III. Essays [go up]

Buddha [go up]

The Meaning of the Buddha's Awakening [go up]


III. Tiểu Luận [go up]

Đức Phật [go up]

Y' nghĩa sự Gi�c Ngộ của Đức Phật [go up]

The two crucial aspects of the Buddha's Awakening are the what and the how: what he awakened to and how he did it. His Awakening is special in that the two aspects come together. He awakened to the fact that there is an undying happiness, and that it can be attained through human effort. The human effort involved in this process ultimately focuses on the question of understanding the nature of human effort itself — in terms of skillful kamma and dependent co-arising — what its powers and limitations are, and what kind of right effort (i.e., the Noble Path) can take one beyond its limitations and bring one to the threshold of the Deathless.

Hai kh�a cạnh thiết yếu của Gi�c ngộ l� C�i g� v� thế n�o: ng�i đ� gi�c ngộ được c�i g� v� l�m thế n�o để l�m được điều đ�. Điểm đặc biệt của sự gi�c ngộ của ng�i l� hai kh�a cạnh đ� c�ng đến với nhau. Ng�i ngộ rằng c� một hạnh ph�c kh�ng bao giờ t�n phai, v� c� thể đạt được qua nỗ lực của con người. Nỗ lực của con người li�n quan đến qu� tr�nh n�y cuối c�ng tập trung v�o vấn đề hiểu bản chất của ch�nh nỗ lực của con người � về phương diện nghiệp thiện v� duy�n sinh � năng lực v� hạn chế của ch�ng l� g�, v� nỗ lực đ�ng đắn n�o (tức l� ch�nh tinh tấn thuộc B�t ch�nh đạo) l�m cho con người c� thể vượt qua những hạn chế của n� v� đưa người ta đến ngưỡng Bất tử.

As the Buddha described the Awakening experience in one of his discourses, first there is the knowledge of the regularity of the Dhamma — which in this context means dependent co-arising — then there is the knowledge of nibbana. In other passages, he describes the three stages that led to insight into dependent co-arising: knowledge of his own previous lifetimes, knowledge of the passing away and rebirth of all living beings, and finally insight into the four Noble Truths. The first two forms of knowledge were not new with the Buddha. They have been reported by other seers throughout history, although the Buddha's insight into the second knowledge had a special twist: He saw that beings are reborn according to the ethical quality of their thoughts, words, and deeds, and that this quality is essentially a factor of the mind. The quality of one's views and intentions determines the experienced result of one's actions.

Khi Phật m� tả kinh nghiệm Gi�c Ngộ trong một trong những b�i giảng của ng�i, trước ti�n l� c� sự hiểu biết về t�nh chất thường trực của Dhamma (Ph�p) � m� trong văn cảnh n�y c� nghĩa l� duy�n sinh � kế đến l� c� sự hiểu biết về niết-b�n. Trong những đọan kh�c, ng�i m� tả ba giai đọan dẫn đến trực kiến duy�n sinh: biết được tiền kiếp, biết được tử v� t�i sinh của tất cả ch�ng sinh, v� cuối c�ng trực kiến Tứ Diệu Đế. Hai dạng hiểu biết đầu ti�n kh�ng c� g� mới đối với Phật. Ch�ng đ� được c�c nh� ph�t hiện kh�c đề cập đến trong suốt lịch sử, d� rằng trực kiến thứ hai của Ph�t c� bước ngoặt mới: Ng�i thấy rằng ch�ng sinh được t�i sinh t�y theo phẩm chất của tư tưởng, lời n�i v� việc l�m, v� h�nh vi, v� rằng phẩm chất n�y tất yếu l� một yếu tố của t�m. Phẩm chất của c�c quan điểm v� � định của con người quyết định kết quả được thể nghiệm của c�c h�nh động của người ấy.

This insight had a double impact on his mind. On the one hand, it made him realize the futility of the round of rebirth — that even the best efforts aimed at winning pleasure and fulfillment within the round could have only temporary effects. On the other hand, his realization of the importance of the mind in determining the round is what led him to focus directly on his own mind in the present to see how the processes in the mind that kept the round going could be disbanded. This was how he gained insight into the four noble truths and dependent co-arising — seeing how the aggregates that made up his "person" were also the impelling factors in the experience of the world at large, and how the whole show could be brought to cessation. With its cessation, there remained the experience of the unconditioned, which he also termed nibbana (Unbinding), consciousness without surface or feature, the Deathless.

Trực kiến n�y c� ảnh hưởng k�p l�n t�m tr� của ng�i. Một mặt n� cho thấy sự v� nghĩa của v�ng t�i sinh � m� ngay cả những nỗ lực tốt nhất nhằm đạt được những lạc th� v� th�nh đạt trong v�ng ấy cũng chỉ c� hiệu quả tạm thời. Mặt kh�c, ng�i nhận ra tầm quan trọng của t�m trong việc quyết định v�ng t�i sinh l� điều khiến cho ng�i tập trung trực tiếp v�o t�m của m�nh trong hiện tại để xem xem l�m thế n�o m� c�c qu� tr�nh trong t�m l�m cho v�ng t�i sinh tiếp tục vận h�nh c� thể bị ph� vỡ. Đ� l� c�ch m� ng�i c� được trực kiến v�o tứ diệu đế v� duy�n sinh � thấy được c�ch m� c�c uẩn được tạo lập n�n �c� nh�n� ng�i cũng l� c�c yếu tố động lực trong kinh nghiệm của thế giới n�i chung, v� l�m thế n�o m� t�an bộ diễn biến ấy đi đến kết th�c. Với sự kết th�c ấy, vẫn c�n kinh nghiệm của c�i v� điều kiện, kh�ng bị r�ng buộc, m� gọi đ� l� niết b�n (Kh�ng r�ng buộc), � thức kh�ng biểu lộ, Bất tử

When we address the question of how other "enlightenment" experiences recorded in world history relate to the Buddha's, we have to keep in mind the Buddha's own dictum: First there is the knowledge of dependent co-arising, then there is the knowledge of nibbana. Without the first — which includes not only an understanding of kamma, but also of how kamma leads to the understanding itself — no realization, no matter how calm or boundless, that doesn't result from these sorts of understanding can count as an Awakening in the Buddhist sense. True Awakening necessarily involves both ethics and insight into causality.

Khi ch�ng ta đề cập đến vấn đề c�c kinh nghiệm �ngộ� kh�c được ghi lại trong lịch sử li�n quan đến kinh nghiệm của Phật, ch�ng ta n�n ghi nhớ c�u n�i của ng�i: Trước hết c� sự hiểu biết về duy�n sinh, kế đến c� sự hiểu biết về niết b�n. Kh�ng c� điều thứ nhất � bao gồm kh�ng những sự hiểu biết về nghiệp, m� c�n l�m thế n�o m� nghiệp đưa đến sự hiểu biết ch�nh n� � kh�ng c� sự nhận thức, d� tịch tĩnh v� v� bi�n đến đ�u, m� kh�ng phải l� kết quả của những lọai hiểu biết n�y th� kh�ng thể coi l� Gi�c Ngộ theo � nghĩa cuả Đức Phật. Sự Gi�c Ngộ ch�n thật nhất thiết phải li�n quan đến đạo đức v� trực kiến nh�n quả.

As for what the Buddha's Awakening means for us now, four points stand out.

1) The role that kamma plays in the Awakening is empowering. It means that what each of us does, says, and thinks does matter — this, in opposition to the sense of futility that can come from reading, say, world history, geology, or astronomy and realizing the fleeting nature of the entire human enterprise. The Awakening lets us see that the choices we make in each moment of our lives have consequences. The fact that we are empowered also means that we are responsible for our experiences. We are not strangers in a strange land. We have formed and are continuing to form the world we experience.This helps us to face the events we encounter in life with greater equanimity, for we know that we had a hand in creating them, and yet at the same time we can avoid any debilitating sense of guilt because with each new choice we can always make a fresh start.


Về vấn đề Gi�c Ngộ của Bồ-t�t c� � nghĩa g� với ch�ng ta ng�y ngay, c� bốn điểm lưu �.
1) Vai tr� của nghiệp trong sự Gi�c Ngộ được tăng cường. C� nghĩa l� bất cứ điều g� ch�ng ta l�m, n�i v� suy nghĩ thật sự quan trọng � điều n�y, tr�i với � thức về sự v� bổ c� thể c� từ việc đọc, v� dụ như, lịch sử thế giới, địa chất học, hoặc thi�n văn học v� nhận ra bản chất ph� du của t�an bộ nỗ lực của nh�n lọai. Gi�c Ngộ l�m cho ta thấy được rằng những lựa chọn m� ta thực hiện trong mổi khỏanh khắc của đời sống của ch�ng ta đều c� hậu quả. Sự thể l� ch�ng ta được giao quyền cũng c� nghĩa l� ch�ng ta nhận lấy tr�ch nhiệm về những kinh nghiệm của ch�ng ta. Ch�ng ta kh�ng phải l� người xa lạ tr�n đất kh�ch. Ch�ng ta đ� khu�n đ�c v� tiếp tục khu�n đ�c thế giới m� ch�ng ta trải nghiệm. Điều n�y gi�p ch�ng ta đối diện với c�c sự kiện m� ch�ng gặp trong đời với sự trầm tĩnh cao hơn, v� ch�ng ta biết rằng ch�ng ta c� g�p phần s�ng tạo ch�ng, v� do vậy đồng thời ch�ng ta c� thể tr�nh được bất cứ � thức tội lỗi kh�ng chịu nỗi n�o bởi v� với mỗi sự lựa chọn mới n�o ch�ng đều lu�n c� thể thực hiện một khởi đầu mới tinh kh�i.

2) The Awakening also tells us that good and bad are not mere social conventions, but are built into the mechanics of how the world is constructed. We may be free to design our lives, but we are not free to change the underlying rules that determine what good and bad actions are, and how the process of kamma works itself out. Thus cultural relativism — even though it may have paved the way for many of us to leave our earlier religious orientations and enter the Buddhist fold — has no place once we are within that fold. There are certain ways of acting that are inherently unskillful, and we are fools if we insist on our right to behave in those ways.

2) Sự Gi�c Ngộ cũng bảo cho ta biết rằng tốt v� xấu kh�ng thuần l� những qui ước x� hội m� được x�y dựng th�nh cơ chế về c�ch m� thế giới được kiến tạo. Ch�ng ta c� thể tự do thiết kế đời sống ch�ng ta, nhưng ch�ng ta kh�ng c� tự do thay đổi c�c qui luật nền tảng quyết định c�i g� l� h�nh động tốt, v� h�nh động xấu, v� c�ch m� qu� tr�nh của nghiệp tự vận h�nh. Do vậy thuyết ch�n l� tương đối về văn h�a � d� rằng n� mở đường cho nhiều người trong ch�ng ta rời bỏ định hướng t�n gi�o trước kia của ch�ng ta v� bước v�o lĩnh vực của đạo Phật � kh�ng c� chỗ đứng một khi ch�ng ta ở trong lĩnh vực cuả đạo Phật. C� những c�ch h�nh động nhất định m� tự th�n ch�ng l� dại dột, v� ch�ng l� thật l� người h�a rồ nếu như ch�ng ta khư khư đ�i quyền ứng xử theo những c�ch đ�.

3) As the Buddha says at one point in describing his Awakening, "Ignorance was destroyed; knowledge arose; darkness was destroyed; light arose — as happens in one who is heedful, ardent, and resolute." In other words, he gained liberating knowledge through qualities that we can all develop: heedfulness, ardency, resolution. If we are willing to face the implications of this fact, we realize that the Buddha's Awakening is a challenge to our entire set of values. The fact that the Unconditioned can be attained forces us to re-evaluate any other goals we may set for ourselves, any worlds we may want to create, in our lives. On an obvious level, it points out the spiritual poverty of a life devoted to wealth, status, or sensual pursuits; but it also forces us to take a hard look at other more "worthwhile" goals that our culture and its sub-cultures tend to exalt, such as social acceptance, meaningful relationships, stewardship of the planet, etc. These, too, will inevitably lead to suffering. The interdependence of all things cannot be, for any truly sensitive mind, a source of security or comfort. If the Unconditioned is available, and it's the only trustworthy happiness around, the most sensible course is to invest our efforts and whatever mental and spiritual resources we have in its direction.

3) Khi Đức Phật n�i v�o một l�c n�o đ� m� tả sự Gi�c Ngộ của ng�i �V� minh bị ti�u diệt; tri kiến trỗi dậy; b�ng tối bị hủy diệt; �nh s�ng bừng l�n � như xảy ra trong một người ch� t�m ki�n định, tinh tấn v� ki�n quyết.� N�i c�ch kh�c, ng�i đ� đạt được tri kiến giải th�at qua c�c phẩm hạnh m� tất cả ch�ng ta c� thể ph�t triển l� ch� t�m ki�n định, nỗ lực tinh tấn, v� ki�n quyết. Nếu ch�ng ta muốn đối mặt với những ẩn � của sự kiện n�y, ch�ng ta nhận thấy rằng sự Gi�c Ngộ của Đức Phật l� một th�ch thức với t�an bộ gi� trị của ch�ng ta. Sự kiện l� Trạng th�i Kh�ng bị Qui định c� thể đạt được buộc ch�ng ta phải t�i thẩm định bất cứ mục ti�u n�o m� ch�ng c� thể tự đề ra cho ch�ng ta, bất cứ thế giới n�o m� ch�ng ta muốn tạo ra, trong cuộc sống của ch�ng ta. Ở một m�c độ r� r�ng, n� chỉ ra sự ngh�o n�n về tinh thần của một cuộc sống chỉ chăm chăm cho gi�u c�, đia vị hoặc theo đuổi th� vui vật chất; nhưng n� cũng buộc ch�ng ta phải nghi�m khắc xem lại c�c mục ti�u �xứng đ�ng� m� nền văn h�a v� c�c tiểu văn h�a của n� muốn ca ngợi, như l� sự chấp nhận x� hội, c�c mối quan hệ đầy � nghĩa, bảo vệ h�nh tinh, v.v. Những điều n�y nữa, r� r�ng sẽ dẫn đến khổ. Sự li�n đới t�y thuộc của mọi sự vật kh�ng thể l�, đối với bất kỳ một đầu �c nhạy cảm ch�n thật n�o, l� nguồn bảo an hoặc y�n l�nh. Nếu T�nh trạng Kh�ng bị Qui định sẵn c�, v� n� l� hạnh ph�c đ�ng tinh cậy duy nhất sẵn c�, th� con đường nhạy cảm nhất l� đầu tư nỗ lực của ch�ng ta v� bất cứ nguồn lực t�m linh thần thần n�o ch�ng ta c� v�o hướng ấy.

 

4) Even for those who are not ready to make that kind of investment, the Awakening assures us that happiness comes from developing qualities within ourselves that we can be proud of, such as kindness, sensitivity, equanimity, mindfulness, conviction, determination, and discernment. Again, this is a very different message from the one we pick up from the world telling us that in order to gain happiness we have to develop qualities we can't take any genuine pride in: aggressiveness, self-aggrandizement, dishonesty, etc. Just this much can give an entirely new orientation to our lives and our ideas of what is worthwhile investment of our time and efforts.

4) Ngay cả những ai chưa sẵn s�ng thực hiện một lọai đầu tư như vậy, Ngộ cũng bảo đảm với ch�ng ta rằng hạnh ph�c đến từ sự ph�t triển c�c phẩm chất trong ch�nh ch�ng ta m� ch�ng ta c� thể tự h�o, như l� l�ng tử tế, nhạy cảm trầm tĩnh, ch� t�m, x�c t�n, quyết t�m v� sự ph�n đ�an ch�nh x�c. Lại nữa, đ�y l� một th�ng điệp rất kh�c biệt với th�ng điệp m� ch�ng ta t�m được từ thế giới bảo cho ch�ng ta rằng để đạt được hạnh ph�c ch�ng ta phải ph�t triển những phẩm chất trong ch�nh m� ch�ng ta c� thể tự h�o như l� sự tốt bụng, nhạy cảm, trầm tĩnh, ch� t�m, tin tưởng, quyết định, v� nhận định s�ng suốt. Một lần nữa đ�y l� một th�ng điệp rất kh�c từ một người m� ch�ng ta nhặt từ thế giới bảo ta rằng để c� được hạnh ph�c ch�ng ta phải ph�t triển những phẩm chất m� ch�ng ta kh�ng thể n�o c� l�ng tự h�o ch�n thực trong đ�: tự cao, tự đại, bất ch�nh, v.v. Chỉ bấy nhi�u đấy th�i c� thể đem lại một định hướng h�an t�an mới cho cuộc sống của ch�ng ta v� tư tưởng của ch�ng ta về những g� đ�ng đầu tư thời gian v� c�ng sức.

The news of the Buddha's Awakening sets the standards for judging the culture we were brought up in, and not the other way around. This is not a question of choosing Asian culture over American. The Buddha's Awakening challenged many of the presuppositions of Indian culture in his day; and even in so-called Buddhist countries, the true practice of the Buddha's teachings is always counter-cultural. It's a question of evaluating our normal concerns — conditioned by time, space, and the limitations of aging, illness, and death — against the possibility of a timeless, spaceless, limitless happiness. All cultures are tied up in the limited, conditioned side of things, while the Buddha's Awakening points beyond all cultures. It offers the challenge of the Deathless that his contemporaries found liberating and that we, if we are willing to accept the challenge, may find liberating ourselves.

Tin về Sự Gi�c Ngộ của Đức Phật đ� đề ra những ti�u chuẩn thẩm định về văn h�a m� ch�ng ta lớn l�n trong đ�, v� kh�ng phải nền văn h�a n�o kh�c. Đ�y kh�ng phải l� vấn đề chọn nền văn h�a � Ch�u hay Ch�u Mỹ. Sự Gi�c Ngộ của Đức Phật th�ch thức nhiều đức tin của nền văn h�a Ấn độ trong thời của ng�i v� ngay cả trong c�c quốc gia gọi l� Phật gi�o, sự thực h�nh ch�n ch�nh gi�o l� của Đức Phật lu�n lu�n phản-văn-h�a. N� l� vấn đề đ�nh gi� những mối quan t�m th�ng thường của ch�ng ta - bị qui định bởi thời gian, kh�ng gian v� những giới hạn của l�o, bệnh v� tử - đối với khả năng của hạnh ph�c vượt thời gian, kh�ng gian v� v� hạn. Tất cả c�c nền văn h�a đều bị cột chặt v�o mặt giới hạn v� bị qui định của sự vật, trong khi Gi�c Ngộ của Đức Phật chỉ hướng vượt l�n tất cả c�c nền văn h�a. N� đem lại sự th�ch thức với Bất-tử m� những người đồng thời với ng�i t�m thấy giải th�at v� rằng ch�ng ta, nếu ch�ng ta muốn chấp nhận th�ch thức, c� thể t�m thấy giải th�at cho ch�nh ch�ng ta.

Dhamma [go up]

Life Isn't Just Suffering [go up]

You've probably heard the rumor that Buddhism is pessimistic, that "Life is suffering" is the Buddha's first noble truth. It's a rumor with good credentials, spread by well-respected academics and meditation teachers alike, but a rumor nonetheless. The real truth about the noble truths is far more interesting. The Buddha taught four truths — not one — about life: There is suffering, there is a cause for suffering, there is an end of suffering, and there is a path of practice that puts an end to suffering. These truths, taken as a whole, are far from pessimistic. They're a practical, problem-solving approach — the way a doctor approaches an illness, or a mechanic a faulty engine. You identify a problem and look for its cause. You then put an end to the problem by eliminating the cause.

Ph�p [go up]

Cuộc đời kh�ng phải chỉ l� sự đau khổ [go up]

Bạn hẳn l� c� nghe lời đồn đại rằng đạo Phật l� bi quan, rằng � Đời l� khổ� l� ch�n l� cao cả thứ nhất của Phật. Đ� l� sự đồn đại đ�ng tin cậy, được lan truyền bởi những nh� h�n l�m đ�ng k�nh cũng như c�c bậc thầy về thiền, nhưng l� một lời đồn đ�an v� gi� trị. Sự thực ch�n thật về c�c ch�n l� cao cả (Tứ Diệu Đế) th� vị hơn nhiều. Đức Phật dạy Tứ Diệu Đế - kh�ng phải một � về cuộc đời: C� khổ, c� nguy�n nh�n của khổ, c� sự chấm dứt khổ v� c� con đường thực h�nh để chấm dứt khổ. Những ch�n l� n�y x�t về t�an thể kh�ng hề gần gũi với sự bi quan. Ch�ng l� phương ph�p giải quyết vấn đề rất khoa học, thực tiễn � c�ch m� một b�c sĩ tiếp cận một căn bệnh hoặc của một thợ cơ kh� đối với một c�i m�y hư. Bạn x�c định vấn đề v� t�m nguy�n nh�n của n�. Rồi bạn giải quyết vấn đề bằng c�ch lọai trừ nguy�n nh�n.

What's special about the Buddha's approach is that the problem he attacks is the whole of human suffering, and the solution he offers is something human beings can do for themselves. Just as a doctor with a surefire cure for measles isn't afraid of measles, the Buddha isn't afraid of any aspect of human suffering. And, having experienced a happiness that's totally unconditional, he's not afraid to point out the suffering and stress inherent in places where most of us would rather not see it — in the conditioned pleasures we cling to. He teaches us not to deny that suffering and stress, or to run away from it, but to stand still and face up to it. To examine it carefully. That way — by understanding it — we can ferret out its cause and put an end to it. Totally. How confident can you get?

Điều đặc biệt của phương ph�p của Đức Phật l� vấn đề m� ng�i phải giải quyết l� t�an bộ nỗi khổ của nh�n lọai, v� giải ph�p m� ng�i đưa ra l� c�i m� con người c� thể tự l�m cho m�nh. V� một khi đ� trải nghiệm một hạnh ph�c h�an h�an kh�ng bị qui định, r�ng buộc, con người kh�ng ngần ngại chỉ ra c�i khổ v� sự phiền n�o tiềm ẩn ở những nơi m� con người kh�ng th�ch nh�n thấy n� � trong những hoan lạc buộc r�ng m� ch�ng ta b�m v�u v�o. Ng�i dạy ch�ng ta kh�ng phủ nhận sự khổ v� sự phiền n�o, hoặc trốn chạy n�, nhưng đứng y�n v� đối mặt với n�. Xem x�t n� một c�ch cẩn thận. Bằng c�ch đ� � bằng c�ch hiểu n� � ch�ng ta c� thể t�m ra nguy�n nh�n của n� v� chấm dứt n�. Một c�ch triệt để. L�m c�ch n�o bạn c� thể tự tin?

A fair number of writers have pointed out the basic confidence inherent in the four noble truths, and yet the rumor of Buddhism's pessimism persists. I wonder why. One possible explanation is that, in coming to Buddhism, we sub-consciously expect it to address issues that have a long history in our own culture. By starting out with suffering as his first truth, the Buddha seems to be offering his position on a question with a long history in the West: is the world basically good or bad?

Một số kh� nhiều c�c t�c giả đ� chỉ ra sự tự tin căn bản nội tại trong Tứ Diệu Đế, v� tuy vậy việc đồn đại về sự bi quan của Phật gi�o vẫn tồn tại. T�i kh�ng hiểu tại sao. Một giải th�ch khả dĩ l� như thế n�y, khi đến với đạo Phật, trong tiềm thức của ta ta mong n� giải quyết những vấn đề tồn tại l�u đời trong nền văn h�a của ch�ng ta. Bằng c�ch khởi đầu với khổ như l� Ch�n Đế thứ nhất, Đức Phật dường như đang đưa ra quan điểm của m�nh về một vấn đề c� lịch sử l�u d�i ở phương T�y: thế giới về cơ bản l� thiện hay �c?

According to Genesis, this was the first question that occurred to God after he had finished his creation: had he done a good job? So he looked at the world and saw that it was good. Ever since then, people in the West have sided with or against God on his answer, but in doing so they have affirmed that the question was worth asking to begin with. When Theravada — the only form of Buddhism to take on Christianity when Europe colonized Asia — was looking for ways to head off what it saw as the missionary menace, Buddhists who had received their education from the missionaries assumed that the question was valid and pressed the first noble truth into service as a refutation of the Christian God: look at how miserable life is, they said, and it's hard to accept God's verdict on his handiwork.

Dựa theo cuốn "Ch�a s�ng tạo ra thế giới", đ�y l� c�u hỏi đầu ti�n xuất hiện đối với Ch�a sau khi ng�i kết th�c việc s�ng tạo ra thế giới: ng�i đ� l�m một việc tốt? Thế l� người nh�n thế giới v� thấy rằng n� tốt. Kể từ thuở ấy, người phương T�y hoặc l� đồng � với Ch�a hoặc l� kh�ng đồng � với ng�i về c�u trả lời ấy, nhưng trong khi h�nh động như vậy họ đ� x�c nhận rằng c�u hỏi l� đ�ng hỏi cho một khởi đầu. Khi Phật gi�o Nguy�n Thủy Therevada � một dạng duy nhất của Phật gi�o đương đầu với thi�n Ch�a gi�o khi ch�u �u thực hiện thuộc điạ h�a ch�u � � đang t�m c�ch đẩy l�i c�i m� họ cho l� sự đe dọa của c�c đ�an truyền gi�o, c�c Phậtt tử nhận được sự gi�o dục từ c�c đ�an truyền gi�o cho rằng c�u hỏi l� c� gi� trị v� vận dụng Diệu Đế thứ nhất như l� một sự chối bỏ Ch�a Ki-t�: h�y xem cuộc sống khốn khổ như thế n�o, họ n�i, v� kh� m� chấp nhận ph�n quyết của Ch�a về c�ng việc của ng�i.

This debating strategy may have scored a few points at the time, and it's easy to find Buddhist apologists who — still living in the colonial past — keep trying to score the same points. The real issue, though, is whether the Buddha intended for his first noble truth to be an answer to God's question in the first place and — more importantly — whether we're getting the most out of the first noble truth if we see it in that light.

Phương ph�p tranh luận n�y đ� ghi một �t điểm v�o một l�c n�o đ�, v� dễ t�m thấy những người ủng hộ Phật gi�o � d� vẫn sống trong qu� khứ thuộc địa � tiếp tục cố gắng ghi c�ng những điểm như vậy. Mặc d� vấn đề thực l� liệu đức Phật thọat đầu c� định d�ng Diệu Đế thứ nhất của ng�i để trả lời c�u hỏi của Ch�a � quan trọng hơn � liệu l� ch�ng ta c� được lợi lạc nhiều nhất từ Diệu Đế thứ nhất nếu như ch�ng ta x�t n� dưới �nh s�ng đ�.

It's hard to imagine what you could accomplish by saying that life is suffering. You'd have to spend your time arguing with people who see more than just suffering in life. The Buddha himself says as much in one of his discourses. A brahman named Long-nails (Dighanakha) comes to him and announces that he doesn't approve of anything. This would have been a perfect time for the Buddha, if he had wanted, to chime in with the truth that life is suffering. Instead, he attacks the whole notion of taking a stand on whether life is worthy of approval. There are three possible answers to this question: (1) nothing is worthy of approval, (2) everything is, and (3) some things are and some things aren't. If you take any of these three positions, you end up arguing with the people who take either of the other two positions. And where does that get you?

Thật kh� tưởng tượng được rằng bạn c� thể đạt được g� khi n�i rằng đời l� khổ. Bạn ắt phải hao tốn thời giờ tranh luận với những người thấy rằng cuộc đời c�n c� c�i g� đ� kh�c hơn l� khổ. Ch�nh Phật cũng đ� n�i như vậy trong một trong những b�i giảng của ng�i. Một B� la m�n t�n l� M�ng-d�i (Dighanakha) đến với Phật v� n�i rằng �ng ta kh�ng đồng thuận với bất cứ điều g�. Đ�y lẽ ra l� thời điểm h�an hảo cho Phật, nếu như ng�i nuốm rao giảng ch�n l� rằng đời l� khổ. Nhưng thay v�o đ�, ng�i tấn c�ng t�an bộ kh�i niệm dựa tr�n quan điểm liệu l� cuộc sống c� đ�ng cho sự đồng thuận thay kh�ng. Khả dĩ c� ba c�u trả lời đối với c�u hỏi n�y: (1) kh�ng c� g� đ�ng cho đồng thuận, (2) mọi vật đều đ�ng đồng thuận, v� (3) một số đ�ng đồng thuận v� một số kh�ng đ�ng. Nếu bạn chọn bất cứ một trong ba quan điểm n�y, bạn ắt phải tranh luận với những người chọn hai quan điểm c�n lại. V� bạn sẽ đi đến đ�u?

The Buddha then teaches Long-nails to look at his body and feelings as instances of the first noble truth: they're stressful, inconstant, and don't deserve to be clung to as self. Long-nails follows the Buddha's instructions and, in letting go of his attachment to body and feelings, gains his first glimpse of the Deathless, of what it's like to be totally free from suffering.

Thế l� Phật bảo M�ng d�i xem x�t th�n thể v� cảm x�c của m�nh như l� những v� dụ cụ thể của Ch�n Đế thứ nhất: ch�ng đầy những phiền n�o, lu�n biến đổi v� kh�ng đ�ng để b�m v�u v�o l�m bản ng�. M�ng d�i l�m theo lời Phật dạy v�, v� rủ bỏ được sự b�m v�u (ng� chấp) v�o th�n thể v� cảm x�c, lần đầu ti�n th�ang thấy được Bất tử, tức l� điều m� giống như h�an t�an giải th�at khỏi khổ.

The point of this story is that trying to answer God's question, passing judgment on the world, is a waste of time. And it offers a better use for the first noble truth: looking at things, not in terms of "world" or "life," but simply identifying suffering so that you can comprehend it, let it go, and attain release. Rather than asking us to make a blanket judgment — which, in effect, would be asking us to be blind partisans — the first noble truth asks us to look and see precisely where the problem of suffering lies.

Mấu chốt của c�u chuyện n�y l� nhằm cố gắng trả lời c�u hỏi của Ch�a, ra ph�n quyết về thế giới l� việc l�m l�ng ph� thời gian. V� n� đem lại cơ hội cho việc vận dụng tốt hơn Diệu Đế thứ nhất: h�y xem x�t sự vật, kh�ng theo điều kiện của �thế giới� hoặc � cuộc sống� m� chỉ cần x�c định được khổ để bạn c� thể thấu hiểu n�, bu�ng xả, v� đạt giải th�at. Thay v� y�u cầu ch�ng ta đưa ra sự ph�n quyết trọn g�i � m� thực ra y�u cầu ch�ng ta l�m những kẻ phục t�ng m� qu�ng � Diệu Đế thứ nhất y�u cầu ch�ng ta nh�n v� xem ch�nh x�c nơi m� vấn đề khổ khu tr�.

Other discourses make the point that the problem isn't with body and feelings in and of themselves. They themselves aren't suffering. The suffering lies in clinging to them. In his definition of the first noble truth, the Buddha summarizes all types of suffering under the phrase, "the five aggregates of clinging": clinging to physical form (including the body), feelings, perceptions, thought constructs, and consciousness. However, when the five aggregates are free from clinging, he tells us, they lead to long-term benefit and happiness. Of course, by "happiness" he isn't here referring to the arts, food, travel, sports, family life, or any of the other sections of the Sunday newspaper. He's talking about the solid well-being that comes when we treat the aggregates as factors in the path to the Deathless. The aggregates in themselves are neutral. The role they play in leading to true happiness or suffering lies in whether or not we cling.

Những b�i giảng kh�c nhấn mạnh rằng vấn đề kh�ng phải l� với th�n thể v� những cảm x�c trong v� của th�n thể. Ch�nh ch�ng l� khổ. Khổ nằm ở chỗ b�m v�u v�o ch�ng. Trong định nghĩa của ng�i về diệu đế thứ nhất, Phật t�m lược tất cả c�c lọai khổ bằng một cụm từ �năm uẩn của sự ng� chấp�: b�m v�u v�o h�nh th�i vật chất (bao gồm cả th�n), cảm x�c, nhận thức, cấu tr�c tư tưởng, v� � thức. Tuy mhi�n khi ngũ uẩn th�at khỏi sự b�m v�u, ng�i bảo ch�ng ta rằng, ch�ng đem lại lợi lạc v� hạnh ph�c l�u d�i. Dĩ nhi�n, bằng từ �hạnh ph�c� ng�i kh�ng hề muốn chỉ đến nghệ thuật, thức ăn, du lịch , thể thao, cuộc sống gia đ�nh, hoặc bất cứ mục giải tr� n�o trong những tờ quảng c�o của tờ b�o ng�y Chủ Nhật. Ng�i muốn n�i đến cuộc sống tốt l�nh xuất hiện khi ch�ng ta xử l� ngũ uẩn như l� c�c yếu tố tr�n con đường đi đến Bất tử. Ch�nh bản th�n c�c uẩn l� trung lập. Ch�ng c� vai tr� dẫn đến hạnh ph�c hay khổ l� do ch�ng ta c� đeo b�m n� hay kh�ng m� th�i.

So the first noble truth, simply put, is that clinging is suffering. It's because of clinging that physical pain becomes mental pain. It's because of clinging that aging, illness, and death cause mental distress. How do we cling? The texts list four ways: the clinging of sensual passion, the clinging of views, the clinging of precepts and practices, and the clinging of doctrines of the self. It's rare that a moment passes in the ordinary mind without some form of clinging. Even when we abandon a particular form of clinging, it's usually because it gets in the way of another form. We may abandon a puritanical view because it interferes with sensual pleasure; or a sensual pleasure because it conflicts with a view about what we should do to stay healthy. Our views of who we are may expand and contract depending on which of our many senses of "I" is feeling the most pain, expanding into a sense of cosmic oneness when we feel confined by the limitations of our small mind-body complex, shrinking into a small shell when we feel wounded from identifying with a cosmos so filled with cruelty, thoughtlessness, and waste. When the insignificance of our finite self becomes oppressive again, we may jump at the idea that we have no self, but then that becomes oppressive.

Do đ� Ch�n L� thứ nhất, diễn đạt ngắn gọn, l� chấp (đeo b�m) l� khổ. Bởi v� chấp m� nỗi đau thể x�c biến th�nh nỗi đau tinh thần. Ch�nh v� chấp v�o l�o, bệnh v� tử m� g�y ra sầu n�o tinh thần. Ch�ng ta chấp như thế n�o? C�c kinh văn n�u l�n bốn c�ch: chấp v�o cảm x�c, chấp v�o quan điểm, chấp v�o kh�i niệm v� th�i quen, v� chấp v�o c�c học thuyết của bản ng�. Hiếm khi c� khỏanh khắc n�o tr�i qua trong một t�m tr� b�nh thường m� kh�ng c� một dạng chấp n�o đ�. Ngay cả khi ch�ng ta xả một dạng chấp cụ thể n�o, th� thường l� n� chiếm chỗ của một dạng chấp kh�c. Ch�ng ta c� thể xả quan điểm đạo đức chủ nghĩa v� n� can thiệp v�o những lạc th� gi�c quan; hoặc xả c�c lạc th� gi�c quan v� n� xung đột với một quan điểm về điều m� ch�ng ta phải l�m để được khỏe mạnh. Những quan điểm của ch�ng ta về người m� ch�ng ta c� thể mở rộng hay thu hẹp t�y thuộc v�o c�i n�o trong nhiều gi�c quan của c�i �T�i� đang cảm thấy nỗi đau nhất, mở rộng th�nh � thức c�i-một vũ trụ khi ch�ng ta cảm thấy bị c�u th�c bởi những giới hạn của phức thể th�n-t�m nhỏ b� của ch�ng ta, thu lại th�nh c�i vỏ nhỏ b� khi ch�ng ta cảm thấy tổn thương từ sự đồng nhất với một vũ trụ đầy dẫy sự t�n �c, thiếu suy nghĩ, v� r�c rưởi. Khi sự v� nghĩa của c�i bản ng� hữu hạn trở n�n bức b�ch một lần nữa, ch�ng ta c� thể nảy ra � nghĩ rằng ch�ng ta kh�ng c� bản ng�, nhưng rồi điều đ� trở n�n bức b�ch.

So our minds jump from clinging to clinging like a bird trapped in a cage. And when we realize we're captive, we naturally search for a way out. This is where it's so important that the first noble truth not say that "Life is suffering," for if life were suffering, where would we look for an end to suffering? We'd be left with nothing but death and annihilation. But when the actual truth is that clinging is suffering, we simply have to look to see precisely where clinging is and learn not to cling.

Thế l� t�m của ch�ng ta nhảy từ chấp n�y sang chấp kh�c như con chim bị nhốt trong lồng. V� khi ch�ng ta nhận thức được ch�ng ta bị giam h�m, tự nhi�n ch�ng ta t�m lối th�at. Đ�y l� chỗ rất quan trọng m� Diệu Đế thứ nhất kh�ng n�i rằng �Đời l� khổ� bởi v� nếu đời đ� khổ, th� ch�ng ta sẽ t�m chấm dứt khổ ở đ�u? Ch�ng ta sẽ bị bỏ lại bơ vơ với c�i chết v� hư v�. Nhưng khi ch�n l� đ�ch thực rằng chấp l� khổ, th� ch�ng ta chỉ cần t�m xem chấp ch�nh x�c ở đ�u v� học c�ch ph� chấp

This is where we encounter the Buddha's great skill as a strategist: He tells us to take the clingings we'll have to abandon and transform them into the path to their abandoning. We'll need a certain amount of sensory pleasure — in terms of adequate food, clothing, and shelter — to find the strength to go beyond sensual passion. We'll need right view — seeing all things, including views, in terms of the four noble truths — to undermine our clinging to views. And we'll need a regimen of the five ethical precepts and the practice of meditation to put the mind in a solid position where it can drop its clinging to precepts and practices. Underlying all this, we'll need a strong sense of self-responsibility and self-discipline to master the practices leading to the insight that cuts through our clinging to doctrines of the self.

Ch�nh nơi đ�y ch�ng ta bắt gặp sự kh�n kh�o vĩ đại của Đức Phật với tư c�ch l� nh� chiến lược: Ng�i bảo ch�ng ta lấy những khổ m� ch�ng ta sẽ c� để xả v� chuyển h�a ch�ng th�nh con đường diệt khổ. Ch�ng ta cần biết đủ cho nhu cầu th�n thể � x�t theo phuơng diện đủ lương thực, quần �o v� chỗ ở - để t�m sức mạnh vượt qua quyến rũ trần tục. Ch�ng ta cần ch�nh kiến � để nh�n nhận mọi sự vật, gồm cả c�c quan điểm, theo Tứ Diệu Đế - để ph� bỏ việc chấp v�o quan điểm của ch�ng ta. V� ch�ng ta cần phương điều trị của ngũ giới v� thực h�nh thiền định để đặt t�m v�o vị tr� vững chắc nơi m� n� c� thể bỏ chấp do giới luật v� việc thực h�nh. L�m nền tảng cho tất cả c�c điều n�y, ch�ng ta sẽ cần một � thức tr�ch nhiệm với bản th�n mạnh mẽ v� � thức kỷ luật để l�m chủ được việc tu học dẫn đến trực kiến, cắt phăng c�i chấp của ch�ng ta v�o c�c học thuyết của bản ng�.

So we start the path to the end of suffering, not by trying to drop our clingings immediately, but by learning to cling more strategically. In other words, we start where we are and make the best use of the habits we've already got. We progress along the path by finding better and better things to cling to, and more skillful ways to cling, in the same way you climb a ladder to the top of a roof: grab hold of a higher rung so that you can let go of a lower rung, and then grab onto a rung still higher. As the rungs get further off the ground, you find that the mind grows clearer and can see precisely where its clingings are. It gets a sharper sense of which parts of experience belong to which noble truth and what should be done with them: the parts that are suffering should be comprehended, the parts that cause of suffering — craving and ignorance — should be abandoned; the parts that form the path to the end of suffering should be developed; and the parts that belong to the end of suffering should be verified. This helps you get higher and higher on the ladder until you find yourself securely on the roof. That's when you can finally let go of the ladder and be totally free.

Thế l� ch�ng ta khởi bước tr�n con đường diệt khổ, kh�ng phải bằng c�ch cố gắng bỏ chấp tức th�, m� bằng việc l�m quen với chấp một c�ch chiến lược hơn. N�i c�ch kh�c, ch�ng ta bắt đầu nơi m�nh đang đứng v� sử dụng tốt nhất những th�i quen m� ch�ng ta đ� c�. Ch�ng ta tiến bước theo đường đạo bằng c�ch t�m những điều ng�y c�ng tốt hơn để m� chấp, v� những phương c�ch kh�n ngoan hơn để m� chấp , giống như bạn leo thang l�n n�c nh�: nắm chặt c�c bậc thang cao hơn để bạn c� thể rời bỏ bậc thang b�n dưới, v� rồi lại tiếp tục nắm chắc bậc cao hơn nữa. Khi c�c bậc thang ng�y c�ng c�ch xa mặt đất, th� t�m bạn c�ng trong s�ng hơn v� c� thể thấy r� c�c chỗ b�m v�u của n� l� ở đ�u. T�m c�ng c� � thức sắc sảo hơn về c�c phần n�o của kinh nghiệm thuộc về Diệu Đế n�o v� cần phải l�m g� với ch�ng: c�c phần n�o l� khổ phải được thấu hiểu; c�c phần n�o g�y ra khổ - tham v� v� minh � phải được bỏ đi; c�c phần h�nh th�nh n�n con đường b�t ch�nh đạo phải được ph�t triển; v� những phần thuộc về diệt khổ phải được khẳng định. Điều n�y gi�p bạn tiến ng�y c�ng cao hơn tr�n thang cho đến khi bạn thấy an t�an tr�n m�i nh�. Đ� l� l�c m� bạn c� thể bỏ hẳn c�i thang v� h�an t�an tự do.

So the real question we face isn't God's question, passing judgment on how skillfully he created life or the world. It's our question: how skillfully are we handling the raw stuff of life? Are we clinging in ways that serve only to continue the round of suffering, or are we learning to cling in ways that will reduce suffering so that ultimately we can grow up and won't have to cling. If we negotiate life armed with all four noble truths, realizing that life contains both suffering and an end to suffering, there's hope: hope that we'll be able to sort out which parts of life belong to which truth; hope that someday, in this life, we'll come to the point where we agree with the Buddha, "Oh. Yes. This is the end of suffering and stress."

Do đ� c�u hỏi thật sự m� ch�ng ta phải trả lời kh�ng phải l� c�u hỏi của Ch�a, cho nhận x�t về việc ng�i tạo ra cuộc sống v� thế giới tốt đẹp kh�o l�o như thế n�o. M� ch�nh l� c�u hỏi của ch�ng ta: ch�ng ta kh�n kh�o như thế n�o trong việc xử l� nguy�n liệu của cuộc sống? Liệu ch�ng ta c� chấp theo c�ch chỉ phục vụ cho việc tiếp tục c�i v�ng của khổ, hay ch�ng ta l�m quen với chấp theo c�ch sẽ giảm bớt khổ để rồi cuối c�ng ch�ng ta trưởng th�nh v� hết chấp. Ch�ng ta được trang bị bằng Tứ Diệu Đế, đ�m ph�n với cuộc sống, nhận thấy rằng cuộc sống c� cả khổ v� chấm dứt khổ, c� hy vọng: hy vọng rằng ch�ng ta sẽ c� thể chọn ra những phần n�o của cuộc sống thuộc về ch�n l� n�o; hy vọng rằng một ng�y n�o đ�, trong kiếp n�y, ch�ng ta sẽ đi đến nơi m� ta đồng � với Đức Phật rằng, � Ồ, v�ng. Đ�y l� chấm dứt khổ v� phiền n�o.�

No-self or Not-self? [go up]

One of the first stumbling blocks that Westerners often encounter when they learn about Buddhism is the teaching on anatta, often translated as no-self. This teaching is a stumbling block for two reasons. First, the idea of there being no self doesn't fit well with other Buddhist teachings, such as the doctrine of kamma and rebirth: If there's no self, what experiences the results of kamma and takes rebirth? Second, it doesn't fit well with our own Judeo-Christian background, which assumes the existence of an eternal soul or self as a basic presupposition: If there's no self, what's the purpose of a spiritual life? Many books try to answer these questions, but if you look at the Pali canon — the earliest extant record of the Buddha's teachings — you won't find them addressed at all. In fact, the one place where the Buddha was asked point-blank whether or not there was a self, he refused to answer. When later asked why, he said that to hold either that there is a self or that there is no self is to fall into extreme forms of wrong view that make the path of Buddhist practice impossible. Thus the question should be put aside. To understand what his silence on this question says about the meaning of anatta, we first have to look at his teachings on how questions should be asked and answered, and how to interpret his answers.

V� Ng� hay Kh�ng Ng�? [go up]

Một trong những trở ngại m� người Phương T�y thường gặp khi họ t�m hiểu đao Phật l� gi�o l� về anatta, thường dịch v� v� ng�. Gi�o l� n�y l� trở ngại v� c� hai l� do. Trước hết, � tưởng về việc c� v� ng� kh�ng ph� hợp lắm với những gi�o l� kh�c của đạo Phật, v� như học thuyết về nghiệp v� t�i sinh: nếu kh�ng c� bản ng�, th� c�i g� thể nghiệm c�c kết quả của nghiệp v� nhận t�i sinh? Thứ hai n� kh�ng ph� hợp lắm với bối cảnh Thi�n Ch�a-Do th�i gi�o, cho rằng sự tồn tại của một linh hồn vĩnh cửu hay bản ng� như l� một giả định cơ bản: Nếu kh�ng c� bản ng�, th� mục đ�ch của đời sống tinh thần l� g�? Nhiều s�ch đ� cố gắng trả lời những c�u hỏi n�y, nhưng nếu bạn xem x�t kho t�ng kinh điển Pali, những ghi ch�p sớm nhất c�n tồn tại về gi�o l� của Đức Phật � bạn sẽ kh�ng thấy ch�ng được đề cập đến ch�t n�o cả. Thực ra c� một nơi m� Đức Phật được hỏi thẳng liệu c� hay kh�ng một bản ng�, ng�i từ chối trả lời. Sau n�y khi được hỏi tại sao, ng�i n�i rằng theo quan điểm hoặc l� c� bản ng� hay l� kh�ng c� bản ng� l� rơi v�o c�c dạng cực đoan của t� kiến l�m cho việc tu học theo con đường của Phật kh�ng thể thực hiện được. Do đ� c�u hỏi phải được g�t sang một b�n. Để hiểu điều m� sự im lặng của ng�i muốn n�i về � nghĩa của anatta, ch�ng ta trước hết phải xem x�t gi�o l� của ng�i về c�c c�u hỏi n�n được hỏi v� trả lời như thế n�o, v� l�m c�ch n�o hiểu những c�u trả lời của ng�i.

The Buddha divided all questions into four classes: those that deserve a categorical (straight yes or no) answer; those that deserve an analytical answer, defining and qualifying the terms of the question; those that deserve a counter-question, putting the ball back in the questioner's court; and those that deserve to be put aside. The last class of question consists of those that don't lead to the end of suffering and stress. The first duty of a teacher, when asked a question, is to figure out which class the question belongs to, and then to respond in the appropriate way. You don't, for example, say yes or no to a question that should be put aside. If you are the person asking the question and you get an answer, you should then determine how far the answer should be interpreted. The Buddha said that there are two types of people who misrepresent him: those who draw inferences from statements that shouldn't have inferences drawn from them, and those who don't draw inferences from those that should.

Đức Phật chia t�an bộ c�u hỏi ra l�m bốn lớp: những c�u hỏi đ�ng được trả lời thẳng l� c� hoặc kh�ng, những c�u hỏi đ�ng được trả lời theo lối ph�n t�ch, định nghĩa v� đ�p ứng điều kiện của c�u hỏi; những c�u hỏi xứng đ�ng c� một c�u hỏi ngược lại, trả quả b�ng lại phần s�n của người hỏi; v� những c�u hỏi n�n đựơc g�t sang một b�n. Lớp c�u hỏi cuối c�ng bao gồm những c�u hỏi kh�ng dẫn đến chấm dứt khổ v� phiền n�o. Nhiệm vụ đầu ti�n của một vị thầy, khi được hỏi một c�u hỏi, l� h�nh dung xem c�u hỏi đ� thuộc lớp n�o, rồi trả lời theo c�ch th�ch hợp. Chẳng hạn bạn kh�ng trả lời c� hoặc kh�ng với lọai c�u hỏi lẽ ra n�n g�t sang một b�n. Nếu bạn l� người hỏi c�u hỏi v� nhận được c�u trả lời th� bạn n�n quyết định xem c�u trả lời ấy n�n được hiểu rộng ra như thế n�o. Phật n�i rằng c� hai hạng người hiểu sai ng�i: những người r�t ra những suy luận từ những khẳng định kh�ng đ�ng được suy luận, v� những người kh�ng r�t ra suy luận từ những khẳng định cần suy luận.

These are the basic ground rules for interpreting the Buddha's teachings, but if we look at the way most writers treat the anatta doctrine, we find these ground rules ignored. Some writers try to qualify the no-self interpretation by saying that the Buddha denied the existence of an eternal self or a separate self, but this is to give an analytical answer to a question that the Buddha showed should be put aside. Others try to draw inferences from the few statements in the discourse that seem to imply that there is no self, but it seems safe to assume that if one forces those statements to give an answer to a question that should be put aside, one is drawing inferences where they shouldn't be drawn.

Đ�y l� những nguy�n tắc nền cơ bản để hiểu rộng gi�o l� của Đức Phật, nhưng nếu ta xem x�t c�ch m� hầu hết c�c t�c giả xử l� học thuyết v� ng�, ch�ng ta thấy những nguy�n tắc cơ bản n�y bị bỏ qua. Một v�i t�c giả cố gắng hợp thức h�a việc hiểu v� ng� bằng c�ch n�i rằng Đức Phật b�c bỏ sự hiện hữu của bản ng� vĩnh cửu hoặc bản ng� ri�ng, nhưng đ�y l� c�u trả lời ph�n t�ch đối với c�u hỏi m� Đức Phật chỉ ra l� n�n g�t sang một b�n. Những người kh�c cố gắng r�t ra những suy luận từ một v�i c�u trong một b�i giảng c� vẻ như ngụ � rằng c� v�-ng�, nhưng c� vẻ an t�an để cho rằng nếu người ta khi�n cưỡng những c�u đ� để đưa ra c�u trả lời cho c�u hỏi đ�ng ra phải để sang một b�n, người ta đang r�t ra suy luận nơi m� kh�ng n�n l�m như vậy.

 

So, instead of answering "no" to the question of whether or not there is a self — interconnected or separate, eternal or not — the Buddha felt that the question was misguided to begin with. Why? No matter how you define the line between "self" and "other," the notion of self involves an element of self-identification and clinging, and thus suffering and stress. This holds as much for an interconnected self, which recognizes no "other," as it does for a separate self. If one identifies with all of nature, one is pained by every felled tree. It also holds for an entirely "other" universe, in which the sense of alienation and futility would become so debilitating as to make the quest for happiness — one's own or that of others — impossible. For these reasons, the Buddha advised paying no attention to such questions as "Do I exist?" or "Don't I exist?" for however you answer them, they lead to suffering and stress.

Do đ� thay v� trả lời �kh�ng� đối với c�u hỏi lị�u c� hay kh�ng một bản ng� � tương li�n hoặc ri�ng biệt, vĩnh cữu hay kh�ng � Đức Phật cảm thấy rằng đặt c�u hỏi như vậy l� kh�ng kh�n ngoan. V� sao? D� bạn c� x�c định đường ranh giữa �bản ng� v� �c�i kh�c�, kh�i niệm bản ng� li�n quan đến một yếu tố �x�c định bản ng� v� chấp, v� như vậy l� khổ v� phiền n�o. Điều n�y cũng đ�ng cho li�n bản ng�, kh�ng c�ng nhận �c�i kh�c� m� bản ng� ri�ng biệt c� c�ng nhận. Nếu người ta đồng h�a v�i tất cả thi�n nhi�n, người ta đau khi mỗi c�i c�y bị hạ. Điều đ� cũng đ�ng cho t�an bộ vũ trụ �kh�c�. Theo đ� � thức về sự xa lạ v� v� dụng trở n�n c� sức t�n ph� khiến cho việc mưu t�m hạnh ph�c � của ri�ng m�nh hay của người kh�c � kh�ng thể thực hiện được. V� những l� do n�y, Bồ-t�t khuy�n kh�ng n�n để � đến những c�u hỏi như l� �T�i c� tồn tại kh�ng?� hoặc T�i kh�ng tồn tại sao?� v� d� bạn c� trả lời ch�ng như thế n�o đều dẫn đến khổ v� phiền n�o.

 

To avoid the suffering implicit in questions of "self" and "other," he offered an alternative way of dividing up experience: the four Noble Truths of stress, its cause, its cessation, and the path to its cessation. Rather than viewing these truths as pertaining to self or other, he said, one should recognize them simply for what they are, in and of themselves, as they are directly experienced, and then perform the duty appropriate to each. Stress should be comprehended, its cause abandoned, its cessation realized, and the path to its cessation developed. These duties form the context in which the anatta doctrine is best understood. If you develop the path of virtue, concentration, and discernment to a state of calm well-being and use that calm state to look at experience in terms of the Noble Truths, the questions that occur to the mind are not "Is there a self? What is my self?" but rather "Am I suffering stress because I'm holding onto this particular phenomenon? Is it really me, myself, or mine? If it's stressful but not really me or mine, why hold on?" These last questions merit straightforward answers, as they then help you to comprehend stress and to chip away at the attachment and clinging — the residual sense of self-identification — that cause it, until ultimately all traces of self-identification are gone and all that's left is limitless freedom.

Để tr�nh khổ tiềm ẩn trong c�u hỏi về �bản ng� v� �tha nh�n�, ng�i đưa ra giải ph�p thay thế l� ph�n chia kinh nghiệm: Tứ Diệu Đế của khổ, nguy�n nh�n khổ , sự chấm dứt khổ v� con đường chấm dứt khổ. Thay v� xem những ch�n l� n�y li�n quan đến bản ng� hoặc tha nh�n, ng�i n�i, người ta n�n c�ng nhận ch�ng như ch�ng l�, trong v� của ch�nh ch�ng, như l� ch�ng được trực tiếp thể nghiệm, v� thực thi nhiệm vụ ph� hợp cho từng c�i. Sự khổ cần được thấu hiểu, nguy�n nh�n của khổ cần được rủ bỏ, việc chấm dứt khổ phải được thực hiện, v� con đường dẫn đến chấm dứt khổ phải được ph�t triển. Những nhiệm vụ n�y h�nh th�nh n�n bối cảnh m� trong đ� học thuyết về anatta (v� ng�) được hiểu tốt nhất. Nếu bạn ph�t triển con đường đức hạnh, tập trung, v� ph�n đ�an nhạy b�n dẫn đến hạnh ph�c tịch lặng v� d�ng trạng th�i tịch lặng ấy để xem x�t kinh nghiệm theo Tứ Diệu Đế, th� những c�u hỏi hiện trong t�m tr� kh�ng phải l� �C� bản ng� kh�ng? Bản ng� của t�i l� g�? � nhưng m� l� � Phải chăng t�i khổ do phiền n�o, v� t�i đang chấp v�o hiện tượng cụ thể n�y? N� c� phải thực sự l� t�i, ch�nh t�i hay của t�i. Nếu n� g�y phiền n�o nhưng kh�ng thực l� t�i hay của t�i , tại sao phải chấp?� Những c�u hỏi cuối c�ng n�y đ�ng được c� những c�u trả lời thẳng thắn v� ch�ng gi�p bạn thấu hiểu phiền n�o v� gỡ bỏ tham �i v� b�m v�u � � thức c�n đọng lại của sự đồng nhất bản ng� � tạo ra đau khổ, cho đến khi cuối c�ng mọi dấu vết của việc đồng nhất bản ng� biến mất v� tất cả c�i c�n lại l� tự do v� bi�n.

In this sense, the anatta teaching is not a doctrine of no-self, but a not-self strategy for shedding suffering by letting go of its cause, leading to the highest, undying happiness. At that point, questions of self, no-self, and not-self fall aside. Once there's the experience of such total freedom, where would there be any concern about what's experiencing it, or whether or not it's a self?

Theo � nghi� n�y, gi�o l� anatta kh�ng phải l� học thuyết v�-ng� m� l� một chiến lược kh�ng-ng� để tr�t bỏ khổ bằng c�ch loại bỏ nguy�n nh�n cuả n�, dẫn đến hạnh ph�c cao cả bất tử. Ở điểm n�y, c�c c�u hỏi về bản ng�, v�-ng�, kh�ng ng� dạt sang một b�n. Một khi thể nghiệm được tự do to�n thể như vậy, th� ở đ�u lại c� mối quan t�m về c�i g� thể nghiệm n�, hoặc l� c� hay kh�ng một bản ng�?

Nibbana [go up]

We all know what happens when a fire goes out. The flames die down and the fire is gone for good. So when we first learn that the name for the goal of Buddhist practice, nibbana (nirvana), literally means the extinguishing of a fire, it's hard to imagine a deadlier image for a spiritual goal: utter annihilation. It turns out, though, that this reading of the concept is a mistake in translation, not so much of a word as of an image. What did an extinguished fire represent to the Indians of the Buddha's day? Anything but annihilation.

Niết B�n [go up]

Tất cả ch�ng ta đều biết rằng điều g� xảy ra khi lửa tắt. C�c ngọn lửa t�n dần v� lửa tắt hẳn. Vậy khi lần đầu ti�n ta biết t�n gọi cho mục ti�u tu học theo đạo Phật l� niết b�n (nibbana, nirvana), nghĩa đen c� nghĩa l� dập tắt lửa, thật kh� m� h�nh dung một h�nh ảnh n�o mạnh mẽ hơn để chỉ mục ti�u tinh thần: h�an t�an hủy diệt. H�a ra, việc diễn giải kh�i niệm n�y l� một sự diễn dịch sai lầm, d� rằng từ ngữ th� kh�ng thể n�o diễn đạt bằng một h�nh ảnh. H�nh ảnh một ngọn lưả bị dập tắt c� � nghĩa g� đối với người Ấn v�o thời Phật? Kh�ng g� kh�c hơn l� sự hủy diệt.

According to the ancient Brahmins, when a fire was extinguished it went into a state of latency. Rather than ceasing to exist, it became dormant and in that state — unbound from any particular fuel — it became diffused throughout the cosmos. When the Buddha used the image to explain nibbana to the Indian Brahmins of his day, he bypassed the question of whether an extinguished fire continues to exist or not, and focused instead on the impossibility of defining a fire that doesn't burn: thus his statement that the person who has gone totally "out" can't be described.

Theo người B�-la-m�n cổ xưa, khi một ngọn lửa bị dập tắt n� đi v�o t�nh trạng y�n ngủ. N� kh�ng hề chấm dứt tồn tại m� l� trở n�n ngủ y�n v� trong trạng th�i ấy � kh�ng c�n r�ng buộc với bất cứ nguồn nhi�n liệu cụ thể n�o - n� tan v�o vũ trụ. Khi Đức Phật d�ng h�nh ảnh đ� để giải th�ch Niết B�n đối với người B�-la-m�n v�o thời của ng�i, ng�i bỏ qua c�u hỏi liệu l� một ngọn lửa bị dập tắt c� tiếp tục tồn tại hay kh�ng, v� thay v�o đ� tập trung v�o việc kh�ng thể x�c định một ngọn lửa kh�ng ch�y: do đ� khẳng định của ng�i rằng một nguời h�an t�an �tắt ngấm� l� kh�ng thể m� tả đựơc.

However, when teaching his own disciples, the Buddha used nibbana more as an image of freedom. Apparently, all Indians at the time saw burning fire as agitated, dependent, and trapped, both clinging and being stuck to its fuel as it burned. To ignite a fire, one had to "seize" it. When fire let go of its fuel, it was "freed," released from its agitation, dependence, and entrapment — calm and unconfined. This is why Pali poetry repeatedly uses the image of extinguished fire as a metaphor for freedom. In fact, this metaphor is part of a pattern of fire imagery that involves two other related terms as well. Upadana, or clinging, also refers to the sustenance a fire takes from its fuel. Khandha means not only one of the five "heaps" (form, feeling, perception, thought processes, and consciousness) that define all conditioned experience, but also the trunk of a tree. Just as fire goes out when it stops clinging and taking sustenance from wood, so the mind is freed when it stops clinging to the khandhas.

Tuy nhi�n, khi Đức Phật giảng giải cho những vị đệ tử, Ng�i d�ng chữ Niết B�n nhiều hơn như l� một ẩn dụ cho sự giải tho�t. H�nh như tất cả những người Ấn Độ tại thời đ� nh�n thấy ngọn lửa đang ch�y như l� sự kh�ch động, t�y thuộc, v� bị mắc bẫy, cả hai dai dẳng v� b�m v�o nhi�n liệu khi n� ch�y . Để đốt ch�y ngọn lửa, phải "nắm" n�. Khi ngọn lửa tắt, l� được "tự do", giải tho�t khỏi sự kh�ch động, sự t�y thuộc, sự đ�nh bẫy - tịnh tịch v� tự do. Đ�y l� ly' do tại sao kinh điển Pali lập lại nhiều lần h�nh ảnh của ngọn lửa t�n lụi như l� một ph�p ẩn dụ cho sự giải tho�t. Sự thật l� ẩn dụ n�y l� một phần của h�nh ảnh ngọn lửa m� bao gồm hai từ ngữ li�n hệ kh�c. Thủ v� d�ch mắc, cũng li�n quan tới phương tiện của ngọn lửa từ c�c chất kh�ch động. Năm uẩn kh�ng c� nghĩa l� chỉ một trong năm, m� l� "nguy�n nh�m" (sắc, thọ, tưởng, h�nh, thức) n� đĩnh nghĩa tất cả kinh nghiệm, cũng như th�n của c�y. Ngọn lửa chỉ dập tắt khi sự leo lo�t kh�ng c�n v� chất nhựa từ gỗ kh�ng c�n, do đ� t�m được giải ph�ng khi sự d�nh mắc v�o ngũ uẩn kh�ng c�n.

Thus the image underlying nibbana is one of freedom. The Pali commentaries support this point by tracing the word nibbana to its verbal root, which means "unbinding." What kind of unbinding? The texts describe two levels. One is the unbinding in this lifetime, symbolized by a fire that has gone out but whose embers are still warm. This stands for the enlightened arahant, who is conscious of sights and sounds, sensitive to pleasure and pain, but freed from passion, aversion, and delusion. The second level of unbinding, symbolized by a fire so totally out that its embers have grown cold, is what the arahant experiences after this life. All input from the senses cools away and he/she is totally freed from even the subtlest stresses and limitations of existence in space and time.

Do đ� h�nh ảnh nền của niết b�n l� một h�nh ảnh của sự tự do. C�c luận văn Pali ủng hộ quan điểm n�y bằng c�ch truy nguy�n từ ngữ Niết B�n đến gốc động từ của n�, c� nghĩa �kh�ng r�ng buộc�. Kh�ng r�ng buộc lọai g�? C�c kinh văn m� tả c� hai cấp độ. Một l� kh�ng r�ng buộc trong kiếp sống n�y, tượng trưng bằng ngọn lửa đ� tắt, nhưng tro than vẫn c�n ấm n�ng. Điều n�y tượng trưng cho bậc A-La-H�n gi�c ngộ, người vẫn c�n � thức được cảnh sắc, �m thanh, nhạy cảm với vui v� khổ, nhưng kh�ng c�n quyến luyến, s�n hận, ảo tưởng. Cấp độ thứ hai của kh�ng r�ng buộc tượng trưng bằng ngọn lửa h�an t�an tắt hẳn, tro t�n nguội lạnh, l� điều m� bậc A-La-H�n thể nghiệm sau kiếp sống n�y. Mọi dữ liệu nhập v�o từ c�c gi�c quan nguội dần v� vị ấy h�an t�an tự do khỏi những phiền n�o tế vi nhất v� những giới hạn sinh tồn kh�ng thời gian

The Buddha insists that this level is indescribable, even in terms of existence or nonexistence, because words work only for things that have limits. All he really says about it — apart from images and metaphors — is that one can have foretastes of the experience in this lifetime, and that it's the ultimate happiness, something truly worth knowing.

So the next time you watch a fire going out, see it not as a case of annihilation, but as a lesson in how freedom is to be found in letting go.

Đức Phật nhấn mạnh rằng cấp độ n�y kh�ng thể diễn tả, ngay cả bằng những từ ngữ tồn tại hay kh�ng tồn tại, bởi v� ng�n từ chỉ hữu hiệu với những sự vật c� giới hạn. Tất cả những điều Ng�i thật sự n�i về điều đ� � ng�ai những h�nh ảnh v� ẩn dụ - l� c�i m� người ta chỉ thể nghiệm vật mẫu trong kiếp sống n�y, v� n� l� hạnh ph�c tối thượng, điều thực sự đ�ng biết. Do đ� lần tới khi bạn nh�n ngọn lửa tắt dần, th� kh�ng n�n coi n� như l� một trường hợp hủy diệt, m� như l� b�i học về c�ch m� tự do được t�m thấy trong sự bu�ng bỏ.

Sangha [go up]

The Economy of Gifts [go up]

According to the Buddhist monastic code, monks and nuns are not allowed to accept money or even to engage in barter or trade with lay people. They live entirely in an economy of gifts. Lay supporters provide gifts of material requisites for the monastics, while the monastics provide their supporters with the gift of the teaching. Ideally — and to a great extent in actual practice — this is an exchange that comes from the heart, something totally voluntary. There are many stories in the texts that emphasize the point that returns in this economy — it might also be called an economy of merit — depend not on the material value of the object given, but on the purity of heart of the donor and recipient. You give what is appropriate to the occasion and to your means, when and wherever your heart feels inspired. For the monastics, this means that you teach, out of compassion, what should be taught, regardless of whether it will sell. For the laity, this means that you give what you have to spare and feel inclined to share. There is no price for the teachings, nor even a "suggested donation." Anyone who regards the act of teaching or the act of giving requisites as a repayment for a particular favor is ridiculed as mercenary. Instead, you give because giving is good for the heart and because the survival of the Dhamma as a living principle depends on daily acts of generosity.

Tăng Gi� [go up]

Sự c�ng dường [go up]

Tăng gi� Theo giới luật tu viện của đạo Phật, c�c nam, nữ tu sĩ kh�ng được nhận tiền hoặc ngay cả việc trao đổi hoặc bu�n b�n với người đời. Họ sống ho�n to�n dưạ v�o nền kinh tế c�ng dường (qu� biếu). Những người đời c� t�m ủng hộ c�ng dường những vật dụng thiết yếu cho c�c tu viện, trong khi c�c tu viện đ�p lại họ bằng m�n qu� gi�o l�. Một c�ch l� tuởng � v� đạt đến mức độ tuyệt hảo trong thực h�nh thực tế � đ�y l� sự trao đổi tự tấm l�ng, một đều g� đ� ho�n to�n tự nguyện. C� nhiều c�u chuyện trong c�c kinh văn nhấn mạnh rằng về sư lợi lạc trong việc trao đổi n�y � n� c� thể gọi l� sự t�ch luỹ c�ng đức � kh�ng t�y thuộc v�o gi� trị cuả vật c�ng dường, m� tuỳ v�o sự thanh sạch cuả tấm l�ng người cho v� người nhận. Bạn cho c�i ph� hợp với ho�n cảnh v� phương tiện cuả m�nh, bất cứ khi n�o v� bất cứ ở đ�u m� t�m bạn th�i th�c bạn. Đối với với c�c tu sĩ, điều n�y c� nghi� l� qu� vị giảng dạy, từ l�ng vị tha, c�i cần phải dạy, kh�ng quan t�m đếm sự tương ứng. Đối với người đời, đ�y c� nghi� l� bạn cho c�i m� bạn c� dư v� cảm thấy muốn chia sẻ. Kh�ng c� gi� cho gi�o l�, hoặc ngay cả �sự gợi � g�p từ thiện�. Bất cứ ai xem việc dạy gi�o l� hay việc c�ng dường c�c vật dụng thiết yếu như l� sự đền đ�p cho một �n huệ n�o đ� th� cũng đ�ng cười như l� một sự �ch kỷ. Thay v�o đ�, bạn cho bởi v� cho l� lợi lạc cho t�m hồn bạn v� bởi v� sự tồn tại cuả Ph�p với tư c�ch l� một nguy�n l� sống tuỳ thuộc v�o những h�nh động vị tha h�ng ng�y

The primary symbol of this economy is the alms bowl. If you are a monastic, it represents your dependence on others, your need to accept generosity no matter what form it takes. You may not get what you want in the bowl, but you realize that you always get what you need, even if it's a hard-earned lesson in doing without. One of my students in Thailand once went to the mountains in the northern part of the country to practice in solitude. His hillside shack was an ideal place to meditate, but he had to depend on a nearby hilltribe village for alms, and the diet was mostly plain rice with some occasional boiled vegetables. After two months on this diet, his meditation theme became the conflict in his mind over whether he should go or stay. One rainy morning, as he was on his alms round, he came to a shack just as the morning rice was ready. The wife of the house called out, asking him to wait while she got some rice from the pot. As he was waiting there in the pouring rain, he couldn't help grumbling inwardly about the fact that there would be nothing to go with the rice. It so happened that the woman had an infant son who was sitting near the kitchen fire, crying from hunger. So as she scooped some rice out of the pot, she stuck a small lump of rice in his mouth. Immediately, the boy stopped crying and began to grin. My student saw this, and it was like a light bulb turning on in his head. "Here you are, complaining about what people are giving you for free," he told himself. "You're no match for a little kid. If he can be happy with just a lump of rice, why can't you?" As a result, the lesson that came with his scoop of rice that day gave my student the strength he needed to stay on in the mountains for another three years.

Biểu tượng chủ yếu cuả nền kinh tế n�y l� b�t khất thực. Nếu bạn l� tu sĩ, n� cho thấy rằng bạn tuỳ thuộc v�o người kh�c, bạn cần chấp nhận l�ng vị tha d� dưới h�nh thức n�o. Bạn c� thể kh�ng nhận đuợc c�i m� bạn muốn ở trong b�t, nhưng bạn nhận thức rằng bạn lu�n nhận được c�i m� bạn cần, ngay cả đ� l� b�i học xứng đ�ng bị bỏ qua. Một trong những đệ tử cuả t�i ở Th�i lan c� một lần đi l�n nu� ở v�ng phi� bắc cuả đất nước để thực h�nh ẩn cư . C�i cốc (lều) b�n sườn đồi cuả �ng ấy l� một nơi l� tưởng để tham thiền, nhưng �ng ấy phải tuỳ thuộc v�o đồ c�ng dường cuả một ng�i l�ng thuộc một bộ bạc b�n cạnh, v� thức ăn ki�ng khem chỉ l� cơm trắng với thỉnh thoảng �t rau luộc. Sau hai th�ng sống bằng thực đơn ki�ng khem n�y, chủ đề thiền định cuả �ng ta đ� trở n�n xung đột với t�m cuả �ng ấy l� n�n đi hay ở. Một s�ng trời mưa, khi �ng ấy đang đi khất thực, đến một c�i lều vư� khi cơm s�ng sẵn s�ng. Người nội trợ trong nh� gọi ra, bảo �ng ấy chờ trong khi b� xới cơm ra đồ đựng. Khi chờ ở đấy dưới mưa tầm tả, �ng buộc miệng lầm bầm với m�nh về việc kh�ng c� g� để ăn với cơm. C�ng l�c ấy c� một việc xảy ra l� người phụ nữ ấy c� một đư� b� trai ngồi gần bếp lưả, kh�c v� đ�i. Thế l� người phụ nữ m�c một �t cơm từ đồ đựng, cho một cục cơm nhỏ v�o miệng đư� b�. Lập tức đư� b� n�n ngay rồi bắt đầu cười . Người đệ tử cuả t�i thấy điều đ�, v� n� như l� một b�ng đ�n được bật s�ng trong đầu �ng ấy, �ng ấy tự bảo:�Thấy chưa, ph�n n�n về c�i m� người ta cho kh�ng m�nh�, �Anh kh�ng bằng con trẻ. Nếu con trẻ c� thể hạnh ph�c v� một cục cơm nhỏ, tại sao anh lại kh�ng?� Kết quả l� b�i học đến từ muổng cơm cuả đư� b� đ� cho đệ tử cuả t�i sức mạnh m� �ng ấy cần để ở lại nu� th�m ba năm nư�.

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 Chủ bi�n v� điều h�nh: TT Th�ch Gi�c Đẳng.

 Những đ�ng g�p dịch thuật xin gửi về TT Th�ch Gi�c Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ng�y: Thứ S�u 08-11-2006

Kỹ thuật tr�nh b�y: Minh Hạnh & Thiện Ph�p

| | trở về đầu trang | Home page |