Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 2: Chồn hoang của Bách Trượng (Bách Trượng dã hồ)[1].

百丈野狐

Bản tắc:

Cứ mỗi khi hòa thượng Bách Trượng[2] thuyết pháp, thường có một lão già đi sau tăng chúng đến nghe. Khi các thiền sinh rút lui, lão cũng bước ra theo. Thế rồi một hôm, lão bỗng không lui mà nán lại giảng đường.Lúc đó, Bách Trượng mới hỏi:

-Người đứng trước mặt ta, ông là ai vậy?

Lão già thưa:

-Tôi không phải loài người. Xửa xưa, thời Phật Ca Diếp[3], tôi đã trụ trì ở núi này. Một hôm, đệ tử có người hỏi rằng người tu hành đạo Phật đến chỗ cao diệu vẫn còn có thể sa vào vòng nhân quả[4] khổ đau hay không.Tôi mới trả lời là không, người như thế không sa vào vòng nhân quả. Vì nói vậy mà suốt một thời gian dài tôi sa vào súc sinh đạo, bị đọa làm thân chồn hoang, cho đến nay đã trải qua năm trăm kiếp. Vậy xin thầy ban cho tôi một câu trả lời đúng để tôi có thể thoát ra khỏi kiếp chồn.

Nói xong, lão đặt lại câu hỏi cho Bách Trượng:

-Thế thì người tu hành đạo Phật đến chỗ cao diệu vẫn còn có thể sa vào vòng nhân quả khổ đau hay sao?

Hòa thượng mới trả lời:

-Không mê muội nhân quả.

Lúc đó, lão già chợt đại ngộ, vái lạy hòa thượng Bách Trượng và nói:

-Như thế thì tôi đã thoát được kiếp chồn. Xác của tôi bỏ lại nằm ở sau núi. Xin thầy hãy lấy lễ chư tăng mà chôn cất cho.

Hòa thượng bèn lệnh cho tăng giữ chức duy na[5] thông tin[6] để chúng tăng tụ họp, báo rằng sau giờ cơm trưa sẽ làm lễ chôn cất một tăng sĩ vừa mới mất. Mọi người ngạc nhiên xôn xao: “Chúng ta mạnh khỏe như thế này, ở Niết Bàn Đường[7] chẳng ai nằm bệnh cả, sao lại bảo thế”. Cơm nước xong hòa thượng hướng dẫn mọi người ra một cái hang đá phía sau núi, dùng trượng khều ra được xác chết một con chồn hoang. Bèn hỏa táng ngay. Đến chiều, hòa thượng Bách Trượng tề chỉnh uy nghi bước lên bục giảng, thuật lại mọi sự xảy ra trong ngày cho chúng tăng. Đại đệ tử là Hoàng Bá[8] nhân đó mới hỏi:

-Ngày xưa, lão già vì trả lời sai một câu hỏi mà bị đọa làm thân chồn hoang suốt năm trăm kiếp, nếu lão ta trả lời đúng thì liệu lão sẽ trở thành gì ạ?

-Ngươi tới đây. Ta sẽ vì lão già trả lời cho!

Hoàng Bá bèn tiến sát đến bên Bách Trượng, bất thần đưa tay tát vào mặt thầy[9]. Hòa thượng bèn vỗ tay cười, nói:

-Ta tưởng râu của lão Hồ[10] màu đỏ! Chẳng dè ở đây lại có lão Hồ râu đỏ thật!  

Bình xướng:

Vô Môn nói rằng:

Bảo là “Không sa vào vòng nhân quả” thì bị đọa làm chồn hoang, còn nói “Không mê muội nhân quả” lại thoát được kiếp chồn hay sao? Nếu có con mắt thứ ba [11] mà nhìn thấu suốt điểm quan trọng này thì mới biết lão già ở trong núi Bách Trượng kia đã được sống sung sướng thảnh thơi suốt ngàn vạn năm chứ có gì đâu.

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Bất lạc bất muội
Lưỡng thái
[12] nhất trại.
Bất muội bất lạc,
Thiên thác vạn thác.

不  落   
兩  釆   
不  昧   
千  錯   

(Không rơi, không lầm,
Thò lò hai mặt.
Không lầm, không rơi,             
Vạn lần sai tất)

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Công án này hơi dài.

Chắc hòa thượng Bách Trượng khi dạo núi đã tìm thấy xác chồn hoang. Từ đó ông mới dựng nên “kịch bản” này. Có thể gọi lão già trong cái xác chồn hoang là một “một hòa thượng Bách Trượng đời trước” (tiền Bách Trượng) mà chuyện về ông ấy có thật không thì không thành vấn đề. Bởi vì vừa mới đạt đến chỗ “bất lạc nhân quả” (kẻ đã ngộ đạo rồi không rơi vào sự chi phối của luật nhân quả), nhà tu hành lại sa xuống cái hố sai lầm của “sự giác ngộ về cái gọi là bình đẳng (đản không)” vì đinh ninh mình là nhân vật cao cường nhất trong núi. Đó mới là vấn đề của ông ta. Ý nghĩa của thiền kiểu chồn hoang (dã hồ thiền) là thế đấy!

Con người ta vừa mới thoát ra sự ràng buộc của cái tâm “phân biệt” và thu nhận vào lòng thế giới vô cùng rộng lớn của “bình đẳng”, không nhiều thời ít, có lúc say sưa vì cái tâm cảnh mình vừa tiếp thu được nên có khuynh hướng trở thành một “ma vương gây trở ngại cho việc tu thiền” (thiền thiên ma).Ngay cả thiền sư Hakuin [13] năm 24 tuổi, khi giác ngộ được về chữ Vô cũng có thái độ ngạo mạn về trình độ của mình. Đến khi gặp Shôju Rôjin (Chính Thụ Lão Nhân) chỉ bảo, mới phản tỉnh về sự sai lầm đó.

Theo lời bình của hòa thượng Vô Môn, không thể giải thích “bất lạc nhân quả” là sai hay “bất muội nhân quả” là đúng được. Dùng “con mắt thứ ba” mà hiểu thì mới thấy ông Bách Trượng đời trước đã sống năm trăm kiếp hạnh phúc trong thân xác chồn hoang của mình.

Vì một lời“bất lạc”, mắc phải sai lầm thành chồn hoang. Nhưng trả lời “bất muội” để thoát kiếp chồn lại là cái sai lầm thứ hai. Chồn mà cứ vui sống kiếp chồn, không thèm thuồng chi khác là đáng gọi là Phật rồi. Người mà không thỏa mãn sống làm người, luôn luôn đi tìm những gì đâu đâu thì đáng gọi là chồn vậy.

Thành ra ở chỗ nào cũng là trong vòng nhân quả, lúc nào cũng phải theo luật nhân quả. Bậc đại tu hành không phải tìm kiếm gì ở bên ngoài. Như Suzuki Daisetsu (dùng chữ “trửu quăng” (khoanh cùi chỏ) có chép trong thiên Tập Nhi sách Luận Ngữ) nói phải “tự khoành tay mình làm chỗ gối đầu cho mình”, vui với cái mình có. Ở trong sự “bình đẳng” (chân không vô tướng) phải có sự “dị biệt”[14] (chân không diệu hữu). Cái “bình đẳng sai lầm” (ác bình đẳng) do không biết có sự dị biệt ấy gọi là “thiền kiểu chồn hoang” (dã hồ thiền) vậy.


 


[1] Truyện có chép trong Bách Trượng Ngữ Lục và Ngũ Đăng Hội Nguyên (quyển 3, chương Bách Trượng Đại Trí).

[2] Tức Bách Trượng Hoài Hải (720?749? - 814), thiền sư đời Đường, người nhận pháp tự của Mã Tổ Đạo Nhất (709-788), đã đặt ra Bách Trượng Thanh Qui để qui định hình thức sinh hoạt của thiền viện. Ngoài ra có để lại Bách Trượng Hoài Hải Thiền Sư Quảng Lục và Bách Trượng Sơn Đại Trí Thiền sư Ngữ Lục. Truyện về ông chép trong Toàn Đường Văn, Tổ Đường Tập, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên.

[3] Tiếng Pali là Kassapa Buddha, Phật đứng hàng thứ sáu trong bảy vị cổ Phật. Thời Phật Ca Diếp ý nói đã lâu lắm, trước khi Phật Thích Ca còn chưa ra đời (theo kinh Trường A Hàm).

[4] Phạn ngữ là hetu-phala. Lý nhân quả ứng báo (thiện nhân thiện quả, ác nhân ác quả).

[5] Người giữ kỷ cương. Đây chỉ nhân vật có nhiệm vụ trông coi chư tăng trong chùa.

[6] Nguyên văn “bạch chùy cáo chúng” tức dùng chày đánh vào mõ lớn để thông tin.

[7] Niết Bàn Đường còn gọi là Diên Thọ Đường, nới tăng sĩ có bệnh đến chữa trị, nghỉ ngơi.

[8] Tức Hoàng Bá Hy Vận. Không rõ năm sinh năm mất, chỉ biết ông là một đại thiền sư đời Đường, đã nhận pháp tự của Bách Trượng Hoài Hải. Có để lại ngữ lục “Truyền Tâm Pháp Yếu”. Tiểu truyện của ông thấy chép trong Tổ Đường Lục, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và Tống Cao Tăng Truyện.

[9] Để chứng tỏ mình hiểu thế nào là cái tâm vô phân biệt.

[10] Hồ là dân tộc vùng Trung Á. Đây ám chỉ Phật hay sư tổ Đạt Ma, đều là người ngoại quốc. Câu nói: “Tương vị hồ tu xích cánh hữu xích tu hồ” trong nguyên văn là một thành ngữ có ý khen ngợi: “Chỉ có người đồng điệu, tri kỷ mới hiểu nhau”.

[11] Nguyên văn “nhất chích nhãn” (một con mắt) giúp ta nhìn thấy chân lý. Con mắt thứ ba ngoài hai nhục nhãn (của người trần mắt thịt). Có thể hiểu như trực giác.

[12] Thái là một mặt của quân xúc xắc.Trại (còn đọc là tái) tức một lần đánh cuộc để thắng phụ.

[13] Đại thiền sư Nhật Bản phái Lâm Tế sống vào giữa thời Edo, Hakuin Eikaku (Bạch Ẩn, Huệ Hạc, 1685-1768) là một tăng sĩ du hành, có công phục hưng môn phái của mình. Giỏi về thiền họa và để lại nhiều trước tác.

[14] Tưởng chừng như mâu thuẫn nhưng thiết nghĩ cái tâm không phân biệt cần dẹp bỏ và sự dị biệt lúc nào cũng tàng ẩn trong bình đẳng là hai khái niệm thuộc hai phạm trù khác nhau (LND).

 

 Trở về



Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 2: Chồn hoang của Bách Trượng (Bách Trượng dã hồ)[1].

百丈野狐

Bản tắc:

Cứ mỗi khi hòa thượng Bách Trượng[2] thuyết pháp, thường có một lão già đi sau tăng chúng đến nghe. Khi các thiền sinh rút lui, lão cũng bước ra theo. Thế rồi một hôm, lão bỗng không lui mà nán lại giảng đường.Lúc đó, Bách Trượng mới hỏi:

-Người đứng trước mặt ta, ông là ai vậy?

Lão già thưa:

-Tôi không phải loài người. Xửa xưa, thời Phật Ca Diếp[3], tôi đã trụ trì ở núi này. Một hôm, đệ tử có người hỏi rằng người tu hành đạo Phật đến chỗ cao diệu vẫn còn có thể sa vào vòng nhân quả[4] khổ đau hay không.Tôi mới trả lời là không, người như thế không sa vào vòng nhân quả. Vì nói vậy mà suốt một thời gian dài tôi sa vào súc sinh đạo, bị đọa làm thân chồn hoang, cho đến nay đã trải qua năm trăm kiếp. Vậy xin thầy ban cho tôi một câu trả lời đúng để tôi có thể thoát ra khỏi kiếp chồn.

Nói xong, lão đặt lại câu hỏi cho Bách Trượng:

-Thế thì người tu hành đạo Phật đến chỗ cao diệu vẫn còn có thể sa vào vòng nhân quả khổ đau hay sao?

Hòa thượng mới trả lời:

-Không mê muội nhân quả.

Lúc đó, lão già chợt đại ngộ, vái lạy hòa thượng Bách Trượng và nói:

-Như thế thì tôi đã thoát được kiếp chồn. Xác của tôi bỏ lại nằm ở sau núi. Xin thầy hãy lấy lễ chư tăng mà chôn cất cho.

Hòa thượng bèn lệnh cho tăng giữ chức duy na[5] thông tin[6] để chúng tăng tụ họp, báo rằng sau giờ cơm trưa sẽ làm lễ chôn cất một tăng sĩ vừa mới mất. Mọi người ngạc nhiên xôn xao: “Chúng ta mạnh khỏe như thế này, ở Niết Bàn Đường[7] chẳng ai nằm bệnh cả, sao lại bảo thế”. Cơm nước xong hòa thượng hướng dẫn mọi người ra một cái hang đá phía sau núi, dùng trượng khều ra được xác chết một con chồn hoang. Bèn hỏa táng ngay. Đến chiều, hòa thượng Bách Trượng tề chỉnh uy nghi bước lên bục giảng, thuật lại mọi sự xảy ra trong ngày cho chúng tăng. Đại đệ tử là Hoàng Bá[8] nhân đó mới hỏi:

-Ngày xưa, lão già vì trả lời sai một câu hỏi mà bị đọa làm thân chồn hoang suốt năm trăm kiếp, nếu lão ta trả lời đúng thì liệu lão sẽ trở thành gì ạ?

-Ngươi tới đây. Ta sẽ vì lão già trả lời cho!

Hoàng Bá bèn tiến sát đến bên Bách Trượng, bất thần đưa tay tát vào mặt thầy[9]. Hòa thượng bèn vỗ tay cười, nói:

-Ta tưởng râu của lão Hồ[10] màu đỏ! Chẳng dè ở đây lại có lão Hồ râu đỏ thật!  

Bình xướng:

Vô Môn nói rằng:

Bảo là “Không sa vào vòng nhân quả” thì bị đọa làm chồn hoang, còn nói “Không mê muội nhân quả” lại thoát được kiếp chồn hay sao? Nếu có con mắt thứ ba [11] mà nhìn thấu suốt điểm quan trọng này thì mới biết lão già ở trong núi Bách Trượng kia đã được sống sung sướng thảnh thơi suốt ngàn vạn năm chứ có gì đâu.

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Bất lạc bất muội
Lưỡng thái
[12] nhất trại.
Bất muội bất lạc,
Thiên thác vạn thác.

不  落   
兩  釆   
不  昧   
千  錯   

(Không rơi, không lầm,
Thò lò hai mặt.
Không lầm, không rơi,             
Vạn lần sai tất)

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Công án này hơi dài.

Chắc hòa thượng Bách Trượng khi dạo núi đã tìm thấy xác chồn hoang. Từ đó ông mới dựng nên “kịch bản” này. Có thể gọi lão già trong cái xác chồn hoang là một “một hòa thượng Bách Trượng đời trước” (tiền Bách Trượng) mà chuyện về ông ấy có thật không thì không thành vấn đề. Bởi vì vừa mới đạt đến chỗ “bất lạc nhân quả” (kẻ đã ngộ đạo rồi không rơi vào sự chi phối của luật nhân quả), nhà tu hành lại sa xuống cái hố sai lầm của “sự giác ngộ về cái gọi là bình đẳng (đản không)” vì đinh ninh mình là nhân vật cao cường nhất trong núi. Đó mới là vấn đề của ông ta. Ý nghĩa của thiền kiểu chồn hoang (dã hồ thiền) là thế đấy!

Con người ta vừa mới thoát ra sự ràng buộc của cái tâm “phân biệt” và thu nhận vào lòng thế giới vô cùng rộng lớn của “bình đẳng”, không nhiều thời ít, có lúc say sưa vì cái tâm cảnh mình vừa tiếp thu được nên có khuynh hướng trở thành một “ma vương gây trở ngại cho việc tu thiền” (thiền thiên ma).Ngay cả thiền sư Hakuin [13] năm 24 tuổi, khi giác ngộ được về chữ Vô cũng có thái độ ngạo mạn về trình độ của mình. Đến khi gặp Shôju Rôjin (Chính Thụ Lão Nhân) chỉ bảo, mới phản tỉnh về sự sai lầm đó.

Theo lời bình của hòa thượng Vô Môn, không thể giải thích “bất lạc nhân quả” là sai hay “bất muội nhân quả” là đúng được. Dùng “con mắt thứ ba” mà hiểu thì mới thấy ông Bách Trượng đời trước đã sống năm trăm kiếp hạnh phúc trong thân xác chồn hoang của mình.

Vì một lời“bất lạc”, mắc phải sai lầm thành chồn hoang. Nhưng trả lời “bất muội” để thoát kiếp chồn lại là cái sai lầm thứ hai. Chồn mà cứ vui sống kiếp chồn, không thèm thuồng chi khác là đáng gọi là Phật rồi. Người mà không thỏa mãn sống làm người, luôn luôn đi tìm những gì đâu đâu thì đáng gọi là chồn vậy.

Thành ra ở chỗ nào cũng là trong vòng nhân quả, lúc nào cũng phải theo luật nhân quả. Bậc đại tu hành không phải tìm kiếm gì ở bên ngoài. Như Suzuki Daisetsu (dùng chữ “trửu quăng” (khoanh cùi chỏ) có chép trong thiên Tập Nhi sách Luận Ngữ) nói phải “tự khoành tay mình làm chỗ gối đầu cho mình”, vui với cái mình có. Ở trong sự “bình đẳng” (chân không vô tướng) phải có sự “dị biệt”[14] (chân không diệu hữu). Cái “bình đẳng sai lầm” (ác bình đẳng) do không biết có sự dị biệt ấy gọi là “thiền kiểu chồn hoang” (dã hồ thiền) vậy.


 


[1] Truyện có chép trong Bách Trượng Ngữ Lục và Ngũ Đăng Hội Nguyên (quyển 3, chương Bách Trượng Đại Trí).

[2] Tức Bách Trượng Hoài Hải (720?749? - 814), thiền sư đời Đường, người nhận pháp tự của Mã Tổ Đạo Nhất (709-788), đã đặt ra Bách Trượng Thanh Qui để qui định hình thức sinh hoạt của thiền viện. Ngoài ra có để lại Bách Trượng Hoài Hải Thiền Sư Quảng Lục và Bách Trượng Sơn Đại Trí Thiền sư Ngữ Lục. Truyện về ông chép trong Toàn Đường Văn, Tổ Đường Tập, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên.

[3] Tiếng Pali là Kassapa Buddha, Phật đứng hàng thứ sáu trong bảy vị cổ Phật. Thời Phật Ca Diếp ý nói đã lâu lắm, trước khi Phật Thích Ca còn chưa ra đời (theo kinh Trường A Hàm).

[4] Phạn ngữ là hetu-phala. Lý nhân quả ứng báo (thiện nhân thiện quả, ác nhân ác quả).

[5] Người giữ kỷ cương. Đây chỉ nhân vật có nhiệm vụ trông coi chư tăng trong chùa.

[6] Nguyên văn “bạch chùy cáo chúng” tức dùng chày đánh vào mõ lớn để thông tin.

[7] Niết Bàn Đường còn gọi là Diên Thọ Đường, nới tăng sĩ có bệnh đến chữa trị, nghỉ ngơi.

[8] Tức Hoàng Bá Hy Vận. Không rõ năm sinh năm mất, chỉ biết ông là một đại thiền sư đời Đường, đã nhận pháp tự của Bách Trượng Hoài Hải. Có để lại ngữ lục “Truyền Tâm Pháp Yếu”. Tiểu truyện của ông thấy chép trong Tổ Đường Lục, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và Tống Cao Tăng Truyện.

[9] Để chứng tỏ mình hiểu thế nào là cái tâm vô phân biệt.

[10] Hồ là dân tộc vùng Trung Á. Đây ám chỉ Phật hay sư tổ Đạt Ma, đều là người ngoại quốc. Câu nói: “Tương vị hồ tu xích cánh hữu xích tu hồ” trong nguyên văn là một thành ngữ có ý khen ngợi: “Chỉ có người đồng điệu, tri kỷ mới hiểu nhau”.

[11] Nguyên văn “nhất chích nhãn” (một con mắt) giúp ta nhìn thấy chân lý. Con mắt thứ ba ngoài hai nhục nhãn (của người trần mắt thịt). Có thể hiểu như trực giác.

[12] Thái là một mặt của quân xúc xắc.Trại (còn đọc là tái) tức một lần đánh cuộc để thắng phụ.

[13] Đại thiền sư Nhật Bản phái Lâm Tế sống vào giữa thời Edo, Hakuin Eikaku (Bạch Ẩn, Huệ Hạc, 1685-1768) là một tăng sĩ du hành, có công phục hưng môn phái của mình. Giỏi về thiền họa và để lại nhiều trước tác.

[14] Tưởng chừng như mâu thuẫn nhưng thiết nghĩ cái tâm không phân biệt cần dẹp bỏ và sự dị biệt lúc nào cũng tàng ẩn trong bình đẳng là hai khái niệm thuộc hai phạm trù khác nhau (LND).

 

 Trở về