Nước Úc là một lục địa, hay nói đúng hơn là một đảo quốc to lớn rộng rãi, ít ai có thể hình dung ra được. Ngay cả những người ở đây lâu năm vẫn chưa đi hết đảo quốc này. Nói là đảo quốc, bởi vì đất đai ở đây bị ngăn cách bởi Ấn Độ Dương và phía Nam đảo quốc này là khoảng trời nước mênh mông giáp với Nam Cực. Phía Tây cũng như phía Đông cách xa các quốc gia lân cận.
Nếu hỏi độ lớn của quốc gia này là bao nhiêu thì xin thưa: Hãy nhìn vào bản đồ thế giới để thấy rằng cả lục địa Âu Châu đem bỏ vào nước Úc vẫn chưa lớn bằng. Nước này ngang tầm to lớn như Hoa Kỳ và Canada, nhưng dân cư tại đây chỉ trên dưới 30 triệu người, nghĩa là dân số chỉ bằng một phần mười nước Mỹ.
Nước là một yếu tố để quyết định cho sự sống của con người nơi đây, nên chính phủ giới hạn tối đa việc nhập cư vào quốc gia này. Tài nguyên thiên nhiên, đất đai, thổ sản tại nước này còn nhiều lắm, chưa khai thác hết. Có lẽ chính phủ muốn dự bị cho một tương lai lâu dài, vì lục địa này cũng chỉ mới phát triển trên 200 năm trở lại đây mà thôi.
Ở đây đa phần là rừng núi và cây bạch đàn cũng như kanguru, đi đâu cũng thấy và ở đâu cũng gặp. Xứ Nam Phương này có rất nhiều cái hay cái lạ của nó, mà ai phải đến đây rồi mới tiếp nhận được những tia nắng mặt trời rọi chiếu như thế nào ở vùng Nam Bán Cầu này, dĩ nhiên là khác với Phi Châu, Mỹ Châu, Âu Châu và ngay cả Á Châu nữa.
Tôi đã có nhân duyên đến nước này từ năm 1979, nếu tính đến nay (2011) cũng đã là 32 năm rồi. Trong 32 năm ấy hầu như năm nào tôi cũng có một hai lần đến thăm nước này. Lý do vì vấn đề Phật Pháp cũng như khí hậu. Con người khi xa quê hương, hay nghĩ nhớ đến quê hương rất nhiều, nhất là lúc về già. Do vậy người ta phải đi tìm một quê hương khác, nơi ấy có cái gì đó có thể bổ sung hay thay thế cho quê hương mình, nên tôi đã đến đây nhiều lần là vậy. Tại đây có ổi, mít, chôm chôm, măng cụt, xoài, sầu riêng, bưởi, chuối, rau muống, rau mồng tơi v.v... và tại đây cũng có một Cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản từ 1975 đến nay đã lên đến 200.000 người.
Từ năm 2003 đến nay, đã 9 lần tôi đến Úc để tịnh tu, nhập thất, viết lách, hành trì tu niệm, mỗi năm trên dưới 2 tháng. Tám lần trước ở tại thất Đa Bảo vùng Capelltown cách Sydney chừng 40 cây số. Nơi ấy tôi cũng đã hoàn thành một số tác phẩm và dịch phẩm được xuất bản tại ngoại quốc trong những năm qua. Năm nay 2011, Hòa Thượng Phương Trượng chùa Pháp Bảo Thích Bảo Lạc lại cho di dời Tu viện Đa Bảo về vùng Blue Mountains này, nơi có nhiều núi đồi và phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Từ Sydney đến đây bằng xe hơi, lái độ 2 giờ đồng hồ, mặc dầu đoạn đường chỉ 135 cây số. Vì là đường đèo quanh co uốn khúc, khó chạy nhanh hơn được.
Địa điểm mới này có hai căn nhà, một cũ và một mới. Căn nhà mới, chủ cũ xây để làm chỗ nghỉ dưỡng sức cho những người lớn tuổi nên rất đầy đủ tiện nghi, không khác gì Âu-Mỹ mấy, mặc dầu đây là vùng đồi núi, nằm cách mặt biển độ 1.000 mét. Vì vậy về đêm nhiệt độ xuống thấp và ban ngày có khí hậu mát mẻ như vùng Đà Lạt của Việt Nam.
Căn nhà thứ 2 nằm trên đồi, đã cũ, nhưng nhìn xuống phía dưới đồi thì quá tuyệt vời, cả một vùng trời mênh mông vô tận với cảnh trí thiên nhiên thật tuyệt hảo. Có nhiều buổi chiều khi sương xuống hay buổi sáng lúc sương chưa tan, từ ngôi nhà này, cảm thấy như mình đang ở trên mây và hòa cùng với thiên nhiên như là một cảnh tiên không khác.
Nhà ở đây xây theo lối Âu Châu nên có cả 2 hệ thống sưởi, một bằng gas và một bằng củi. Tôi thích nhất là đốt củi để nhìn lửa tí tách cháy trong lò, mình cảm thấy ấm lòng, khi bên ngoài trời màn đêm buông xuống. Cũng chính từ đồi này, năm nay tôi biên soạn tác phẩm thứ 59 này.
Năm 2010 tôi và Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng dịch chung với nhau quyển sách bằng tiếng Anh nhan đề là “Chết An Lạc, Tái Sanh Hoan Hỷ”. Chính quyển sách này là động cơ để tôi đi tiếp 3 tác phẩm theo sau. Tôi không ngờ, chỉ dịch sách trong sự tình cờ mà khám phá ra được Tịnh Độ Tông của Tây Tạng. Đây là nguồn cảm hứng để tôi đi sâu vào Tịnh Độ. Trước đó mấy năm, tôi đã dịch “Tịnh Độ Tông Nhật Bản” từ tiếng Nhật sang tiếng Việt, nhưng dường như cũng chưa đầy đủ cho sự nghiên cứu của mình, cho nên năm nay (2011) tôi có bảo Thầy Hạnh Giả là đệ tử, tìm cho Thầy một quyển sách nào bằng tiếng Đức có liên quan với Tịnh Độ để Thầy dịch ra tiếng Việt. Thầy ấy đưa cho tôi 2 quyển. Một quyển của tác giả Schumann, ông này là một học giả Phật Giáo người Đức rất giỏi về tiếng Pali và Sanskrit. Sau khi đọc tác phẩm về Phật Giáo của ông ta, tôi thấy tiếng Sanskrit nhiều quá, không hiểu hết, nên đã biên thư nhờ Giáo sư Lê Mạnh Thát giúp đỡ. Thầy ấy trả lời thuận, nhưng sau đó tôi cảm thấy nhiêu khê quá, vì 2 ngôn ngữ này vốn không phải là phần chuyên môn của mình, nên tôi không tiếp tục và không dám làm phiền Thầy ấy nữa.
Quyển thứ 2 nhan đề tiếng Đức là: “Những bản kinh căn bản của Tịnh Độ Tông (A Di Đà) Nhật Bản” của Christian Steineck. Đây là một luận án Tiến sĩ có nghiên cứu, chú thích kỹ càng. Phần cuối sách có giải thích chữ Hán, Nhật ngữ ra Đức ngữ, rất tiện lợi. Do vậy tôi đã chấp nhận dịch tác phẩm thứ 58 từ trong mùa An Cư Kiết Hạ năm nay để khi sang Úc thì dịch phẩm ấy đã hoàn thành, chỉ cần giảo chánh lại và đánh máy nữa thôi.
Một bản dịch đặc biệt khác có liên quan đến Tịnh Độ và Phật Giáo Việt Nam, đó là luận án Tiến sĩ của Thầy Hạnh Giả, là đệ tử xuất gia của tôi và cũng đang dạy về Phân khoa Tôn Giáo Học tại Đại Học Hannover cho những sinh viên người Đức với nhan đề là “Tang Lễ của Phật Giáo Việt Nam tại Đức - Sự duy trì và thích nghi tại Hải Ngoại”. Dĩ nhiên là chính Thầy ấy dịch ra tiếng Việt có sự trợ lực giảo chánh của tôi để câu văn tiếng Việt nhuần nhuyễn hơn và đây không phải chỉ nói thuần về vấn đề chết chóc, tang ma, mà qua những lễ nghi ấy, người Phật Tử Việt Nam đã gìn giữ phong tục này theo truyền thống Tịnh Độ, vốn đã hội nhập và thích nghi với xã hội người Việt ở trong nước cũng như ở tại xứ Đức.
Như vậy, tác phẩm này là tác phẩm thứ 59 hoàn toàn bằng tiếng Việt, nhưng có tham cứu nhiều ở Phật Quang Đại Từ Điển, quyển này do Hòa Thượng Thích Quảng Độ dịch và Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản. Đây là một quyển Từ Điển đầy đủ nhất trong những loại từ điển Phật Học khác. Ước vọng của tôi trong quyển “Tư Tưởng Tịnh Độ Tông” này là mong muốn hệ thống hóa về cách truyền thừa của các vị Tổ Sư Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng và Việt Nam để người Phật Tử có một cái nhìn toàn diện hơn. Dĩ nhiên là sẽ còn nhiều sự phát hiện rõ ràng và tỉ mỉ hơn nữa về sau này, nhưng tôi mong mỏi thiết lập sơ khởi như vậy, để gọi là viên gạch lót đường đầu tiên cho vấn đề này.
Tư Tưởng Tịnh Độ lấy 3 kinh Tịnh Độ làm chính. Đó là kinh Vô Lượng Thọ (Đại Bản A Di Đà), kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà (Tiểu Bản A Di Đà) và triển khai những sáng tác, bình luận, soạn thuật của các vị Tổ của những nước trên về quan niệm của sự vãng sanh trong thời mạt pháp này, để từ đó, tôi đưa ra một đề nghị (xin xem Chương thứ VIII - Con Đường Tịnh Độ) cho những người tu theo Tịnh Độ Tông Việt Nam có một lập luận vững vàng khi thực hành pháp môn này.
Xưa nay đa phần chúng ta lệ thuộc văn hóa Trung Hoa không ít, trong đó kể cả văn hóa Phật Giáo. Cho nên với tác phẩm này,tôi đã hệ thống hóa tư tưởng Tịnh Độ trực tiếp từ Ấn Độ qua Tổ Sư Long Thọ và Tổ Sư Thế Thân, kế tục là Ngài Đàm Hoằng, Sơ Tổ Tịnh Độ Tông Việt Nam, chứ không qua ngả Trung Hoa như Thiền Tông vốn dĩ đã có lâu nay mà Việt Nam chúng ta thừa kế.
Tôi cũng không có một ý nghĩ hoang tưởng nào khi biên soạn tác phẩm này. Vì lẽ: nếu không có bắt đầu thì sẽ không có cái cuối cùng. Đó là tục ngữ Đức (Ohne Anfang Ohne Ende). Do vậy những gì muốn nói, tôi đã nói hết trong tác phẩm này và những gì muốn viết, tôi cũng đã viết hết rồi. Chỉ mong rằng người đọc, kể cả các bậc cao minh, xin chỉ cho những chỗ thừa hay thiếu, để từ đó tác giả sửa đổi lại khi có lần tái bản sắp tới.
Dịch, viết, sáng tác từ ngôn ngữ cho đến thơ văn v.v… là một niềm vui và là sự sáng tạo của mỗi cá nhân. Do đó, quan điểm nào đó được nhiều người hưởng ứng, quả là điều hân hạnh cho tác giả, nếu ngược lại chẳng có ai theo và không tán thành, thì đó chỉ là ý kiến của cá nhân người sinh ra tác phẩm ấy mà thôi. Thành kính cảm niệm công đức những vị nào đã để mắt ghé vào đọc tác phẩm này. Nếu có những lỗi nông nổi bất cập nào đó, thì tác giả xin nhận trách nhiệm về mình.
Năm 2012 sẽ xuất bản 3 tác phẩm liên quan về Tịnh Độ như đã thưa trên. Tất cả đều được in ấn tống với sự tùy hỷ đóng góp cúng dường của quý Đạo Hữu Phật Tử xa gần, từ châu Úc đến châu Âu và châu Mỹ. Quyển “Tư Tưởng Tịnh Độ Tông” này dự định in 5.000 cuốn và mong rằng sau khi đọc, gấp sách lại, quý Ngài và quý vị còn lưu lại một vài vấn đề gì đó quan trọng nơi tâm thức của mình, quả là hân hạnh cho người viết biết bao.
Xin cảm ân quý Thầy, quý Cô, quý Đạo Hữu, quý Phật Tử đã chịu khó bỏ công đánh máy, xem xét lại bài vở, layout, trang trí hình bìa sách, chuyên chở, phân phát đến từng địa phương trên các châu lục. Nếu không có quý vị thì bản thảo sách này vẫn còn nằm nguyên vẹn trên bàn viết mà thôi. Tất cả mọi công đức xin được khắc ghi vào lòng và xin niệm ân tất cả chư vị.
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha TátNúi đồi Đa Bảo vùng Blue Mountains ngày 5 tháng 12 năm 2011THÍCH NHƯ ĐIỂN