Chim Việt Cành Nam Trở Về  ]



 
 
 
Số 41 : Ngày 15 - 11 - 2010
Quê Hương - Phong tục

. Nguyễn Dư  : 

Ngày bé, mình xem Chùa Một Cột, thấy cái cột bằng gỗ, chứ không xây như bây giờ. Cột mà xây thì còn gì là hay nữa. 
(Nguyễn Công Hoan (1903-1977), Nhớ và ghi về Hà Nội, nxb Trẻ, 2004, tr. 117).

Hay hay không hay ? Cột xây hay cột gỗ ? Muốn biết thì... dựa cột mà nghe!

Đại Việt sử kí toàn thư chép : năm 1049, vua Lý Thái Tông cho xây chùa Diên Hựu. Trước đấy, vua chiêm bao thấy phật Quan Âm ngồi trên toà sen, dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, vua đem việc ấy nói với bầy tôi. Nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua dựng cột đá ở giữa ao, làm toà sen của Phật Quan Âm ở trên cột, giống như đã thấy trong mộng.

Một tấm bia, khắc năm 1665, kể rằng :
" Năm đầu niên hiệu Hàm Thông đời Đường [...], dựng một cột đá ở giữa hồ. Trên cột xây một toà lầu ngọc, trong đó đặt tượng Phật Quan Âm để thờ cúng " (...).


Francis Garnier là người chỉ huy đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất, ngày 20/11/1873. Một tháng sau thì xảy ra sự cố:

Tháng chạp năm Quý Dậu,
Sáng ngày mồng tám ta.
Ngạc Nhi thằng tướng giặc
Thừa thắng phía Tây ra.
Giong ngựa qua Cầu-giấy
Tiếng súng nổ khói loà...
(Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ 19, Văn Học, 1970, tr. 403)
Ngày 21/12/1873, được tin báo thành Hà Nội đang bị quân Cờ Đen bao vây. Garnier và Balny dẫn một đoàn quân gồm 28 lính Pháp và thêm một số lính Việt, đi bộ ra giải vây. Garnier dẫn 9 người lính chạy băng qua một cánh đồng. Lúc leo lên một con đê gần Cầu Giấy thì Garnier bị vấp ngã. Quân Cờ Đen nấp gần đấy liền xúm lại đâm chết, chặt đầu, moi tim Garnier.

Garnier bị giết. Xác Garnier được chôn ở đâu ? Hỏi gì mà vớ vẩn thế. Các cụ vẫn nói " chết là hết chuyện " cơ mà. Xin lỗi các cụ. Garnier chết, chuyện mới bắt đầu...

  . Nguyễn Thị Chân Quỳnh : 
Năm 2006, sau khi đọc trong Thế Kỷ 21 (số 201 & 202) loạt bài khẳng định ông Cát Tường - Lemur (1911- 46) là "cha đẻ ra chiếc áo dài hiện nay", "chính ông là người đầu tiên đã biến chiếc áo tứ thân thành áo hai vạt" và "trước đó phụ nữ Việt Nam đều mặc áo tứ thân"... tôi sững sờ. Rõ ràng mẹ tôi (sinh năm 1900) và bà ngoại, bà nội tôi đều chưa bao giờ xỏ tay vào chiếc áo tứ thân, toàn mặc áo hai vạt, mà mãi đến 1934 ông Cát Tường mới đưa ra "bản tuyên ngôn" về vấn đề cải cách y phục, nói rõ quan niệm căn bản của ông trong báo Phong Hóa. Ngoài ra, trong tay tôi ngay lúc ấy còn có mấy bằng chứng cho thấy áo dài hai vạt đã xuất hiện từ trước năm 1934 : ...


. Cát Hoàng : 

Đêm mất ngủ, đi dọc hiên nhà bắt gặp dáng cau sừng sững, chợt nổi niềm chuyện xưa - nay: Nắng đẹp nhất là nắng hàng cau quê ngoại (nội). Hoa đẹp nhất là hoa cau rụng trắng đêm hè. Ổ chim sáo trên ngọn cau có sức cám dỗ mãnh liệt đối với con trẻ. Và còn biết bao câu chuyện cổ tích, ca dao, thơ, nhạc,...say đắm liên quan đến...cau ơi! 
 ---> Cau ơi
Bà già có thằng con trai có cái chức cũng oai: Đội trưởng xe cộ của UBND tỉnh. Nó hứa lần hứa lựa hoài chuyện dắt Dì Năm đi thăm nghệ sĩ cải lương Lệ Thủy. Dì giận nó, nó không đưa Dì đi thì Dì tự đi. Bà già gom góp tiền bán dừa, chuối với thêm 5 giạ lúa rồi đi Sài Gòn thiệt. Hỏi rồi làm sao Dì thăm được Lệ Thủy? Dì bảo nhờ mấy người chạy xe mướn biết chỗ nào có Lệ Thủy hát thì đưa Dì tới, rốt cuộc tới rạp Quốc Thanh Dì nhờ mấy chú bảo vệ cho vô hậu trường ngồi chờ Lệ Thủy hát xong để gặp. Vậy rồi gặp thiệt, Dì mừng, Lệ Thủy cũng mừng, rồi Lệ Thủy mời Dì về nhà mình ở chơi cả tuần. Cháu biết không "nó" còn nhận Dì làm Má nuôi nữa lận!
Phóng sự 

. Anthony Ducoutumany : 

Si vous lisez ces lignes, c'est que vous devez être de ces inconditionnels du pays des Dragons et des Légendes, même des Légendes de Terres (plus tellement) Sereines. Vous avez dû y aller plus d'une fois, cela vous a sans doute beaucoup plu, et vous y retournerez bientôt, car le Vietnam est souvent à l'origine de réactions extrêmes : soit on n'aime pas du tout, et on ne reste que quelques jours, pour ne plus jamais y retourner, soit, cas beaucoup plus fréquent heureusement, on est tellement séduit par ce mélange de beautés et de laideurs que cela fascine à l'instar d'un stupéfiant. Oui pour certains le Vietnam peut être une sorte de drogue ! Jean Pierre Lartéguy a même parlé de  " mal jaune ", qui  a fasciné, fascine et fascinera plus d'un Occidental, surtout les Français, en particulier. 
. Phanxipăng : 
Ghé thăm "băm sáu phố phường" (1) vào cuối tháng 9-2010, tất cả những ai từng gắn bó ít nhiều với Hà Nội thảy đều nhận ngay ra rằng toàn thủ đô đồng loạt chuyển mình đổi khác. Cả thành phố hào hứng chuẩn bị đại lễ 1000 năm Thăng Long, tính từ lúc Lý Công Uẩn / Lý Thái Tổ ban Chiếu dời đô rồi chuyển kinh đô từ thành Hoa Lư về thành Đại La (2). Có thể xem đó chính là sinh nhật thứ 1000.
Trên mọi tuyến đường và trước cổng mọi cơ quan, bandrole cùng affiche mang nội dung Hân hoan chào mừng đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội được thể hiện bằng nhiều hình thức khá sinh động. Vỉa hè chợt thêm bao bồn hoa tươi hoặc hoa nhựa, hoa vải, hoa giấy. Chỗ nọ dựng sân khấu, chỗ kia trang trí phòng triển lãm. Và vô số doanh nghiệp, từ siêu thị tới quán nhậu, nhanh chóng tung lắm chiêu tiếp thị với sắc màu cùng giọng điệu nghìn năm một thuở.
 . Trần Kiêm Đoàn : 
Sáng Chủ Nhật (3-10-2010), tại chùa Kim Quang, thành phố thủ phủ tiểu bang California, theo sau những nghi lễ đầy âm thanh và màu sắc, tượng Phật Ngọc đã chính thức được trưng bày trước đại chúng. Hơn một trăm tăng ni và sáu nghìn người (theo quan sát và ước tính của nhật báo Sacramento Bee. Xem toàn văn tường thuật tại trang web: http://www.sacbee.com/2010/10/04/3076893/jade-buddha-draws-throng-praying.html) gồm quan khách đồng hương cũng như người nước ngoài, thân hữu và Phật tử tham dự nghi thức khai mạc lễ hội cung nghinh Phật Ngọc. Khi toàn hình ngôi tượng được trưng bày trong âm thanh trầm vọng của tiếng cầu kinh niệm Phật hòa quyện với tiếng vỗ tay nồng nhiệt của đại chúng, tôi mới chợt hiểu nghệ thuật biểu hiện tâm linh có con đường bay riêng của nó mà phương tiện diễn đạt của ngôn ngữ và tranh luận của lý trí sẽ trở thành bất lực, vô phương.
. Bình Nguyên Trang thực hiện : 
1.PV BNT: Thưa nhà thơ Hoàng Quý, xin chúc mừng ông đã giành giải Ba cuộc thi "Thơ về Hà Nội" do Báo Văn nghệ và Đài phát thanh Truyền hình Hà Nội tổ chức. Việc ông hiến tặng số tiền giải thưởng của mình cho các em khiếm thị trường THCS Nguyễn Đình Chiểu Hà Nội là một nghĩa cử đẹp, làm xúc động nhiều độc giả. Được biết năm 2003, ông cũng đã tặng toàn bộ số tiền giải Nhất - Giải thưởng của Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho Hội các nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam. Đầu năm 2009 ông cũng hiến tặng toàn bộ tiền giải thưởng của giải Nhì cuộc thi sáng tác 50 năm văn học Biên phòng vào Quỹ mái ấm cho đồng bào nghèo biên giới, hải đảo... Từ câu chuyện của ông tôi thầm nghĩ, rằng, với tài năng của mình, nhà thơ không chỉ góp phần làm giầu có đời sống tinh thần của nhân dân, mà họ còn có thể giúp đỡ về mặt vật chất cho những người khó khăn, hoạn nạn...Ông nói gì về điều này?
NT Hoàng Quý:: Thưa chị, câu hỏi của chị làm tôi rất bối rối. Nhà tôi đông anh chị em lắm. Tôi là con út, thứ 13. Chị cứ thử tưởng tượng một gia đình có tới chin anh em trai, bốn chị em gái sẽ giữ nếp thế nào. Sinh thời, cậu mợ tôi vẫn dạy, đi cùng người hãy biết cầm lấy tay người, trong đám đông các con phải biết bước lùi lại. 30 năm sống với nhạc mẫu tôi, được cụ dạy, hạt gạo nào cũng hình hài nước mắt. Tôi hiểu, cậu mợ tôi và nhạc mẫu tôi đă dạy những điều cần. Khi tôi và nhà tôi nên vợ nên chồng, tiếc là nhạc phụ tôi đã hy sinh quá sớm. Tôi tin rằng nếu ông còn sống, ông cũng sẽ dạy chúng tôi về lẽ thiện sinh.
(...)
Ẩm thực : 

. Phanxipăng : 

Quả thật, lui tới nhiều tiệm ăn của người Hoa, tôi chưa hề thấy các món bún. Thực phẩm được gọi "bún Tàu" hoặc "bún trong" thực chất là miến dong nhỏ sợi, chứ nào phải bún đúng nghĩa. Hãy cùng tôi ngao du một chuyến từ Bắc vô Nam, bạn sẽ xiết bao thích thú khi khám phá ra rằng bún Việt Nam sao quá phong phú về chủng loại, lại cực kỳ hấp dẫn vì mỗi miền một vẻ, mà vẻ nào cũng tuyệt diệu vô ngần.
Giới thiệu nhạc

. Nguyễn Văn Chính : - Con hãy là cây thông đứng thẳng  (Ca sỹ Đặng Hiếu) 
. Nguyễn Văn Thơ : - Lệ đàn ta nhỏ đêm nay  (ca sĩ : Kim Khánh )  / - Tìm đâu  (ca sĩ: Thái Hòa )
. Trần Văn Khang (Thơ-nhạc ):  - Chợ Tình SAPA
 
Truyện ngắn - Ký - Văn - Biên khảo

. Võ Quang Yến : 

(...) Aix-les-Bains còn dính liền với tên nhà đại văn hào Alphonse de Lamartine. Năm 1816, lúc mới vào tuổi 26, trong một dịp ghé chơi, chàng thanh niên nầy đã làm quen với Julie, phu nhân nhà vật lý học Jacques Charles, lại đây để chữa một bệnh phổi khá trầm trọng. Một hôm, nhân đi dạo thuyền trên hồ, một cơn bão suýt đẩy cô ta xuống nước, may nhờ Lamartine cứu khỏi và tận tình chăm sóc. Thế là hai tâm hồn lãng mạn bắt gặp nhau và trao đổi tình sâu mộng đẹp. Đôi trai trẻ đã may mắn cùng nhau sống những ngày say đắm đê mê. Nhưng một năm sau, cô gái rủi ro không vượt qua nổi chứng bệnh và mất đi trước cơn đau khổ của nhà thi sĩ. Lamartine đã gởi gắm tâm tình trong bài thơ Le lac (Cái hồ) bất hủ, một bài thơ mà cô không may mắn được nghe, nâng nàng Julie thành người tình bất tử Elvire.
..."Ô temps ! suspends ton vol, et vous, heureux propices !
Suspendez votre cours :
Laissez-nous savourer les rapides délices
Des plus beaux de nos jours..."
. Đỗ Đình Tuân : 
Tại đền thờ Chu Văn An trên núi Phượng Hoàng còn lại 3 tấm bia đá cổ. Tấm cổ nhất "Chu Văn Trinh tiên sinh ẩn cư xứ", được tạo dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 45 (1784), cách chúng ta 226 năm. Hai tấm sau đều được dựng vào năm Tự Đức thứ 10 (1857) cách chúng ta 153 năm.Nhưng lần tìm theo những thư tịch cổ thì thấy vùng núi Kiệt Sơn-Phượng Hoàng này đã được ghi chép vào sử sách từ khá sớm. Người đầu tiên có lẽ Lê Tắc (có sách chép là Lê Trắc). Ông gốc người họ Nguyễn, sau theo họ bố nuôi là Lê Bổng mới đổi sang họ Lê.Theo lời tự kể của ông thì Lê Tắc học rất giỏi, 19 tuổi đã thi khoa Thần đồng, được gọi vào hầu cận Trần Thái Tông (Trần Cảnh), làm quan đến Thị lang, được chuyển sang giúp Chương Hiến Hầu Trần Kiện (Trần Kiện là con của Quốc Khang). Năm 1285, giặc Nguyên xâm lược nước ta, Trần Kiện được giao cho chống cự với Toa Đô ở Thanh Hoá. Nhưng không chống nổi, Trần Kiện đã đem thủ hạ và quân lính, trong đó có Lê Tắc, đến đầu hàng Thoát Hoan, được Thoát Hoan cho về ra mắt vua Nguyên. Đoàn hàng binh này đi đến Chi Lăng thì bị quân ta chặn đánh,Trần Kiện phải bỏ mạng. Lê Tắc cố ôm thây chủ chạy qua Khâu Ôn (Lạng Sơn), chôn cất vội vàng rồi cùng đám tàn quân cố sức chạy thoát sang Trung Quốc... .
. Minh Hương : 
Trước phòng khách sân bay Nha Trang, Trần Công tươi cười nhìn Bích. Ba tháng xa nhà và đơn vị chẳng nhiều nhặn gì với cuộc đời bộ đội của anh, nhưng được gặp lại vợ trong buổi chiều nắng đẹp, tràn đầy gió biển như hôm nay, anh thấy thật hạnh phúc. Thoáng mấy giây ngắm vợ, anh thốt lên:
- Em đẹp quá!
Đã nhiều lần được chồng khen, Bích vẫn không khỏi bối rối trước lời khen ngọt ngào của anh lúc này, chị nói nhỏ:
- Ta về thôi anh!
Trần Công gật đầu, định cùng vợ lên xe, chợt anh có cảm giác như ai đó đang nhìn mình. Lướt mắt vào phòng đợi, anh kịp thấy một cô gái vừa quay đi, bước nhanh đến cửa soát vé. Chiếc cặp da tuột khỏi tay, anh lao theo cô gái gọi to:
- Diễm! Diễm ơi!
Như không nghe tiếng gọi, cô gái vẫn bước nhanh. Anh vượt lên, chắn trước mặt cô:
- Ôi! Đúng Diễm rồi!...
. Phanxipăng :
Đặng Huy Trứ 鄧輝著 (1825 - 1874)  từng được Phan Bội Châu tôn vinh qua bộ sách Việt Nam quốc sử khảo biên soạn năm Mậu Thân 1908: đó là một trong những "người trồng mầm khai hóa" cho nước nhà. 
Mầm do Đặng Huy Trứ ươm gieo mang tên nhiếp ảnh
. Phạm Vũ Thịnh : 
Kikushiro nghiêng dù xuống rũ tuyết. Tuyết đượm nước khiến dù nặng trĩu xuống ngay. Anh cảm thấy mũi dù như chạm phải vật gì nặng mà mềm. Vừa nhận ra là đã chạm dù vào người nào đấy rồi, thì anh đã nghe tiếng xin lỗi từ phía người kia.
-"Xin tha lỗi cho!"
Tiếng một thiếu nữ. Có vẻ vừa bước vội ra khỏi hiên tiệm cá mà chạm vào dù của Kikushiro. Khi Kikushiro giương dù lên thì người con gái dợm bước đi, bất giác dừng chân, nhìn lại anh. Đồng thời, Kikushiro cũng đã nhận ra được người ấy là ai.
-"Yoshino đấy à?"
Kikushiro thốt lên như thế, Yoshino giở khăn che đầu xuống, nói:
-"Thưa anh...", giọng nhỏ như thì thầm.
-"Đi mua cá đấy à? Nào, vào trong dù đi. Anh đưa về một đoạn đường."


Truyện ngắn sau đây đã đăng trên tạp chí Umi số đặc biệt tháng 12 năm 1982, được dịch từ nguyên tác là truyện thứ 7 trong tuyển tập "Chugoku yuki no Slow Boat" (Slow Boat to China - Thuyền Hàng Đi Trung Quốc), do nhà Chuo Bunko tái bản lần thứ 7 tháng 1 năm 2003.
Khi Raymond Chandler (tiểu thuyết trinh thám hardboiled "ngầu" "thứ dữ") bắt tay Parnell Hall (tiểu thuyết trinh thám hài hước)......


Truyện thứ 8 và cuối cùng trong tập truyện ngắn "Hôkagô No Kiino-to, After School Key Note, Nốt Chủ-Âm Sau Buổi Học" xuất bản năm 1989, được dịch từ nguyên tác tiếng Nhật "Kiino-to" trong bản bỏ túi do Shinchô Bunko tái bản lần thứ 11, tháng 12 năm 2003.

----> Nốt Chủ-Âm (Yamada Eimi - Kiino-to ) 


Aaron Sorkin (sinh năm 1961) là người viết kịch bản nổi tiếng của Mỹ, tác giả của các kịch bản phim bộ TV: The West Wing, Sports Night, Studio 60 on the Sunset Strip, The Farnsworth Invention,... và các phim A Few Good Men, The American President,... Trong trích đoạn kịch bản dưới đây, Aaron Sorkin đề cập đến ý thức nữ quyền trong chuyện phái nam khen vẻ đẹp phụ nữ có thể bị phê phán là xem phụ nữ chỉ như đối tượng tính dục. Vẻ đẹp nữ tính có làm giảm đi hay tăng thêm quyền lực của người phụ nữ? Phái nam có lối khen nào để tỏ ý thân mật với phụ nữ không đẹp?
Đoạn này trích từ Hồi thứ 13 "Night Five - Đêm mất ngủ thứ năm của Tổng thống" trong Tập 3 của bộ phim TV "The West Wing - Mái Tây", bộ phim đã đoạt 3 giải Golden Globe và 27 giải Emmy. West wing (chái phía tây) trong Toà Bạch Ốc (hay Nhà Trắng) gồm các văn phòng kề cận trực thuộc Tổng thống Mỹ, trong đó Ban Thông tin được nhắc đến trong kịch bản này, có các nhân vật chính Sam Seaborn (Phó Giám đốc Truyền thông), Ainsley Hayes (nữ Luật sư phụ tá), Charlie Young (cậu hầu cận Tổng thống).

----> Ý thức nữ quyền ( Aaron Sorkin)
. Sóng Việt Đàm Giang :
William Butlet Yeats sinh năm 1865 ở Ái Nhĩ Lan, , thuộc vào nhóm dân Anglo-Irish (hay còn gọi là West Britons). Năm 1868 thì gia đình dọn về Luân đôn, sau đó trở về Dublin, Ái Nhĩ Lan một thời gian cho đến năm 1887 thì lại sang Luân đôn. Ông nhận được giải thưởng văn chương Nobel vào năm 1923. Thời gian ở Luân đôn ông tích cực tham gia phong trào "Phục hưng Ái Nhĩ Lan" với nguyện vọng phục hồi văn hóa xã hội Gaelic (Irish). Và cũng trong thời gian này ông quen biết Maud Gonne, một người phụ nữ lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc Ái Nhĩ Lan. Năm 1904, ông thành công trong việc phối hợp thành lập Nhà hát Abbas. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Ái Nhĩ Lan (1919-1923) có ảnh hưởng rất lớn đến thơ ông. Thơ Yeats, với nhiều sắc thái dân tộc Ái nhĩ Lan, là một trộn lẫn giữa biểu tượng và lãng mạn vào thời điểm đó. (...)
(...)
Như đã viết ở trên, William Butler Yeats đã viết bài When You Are Old phỏng theo Sonnet pour Hélène của Pierre de Ronsard. Điểm chung của cả hai bài thơ đều nói đến tình yêu, tuổi tác và sự hủy hoại của thời gian. Ngoài khác biệt về nhân sinh quan giữa hai bài, nội dung cũng có khác biệt khi Ronsard mang chính tên mình vào bài thơ, làm khi ông đã ngoài 50 tuổi và có vẻ như cay đắng, cùng tôn cao mình lên; còn WB Yeats, làm bài thơ khi mới 27 tuổi, thì bình thản hơn, khiêm nhường hơn, và cao cả hơn.
Cho tới hiện nay, không ai biết rõ ngày 22 tháng 2, 1810 hay ngày 1 tháng 3, 1810 là ngày sinh nhật Chopin, một nhân tài âm nhạc và nhà soạn nhạc của 200 năm trước?
Hình như tài liệu không đủ thuyết phục dù giấy làm lễ rửa tội của Chopin viết là ngày 22 tháng 2 nhưng chính Chopin và gia đình luôn luôn nhắc ngày 1 tháng 3 mới chính là ngày sinh nhật của ông. Và vì thế năm 2010 này thành phố Warsaw, Poland đã bắt đầu kỷ niệm trình diễn nhạc của Chopin từ ngày 22 tháng 2 cho đến ngày 1 tháng 3.
Không phải chỉ Poland mới tổ chức kỷ niệm 200 năm sinh nhật của Chopin mà rất nhiều quốc gia trên thế giới cũng nêu cao truyền thống âm nhạc đặc biệt này và tổ chức vào ngày 1 Tháng 3.
Trong vòng năm 2010, để kỷ niệm 200 năm sinh nhật Chopin, gọi là một chút đóng góp vào sự ái mộ người nhạc sĩ tài ba, người viết những hàng chữ này đã thu thập một số địa danh có chứa kỷ niệm về cuộc đời Chopin từ khi chào đời ở Poland cho đến ngày ông từ trần ở Paris, Pháp.
Du thuyền Oasis of the Seas được quảng cáo là du thuyền lớn nhất trong kỹ nghệ du thuyền trên biển cả của đầu năm 2010. Bài viết này là một chút tìm hiểu về du thuyền qua kinh nghiệm của cá nhân người viết
(Ghi chú: đến cuối năm 2010 thì sẽ có thêm du thuyền Allure of the Seas đuợc coi như song sinh của du thuyền Oasis of the Seas).


Kể từ nửa đêm thứ bẩy (15 âm lịch) sang ngày chủ nhật 21 tháng 11 2010 (là ngày 16 âm lịch), là bắt đầu ngày Trăng xanh. Sau 12 giờ đêm tối thứ bẩy nhìn lên trời trăng đẹp lạ lùng! Theo lịch của nhà nông (Farmers' Almanac) thì mùa Thu năm nay có bốn đêm có trăng tròn. Vì mùa Thu bắt đầu từ ngày Thu phân, ngày 23 tháng 9 (tức ngày 16 âm lịch) và kéo dài đến gần hết ngày 21 tháng 12  (tức ngày 16 âm lịch) mới sang Đông chí cho nên năm nay thiên văn học cho biết là coi như có bốn ngày/đêm  trăng tròn. Và trăng mùa thu lần thứ ba được mang tên trăng xanh (blue moon) cho năm nào mà một mùa có bốn trăng tròn. 

. Nguyễn Khôi : 
Kể từ khi Tử viết bài thơ "Đây thôn Vỹ DẠ " gứi Cúc đến nay đã được 71 năm...mà cái "án" văn chương này còn biết bao điều kỳ bí để người đời tốn biết bao bút mực (hàn mặc) bàn tán về Nó ? Đấy là cái duyên thơ, cái "son phấn có thần,thơ vô mệnh" cho dù người viết tặng và người được tặng đã đi vào thiên cổ nhưng Thơ thì vẫn cứ làm day dứt lòng người yêu Nó ?
. Lê Hoài Nam : 
Hồi này, không còn bận việc cơ quan, trong tôi mới hình thành một thói quen: nghe nhạc vào ban đêm. Nghe đủ thứ: nhạc cổ điển châu Âu, nhạc hiện đại Mỹ, Nhật Bản, Trung Hoa...Nhạc Việt thì nghe dân ca ba miền, nhạc đỏ, nhạc vàng. Thực ra khái niệm "đỏ" hay "vàng" là do trước đây người ta gọi để phân biệt âm nhạc của hai chế độ chính trị khác nhau mà thành quen miệng; quan niệm của các nhân tôi thì gọi như thế là phiến diện, không chuẩn. Âm nhạc là một sản phẩm tinh thần đặc biệt, từ hiện thực đời sống muôn màu "táp" vào lòng người; lòng người sinh ra âm thanh muôn điệu, chứ không chỉ có "thuần đỏ" hay "thuần vàng". Gọi như thế chúng ta đã tự sơ lược, rẻ rúng một dòng nhạc, dù nó là "vàng" hay "đỏ". Bây giờ tôi có thời gian nghe lại khá nhiều bản nhạc mà xưa nay chúng ta vẫn gọi nhạc vàng, nhận thức ấy trong tôi càng được củng cố. Dù là nhạc "vàng" hay nhạc "đỏ", cứ mỗi lần nghe xong một đĩa, chừng như trong tôi lại có một khoảng lặng, rồi nhớ tới những câu của thi hào Nguyễn Trãi.
. Trịnh Thanh Thủy :
Trong kho tàng nhạc Việt Nam có câu hát rất ấn tượng mà rất nhiều người biết "Đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn". Đường vào những trò chơi tìm bạn tình trên mạng hay tìm bạn bốn phương cũng vậy. Nó hứa hẹn rất nhiều chông gai, vui buồn lẫn lộn nhưng hình như ai cũng rất hăm hở khi mới bước vào. Hơn nữa nó còn là bài toán khó mà người đối diện với cô đơn lúc nào cũng mong giải, cố tìm ra đáp số mới thấy yên tâm và vui sống. Khổ hơn nữa khi giải bài toán này, đằng sau nó toàn là những ẩn số chứa cạm bẫy khiến nhiều người không kinh nghiệm thường giẫm phải mà kết quả là mất cả tiền lẫn tình. Có rất nhiều người bị lợi dụng tình dục và có những tội ác hình sự như giết người đã xảy ra mà kẻ sát nhân thường đi tìm nạn nhân trên mạng. Ở việt Nam có những thiếu nữ còn bị lừa đảo và bị bán vào những động buôn người.
(...)Theo như chúng ta biết làm một MC (Master of Ceremonies), Emcee, không phải dễ và đơn giản, trở thành một MC giỏi, nổi tiếng và thành công còn khó hơn. Tôi xin thu hẹp phạm vi bài viết này trong khu vực hải ngoại hơn là trong nước vì tôi đang sống ở hải ngoại.
Một buổi sáng cuối tuần, bạn bè tôi cùng nhau họp mặt vì có một người từ Việt Nam mới qua chơi. Chúng tôi đang chuyện trò, bỗng chú ý đến một chương trình TV thu hình trực tiếp chuyện có liên quan tới một tiếp viên hàng không của hãng JetBlue. Anh Steven Slater, tiếp viên hàng không Mỹ nổi điên và chửi hành khách, rồi trượt ra ngoài theo máng thoát hiểm. Câu chuyện của anh bùng nổ và trở thành một hiện tượng trên mạng. Người dẫn chương trình phỏng vấn các hành khách và có người phê bình anh Steven quá thô lỗ.
Người bạn trong nước qua chơi đang coi bỗng phán lên một câu "Tại sao ở Mỹ người ta trả lời phỏng vấn hay như vậy, nghe thiệt là sướng. Người trả lời phỏng vấn là một thường dân mà ăn nói trên TV như một xướng ngôn viên chuyên nghiệp. Trong khi ở VN, có nhiều chương trình phỏng vấn trên TV, người dẫn chương trình cũng như người được phỏng vấn ăn nói rất là rề rà, lục cục không thông suốt".
Thế là câu chuyện vòng quanh hai chữ MC chợt nổ như bắp rang.
 . Việt Hải  :
Sáng nay thứ tư thức dậy, tôi được dịp quay về kỷ niêm xa xưa qua bài viết cũ, tôi viết tặng mấy anh nhà thơ Canada, chị Mỹ Loan Paris thả bài "Mùa Thu Hạnh Phúc" lên mạng toàn cầu. Trong bốn mùa, tôi vốn thích mùa thu, vì cái chất lãng mạng của nó. Ngày xưa đi học tôi có cô bạn Mỹ gốc Canada, một Québécoise, mang tên rât "Thu", Renée Autumn Dupuis; Cô kể mùa thu cô lái xe từ vùng New England, như New York, Hartford, Boston, Montpelier, Concord, Portland của tiểu bang Maine, gần ranh giới với Québéc, mùa thu lá vàng sẽ hiện ra trọn vẹn... ôi thôi New England nào là tôm hùm, cua, cá, nghêu (clam) cứ xơi đi cho quên ngày tháng, cho thêm mỡ dư hưng phấn cuộc đời. ..
. Hàn Lâm Nguyễn Phú Thứ :
Bùi-Hữu-Nghĩa hiệu Nghi-Chi, sinh năm Đinh-Mão 1807 tại  thôn Long-Tuyền, tổng Định-Thới, phủ Định-Yên, trấn Vĩnh -Thanh  nay thuộc  phường An -Thới, thành  phố Cần -Thơ Tỉnh Cần-Thơ, Ông đỗ thủ khoa kỳ thi hương năm Ất Vị (*) 1835 và được bỗ nhiệm làm tri huyện Trà-Vang ngày 21 tháng 01 năm 1872, Ông mất tại quê nhà , thọ 65 tuổi.
Bùi-Hữu-Nghĩa là một vị quan thanh - liêm, một nhà thơ, nhà soạn tuồng nổi tiếng của Miền Nam cuối thế - kỷ XIX. Ông đã để lại cho đời nhiều tác-phẩm có giá-trị góp phần không nhỏ vào kho tàng văn-học VIÊT-NAM. Cuộc đời và sự - nghiệp của Ông là tấm gương sáng của sự công minh chính-trực đấu-tranh chống áp-bức cường-quyền đáng để cho hậu thế học-tập và tôn-vinh.
Văn học - Luận - Tư tưởng - Lịch sử - Thời đại
Văn học 

. Phạm Thảo Nguyên : 

Sau khi rời kinh thành Thăng Long khói lửa, thất lạc gia đình, Nguyễn Du lang thang giang hồ nghèo khổ một thời gian, rồi về Thăng Long gập lại anh Nguyễn Nễ đang làm quan cho triều đình Tây Sơn (bài thơ Long thành Cầm giả ca). Khi Nguyễn Nễ vào Phú Xuân theo công vụ vào năm 1793, Nguyễn Du không nơi nương tựa, tới sống "gửi rể " nơi gia đình vợ ở Quỳnh Côi cho tới năm 1796. Gia đình này có tiếng văn học với anh vợ là tiến sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn, từng làm Phó sứ sang Trung Hoa năm 1789 (cùng sứ đoàn với Nguyễn Nễ), bố vợ là cố hoàng giáp Đoàn Nguyễn Thục, ngự sử triều Lê (đã mất).

Chúng ta hãy thưởng thức Quỳnh Hải Nguyên Tiêu, bài thơ có giá trị văn chương rất cao dưới đây của đại thi hào Nguyễn Du. Người em-rể-mới chào Trăng rầm tháng giêng ở quê vợ Quỳnh Côi, vào ngày trăng đẹp nhất mỗi năm, đồng thời để ra mắt bạn bè họ hàng bên vợ, giới thiệu đôi điều về văn chương của mình và hoàn cảnh, tâm sự, mối tình riêng của mình đối với " nàng trăng ".

. Thu Tứ :
Tìm hiểu đặc tính siêu thực trong văn chương Trung bộ, dĩ nhiên cần xem xét thơ Hàn Mặc Tử.(1)

Hoài Thanh bảo Điêu tàn của Chế Lan Viên là "một niềm kinh dị". Đem so với Điêu tàn, những bài Đau thương, chẳng hạn, kinh dị hơn nhiều lắm. Vẫn có ý kiến cho rằng đấy chẳng qua là sản phẩm của một đầu óc bị chấn động vì bệnh tật. Mặt khác, không ít người đọc thơ lại nhiệt liệt ca ngợi chính những dòng chữ "như dính máu", gây rùng rợn, hoang mang nọ.

Thơ của Hàn Mặc Tử sau Gái quê (1936) quả lắm khi lạ hơn lạ. Không mong hiểu được rành mạch, riêng rẽ từng câu, từng đoạn, thậm chí từng bài thơ đầy vẻ siêu thực kia đâu. Cố gắng, nhưng chỉ dám mong nắm bắt được phần nào cái bản chất của toàn mảng thơ...

. Thiếu Khanh : 
Đề cập sự kiện "CD 10 ca khúc nổi tiếng của VN được chuyển sang tiếng Anh" bồi rất... trời ơi mới đây (mà trang web của Bộ Văn hóa Thông tin và Du lịch VN đăng bài hí hửng khoe "Chuyển ngữ sát nghĩa tiếng Anh" để "Chắp cánh cho ca khúc Việt bay xa"), trên trang blog Nguyễn Văn Tuấn tác giả viết:

"Nhưng dịch nhạc và thơ Việt sang tiếng Anh là việc làm rất khó khăn.  Nó đòi hỏi người dịch chẳng những phải am tường tiếng Anh, tiếng Việt, mà còn phải có kiến thức tốt về văn thơ của cả hai ngôn ngữ.  Dịch thơ văn và nhạc không chỉ đơn thuần là việc chuyển ngữ, mà còn là một công trình sáng tác."

Những yêu cầu cho dịch thuật, nhất là dịch thơ, như Gs Nguyễn Văn Tuấn nói trên đây, vốn đã được nhận thấy từ hàng ngàn năm trước, và được khẳng định một cách cụ thể từ cuối thế kỷ 17. Nhưng trước khi xảy ra vụ "CD với 10 ca khúc" được "dịch" một cách tai hại nói trên, người ta đã có dịp nhận thấy việc dịch và giới thiệu văn học cổ VN đã được một vài dịch giả trong nước thực hiện ngoài "chuẩn" quy định mà hệ quả tuy không đến nỗi... "you inside me after class"  (!) nhưng cũng hết sức bôi bác trời ơi.

Cổ văn

 . Tâm Minh Ngô Tằng Giao : 

KHƯƠNG THÔN

Tranh vanh xích vân tây
Nhật cước há bình địa
Sài môn điểu tước táo
Qui khách thiên lý chí
Thê noa quái ngã tại
Kinh định hoàn thức lệ
Thế loạn tao phiêu đãng
Sinh hoàn ngẫu nhiên toại
Lân nhân mãn tường đầu
Cảm thán diệc hư hi
Dạ lan cánh bỉnh chúc
Tương đối như mộng mị.

----> Khương thôn (Đỗ Phủ) [PDF]


. Quỳnh Chi : (Đường thi Triều Tiên)

 Tiêu tiêu lạc diệp thanh 
Thác nhận vi sơ vũ 
Hô đồng xích môn khán 
Nguyệt quải khê nam thụ 
----> Thu dạ / Đêm thu  (Trịnh Triệt 1536-1593)
----> Thu đình / Vườn thu (Kim Chính Hỉ 1784-1856 )
----> Thập tuệ dao / Bài ca mót lúa  (Lý Đạt 1539-1612 )
----> Hoằng Khánh tự / Chùa Hoằng Khánh (Bạch Quang Huân 1537-1582)
----> Khê thượng thu hứng / Thu bên suối (Lý Hoằng 1501-1570)
----> Sơn tự / Chùa trên núi  ( Lý Đạt 1539-1612 )
Giáo dục

.  Nguyễn Thị Chân Quỳnh : 

Thi Hội trỏ vào kỳ thi dành cho những người đã đỗ Hương cống / Cử-nhân (1), được tổ chức ngay sau năm thi Hương, thường vào những năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, và dài độ một tháng thời nhà Nguyễn. Thời Lê, những năm 1463, 1467, 1652... chỉ dài một ngày, tức là hôm trước thi Hội, hôm sau thi Ðình.

Lúc đầu, nước ta chưa phân biệt thi Hội với thi Ðình, chỉ có thi Thái học sinh, tức là thi Ðại khoa, Ðại tỷ cũng có khi gọi là Nam Cung thí (2). Tên thi Hội đến 1396 (thời Hồ Quý Ly) mới có, để phân biệt với thi Ðình / Ðiện thí là kỳ thi dành cho những người đã đỗ Hội thí, với mục đích sắp đặt người đỗ theo thứ bậc cao thấp, cho nên người ta thường coi thi Ðình là kỳ thi cuối của thi Hội, do đó cũng thường gọi thi Hội và thi Ðình với tên chung "Thi Hội".

Vì thi Hội thường được tổ chức vào mùa Xuân nên còn có tên là Xuân Hội hay Xuân Vi (3), để đối với Thu Vi trỏ thi Hương tổ chức vào mùa thu (Vi là nơi sĩ tử thi). Tuy nhiên, thời Lê cũng có khi thi Hội vào mùa Thu hay mùa Ðông.

Ngôn ngữ

. Thân Trọng Thủy : 

Làm nghĩa là gì? Đại Nam Quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (viết đúng như ở bìa gốc là : Đại Nam Quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của) giải nghĩa như sau: Làm là dấy việc, gầy việc, ra tay, ra công, chuyên chủ việc gì. Định nghĩa đó có vẻ không ổn lắm, vì ta lại có thể thắc mắc thế dấy việc, gầy việc là gì? Còn nữa, ai cũng biết có khi làm nhưng chẳng hề ra tay mà chỉ ra chân (như làm bàn chẳng hạn), chẳng hề ra công (như làm cha, làm mẹ, làm anh, làm em...) hay chẳng hề chuyên chủ việc gì cả (như làm gì, làm sao, làm chi, làm ghi...) Thiết tưởng khó mà tìm ra được một định nghĩa vừa ngắn gọn vừa đầy đủ. Một số từ điền tiếng Việt hiện đại có phân biệt 12 nghĩa khác nhau, nhưng có lẽ những cuốn từ điển đó chỉ phân loại một cách khái quát mà thôi chứ thực tế- cũng như động từ ăn và động từ nói- động từ làm chắc là có nhiều nghĩa hơn.
----> L À M 
. Thu Tứ : 
Phạm Quỳnh chia từ tiếng Việt thành hai loại: loại cụ tượng và loại trừu tượng.(1)
Loại từ thứ nhất có nội dung liên quan đến "thế giới hữu hình do giác quan có thể cảm được". Loại từ thứ hai có nội dung liên quan đến "những nghĩa lý thuộc về tâm trí phải suy xét".(2)
Chia xong, ông Phạm bảo tiếng ta giàu từ cụ tượng mà nghèo từ trừu tượng.
Đã gần tám thập kỷ qua mà không thấy ai bày tỏ bất đồng với ý kiến trên.
Thiết nghĩ nó có chỗ sai.
Vấn đề ở chỗ, Phạm Quỳnh chỉ thấy một nhóm từ trừu tượng, tức những từ mà nội dung là "nghĩa lý (...) phải suy xét". Ví dụ: xã hội, cộng đồng, quốc gia, chủ nghĩa, dân tộc. Những từ này người Việt chủ yếu vay mượn của người Tàu, vì tiếng ta không sẵn có.
Nhóm từ trừu tượng vừa nói xuất phát từ hoạt động của trí óc. Nhưng con người ta, ngoài trí óc còn có tâm hồn!
Không phải chỉ sản phẩm của trí óc mới trừu tượng. Sản phẩm của tâm hồn cũng đâu có "hình", giác quan nào mà cảm được nó! Nó trừu tượng kém gì "nghĩa lý"!
. Trịnh Thanh Thủy : 
Nói đến tiếng Việt thời thượng, chúng ta có thể hình dung hay nhớ đến nhiều cụm từ lạ tai bao gồm cả những tiếng lóng hay ngôn ngữ mạng được ưa thích và sử dụng rộng rãi trong những tầng lớp xã hội khác nhau. Tỷ như khi vào ăn trong một quán mì gõ chúng ta nghe tiếng gọi:
- Cho 2 cái hầm, 2 bộ hài cốt nghen...
- Thêm "2 xị vô sinh" nữa...
- Chài, trời nóng mà mần vô sinh chi? cho 2 cái "bật nắp là thấy" đi...
Hoặc ngôn ngữ trên một lá thư của 2 học trò teen đang chuyền tay nhau trong giờ học.
"H. à, nhớ su súp ghia mà nghè mơi có ktra, hem đi đc, star life mình "khổ hơn cún" á. Ừ, bi h cóa ai bỉu mình not learn hén, chắc mình sướng die granma lun hén mày. Eh, hn mày nhận đc tn của B. k? Hwa nó vừa bị broke ktra đó. Thấy tía rồi, thôi stop 8, tao xách đik dzìa nhà học thoai, chớ hông là bài nì "dzục cho cún ăn" đóa, tao chưa có chữ nào trong não hết, b h cóa nhét iốt dzô não cũng cóc dzô".
Lịch sử

. Nguyễn Vĩnh-Tráng : 

Bài viết hôm nay không có tham vọng đặt lại một sự kiện lịch sử, hay hành vi của một nhân vật. Đây chỉ là một phạm vi rất nhỏ bé của lịch sử, vì bài nầy chỉ muốn thử bàn lại tên thật của Chúa Nghĩa (1650 - 1691), Chúa Ninh (1697 - 1738) và Thế Tổ (1762 - 1820) của họ Nguyễn-Phước. Mặc dầu là một phạm vi hạn hẹp, những dù muốn, dù không, những nhân vật trên cũng đã viết lên những trang sử, cũng đã xây đắp bờ cõi cùng nền văn hóa của dân tộc, và vì thế, chúng ta cố gắng thử bàn lại, để tên tuổi của họ được khẳng định một cách chính xác hơn. Nếu không, theo thói quen, những sai lạc lâu ngày, nếu có, cứ thế rồi truyền mãi lại cho hậu nhân. 

Nói đến tên tuổi của các nhân vật lịch sử Việt Nam, chúng ta không thể bỏ qua chữ Hán, vì sách sử viết bằng chữ Việt mới có gần đây, còn hầu hết, trước năm 1930, đều viết bằng chữ Hán. Mặt khác, các tác giả đề cập dưới đây, hầu hết, đã dùng Khang Hy Tự Điển -KHTĐ, làm căn bản cho cách phát âm Hán-Việt. Cũng vì thế bài nầy không tránh khỏi những nét chính về kỹ thuật phát âm Hán-Việt.

Tư tưởng - Thời đại

. Thảo Đường Cư Sĩ Trần Văn Hải Minh : 

Trong phần trên, bạn đọc đã lược qua phần thân thế của Bách Gia Chư Tử, không dám quả quyết hẳn con người là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội, nhưng tư tưởng hành động của con người có quan hệ rất mật thiết đến hoàn cảnh xã hội đương thời.

Vì thế, trước khi vào phần lược khảo các tác phẩm của Chư Tử, chúng tôi trình bày qua với bạn đọc hoàn cảnh xã hội đương thời với " sự kiện lịch sử " và " tổ chức văn hoá, xã hội của thời Xuân Thu Chiến Quốc " để các bạn có một ýniệm tổng quát về hoàn cảnh và trình độ xã hội của thời ấy, như thế sẽ giúp đỡ thêm các bạn rất nhiều trong việc tìm hiểu Bách Gia Chư Tử.

. Nguyễn Nam Trân :
Đối với chúng ta, những người sống trong giai đoạn đầu thế kỷ 21, khoảng thời gian gọi là cận đại Nhật Bản có thể ước tính đã kéo dài độ 100 năm, kể từ hậu bán thế kỷ 19 cho đến tiền bán thế kỷ 20, hay muốn nói rõ hơn, từ năm 1868 khi cuộc duy tân thời Meiji bắt đầu  đến năm 1945, lúc Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh .

Những tư trào chi phối của văn học Nhật Bản cận đại mà chúng tôi muốn đề cập ở đây là những trào lưu tư tưởng. Tư tưởng, theo sách vở, được định nghĩa như một sinh hoạt tinh thần ra đời trước giai đoạn phán đoán và hành động. Nó là kết quả của một hoạt động trí óc vốn không ngừng lại ở nội dung có tính trực giác mà còn kèm thêm sự phản tỉnh có tính lý luận. Những tư tưởng tương đồng khi có cơ hội tập hợp lại và dâng lên như con nước gọi là tư trào. Một tư trào ưu việt có thể lấn lướt những tư trào khác nhưng không vì thế mà có cơ tồn tại vĩnh viễn. Nó sẽ được thay thế bằng những tư trào khác đáp ứng thỏa đáng hơn nhu cầu của thời đại đến sau. Tư trào không có tính nghiêm nhặt và tính hệ thống chặt chẽ của triết học, thế nhưng dù mang hình thức bất định, nó vẫn phản ánh được quan điểm về nhân sinh và xã hội của cá nhân hay đoàn thể. Còn như vũ trụ quan, do tính cùng cực và tuyệt đối của nó thì có khác, chắc chắn phải mang nhiều màu sắc triết học.

Thế nhưng các trào lưu tư tưởng có liên hệ gì đến văn học?

. Trịnh Đình Hỷ : 
L'esprit du Chán est difficile, sinon impossible à définir et à comprendre intellectuellement. Tout au plus pourrait-on le sentir, s'en imprégner progressivement, et pour cela, la meilleure approche est probablement la lecture des histoires Chán, c'est-à-dire des anecdotes, des dialogues entre maîtres et élèves, transmis de génération en génération...

Parmi les recueils d'histoires Chán, il m'a semblé que Passe Sans Porte(Wúmén Guān, Vô Môn Quan) était le plus simple, le plus accessible et susceptible de vous intéresser. Je vous propose donc de l'aborder comme une petite promenade dans les allées fleuries d'un jardin Chán.

Thơ - Họa

. thy an :- Chiều rất nhạt - Bài thơ cho tháng mười
. Bùi Thụy Đào Nguyên : - Tình đầu
. Phan bá thụy dương : - Tình khúc nếu mai em về
. Ý Nga : - Phù du  - Thời gian  - Chí nguy
. Nguyên Si : - Vô thường
. Trần Xuân An : - Thơ sử và những bài thơ khác (tập thơ thứ 11)
. Bảo Quyên : - Em trở về
. Quỳnh Chi :  - Mộ khúc ngày mưa   - Những nét đáng yêu
. Hoàng Hoa : - Nỗi nhớ  -  Mẹ  - Điệu buồn
. Đỗ Đình Tuân : - Vạn Kiếp   - Cây quế giữa rừng
. Trần Hạ Tháp : 
- Đi đâu loanh quanh  - Khí tượng học miền trung - Viết khi chờ tin bão Megi  - Xin lỗi nhóc đánh giày
. Nguyễn Chính : - Niềm tin của con  - Lối mòn  -  Ẩn sĩ
. Hoàng Quý (Nguyễn  Chính giới thiệu):
- Năm bài thơ cũ, và bài thơ mới nhất của nhà thơ Hoàng Quý :  - Tự khúc   - Buổi sáng ra vườn nghe mưa ký ứcHà nội thu rồi khoe mắt lá răm  -  Giọt thu tôi đếm  - Giả trang  - Lá mưa
. Phanxipăng : 
- Hà Nội  thầm hương - Điêu khắc
. Cát Hoàng : 
- Bạn của sông  -   Bên hồ Chung Thuỷ  - Trên đôi cương thổ  - Thăm thánh địa Mỹ Sơn  - Đất Quảng
. Tuyền Linh :
- Lệ đàn   - Ước
. Tâm Minh Ngô Tằng Giao : 
- Vĩnh biệt quê tôi / Adieu Mon Pays (Enrico Macias)
. Sóng Việt Đàm Giang : 
- Thu đến rồi đó em  - Duyên Thu   -  Tuyết Thu  - Trời Mưa Không Có Anh
. Tạ Hùng Việt : 
- Hẹn hò với biển  - Chợt nhớ từng giọt đắng làng Vân  - Đưa mùa qua lối ngày đông  - Miền gió khát  - Bão lũ sẽ đi xa  - Chân trời góc bê  - Thị trấn của em  - Lặng lẽ một con đường  - Những mảnh mùa ở lại  - Giao mùa

. Thế Dũng (Giang Nam giới thiệu) : 

Cầm trên tay bản thảo tập thơ NGUYỆT THU của Thế Dũng, tôi vừa ngạc nhiên vừa mừng. Là nhà báo - Thế Dũng được người đọc biết đến qua những bài phóng sự, điều tra về sự đổi mới của quê hương đất nước, những gương sáng tiêu biểu của nhân dân, cán bộ và cả những hiện tượng tiêu cực đang còn rất nặng nề ở một số địa phương. Bỗng nhiên, tôi được biết anh còn là một người say mê thơ và đang chuẩn bị xuất bản tập thơ đầu tay của mình " chính xác như nhà báo", "lãng mạn như nhà thơ" hình như có điều gì buộc người đọc phải chú ý.
Bốn mươi bài thơ trong tập được chọn từ những bài thơ anh sáng tác những năm gần đây. Giọng điệu thơ bình dị, sâu lắng, thủ thỉ như những lời tâm sự anh tự nói với mình và những người thân yêu của mình:
(*)1 - Chim Việt cành Nam, lấy từ chuyện Chim Trĩ , do vua Việt ở phương Nam tân cống cho vua nhà Chu (Chu Thành Vương). Chim chọn cành phía Nam để làm ổ . "Việt điểu sào nam chi" (Sào là làm tổ chim)  , ý nói nhớ quê hương phía Nam. 
2 - Ngựa Hồ hí gió Bấc , là chuyện ngựa của rợ Hồ (Mông Cổ) dâng cho vua Hán Vũ Đế , khi gió Bấc thổi, thì hí lên "Hồ mã tê bắc phong", ý nói nhớ quê, phương bắc.