tư Sang, cô Ba Bến Tre, cô Tư Bé, Năm Nghĩa...Những
tác giả âm nhạc tài tử như ông Sáu Lầu (Cao Văn Lầu),
ông Bảy Triều, những tác giả nhạc sân khấu như các
ông Mộng Vân, Bảy Nhiêu, Tư Chơi, Sáu Hải v v... đã
đóng góp nhiều sáng tác mới phù hợp với đà phát triển
của nghệ thuật cải lương, trong đó có bài vọng cổ cho
đến bây giờ đã trở thành một chủ đề lớn về âm nhạc,
mà nhiều nghệ sĩ nhờ đấy phát huy một sức sáng tạo và
xây dựng nên sự nghiệp nghệ thuật cho bản thân mình.
Nếu như những
hạt giống đó không nảy mầm từ trong lòng dân tộc và nuôi
dưỡng của nhân dân qua nhiều thế hệ, thì nghệ thuật cải
lương không thể tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Âm nhạc cải lương
hơi nhẹ nhàng vì dùng đờn dây tơ và dây kim, không có kèn
trống như hát bội. Có sáu thứ đờn thường dùng trong điệu
cải lương như sau:
1. Ðờn kìm:
đờn Kìm cũng gọi là "Nguyệt cầm" có hai dây tơ và
tám phím. Tiếng kìm tuy không trong và thanh như tiếng Tranh
hay Lục huyền cầm, nhưng cũng có âm hưởng nhiều nên khi
hòa với cây Tranh nghe rất hay. Tùy hơi cao thấp của diễn
viên, đờn Kìm có thể đờn năm dây Hò khác nhau.
2. Ðờn Tranh:
đờn Tranh hay đờn Thập Lục có 16 dây. Tiếng đờn
Tranh được thanh tao nhờ dùng dây kim và nhấn tiếng có ngân
nhiều. Cũng như cây kìm, đờn Tranh có thể đổi bực dây
Hò tùy theo hơi cao thấp của người ca.
3. Ðờn Cò:
Cây Cò, cũng gọi là đờn Nhị, có hai dây tơ, không
có phím và dùng cây cung để kéo ra tiếng. Ðờn Cò là cây
đờn đắc dụng nhất của âm nhạc Việt Nam. Nó chẳng khác
nào cây Violon trong âm nhạc Âu Mỹ. Luôn luôn có mặt torng
hát Bội, Cải lương, nhạc Tài tử,...
4. Ðờn Sến:
Cây Sến có hai dây tơ và có đủ bậc như cây Banjo, nên đờn
ít nhấn và có nhiều chữ lợ nghe ngộ. Có khi đờn ba dây
nghe hơi như đờn Tỳ.
5. Guitare:
Cây Guitare cũng gọi Lục huyền cầm hay Tây ban cầm,
có sáu dây kim, nhưng thường đờn có năm dây. Tiếng thanh
như đờn Tranh, khi đờn bực cao.
6. Violon: Cây
Violon, cũng có tên là
Vĩ Cầm, có bốn dây tơ và cung
kéo như đờn Cò. đờnnày dùng phụ họa với cây Guitare hay
cây Tranh để đờn Vọng cổ nghe hay, nhưng ít dùng đờn các
bản khác vì tiếng nó kêu lớn làm lấn áp mấy cây đờn
kia.
7.Cây Sáo:
Cây hay ống Sáo, hoặc ống Tiêu, cũng có dùng trong điệu
Cải lương, nhưng nó có một bậc Hò, không thay đổi. Thành
thử người ta phải theo bậc Hò bất di bất dịch ấy.
8. Cây Cuỗn:
Cây Cuỗn giống như cây Kèn, nhưng không có cái Loa. |