HomeIndex

Tâm Ðịa Giác Tâm

心 地 覺 心; J: shinchi kakushin; 1207-1298;

Thiền sư Nhật Bản thuộc tông Lâm Tế, đắc pháp nơi Thiền sư Vô Môn Huệ Khai. Sư là người mang tập Công án quan trọng Vô môn quan sang Nhật và phổ biến phương pháp quán công án tại đây.

Sư sinh trưởng tại Nagano, xuất gia năm 14 tuổi và thụ giới cụ túc năm 28 tuổi. Ban đầu Sư tu tập theo Chân ngôn tông trên núi Cao Dã (kōya) và cũng nơi đây, Sư tiếp xúc với Thiền tông lần đầu qua một vị đệ tử của sư Minh Am Vinh Tây (myōan eisai) là Thối Canh Hành Dũng (退 耕 行 勇; j: taikō gyōyū). Sau đó, Sư tham học với nhiều vị Thiền sư đương thời, trong đó có cả Thiền sư Ðạo Nguyên Hi Huyền (dōgen kigen). Năm 1249, Sư cất bước sang Trung Quốc du học, một cuộc hành trình kéo dài gần sáu năm (1249-1254).

Ðến Trung Quốc, Sư có nguyện vọng tham học nơi Thiền sư Vô Chuẩn Sư Phạm nhưng vị Thiền sư danh tiếng này đã qua đời và vì thế, Sư cất bước chu du khắp nơi. Trong cuộc hành trình này, Sư cũng có dịp tiếp xúc với các Thiền sư thuộc Phổ Hóa tông và học cách thổi sáo Xích bát (尺 八; j: shakuhachi) của họ – một cách nhiếp tâm khác thay vì tụng kinh Niệm Phật. Ðược một bạn đạo đồng hương khuyên, Sư đến Thiền sư Vô Môn Huệ Khai – vị Thiền sư danh tiếng nhất đương thời – cầu học yếu chỉ Thiền. Cuộc gặp gỡ này xảy ra một cách rất thân mật. Khi thấy vị khách hiếu học từ Nhật đến, sư Huệ Khai hỏi ngay: »Chẳng có cửa nào để vào đây, ngươi vào thế nào được?« Sư đáp: »Con đến từ nơi không cửa (vô môn).« Huệ Khai hỏi tiếp: »Ngươi tên gì?« Sư thưa: »Giác Tâm.« Sư Huệ Khai liền làm ngay bài kệ:

Tâm chính là Phật

Phật chính là Tâm

Quá khứ, hiện tại

Phật Tâm như nhau

Chỉ sau sáu tháng tu tập, Sư được Huệ Khai Ấn khả. Trước khi rời thầy, Sư được Huệ Khai chính tay trao cho cà-sa, một bức chân dung và một bản của Vô môn quan.

Sau khi trở về Nhật, Sư lưu lại một thời gian tại núi Cao Dã và không bao lâu, Sư sáng lập một thiền viện tại Wakayama với tên Tây Phương tự (saihō-ji) – sau được đổi tên là Hưng Quốc tự (kōkoku-ji) – nơi Sư trụ trì 40 năm sau đó. Sư được các vị Nhật hoàng mời đến Kinh Ðô (kyōto) nhiều lần thuyết pháp và được phong danh hiệu Pháp Ðăng Viên Minh Quốc sư (hottō emmyō kokushi).

Sư truyền dòng Thiền Lâm Tế hệ phái Dương Kì (yōgi-ha) tại Nhật và được xem là một trong những Ðại Thiền sư nơi đây. Sư sử dụng phương pháp quán công án để hướng dẫn các đệ tử trên đường Giác ngộ và công án thường được Sư sử dụng nhất là công án thứ nhất, »Vô« của Vô môn quan. Ngoài phương pháp quán công án, Sư cũng chú trọng đến việc thực hành các nghi lễ theo Chân ngôn tông. Ngoài các việc nói trên, Sư cũng được xem là người truyền tông Phổ Hóa sang Nhật, một tông phái tồn tại đến thời cận đại.

Sư và các môn đệ sau vài thế hệ thành lập một hệ phái trong tông Lâm Tế tại Nhật Bản, được gọi là Pháp Ðăng phái (hottō-ha). Thành tựu lớn của Sư được xem là việc đem tập Vô môn quan sang Nhật. Không bao lâu sau đó, tập công án quan trọng thứ hai của tông Lâm Tế là Bích nham lục (j: hekigan-roku) cũng được truyền sang đây và như vậy, hai tác phẩm căn bản của tông này đã có mặt, việc truyền bá Thiền đã đứng vững.