Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 41: Đạt Ma làm yên lòng (Đạt Ma an tâm)[1].

達磨安心

Bản tắc:

Đạt Ma[2] quay mặt vào vách tọa thiền. Nhị Tổ Huệ Khả[3] cứ đứng mãi trong tuyết. Tự chặt rụng cánh tay mình và nói:

-Tâm đệ tử hãy còn bất an. Xin thầy giúp cho được yên.

Đạt Ma mới bảo:

-Được, đem cái tâm đến đây cho ta. Ta sẽ vì ngươi giúp cho nó được yên.

Nhị Tổ Huệ Khả trả lời:

-Thưa đã cố tìm khắp mọi nơi nhưng chẳng thấy cái tâm của mình ở đâu cả.

Đạt Ma đáp:

-Như thế ta đã làm cho tâm ngươi yên xong rồi đấy.

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Cái lão Hồ móm mém (khuyết xỉ lão Hồ)[4] vượt vạn dặm đường biển lặn lội[5] đến đây, đúng là đã gây ra điều phiền phức như lúc không có gió mà lại dậy sóng. Đến khi sắp chết rốt cuộc mới có được một mống đệ tử để truyền nghề mà xem ra hắn là dân chưa có đủ căn cơ. Hỡi ôi, sao giống như cái anh Tạ Tam Lang, đúng là dân mù chữ[6].

 

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Tây lai trực chỉ,
Sự nhân chúc
[7] khỉ.
Nạo quát
[8] tùng lâm,
Nguyên lai thị nhĩ.

西 來 直 指 
事 因 囑 起 
聒 叢 林 
原 來 是 你 

(Đi thẳng về Đông từ phương Tây,
Dặn dò? Chỉ vẽ chuyện như ngây!
Giờ còn làm nhặng inh thiền tự,
Trăm sự đều do một chú mầy!)

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Tổ sư Đạt Ma chín năm trời quay vào vách tọa thiền. Lúc đã về già, ông mới từ bên Thiên Trúc xa xôi đến Trung Quốc để tìm người có đủ căn cơ mà truyền đạo pháp. Có lúc, Thần Quang, sau này sẽ là Nhị Tổ Huệ Khả, đứng chờ trong tuyết mà Đạt Ma vẫn không thèm quay lại. Cho đến khi người học trò kiên quyết đi tìm lẽ đạo đến nổi tự chặt cả tay mình thì ông mới chịu quay lại đối đáp về cái Tâm.

Câu trả lời của Nhị Tổ nguyên văn: Mịch tâm liễu, bất khẳ đắc. Dịch thử: “Đã tìm cái Tâm xong, nhưng hoàn toàn không lấy được”. “Liễu bất...” ở đây có nghĩa là “rồi mà không...”, “rốt cục không...”. Thâu lượm một chữ “liễu” này, Thần Quang đã tinh tiến để đủ sức thấy được sự an tâm, điều mà từ bao lâu nay, ông vẫn chờ đợi. Các bậc tiền bối ở nước ta đã có người giải thích như vậy.

Ngoài ra “bất khả đắc” dịch “không lấy được” hàm ý “không nắm bắt được với tính cách một đối tượng”. Cái gọi là Tâm, khi ở tư thế chủ thể thì tác động, rồi chính nó lại máy động để thử trở thành cái nó muốn là, cho nên không thể nào coi như một khách thể để nắm bắt. Cho nên phải nói rằng đặc tính “không thể nắm bắt được” (bất khả đắc) chẳng qua là bản chất của Tâm mà thôi. Cụm từ này về sau sẽ được Phật giáo Đại Thừa cô đọng lại trong một chữ thôi, đó là chữ “Không”, nó đồng nghĩa với “phi thực thể”, “vô tự tính” và được xem như là thực tướng của “chân như”.

Nhị Tổ bộc bạch: “Tâm đệ tử chưa yên” và ông “muốn Tâm được yên”, đi cầu sự an tâm. Đạt Ma mới đòi đưa cho mình xem “Cái Tâm chưa được yên” đó. Dĩ nhiên đào đâu ra một cái Tâm như thế. Có lẽ lúc đó phải là lúc phải nỗ lực “làm yên” “cái Tâm chưa được yên” đó.

Thế nhưng việc “thử làm sao cho Tâm mình yên” tự thể đã “làm cho Tâm mình bất an” chứ không có gì khác. Nỗ lực “đừng làm động Tâm” ngược lại đã là nguyên nhân “động cái Tâm”. Nói cách khác, nó giống như dùng máu để rửa vết máu. Cho dù vệt máu trước có sạch nhưng vẫn bị ố vì vệt máu sau. 

Tuy hãy còn có thể giải quyết bằng cách nhắm vào mục đích nào đó, đề ra một lý tưởng, rồi tìm cách thực hiện lý tưởng đó. Ấy là một phương sách có tính cách lý tưởng chủ nghĩa, nhưng nó lại đi ngược với con đường tu hành của nhà Phật. Muốn có “an tâm”, muốn có “bất động tâm”, muốn có “vô tâm” ư ? Tất cả tự thể là những lầm lẫn. Chỉ đến khi nói lên được câu: “Đã cố tìm khắp mọi nơi nhưng chẳng thấy cái tâm của mình ở đâu cả”, Nhị Tổ mới tự nhiên đạt đến cảnh địa của sự vô tâm chân thực hay đạt cái đạo gọi là “bất nghĩ chi đạo” (không mô phỏng, không nhắm tới mà thành tựu). Lúc ấy, cả đại sư lẫn nhị tổ đều có cùng một tâm cảnh “diệu tâm” hay “tâm vô tâm” như nhau. Không còn cần ngôn ngữ hay văn tự để thuyết minh, tâm của cả hai đã hợp thành một. Đồng kính tương đối, trung tâm vô ảnh tượng (Đặt hai cái kính đối xứng với nhau, ở giữa sẽ không có hình ảnh). Câu nói cuối cùng của đại sư (Ta đã làm cho tâm ngươi yên xong rồi đấy!) có nghĩa là: “Tâm cảnh ấy đấy!” Đúng nó rồi!” và chứng minh được việc các thầy thiền đã “dĩ tâm truyền tâm” cho học trò như thế nào.

Những lời dè bĩu trong lời bình xướng và tụng của Vô Môn (ông thầy khuyết răng, học trò tự chặt tay không đủ lục căn, anh chàng mù chữ, kẻ làm nhặng inh chùa chiền...) chỉ là cách ăn nói quặt quẹo của ông để tán thán công đức và tỏ lòng ngưỡng mộ đối với tổ sư chứ không gì khác.


 


[1] Thoại này có chép trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 3 và Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 1 chương noi về Đạt Ma Tổ Sư.

[2] Dịch âm Bồ Đề Đạt Ma từ Phạn ngữ Bodhidharma, từ xưa vẫn viết gọn là Đạt Ma. Không rõ năm sinh năm mất vì có nhiều thuyết (? - 495 hay ? - 436 hay ? - 528). Được coi như tổ thứ nhất của dòng thiền Trung Quốc nhưng điều này chưa hội đủ chứng cứ lịch sử. Có thuyết cho rằng tập sách dài “Nhị nhập tứ hàng” đào lên được ở Đôn Hoàng Sơn là sách chép lời của ông và dựa đó, có thể hiểu phần nào tư tưởng của ông. Tiểu sử có chép trong Lạc Dương Già Lam Ký, Tục Cao Tăng Truyện và nhiều sử thư khác.

[3] Huệ Khả Đại Tổ Thiền Sư (487-593) tên là Thần Quang, người đời Tùy, nắm được tinh túy của Thiền Tông của Đạt Ma và trở thành tổ thứ hai. Tiểu sử có chép trong Tổ Đường Tập quyển 2, Tục Cao Tăng Truyện quyển 16 và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 3..

[4] Tương truyền Đạt Ma bị các học giả các giáo phái như Bồ Đề Lưu Chi căm ghét, đánh thuốc độc, tuy thoát chết nhưng rụng hết răng. Do đó có dị danh “khuyết xỉ lão Hồ”.

[5] Đặc đặc (hiểu như đắc đắc trong tắc 28), có nghĩa là “cố tình”.

[6] Nhiều người dịch là “không biết chữ Tứ” nhưng Eshin dẫn tích tăng Huyền Sa Sư Bị (835-908) nguyên là con thứ ba nhà họ Tạ, vốn mù chữ, ngay cả 4 chữ (tứ tự) viết trên đồng tiền cũng không mò ra. Ở đây hàm ý chê bai (giả vờ) Đạt Ma để nâng lên (áp hạ thác thượng).

[7] Chúc: giao phó, dặn dò (như trong chữ di chúc)

[8] Nạo quát: quấy nhiễu (nạo), làm om sòm (quát).Nói lãi nhãi, làm kinh động.


 

Trở về



Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 41: Đạt Ma làm yên lòng (Đạt Ma an tâm)[1].

達磨安心

Bản tắc:

Đạt Ma[2] quay mặt vào vách tọa thiền. Nhị Tổ Huệ Khả[3] cứ đứng mãi trong tuyết. Tự chặt rụng cánh tay mình và nói:

-Tâm đệ tử hãy còn bất an. Xin thầy giúp cho được yên.

Đạt Ma mới bảo:

-Được, đem cái tâm đến đây cho ta. Ta sẽ vì ngươi giúp cho nó được yên.

Nhị Tổ Huệ Khả trả lời:

-Thưa đã cố tìm khắp mọi nơi nhưng chẳng thấy cái tâm của mình ở đâu cả.

Đạt Ma đáp:

-Như thế ta đã làm cho tâm ngươi yên xong rồi đấy.

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Cái lão Hồ móm mém (khuyết xỉ lão Hồ)[4] vượt vạn dặm đường biển lặn lội[5] đến đây, đúng là đã gây ra điều phiền phức như lúc không có gió mà lại dậy sóng. Đến khi sắp chết rốt cuộc mới có được một mống đệ tử để truyền nghề mà xem ra hắn là dân chưa có đủ căn cơ. Hỡi ôi, sao giống như cái anh Tạ Tam Lang, đúng là dân mù chữ[6].

 

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Tây lai trực chỉ,
Sự nhân chúc
[7] khỉ.
Nạo quát
[8] tùng lâm,
Nguyên lai thị nhĩ.

西 來 直 指 
事 因 囑 起 
聒 叢 林 
原 來 是 你 

(Đi thẳng về Đông từ phương Tây,
Dặn dò? Chỉ vẽ chuyện như ngây!
Giờ còn làm nhặng inh thiền tự,
Trăm sự đều do một chú mầy!)

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Tổ sư Đạt Ma chín năm trời quay vào vách tọa thiền. Lúc đã về già, ông mới từ bên Thiên Trúc xa xôi đến Trung Quốc để tìm người có đủ căn cơ mà truyền đạo pháp. Có lúc, Thần Quang, sau này sẽ là Nhị Tổ Huệ Khả, đứng chờ trong tuyết mà Đạt Ma vẫn không thèm quay lại. Cho đến khi người học trò kiên quyết đi tìm lẽ đạo đến nổi tự chặt cả tay mình thì ông mới chịu quay lại đối đáp về cái Tâm.

Câu trả lời của Nhị Tổ nguyên văn: Mịch tâm liễu, bất khẳ đắc. Dịch thử: “Đã tìm cái Tâm xong, nhưng hoàn toàn không lấy được”. “Liễu bất...” ở đây có nghĩa là “rồi mà không...”, “rốt cục không...”. Thâu lượm một chữ “liễu” này, Thần Quang đã tinh tiến để đủ sức thấy được sự an tâm, điều mà từ bao lâu nay, ông vẫn chờ đợi. Các bậc tiền bối ở nước ta đã có người giải thích như vậy.

Ngoài ra “bất khả đắc” dịch “không lấy được” hàm ý “không nắm bắt được với tính cách một đối tượng”. Cái gọi là Tâm, khi ở tư thế chủ thể thì tác động, rồi chính nó lại máy động để thử trở thành cái nó muốn là, cho nên không thể nào coi như một khách thể để nắm bắt. Cho nên phải nói rằng đặc tính “không thể nắm bắt được” (bất khả đắc) chẳng qua là bản chất của Tâm mà thôi. Cụm từ này về sau sẽ được Phật giáo Đại Thừa cô đọng lại trong một chữ thôi, đó là chữ “Không”, nó đồng nghĩa với “phi thực thể”, “vô tự tính” và được xem như là thực tướng của “chân như”.

Nhị Tổ bộc bạch: “Tâm đệ tử chưa yên” và ông “muốn Tâm được yên”, đi cầu sự an tâm. Đạt Ma mới đòi đưa cho mình xem “Cái Tâm chưa được yên” đó. Dĩ nhiên đào đâu ra một cái Tâm như thế. Có lẽ lúc đó phải là lúc phải nỗ lực “làm yên” “cái Tâm chưa được yên” đó.

Thế nhưng việc “thử làm sao cho Tâm mình yên” tự thể đã “làm cho Tâm mình bất an” chứ không có gì khác. Nỗ lực “đừng làm động Tâm” ngược lại đã là nguyên nhân “động cái Tâm”. Nói cách khác, nó giống như dùng máu để rửa vết máu. Cho dù vệt máu trước có sạch nhưng vẫn bị ố vì vệt máu sau. 

Tuy hãy còn có thể giải quyết bằng cách nhắm vào mục đích nào đó, đề ra một lý tưởng, rồi tìm cách thực hiện lý tưởng đó. Ấy là một phương sách có tính cách lý tưởng chủ nghĩa, nhưng nó lại đi ngược với con đường tu hành của nhà Phật. Muốn có “an tâm”, muốn có “bất động tâm”, muốn có “vô tâm” ư ? Tất cả tự thể là những lầm lẫn. Chỉ đến khi nói lên được câu: “Đã cố tìm khắp mọi nơi nhưng chẳng thấy cái tâm của mình ở đâu cả”, Nhị Tổ mới tự nhiên đạt đến cảnh địa của sự vô tâm chân thực hay đạt cái đạo gọi là “bất nghĩ chi đạo” (không mô phỏng, không nhắm tới mà thành tựu). Lúc ấy, cả đại sư lẫn nhị tổ đều có cùng một tâm cảnh “diệu tâm” hay “tâm vô tâm” như nhau. Không còn cần ngôn ngữ hay văn tự để thuyết minh, tâm của cả hai đã hợp thành một. Đồng kính tương đối, trung tâm vô ảnh tượng (Đặt hai cái kính đối xứng với nhau, ở giữa sẽ không có hình ảnh). Câu nói cuối cùng của đại sư (Ta đã làm cho tâm ngươi yên xong rồi đấy!) có nghĩa là: “Tâm cảnh ấy đấy!” Đúng nó rồi!” và chứng minh được việc các thầy thiền đã “dĩ tâm truyền tâm” cho học trò như thế nào.

Những lời dè bĩu trong lời bình xướng và tụng của Vô Môn (ông thầy khuyết răng, học trò tự chặt tay không đủ lục căn, anh chàng mù chữ, kẻ làm nhặng inh chùa chiền...) chỉ là cách ăn nói quặt quẹo của ông để tán thán công đức và tỏ lòng ngưỡng mộ đối với tổ sư chứ không gì khác.


 


[1] Thoại này có chép trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 3 và Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 1 chương noi về Đạt Ma Tổ Sư.

[2] Dịch âm Bồ Đề Đạt Ma từ Phạn ngữ Bodhidharma, từ xưa vẫn viết gọn là Đạt Ma. Không rõ năm sinh năm mất vì có nhiều thuyết (? - 495 hay ? - 436 hay ? - 528). Được coi như tổ thứ nhất của dòng thiền Trung Quốc nhưng điều này chưa hội đủ chứng cứ lịch sử. Có thuyết cho rằng tập sách dài “Nhị nhập tứ hàng” đào lên được ở Đôn Hoàng Sơn là sách chép lời của ông và dựa đó, có thể hiểu phần nào tư tưởng của ông. Tiểu sử có chép trong Lạc Dương Già Lam Ký, Tục Cao Tăng Truyện và nhiều sử thư khác.

[3] Huệ Khả Đại Tổ Thiền Sư (487-593) tên là Thần Quang, người đời Tùy, nắm được tinh túy của Thiền Tông của Đạt Ma và trở thành tổ thứ hai. Tiểu sử có chép trong Tổ Đường Tập quyển 2, Tục Cao Tăng Truyện quyển 16 và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 3..

[4] Tương truyền Đạt Ma bị các học giả các giáo phái như Bồ Đề Lưu Chi căm ghét, đánh thuốc độc, tuy thoát chết nhưng rụng hết răng. Do đó có dị danh “khuyết xỉ lão Hồ”.

[5] Đặc đặc (hiểu như đắc đắc trong tắc 28), có nghĩa là “cố tình”.

[6] Nhiều người dịch là “không biết chữ Tứ” nhưng Eshin dẫn tích tăng Huyền Sa Sư Bị (835-908) nguyên là con thứ ba nhà họ Tạ, vốn mù chữ, ngay cả 4 chữ (tứ tự) viết trên đồng tiền cũng không mò ra. Ở đây hàm ý chê bai (giả vờ) Đạt Ma để nâng lên (áp hạ thác thượng).

[7] Chúc: giao phó, dặn dò (như trong chữ di chúc)

[8] Nạo quát: quấy nhiễu (nạo), làm om sòm (quát).Nói lãi nhãi, làm kinh động.


 

Trở về