Vô cớ phỉ báng tăng ni,
Chuyển sinh quỷ đói lõa hình.
Lúc đức Như Lai ở thành Xá-vệ, có vị A-la-hán Năng Hỉ thường xuyên dùng
thần thông đi vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân gian, thiên thượng,
quán sát chỗ thọ khổ và vui sướng của các cõi chúng sinh ấy, như những
nỗi khổ lạnh, nóng, thiêu đốt, giết hại của chúng sinh trong địa ngục;
cho đến các nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết, mong cầu mà không được, oán
thù phải gặp nhau, đố kị... của người thế gian; lại còn khổ não của chư
thiên lúc sắp bị chết.
Thầy tỳ-kheo Năng Hỉ đem những thống khổ mình thấy nghe trong năm đường
chúng sinh kể lại cho mọi người, khiến họ sinh tâm chán ghét, xa lìa, sợ
hãi sinh tử luân hồi, phát khởi lòng tin vào đạo lý nhân quả báo ứng.
Một lần nọ, tỳ-kheo Năng Hỉ đang ở thành Xá-vệ, dùng sức thần thông đến
bên bờ biển nọ. Thầy thấy trên bờ biển có một con quỉ đói lõa thể, tóc
tai rối bời, trần truồng, mắt mù, trong miệng, mũi có rất nhiều dòi,
trùng luôn bò ra lúc nhúc, ăn thịt, uống máu; thân thể nó giống như khúc
cây bị cháy xém, mùi hôi thối xông ra quanh đó đến cả do-tuần; vả lại
còn bị loài chó hoang đốm đuổi theo cắn xé, làm cho thân tâm của nó
thống khổ không thể chịu nỗi, cho nên chạy loạn xạ, la hét ầm ĩ.
Thầy Năng Hỉ xem thấy tình cảnh như vậy, liền dùng trí tuệ thiền định
Thanh văn của mình quán sát. Thì ra con quỉ đói lõa thể này vào thời đức
Phật Ca-diếp còn tại thế là một vị tỳ-kheo ni có tính xấu nóng nảy, ngổ
ngáo, thường xuyên vô cớ phỉ báng chư tỳ-kheo ni và tăng chúng, làm cho
rất nhiều người mất lòng tin vào Ba ngôi báu. Do nghiệp ác như thế nên
đời này mới thọ ác báo như vậy.
A-la-hán Năng Hỉ thầm nghĩ: “Tuy mình cơ bản đã biết được duyên do,
nhưng nếu đem chuyện này bạch lên đức Thế Tôn, thỉnh cầu Ngài chỉ dạy,
thì chắc chắn sẽ có lợi ích rất lớn đối với nhiều chúng sinh.” Nghĩ vậy
rồi, trong nháy mắt thầy đã bay trở về thành Xá-vệ.
Lúc đó, đức Như Lai đang thuyết giảng giáo pháp giải thoát trước đại
chúng. A-la-hán Năng Hỉ thấy cơ duyên rất tốt liền đến trước đức Như Lai
chắp tay cung kính thưa:
– Kính bạch đức Thế Tôn! Đệ tử thường đi vào các cõi địa ngục, ngạ quỉ,
súc sinh, nhân gian, thiên giới, đem những thống khổ được mắt thấy tai
nghe trong sáu đường kể lại cho mọi người, hầu giúp họ sinh tâm chán
ghét, xa lìa, sợ hãi sinh tử luân hồi, sinh khởi tín tâm chân thật đối
với giáo lý nhân quả. Lần này, con dùng sức thần thông đến bên bờ biển,
thấy một con quỉ đói tóc tai bù xù, thân như khúc cây cháy xém, hai mắt
mù, miệng, mũi lúc nào cũng có loài trùng nhỏ bò ra, rúc rỉa thịt của
nó; mùi hôi thối phát ra từ thân thể nó bay xa đến cả do-tuần cũng còn
ngửi thấy; phía sau lại có loài chó hoang rượt theo cắn xé, vô cùng
thống khổ, chẳng lúc nào được yên ổn. Kính bạch đức Thế Tôn! Chẳng hay
đây là nghiệp duyên gì mà khiến nó phải chịu quả báo như vậy? Ngưỡng
mong Ngài từ bi giảng nói, chúng con đều rất muốn được nghe.
Đức Như Lai từ hòa bảo thầy Năng Hỉ và đại chúng:
– Này các tỳ-kheo! Trong Hiền kiếp này, khi đức Phật Ca-diếp còn tại
thế, tuổi thọ con người đến 20.000 tuổi, có một vị thí chủ sinh hạ được
đứa con gái hết sức xinh đẹp, đoan chính. Gia đình tổ chức lễ ăn mừng
rất lớn và long trọng, chọn tên thích hợp với dòng tộc để đặt cho em,
nuôi dưỡng bằng sữa tươi và đủ các loại thực phẩm tốt nhất. Em bé lớn
nhanh như hoa sen dưới hồ. Lớn lên, phát khởi lòng tin thanh tịnh vào
giáo pháp giải thoát của đức Ca-diếp Thế Tôn, do đó phát tâm xuất gia
sống đời tỉnh thức, siêng năng tu học tam tạng giáo điển, trở thành vị
pháp sư tài ba lỗi lạc. Vị sư cô này chẳng những khuyến hóa được rất
nhiều thí chủ phát tâm xây dựng kinh đường, tháp Phật, mà chính bản thân
sư cô cũng thường xuyên cúng dường Đức Phật và chúng tăng.
Song, vì sư cô quá xinh đẹp, sinh ra và lớn lên trong gia đình giàu sang
phú quí được nâng niu chiều chuộng từ nhỏ, lại do có tài thuyết pháp
hay, nên được rất nhiều thí chủ thường xuyên cúng dường y phục và đồ
dùng khác. Họ luôn vây quanh cô cung kính, hết lời ngợi khen xưng
tán..., khiến cho tâm kiêu mạn của cô dần dần phát triển, ngày càng
nghiêm trọng hơn.
Sau đó, sư cô phạm giới căn bản, song vẫn trực tiếp hưởng dụng tài vật
và chi phí sinh hoạt của chúng tăng. Các vị tỳ-kheo ni khác thấy cô đã
phạm giới căn bản mà vẫn trực tiếp hưởng thọ tài vật của tăng chúng, do
đó họp chúng quyết định mời cô ra khỏi tăng đoàn.
Đối với chuyện bị mời ra khỏi tăng đoàn, cô ta hết sức tức giận, căm
thù, bèn bày ra nhiều mưu kế, bịa chuyện để phỉ báng chư tỳ-kheo ni hữu
học
[26] và vô học
[27] khác.
Cô đi đến đâu cũng bịa đặt ra những lời như:
– Tỳ-kheo ni đó phạm vào giới này, tỳ-kheo ni kia cũng phạm vào giới
này, giới này...
Lúc đó, cô ấy vô duyên vô cớ bêu xấu rất nhiều tăng ni, lại còn ác khẩu
mắng chửi họ. Mặc dù phạm giới và bị trục xuất khỏi tăng đoàn, nhưng cô
vẫn không chút phản tỉnh hay ăn năn nhận ra sai lầm, mà vẫn giữ nguyên
tập quán xấu không thay đổi, đi đến đâu cũng nói lỗi của tăng ni với cư
sĩ, song những lỗi này là do cô bịa ra chứ không hề có thật.
Tuy vậy, những lời phỉ báng bịa đặt của cô đã thực sự làm cho chúng tăng
mất đi sự hòa hợp, khiến cho nhiều vị trong tăng đoàn sinh lòng nghi kị
lẫn nhau, lại cũng làm cho nhiều cư sĩ tại gia sinh khởi tà kiến đối với
tăng đoàn, bởi có rất nhiều người tuy không hiểu được sự việc, nhưng chỉ
vì mù quáng tin theo lời bịa đặt của cô nên thối thất tín tâm đối với Ba
ngôi báu, không cúng dường cho tăng chúng nữa.
Vị tỳ-kheo ni bịa chuyện phỉ báng tăng chúng thuở đó chính là con quỉ
đói lõa thể ngày nay. Do ác nghiệp của sự bịa chuyện phỉ báng chư
tỳ-kheo ni hữu học, vô học nên cô phải bị chuyển sinh làm quỉ đói. Lại
do sự vô duyên vô cớ ác khẩu chửi mắng chư tỳ-kheo ni, cho nên trong
miệng, mũi có rất nhiều trùng nhỏ bò ra cắn, rỉa. Hơn thế nữa, vì sau
khi đã phá giới mà vẫn hưởng thọ tài vật của tăng chúng, cho đến vô
duyên vô cớ phỉ báng chúng tăng, làm cho người cư sĩ tại gia thối thất
tín tâm đối với Ba ngôi báu, nên chiêu cảm có rất nhiều chó hoang đuổi
cắn không buông tha. Còn về hai mắt bị mù, là do lúc mắng chửi cô luôn
trừng trừng nhìn người khác với tâm khinh miệt và đầy sân hận.
Khi đức Như Lai nói rõ nhân duyên của con quỉ đói này xong, tất cả đại
chúng đang có mặt đều khởi tâm xa rời, chán ghét, sợ hãi sinh tử, chỉ
muốn vượt thoát khỏi thế gian đau khổ này. Đức Thế Tôn thấy nhân duyên
giáo hóa của họ đã thành thục, liền thuyết giảng giáo pháp giải thoát
thích hợp với từng người.
Nghe pháp xong, có một số vị liền được Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế đệ nhất
pháp của Gia hạnh đạo; có những vị đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn,
A-la-hán; có người được vương vị Kim luân; có người được giai vị Phạm
thiên và Đế-thích thiên; có những vị chứng được quả vị Duyên giác; có vị
gieo trồng nhân Vô thượng Bồ-đề; tất cả những người còn lại đều phát
khởi niềm tin thanh tịnh, chân thật vào Ba ngôi báu và phát tâm quay về
nương tựa Phật, Pháp, Tăng-già.