慧 文 ; C: huìwén; tk. 5-6, cũng được gọi là Bắc Tề Tôn giả ( 北 齊 尊 者 );
Cao tăng Trung Quốc, sống vào thời Bắc Tề, được xem là Tổ thứ hai của Thiên Thai tông sau Long Thụ. Người nối pháp của Sư là Huệ Tư.
Sư họ Cao, người Bột Hải, thuộc tỉnh Sơn Ðông. Sư xuất gia từ nhỏ, thông minh hơn người và tinh tiến tu học. Một hôm, Sư xem luận Ðại trí độ ( 大 智 度; s: mahāprajñāpāramitā-śāstra) của Long Thụ bỗng nhiên có tỉnh và sau đó, khi đọc Trung quán luận (s: madhyamakaśāstra), phẩm Quán thánh đế đến bài kệ:
Các pháp do nhân duyên sinh ra
Ta nói tất cả đều là Không
Cũng chỉ là giả danh tạm gọi
Cũng chính là lí nghĩa Trung đạo
Sư thông suốt được huyền nghĩa Trung đạo là »Không hữu bất nhị« ( 空 有 不 二). Sư từ đây căn cứ vào giáo lí của Long Thụ mà xiển dương Phật pháp. Sau, Sư đến vùng Hoàng Hà, truyền bá giáo pháp Ðại thừa, chúng theo học có hơn ngàn người. Tại Hà Nam, Sư truyền giáo pháp lại cho sư Huệ Tư, Tổ thứ ba và từ đây, mầm mống của tông Thiên Thai được hình thành.
Không biết Sư tịch nơi nào, năm nào.