Chim Việt Cành Nam            [  Trở Về  ]          [ Trang chủ ]
Thư tòa soạn

(Chim Việt Vành Nam số 24 ngày 15-08-2006)

Xưa nay,  lịch sử các nước rất ít khi kể chuyện đàn bà điều binh khiển tướng, cầm quân đánh giặc. Nước Pháp hai ngàn năm được một Jeanne d'Arc. Trong các nước Á Đông nặng nợ Nho giáo, với " Tam tòng Tứ Đức, Phu xướng phụ tùy ", người đàn bà hẳn chỉ còn một đường nội trợ .

Nhưng xứ ta phải chăng là một ngoại lệ ? Văn có bà Nguyễn Thị Du, vào thế kỷ XVII cải dạng nam trang thi đỗ Trạng Nguyên , Võ có Trưng Trắc, Trưng Nhị, Bà Triệu, Đô Đốc Bùi Thị Xuân... tay cờ tay kiếm. Và ngay cả về luật pháp , với luật Hồng Đức thời Lê, vai trò của người phụ nữ đã được đề cao hơn rất nhiều so với các bộ luật đương thời trong khu vực.

Bên cạnh những nhân vật được sử sách ghi lại rõ ràng điển tích, còn nhiều vị ít được biết tới, như các nữ tướng thời hai bà Trưng, cầm đầu các đạo quân, khi trấn giữ sông ngòi, biên ải, khi xung trận bộc phá ngoại xâm . Những nữ tướng này, được làng xã nhiều nơi lập miếu thờ từ những ngày xa xưa, được vua chúa các triều đại, từ Đinh , Tiền Lê, Trần, Hậu Lê cho đến triều Nguyễn sắc phong, đề thơ truy tặng.

Dựa vào tư liệu lịch sử và truyền thuyết dân gian, Nguyễn Khắc Xương , qua thể truyện Dã Sử kể lại cuộc đời của 20 Nữ tướng thời Trưng Vương. 
Khởi đầu, ta xem chuyện 4 nữ tướng : 1 - Thánh Thiên Nữ Tướng  / 2 - Lê Chân Tướng Quân Miền Biển  / 3 - Bát Nạn Đại Tướng  / 4 - Nàng Nội, Tướng vùng Bạch Hạc
Những nhân vật lịch sử này chắc chắn có thật, dù đời sau, dân gian hẳn có thêm hoa thêm nét theo trí tưởng tượng, theo những hoài bão ước mơ của mình. 

Ngẫm cho cùng, dù dữ kiện lịch sử , hay ước mơ , huyền thoại, hay niềm tự hào về quá khứ oai hùng của dân tộc, tất cả đều là sự thực. 
Vì ước mơ, huyền thoại, niềm tự hào  là những tâm tư thực có nơi con người Việt Nam, do chính lịch sử dân tộc Việt tạo thành. 
Và ngược lại, chính những tâm tư này cũng góp phần đôn đốc, xây dựng nên lịch sử đó.


***
Mời bạn vào chơi vườn Chim Việt, nhàn du không định hướng.

Đã hơn 6 năm , " Chim Việt Cành Nam ( * ) mở ra với ý nguyện làm một nhịp cầu nho nhỏ giữa bạn đọc và  những người sáng tác mười phương... 
Có hạn về nhân lực, chúng tôi không có tham vọng làm "nghệ thuật", chỉ xin được làm người mở cổng. 
Mời bạn vào vườn, dạo bước, có hoa lá, có bướm chim, có nắng mưa nhưng hẳn cũng có gai góc sỏi đá. Mệt à ? cứ tự tại ngồi nghỉ, thõng chân duỗi tay. Thoải mái, bạn ở chơi lâu; nếu bận việc hay có hẹn cứ tự tiện ra về, ngày mai,  tuần tới, năm tới ta lại gặp nhau mà ! 
 Mong sao Chim Việt Cành Nam sẽ là không gian của mọi người, người xưa, người nay, có những đóng góp xây dựng cho vừa lòng nhau. Những tấm lòng giàu Chân-Thiện-Mỹ. " ( Lá Thư tòa soạn số 11)

Ta có thể bắt đầu với Nguyễn Dư , qua bài "Tre trúc Việt Nam" , tìm câu trả lời cho bài toán đố thật khó khăn : "trúc là tre hay khác tre ? Là... cả hai! Thế mới... điên cái đầu ! "

Rồi cùng Trần Kim Sơn xem "Đá cầu  " (Video), một trò chơi của nhiều người trong chúng ta thuở cắp sách tới trường , hay theo Trịnh Nguyên Phước lên núi đồi Việt Bắc tìm gặp những nét "duyên dáng người Bắc Hà " .

Bạn thả hồn theo "Những bài hát tôi yêu  ", là những bài tình ca đã làm rung động tâm hồn bao thế hệ, rồi hòa mình vào những vần thơ nhẹ nhàng trong sáng của Quỳnh Chi : Hoa đỗ quyên - Níu - Jigsaw puzzle - Lối cỏ - Trà sen , đượm tình quê hương của Bùi văn Bồng : Hương cau - Quê ngoại - Tây đô xanh - Tiếng đờn đêm trăng  -   Lặng thầm , thâm sâu của Vũ Tiến Lập : trú xứ  - ngậm nhấm - cơn sốt , hay những tuyệt tác của thi đàn Âu Tây được Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển ngữ  : Chờ xuân (Amy Lowell) - Người bán hoa dạo (Amy Lowell) - Gương sáng  ( William Henry Davies ).

*
Ta cũng có thể nhập bọn với  nhóm văn bút tự xưng " Ăn Tục Nói Phét". Nghe xưng danh như vậy ta không khỏi lấy làm lạ , và khi đọc các bài viết của nhóm, lại càng thấy lạ hơn, thắc mắc tự hỏi Ăn Tục Nói Phét ở chỗ nào nhỉ ? Văn, thơ , lịch sử, triết lý, phong tục Tây Ta , chữ Nho, chữ Tây ... khi nhẹ nhàng dí dỏm, khi sâu sắc bác học, nhưng "Tục" chẳng thấy mà "Phét" lại có sách, mách có chứng có cớ đàng hoàng.
Chợt nhớ lời người xưa " Ta nói vậy, không phải vậy, ấy mới là vậy " .
Có thế chứ, "Ta nói Tục, đừng hiểu là Tục, như vậy mới thấu nghĩa chữ Tục ", "Ta nói là Phét, đừng hiểu Phét theo thói quen người đời, như vậy mới thấu rõ nghĩa chữ Phét ".
Hình như đoán được thắc mắc của mọi người, Hoàng Lão Tà , một tay nửa chính nửa tà, qua hai bài - Ăn tục nói phét  và  Ăn chơi  , đã lên tiếng giãi bày tâm sự của những kẻ mang danh nói Phét.
***

Rời nhóm ATNP, ta ghé thăm Nguyên Si với chuyện Thiền.

Một câu chuyện Thiền thường chỉ là một câu chuyện gợi ý suy ngẫm. Nó chỉ gợi ý, không chỉ rõ thế nào là chân lý, và càng không phải là chân lý. Nó chỉ là "ngón tay chỉ mặt trăng", ta nương theo ngón tay tìm đến mặt trăng, đừng nhầm lẫn ngón tay là mặt trăng.

" Mỗi lần chợp mắt là gã (samourai) mơ thấy "meo". Tỉnh dậy, chung quanh gã tất cả là "meo". Chính gã cũng trở thành "meo" 
(...)
Vị thiền sư thở dài : Nếu không thắng được những tiếng "meo" kia, thì ngươi chỉ còn có một cách là tự sát ! 
(...)
Sau khi sửa soạn nghi lễ xong, gã ngồi xuống, vạch áo, hai tay cầm chiếc dao hướng vào bụng mình. Vị thiền sư đứng sau gã, giơ cao kiếm. "Bắt đầu đi !", ông ra lệnh.
Gã samourai từ từ đặt lưỡi dao vào bụng mình, mồ hôi nhỏ giọt ... "

Khi trích lại câu chuyện Những tiếng meo  và luận bàn thêm sau đó, Nguyên Si không hề muốn đưa ra một chân lý nào , mà chỉ mượn truyện để suy ngẫm và khơi duyên cho mọi người suy ngẫm luận bàn thêm.

***
Truyện ngắn Tiếng hót chim Vàng Anh  của Quỳnh Chi, mới đọc dường như là một truyện tình cảm, riêng tư, nhẹ nhàng, nhung thực ra tiềm ẩn một đề tài hết sức quan trọng cho đời sống gia đình : sự thờ ơ do thói quen đưa tới trong cuộc sống . Qua năm tháng , sống trong hạnh phúc, quen với hạnh phúc, ta quên rằng hạnh phúc lúc nào cũng cần được bảo vệ, cần được nhắc nhở, tương quan vợ chồng phải được chú tâm, ngọn lửa thuở ban đầu cần được luôn luôn khơi lại . Trong cuộc sống gia đình có hai người , không thể chỉ quy về một. Và những ai mơ chuyện " trị quốc", "bình thiên hạ " có lẽ không nên quên rằng khởi đầu , trước hết vẫn là "tề gia" . 
Một điều nhỏ riêng tư : Mong rằng sau khi đọc truyện này, các " chim Vàng Anh " đừng nhức đầu chóng mặt ...

Võ Quang Yến qua bài  : Việt Nam Hôm Qua và Hôm nay tường thuật lại một số sinh hoạt văn hóa tại Pháp trong tháng 4 và tháng 5 :  Từ 24 đến 29 tháng 4 năm 2006, Nhà hát Châtelet ở Paris đã tổ chức một tuần lễ nhạc kịch Việt nam tựa đề Vietnam d'hier et d'aujourd'hui (Việt Nam hôm qua và hôm nay) trong chương trình Moments Musicaux (Khoảng nhạc) - Mémoire d'enfants  (Ký ức thời trẻ). Vì được trình bày nhiều lần, cuộc trình diễn của nhà Hát Chèo Việt Nam có thể xem là tiết mục chính của tuần lễ văn hóa nầy. Một đoàn Chầu văn cũng được đưa qua trình diễn chiều hôm chủ nhật 14.05 ở Nhà Radio France. 

Kiến thiết quốc gia
Giúp đồng bào ta
Xây đắp muôn người
Được nên cửa nhà ...
Tất cả những ai sống tại miền Nam trong những năm 50-70 đều quen thuộc với mấy câu hát kêu gọi mua vé sổ số này . Tác giả là "Quái kiệt" Trần Văn Trạch, một nhạc sĩ với những bài hát thuộc một " thể loại đặc biệt ", đùa giỡn, châm chọc, với một lối phát âm đặc xệt miền Nam, lời lẽ đơn giản, câu chữ thường dùng trong đời sống hàng ngày, bám xát vào đời sống người " bình dân ". Nhạc sĩ Trần Quang Hải nhắc lại cuộc đời  của chú mình qua bài :  Trần Văn Trạch , nhạc sĩ hài hước của làng tân nhạc Việt Nam (1924-1994) 

" Nói đến "ăn chay" thông thường người ta liên tưởng đến Phật giáo. Thật ra ý niệm ăn chay với người Tây phương, như tại đây tôi ám chỉ người Mỹ, những bạn bè mà tôi đã tiêp xúc, họ ăn kiêng cho sức khỏe,... "  Bài Ăn Uống Vì Sức Khỏe  , Việt Hải đã viết vào đầu xuân, vào dịp Tết. Xuân, hạ đã qua, nay bước vào thu, nhưng vấn đề Ăn uống vì sức khoẻ nào phải đã quá thời ?

" Cái húc đầu " của cầu thủ Zidane trong trận đấu giải về bóng đá vừa qua đã khiến cả thế giới xôn xao, truyền ra cả đến ngoài giới hâm mộ thể thao . Phê phán hay "thông cảm" Zidane ?  Zidane phải có thái độ nào khi bị khiêu khích ? cuộc tranh cãi đôi khi trở nên khá gay gắt.
Xuân Sương lùi một bước để ngắm nhìn vấn đề với con mắt phóng khoáng bình thản hơn : "Mỗi con người là một vũ trụ riêng biệt, có khi nói bằng lời hay bằng chữ mà cũng có thể còn hiểu lầm nhau..."

 .Võ Kỳ Điền ghi lại : Vài kỷ niệm với điêu khắc gia Lê Thành Nhơn  và Bích Phượng , qua những  bài thơ cổ và những vần thơ trao đổi giữa thi hữu gợi lại phong cảnh hữu tình của Non nước Hàng Châu

***

Cũng như mọi khi, khu vườn Nhật luôn luôn rực rõ, muôn hoa đua sắc. Lần này ta sẽ tiếp kiến bốn tác giả quen thuộc: DDTM, Phạm Vũ Thịnh, Cung Điền và Nguyễn Nam Trân.

DTTM giới thiệu  Kawabata Yasunari qua hai truyện ngắn  : Mắt mẹ  - Tấm ảnh

Với Phạm Vũ Thịnh  Dazai Osamu - Tiểu thuyết gia hiện đại Nhật Bản   là 
"tiếng nói văn học Nhật Bản tiêu biểu của thời kỳ vừa chấm dứt Thế Chiến thứ hai .
(...)
Tác phẩm của Dazai hàm chứa một nỗi bi quan sâu đậm, điều không có gì lạ ở một người đã nhiều lần muốn tự chấm dứt đời mình. Các nhân vật tiểu thuyết của ông cũng quan niệm chuyện tự tử như phương cách duy nhất có thể thay thế cho đời sống địa ngục của họ, nhưng lại thường thất bại trong chuyện tự tử, chính vì tâm lý khinh bạc đối với đời sống, coi chuyện sống hay chết chẳng là điều gì hệ trọng. ". - Xe lửa (Dazai Osamu) - Phong cảnh hoàng kim (Dazai Osamu)
Cung Điền : Đồi Khỉ ( Dazai Osamu )

 Phạm Vũ Thịnh lại gửi tặng thêm một bái hát Nhật được dịch qua Việt ngữ : Thu Vắng  (Nhạc và lời Nhật / PVT dịch) 

Nguyễn Nam Trân tiếp tục giới thiệu "Văn học sử Nhật Bản". Mỗi bài viết, tự nó rất súc tích, chính xác, không dễ gì tóm thâu ý trong hai ba câu. 
Có ăn mật mới biết vị ngọt của mật , mời bạn nếm vị mật của các bài Văn học sử Nhật Bản, lần này với ba đề tài : Lịch sử Haiku Ba Trăm Năm Tiểu Thuyết EDO : Khi Văn Học Thị Dân Khai Hoa Kết Trái  -  Vượt QuaThời Hậu Chiến 

Kể từ số trước, Chim Việt Cành Nam, theo lời khuyên của độc giả đã mờ phần cổ văn. 
Trong mục thơ cổ, xin giới thiệu ba bài thơ cổ, Hành dịch đăng gia sơn (Phạm Sư Mạnh) do Phạm Sư Mạnh đời Trần viết ( "Triều nhà Trần năm thứ 144, tháng 9, ngày 5, chức Nhập nội Hữu nạp ngôn là HiệpThạch Phạm Sư Mạnh vâng lệnh nhà vua đi tuyển duyệt binh lính năm lộ, lên núi Thạch Môn, làm bài thơ này. Dương Nham Phạm Sư Mạnh viết. " Bài thơ này vốn không có đầu bài. Hiện còn bản khắc đá trên vách hang núi Kính Chủ  thuộc xã Phạm Mệnh, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương ngày nay. ) và hai bài kia không rõ tác giả :  - Du Phật Tích sơn Ngẫu đề Ðề Báo Thiên Pháp

Một số bài thơ cổ Trung Quốc được Quỳnh Chi phóng dịch : Bạch Cư Dị : Thái liên khúc  Lý Bạch  : Thái liên khúc nhị thủ  Lý Thương Ẩn : Thường Nga  - Vô đề   1  -   Vô đề 2  Mạnh Hạo Nhiên : Hạ nhật nam đình hoài tân đại  Tiết Đào : Tống hữu nhân  Vương Xương Linh : Thái liên khúc

***

. Nguyễn Văn Lục :  Việc gả chồng cho các công chúa triều Nguyễn

"Trong nhân gian lấy nhau thời xưa cũng đã phức tạp rồi. Có đến 6 cái lễ chính : từ Nạp Thái, Vấn sanh, Nạp cát, Nạp lệ, Thỉnh kỳ rồi cuối cùng là Nghinh hôn. Cứ nhân cái phức tạp này lên bốn năm lần may ra hiểu được cái phức tạp của việc gả chồng cho các công chúa. Nhưng nếu có điều gì dễ dàng thì chỉ có một điều : Các công  chúa bảo đảm là có chồng, không người này thì người khác. "

. Nguyễn Thị Chân Quỳnh : Đông Cung Nhựt Trình  ( hay câu chuyện Hoàng Tử Cảnh và hậu duệ ) : " Cho tới nay, phần đông chúng ta chỉ biết Hoàng tử Cảnh sang Pháp rồi về nước, chết vì bệnh đậu mùa, nhưng không mấy người rõ chết năm bao nhiêu tuổi, đã làm nên sự nghiệp gì, Hoàng tử là con người như thế nào vv. ? Đến đầu thế kỷ này mới lại thấy nhắc đến đích tự tôn của Hoàng tử là Kỳ Ngoại Hầu Cường Để do Phan Bội Châu tôn làm Minh chủViệt-Nam Quang Phục Hội." 

. Lê Văn Hảo : Việt Nam Văn Hiến Ngàn Năm (tiếp theo)
 Chúng ta đã cùng Lê Văn Hảo,  đi thăm  các đại vùng và vùng văn hóa của dân tộc (xem "Việt Nam nước non ngàn dặm " ).
 Bây giờ hãy vượt thời gian đi từ thuở các vua Hùng, vua Thục, vua Trưng tới ngày nay .
Lần này , xin mời bạn đọc : 
4. Thời Trần (1225-1400) - hay 175 năm tiếp tục phát triển văn hóa Thăng Long
5. Thời Hồ (1400-1407) - hay 7 năm ngắn ngủi mà độc đáo của văn hóa Tây Đô 
6. Thời Lê sơ ( 1428-1527) hay 100 năm phong phú và ưu việt của văn hóa Đông Đô
 

. Nguyễn Phú Phong : Đi tìm (cái ) tôi
" ... chúng tôi đã cố gắng trình bày những giai đoạn phái sinh các từ tôi, từ một danh từ với nghĩa là tôi tớ, qua đại danh từ tôi chỉ ngôi 1, số ít, khiêm nhường, đến danh từ (cái) tôi chỉ bản ngã. Kết toán là trong ba ngôn ngữ Trung Quốc, Pháp và Việt, danh từ chỉ bản ngã và đại danh từ ngôi 1 là một và như vậy hai khái niệm có quan hệ rất mật thiết với nhau. 
     Tưởng như vậy là có thể xếp lại một bài biên khảo khá đầy đủ về từ tôi thì tai chợt nghe văng vẳng tiếng hát của Lệ Thu : 
     Tôi ơi ! đừng tuyệt vọng  "

. Nguyễn Thị Chân Quỳnh :  Khoa Cử Việt Nam ( tập thượng ) :Thi  Hương 
"- Năm 1989, tôi hoàn thành cuốn Khoa cử đầu tiên, loại phổ thông và song ngữ (Việt-Pháp) ý muốn dành cho cả người Việt lẫn người am hiểu tiếng Pháp đều đọc được. Vì không có thì giờ tìm nhà xuất bản, tôi xếp sách vào ngăn kéo 
(...)
Khoảng 1997, khi thấy đã có khá nhiều tranh ảnh và tài liệu tôi quyết định sửa lại cuốn sách đã hoàn thành năm 1989, đi sâu vào chi tiết hơn. Lúc đầu tôi tưởng chỉ cần điền thêm những sử liệu đã thu thập được bấy lâu nay là xong. Sự thật, điền thêm thì không khó, nhưng điền xong đọc lại mới thấy lủng củng, rời rạc, giống như cái áo vá. Tôi phải ngồi viết lại từ đầu, song những sách đã đọc từ hơn mười năm trước nay quên gần hết, phải đọc lại ! 
Vì có quá nhiều tài liệu, tôi bỏ phần Pháp ngữ. Không ngờ, dù đã thanh lọc bớt tài liệu và bỏ phần Pháp ngữ, tôi vẫn phải san sách thành hai quyển : 
Tập Thượng dành cho thời kỳ "Dùi mài kinh sử" và "Thi Hương"
Tập Hạ gồm "Thi Hội, Thi Ðình" và "Phụ lục". 
Tập Thượng nay vừa xong và tôi nhận thấy có một điểm khó tránh : Sách chia ra nhiều chương mục nên không khỏi có những điều phải chép đi chép lại. Thí dụ vấn đề canh phòng nghiêm mật liên quan đến các chương viết về thí sinh, về Khảo quan và về trường thi. "

. Đào Đức Chương : Trường thi Bình Định

***

Chim Việt Cành Nam (*)
-------------------
(*)1 - Chim Việt Cành Nam, lấy từ chuyện Chim Trĩ , do vua Việt ở phương Nam tân cống cho vua nhà Chu (Chu Thành Vương). Chim chọn cành phía Nam để làm ổ . "Việt điểu sào nam chi" (Sào là làm tổ chim)  , ý nói nhớ quê hương phía Nam. 
2 - Ngựa Hồ hí gió Bấc , là chuyện ngựa của rợ Hồ (Mông Cổ) dâng cho vua Hán Vũ Đế , khi gió Bấc thổi, thì hí lên "Hồ mã tê bắc phong", ý nói nhớ quê, phương bắc.

Trở Về  ]