Các bạn trẻ thân mến! Chúng ta  đều biết rằng hiếu thuận vốn là một truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc  ta. Các bạn biết không, về phương diện tôn giáo, đạo Phật cũng rất chú trọng đến  đạo hiếu. 
  Qua nhiều sách vở được lưu hành rộng rãi xưa  nay, chúng ta thường thấy có nhiều vị tu sĩ rời xa gia đình và thành thị náo  nhiệt để vào tận rừng cao núi hiểm tu hành. Có lẽ do đây mà mọi người thường có  sự ngộ nhận rằng: Những tu sĩ Phật giáo đều đã dứt bỏ mọi tình cảm. Nhưng thực  tế không phải vậy! 
  Hôm nay, chúng tôi xin gửi đến các bạn một  câu chuyện xưa để giúp các bạn có thể hiểu được Phật giáo quan niệm như thế nào  về chữ hiếu. 
  Đây là một câu chuyện xảy ra ở khu vườn Kỳ Thọ  Cấp Cô Độc – tại một vùng thuộc Ấn Độ thuở xưa, cách đây hơn hai ngàn năm trăm  năm. Lúc bấy giờ, đức Phật thường thuyết pháp cho các đệ tử đại tỳ-kheo  và đại Bồ Tát  tại nơi này. 
  Một hôm,  đức Phật cùng các đệ tử vào xóm khất thực.
  Đức Phật nhìn thấy một đống xương khô nằm trơ trọi bên đường liền vội cung kính  chắp tay bái lạy. 
  Cử chỉ lạ  lùng của đức Phật khiến các vị đệ tử quanh Ngài đều cảm thấy vô cùng kinh ngạc  và hoài nghi. Các thầy không thể hiểu được vì sao đức Thế Tôn lại bái lạy đống  xương một cách thành kính như vậy. 
  Khi ấy,  thầy 
A-nan là thị giả của đức Phật, liền quì xuống thành kính thưa hỏi: 
  – “Kính  bạch đấng từ phụ kính yêu của chúng con. Ngài là bậc tôn quí nhất trên cõi đời  này,
  sao lại bái lạy một đống xương khô không tên không họ bên đường như thế? Xin  ngài chỉ dạy cho chúng con được hiểu.” 
  Sau khi  nghe thầy 
A-nan thưa hỏi, đức Phật dịu dàng đáp: 
  – “
A-nan!  Lời ông hỏi rất phải. Các ông tuy đều là đệ tử của ta, theo ta xuất gia
  tu học đã lâu, nhưng còn có nhiều việc các ông có thể chưa biết hết. Mặc dầu  đây chỉ là một đống xương khô, song biết đâu đó lại chẳng phải là di hài của  ông bà cha mẹ trong nhiều đời nhiều kiếp của ta? Các ông hãy nói xem, có đạo đức  luân lý nào cấm con cái không được lạy cha mẹ đâu? Vì lẽ thiêng liêng cao cả ấy  nên ta mới thành kính lạy đống xương này.” 
  Đức Phật  lại dạy tiếp: 
  – “
A-nan!  Bây giờ ông hãy thử chia đống xương này ra làm hai phần đi! Nên nhớ, xương người  nam thì màu trắng và nặng, còn xương người nữ thì đen và nhẹ.” 
  Nghe lời  dạy của đức Phật, thầy 
A-nan cảm thấy phân vân, liền chắp tay thưa hỏi: 
  – “Bạch  Thế Tôn! Việc này con thấy khó hiểu quá! Khi con người còn sống, nhờ vào cách  ăn mặc, đi đứng mà chúng ta có thể phân biệt được là nam hay nữ. Chứ khi chết rồi,  ai cũng thành một đống xương trắng như nhau, làm sao chúng con biết trong đống  xương này đâu là xương người nam, đâu là xương người nữ?” 
  Lúc đó,  đức Phật dạy thầy 
A-nan: 
  – “Được  rồi! Như Lai sẽ nói cho thầy biết vậy! Người đàn ông khi còn sống thường có nhiều  điều kiện sinh hoạt tốt hơn, được vào chùa nghe giảng kinh, luật, tôn kính Tam  bảo
  và thường niệm Phật. Vì trong đời sống không phải cạn kiệt khí lực nên sau khi  mất xương của người đàn ông thường có màu trắng và nặng. Còn người đàn bà phần  nhiều ít có điều kiện học hành, tri thức kém cỏi, không được giữ những cương vị  tốt đẹp trong xã hội.
  Vả lại, người phụ nữ phải trải qua việc sinh nở, nuôi dưỡng con cái vô cùng khó  nhọc. Khi nuôi con thì mẹ phải mất đi nhiều sữa. Mà sữa từ đâu ra? Sữa được tạo  ra từ chính máu huyết của người mẹ. Nên mẹ mất nhiều sữa để nuôi con thì cũng  có nghĩa là hao tổn không biết bao nhiêu máu huyết của mình. Người mẹ phải lao  nhọc như vậy nên thân thể gầy mòn tiều tụy. Vì khí lực phải cạn kiệt như thế,  nên sau khi chết xương người đàn bà thường có màu đen và nhẹ.” 
  Sau khi  nghe đức Phật giảng giải, thầy 
A-nan mới hiểu được sự vĩ đại và vất vả bấy  lâu của cha mẹ. Thầy tự thấy mình chưa làm tròn đạo hiếu với cha mẹ nên âu sầu  rơi lệ.
  
Các bạn trẻ thân mến! Mặc dầu những khó khăn  vất vả của cha mẹ trong suốt thời gian nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn là hết sức  rõ ràng, cụ thể, nhưng phần lớn chúng ta lại không mấy khi lưu tâm đến! Chúng ta  thường xem đó như việc tất nhiên phải vậy, nên không chịu để tâm suy xét, chiêm  nghiệm để thấu hiểu được sự khổ nhọc mà cha mẹ đã nhiều năm gánh chịu vì ta. Chỉ  đến khi chúng ta thực sự khôn lớn, tự lập một gia đình riêng của mình và cũng  đi vào con đường khó khăn vất vả của việc nuôi dưỡng con cái, lúc ấy chúng ta  thường mới nhận biết được công ơn trời biển của mẹ cha. Nhưng than ôi! Đợi đến  khi ấy thì mọi việc thường đã quá muộn màng! Vào lúc đó, có khi cha mẹ đã không  còn nữa!   
  Tôn giả 
A-nan liền cung kính thưa với đức Phật: 
  – “Bạch  đức Thế Tôn! Ân đức cha mẹ cao cả và sâu dày như vậy, hàng đệ tử chúng con phải  làm thế nào mới báo đáp được?”
  Đức Phật  dạy 
A-nan: 
  – “Cha mẹ  nuôi dưỡng con cái là một việc rất gian khổ. Nay các ông có lòng hiếu thảo muốn  báo đáp công ơn ấy thì nên lắng lòng nghe những lời Như Lai sắp chỉ dạy sau  đây. 
  “Này 
A-nan!  Người mẹ mang thai trải qua mười tháng dài, có thể nói là nếm đủ không biết bao  nhiêu cay đắng khổ cực. Tháng đầu tiên lúc mới mang thai, mầm sống trong bụng mẹ  chỉ giống như hạt sương đọng trên ngọn cỏ, mong manh và có thể tan mất bất cứ  lúc nào. Đến tháng thứ hai, mầm sống ấy chỉ như váng sữa đặc, cũng rất mềm yếu.
  
  “Đến  tháng thứ ba, thai nhi giống như cục huyết lớn đông đặc. Tròn bốn tháng, cái  thai mới có chút hình dạng con người. Các bộ phận chủ yếu như đầu, tay, chân được  hình thành khi đủ năm tháng. 
  “Đến  tháng thứ sáu, thai nhi tiếp tục xuất hiện mắt, tai, mũi, lưỡi, miệng... và bắt  đầu có cảm giác. 
  “Đến  tháng thứ bảy, xương cốt và gân trong toàn thân thai nhi lần lượt hình thành,  và trên lớp da xuất hiện vô số lỗ chân lông. 
  “Tháng  thứ tám, các bộ phận quan trọng của thai nhi phát triển gần như hoàn thiện. Đồng  thời chín lỗ trên thân: hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng, hậu môn và đường  tiểu tiện cũng được thành hình. 
  “Kể từ  tháng thứ chín trở về sau, thai nhi bắt đầu biết dùng hai tay hai chân đấm đá,  khiến người mẹ ăn ngủ không yên. Từ khi thọ thai cho đến lúc cất tiếng khóc  chào đời, thai nhi hoàn toàn nhờ vào việc hấp thụ máu huyết của người mẹ được  chuyển thành chất dinh dưỡng để duy trì sự sống. Khi gần đủ mười tháng, các bộ  phận của hài nhi đều được hoàn chỉnh và đợi ngày ra đời. 
  “Chỉ  mang thai độ hơn chín tháng thôi, mà người mẹ cũng nếm đủ không biết bao nhiêu  khổ nhọc rồi.”
  
  Các bạn trẻ thân mến! Khoa học ngày nay đã có  nhiều tiến bộ cho phép chúng ta quan sát và hiểu được cụ thể từng giai đoạn  phát triển của thai nhi trong bụng mẹ, thậm chí có thể ghi lại được cả bằng  hình ảnh. Tuy nhiên, việc thai nhi phát triển như thế nào thật ra không phải điều  mà mỗi chúng ta cần quan tâm. Điều quan trọng nhất chúng ta cần hiểu được ở đây  là nỗi khó nhọc mà người mẹ phải trải qua trong suốt quãng thời gian ấy, cả về  mặt tâm lý cũng như vật lý, nhất là đối với những người mẹ trẻ lần đầu mang  thai. Thử tưởng tượng xem, từ một người phụ nữ lúc nào cũng ưa thích vẻ đẹp,  luôn muốn được xuất hiện một cách thướt tha kiều diễm trước mặt mọi người, nay  bỗng nhiên trở thành nặng nề thô kệch, mang thân hình xấu xí không cân đối, lại  đi đứng khó khăn, chậm chạp... Những thay đổi này chắc chắn sẽ làm cho người mẹ  trẻ phải cảm thấy rất khó chấp nhận, thậm chí có thể trở nên e dè, xấu hổ với  người khác. Tuy nhiên, với tình mẫu tử phát sinh cùng lúc với sự hình thành của  thai nhi trong bụng mẹ, thì tất cả những điều đó bỗng trở nên không còn đáng kể  nữa. Người mẹ khi ấy lúc nào cũng chỉ còn biết nghĩ đến con, lo lắng cho con,  thương yêu nựng nịu con, cho dù lúc ấy con chỉ mới là một bào thai nhỏ bé!
  “Đến kỳ  sinh nở, cơ thể người mẹ lại mất rất nhiều máu. Nếu sinh dễ, đứa bé cuộn tròn  tay chân thì mọi chuyện thuận lợi và giảm bớt sự đau đớn cho sản phụ. Nếu sinh  khó, nhất là khi thai nhi có tư thế trái ngược với bình thường thì khi sinh ra  người mẹ sẽ phải chịu sự đau đớn không thể tưởng tượng nổi. Nghiêm trọng hơn, bởi  người mẹ mất quá nhiều máu nên có thể nguy hiểm cả đến tính mạng.
  
Nói đến sự nguy hiểm của người mẹ khi sinh nở  thì tất cả những người lớn tuổi đều hiểu được, nhưng với các bạn trẻ chúng ta  thì có vẻ như ít có ai lưu tâm đến! Các bạn chỉ thấy việc sinh con như một việc  rất thông thường, chẳng qua chỉ đến bệnh viện nằm vài ba hôm rồi trở về nhà với  em bé, có gì là nguy hiểm đâu? Nhưng các bạn ơi! Sự thật không phải như vậy!  Cho dù trong những trường hợp sinh nở dễ dàng thì chúng ta luôn thấy như chẳng  có gì đáng nói, nhưng sự thật là bất cứ lần sinh nở nào của một người mẹ cũng  luôn ngấm ngầm ẩn chứa rất nhiều nguy cơ đe dọa đến tính mạng. Chẳng thế mà người  xưa đã có câu tục ngữ để nói về việc sinh nở khó khăn và nguy hiểm của người  đàn bà:
  Đàn ông đi biển có đôi,
  Đàn bà đi biển mồ côi một mình.
  Vâng, quả thật là như thế! Trong cơn sóng gió  hiểm nguy và cực kỳ đau đớn của sự sinh nở, không một ai có thể chống chèo,  chia sẻ cùng người mẹ! Chỉ có tình mẫu tử là nguồn động lực duy nhất để giúp mẹ  vượt qua trùng khơi nguy hiểm đó! 
  “Vì vậy,  con cái đừng bao giờ quên sự khổ nhọc mà mẹ phải chịu đựng khi sinh ra mình. Nếu  không ghi nhớ điều này thì chẳng khác gì loài cầm thú!
  “Sau khi  trải qua bao đau đớn vất vả như đã nói, cuối cùng người mẹ mới sinh được con  ra. Nếu nói chi tiết hơn thì công ơn của mẹ đối với chúng ta có ít nhất là mười  điều. Mười điều ấy là những điều nào? 
  “Công ơn  thứ nhất là giữ gìn mạng sống cho thai nhi. Thân người khó được, chúng ta không  dễ gì có được thân này khi lưu chuyển trong luân hồi.
  Vì có duyên phận với cha mẹ đời này nên chúng ta mới có thể nương vào thai mẹ để  đến với cõi đời. Nhưng để có thân ta, mẹ phải đổi lấy bằng biết bao sự khổ nhọc!
  “Thời  gian mang thai cũng là lúc vất vả của mẹ. Vì quan tâm lo lắng cho sinh mạng quý  báu nhỏ bé đang mang trong mình nên làm việc gì mẹ cũng phải hết sức cẩn thận,  chậm rãi. Việc ăn uống cũng phải kiêng dè, thận trọng vì sợ ảnh hưởng không tốt  đến thai nhi. Những y phục tốt đẹp mà mẹ ưa thích nay cũng không thể mặc được,  vì thân thể mang thai trở nên thô kệch, xấu xí. Mọi cử chỉ, việc làm trong  ngày, cho đến những sự đi, đứng, nằm, ngồi đều trở thành khó khăn, bất tiện. Nếu  gặp phải những thai nhi thường hay cựa quậy, thúc đạp thì lại càng khổ sở không  sao nói hết!
  “Ân đức  thứ hai là người mẹ phải chịu đau đớn cùng cực khi sanh nở. Sanh con là một việc  rất khổ nhọc, đau đớn và nguy hiểm. Rất nhiều người mẹ vì sự sinh nở gặp khó  khăn trở ngại mà phải mất cả mạng sống. Dù biết như vậy, nhưng người mẹ vẫn bất  chấp sự an nguy của bản thân, chỉ luôn lo lắng con mình sinh ra có được bình  an, thuận lợi hay không mà thôi.
  
Các bạn trẻ thân mến! Không biết là có bao giờ  các bạn đã từng nghĩ đến những mối hiểm nguy đe dọa mạng sống của người mẹ khi  sinh con hay chưa? Đó là một điều hoàn toàn có thật. Vì thế, nếu bạn chưa từng  nghĩ đến thì sau khi đọc qua những dòng này, bạn hãy thử tìm hiểu xem đó là những  mối nguy hiểm như thế nào. Chắc chắn sau khi biết được rồi, bạn sẽ thấy là lâu  nay mình chưa thực sự hiểu hết về mẹ, và giờ đây sẽ càng kính yêu mẹ mình nhiều  hơn nữa!
  “Ân đức  thứ ba là mặc dầu vì con mẹ phải chịu mọi đau đớn, nhưng đến khi vừa sinh con  xong mẹ lại có thể quên hết khổ nhọc. 
  
Các bạn thân mến! Điều quan tâm nhất của người  mẹ chính là sức khoẻ của đứa con vừa sinh ra. Cho nên, dù trong khoảnh khắc phải  trải qua muôn ngàn lần đau xé ruột, bất kể sự mệt mỏi đến mức nào, câu hỏi đầu  tiên của mẹ bao giờ cũng là: “Con tôi có bình an, có được mạnh khỏe hay không?”  Thật cảm động biết bao phải không các bạn? 
  “Ân đức  thứ tư của cha mẹ là luôn tự chọn lấy phần cay đắng, khó nhọc, nhường phần ngon  ngọt, dễ dàng cho con. Sự chăm sóc của cha mẹ đối với con cái vô cùng chu đáo,  bất kể ngày đêm. Vì muốn con được hạnh phúc vui vẻ, cho dù bản thân phải chịu  bao sự lao lực khổ nhọc, cha mẹ cũng không hề cau mày nhăn mặt. Ân nghĩa sâu nặng  của cha mẹ đối với con cái thật không thể nào nói hết!
  “Ân đức  thứ năm là luôn nhường cho con chỗ nằm ấm áp, khô ráo, còn mẹ thì không nề hà  phải co ro nơi giá lạnh. 
  
Các bạn ơi! Mẹ hiền lúc nào cũng săn sóc con  rất kỹ lưỡng. Ban đêm, khi con nhỏ tiểu tiện ướt cả mền chiếu, mẹ vội vã bồng  con đến chỗ khô ráo, rồi tự mình phải nằm ở nơi ẩm ướt, hôi hám mà không một lời  than vãn. Chỉ cần lo cho con ngủ ngon giấc, thân mẹ dù chịu rét lạnh cũng không  phiền hà. 
  “Ân đức  thứ sáu là cha mẹ vất vả nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái. 
  
Tình thương của mẹ như mặt đất bao la sinh ra  mọi vật; sự yêu mến của cha tựa bầu trời mênh mông, bao trùm khắp muôn loài. Mà  bất luận là trời hay đất, tình thương của cha mẹ luôn là tình yêu không phân biệt.  Chỉ cần là con của mình sinh ra thì dù có xấu xí thế nào cha mẹ cũng không bao  giờ ghét bỏ. Dầu cho con có bị tay chân khiếm khuyết, tàn tật, cha mẹ cũng  không chán ghét, trái lại càng quan tâm thương yêu hơn nữa. Cha mẹ luôn xem con  là vật báu quý nhất mà mình đã rứt ruột sinh ra!
  Các bạn thân mến! Mỗi khi chúng ta tiếp xúc với  ai đó trong đời, ta luôn có những ấn tượng khác nhau. Có những người khiến ta  quý mến, kính trọng ngay khi mới gặp; có những người lại làm ta bực tức, chán  ghét... Những ấn tượng khác nhau đó đều do ngoại hình và cung cách ứng xử của  người khác mang lại cho ta. Nhưng điều kỳ lạ nhất là đối với cha mẹ thì mọi sự  xấu xí, bất toàn hay ngang bướng của con cái đều không bao giờ làm cho cha mẹ  ghét bỏ. Chỉ có yêu thương và yêu thương mà thôi! Trong lòng cha mẹ chẳng bao  giờ có sự chán ghét con mình, cho dù đó có là một đứa con hư đốn hoặc xấu xí đến  mức nào đi chăng nữa!  
  “Thâm ân  thứ bảy là dọn rửa đồ phóng uế của con mà không sợ nhơ nhớp, lấm bẩn. 
  
Bất chấp có khi da dẻ bị lạnh cóng nứt nẻ, mẹ  vẫn không phiền hà khi chăm sóc cho con. Dù trước đây người mẹ có là cành vàng  lá ngọc, mỹ miều xinh đẹp đến đâu, nhưng qua một thời gian lao lực vì con thì vẻ  đẹp như hoa ấy cũng bắt đầu trở nên già nua, tàn tạ. Đôi tay ngọc ngà cũng vì  những việc nấu nướng, giặt giũ mà trở thành khô cứng, sù sì. Mẹ tội nghiệp và  đáng kính biết bao! Mẹ vì con hy sinh cả tuổi thanh xuân quý giá của mình, để rồi  chỉ đổi lấy sự tiều tụy, mệt mỏi. 
  “Ân đức  thứ tám là mỗi khi con đi xa, mẹ ở nhà luôn tựa cửa ngóng chờ, nỗi nhớ con nhạt  nhòa trong dòng nước mắt. 
  
Tiễn biệt người thân về cõi thiên thu khiến  con người phải đau thương, buồn nhớ. Nhưng người mẹ còn đau buồn nhớ mong gấp bội  khi đứa con yêu quí của mình rời xa gia đình. Dù con xa nhà để học tập hay làm  việc, cha mẹ cũng đều sớm nhớ tối mong, luôn cầu nguyện cho con luôn được bình  an khỏe mạnh. Tâm hồn mẹ như treo lơ lửng giữa không trung, chẳng giây phút nào  được yên dạ. Nếu bất hạnh gặp đứa con hư hỏng bỏ nhà ra đi mà không tin tức thư  từ gì về, thì cha mẹ chỉ còn biết ngày đêm đổ lệ chờ con! 
  “Ân đức  thứ chín là cha mẹ tự nguyện chịu khổ thay con và luôn thương yêu, tha thứ cho  con tất cả.
  
  Vì muốn cho con có điều kiện sống sung túc,  cha mẹ không từ bất cứ việc gì. Đôi lúc vì muốn kiếm thêm ít tiền để con được  ăn mặc đẹp, được theo kịp chúng bạn mà cha mẹ phải vất vả làm việc suốt cả ngày  đêm. Nếu con bị bệnh, cha mẹ lại ngày đêm khấn vái nguyện cầu, mong sao có thể  thay con chịu đựng mọi sự đau đớn. 
  “Thâm ân  thứ mười là tình thương cha mẹ dành cho con không bao giờ vơi cạn. 
  
Sự thương yêu của cha mẹ đối với con cái nói  không thể hết, tả không thể cùng. Như mặt trời, mặt trăng luôn soi sáng khắp  nhân gian, tấm lòng cha mẹ cũng luôn hướng về con cái như vậy. Trong mắt mẹ hiền,  con mãi mãi là đứa con nhỏ bé của mẹ, dẫu con tuổi đã tám mươi, nhưng trong đôi  mắt người mẹ già hơn trăm tuổi vẫn cứ đinh ninh xem con là đứa con bé bỏng. Nếu  hỏi tình thương của cha mẹ đối với con cái đến bao giờ mới dứt, thì có lẽ chỉ  là khi cha mẹ rời khỏi cõi đời này! 
  Đức Phật  lại dạy tiếp: 
  – “Công  ơn cha mẹ lớn lao là thế, nhưng ta thấy trong thế gian này có rất nhiều kẻ vong  ân bội nghĩa, bất hiếu ngỗ nghịch, không biết hiếu dưỡng cha mẹ. Đó là một sự  thật đau lòng. 
  “Các thầy  phải hiểu rằng, mẹ mang thai mười tháng như mang một vật nặng trong bụng, ăn  không ngon, ngủ không yên, nếm trải đủ mọi sự vất vả khổ nhọc. Đến ngày gần  sinh, mẹ lại nơm nớp lo sợ những tình huống xảy ra ngoài ý muốn. Như loài heo  dê khi bị chọc huyết, máu chảy ra lênh láng khắp mặt đất, người mẹ cũng phải chịu  sự đau đớn giày vò như vậy mới sinh được con ra. 
  
Tuy phải mang nặng đẻ đau vì con nhưng mẹ  không vì thế mà oán trách, lại dành cho con tình thương bao la bất tận. Sau khi  con chào đời, mẹ chẳng nề hà mệt nhọc, bồng ẵm trên tay, ôm ấp trong lòng, dọn  rửa phẩn uế để giữ cho con luôn sạch sẽ. 
  Gặp lúc con tiểu đêm ướt cả giường chiếu, mẹ  vội bế con đến chỗ khô ráo, còn mình thì nằm nơi ướt lạnh. Suốt ba năm dài bế bồng  bú mớm, người mẹ nào rồi cũng phải thân mòn sức kiệt.
  Cha mẹ bỏ ra biết bao tâm huyết để dạy dỗ con  thơ ngay từ những bước chân đầu tiên chập chững, cho đến lúc biết đọc biết viết,  rồi dạy con hiểu lễ nghĩa, biết liêm sỉ. Cho đến lớn khôn, vì lo việc dựng vợ gả  chồng, gầy dựng sự nghiệp cho con mà cha mẹ lại phải vất vả ngược xuôi, xoay xở  tiền bạc, nhưng chẳng mong gì sự đền đáp về sau. 
  Khi con bị bệnh thì cha mẹ đêm ngày cũng  không yên dạ, chạy chữa khắp nơi, bất kể hao tốn bao nhiêu cũng không nề. Cha mẹ  sớm hôm một nắng hai sương lo lắng cho con như thế, cũng chỉ mong con mau được  khôn lớn, thành người hữu ích. Nhưng nào hay vừa được lớn khôn, rất nhiều người  không những không giữ được sự lễ phép mà còn nặng lời lớn tiếng với cha mẹ. Lại  khi cùng với anh, chị, em ngồi lại bàn bạc thì một lời cũng không hòa thuận, va  chạm đến là sừng sộ, cãi vã... Dù anh em, chú bác có khuyên răn cách mấy cũng  chẳng ăn năn sửa đổi. Một người đánh đập, chửi mắng anh em ruột thịt mà không  chút đoái hoài tình máu mủ, thì dù có học hành đến đâu cũng chẳng khác nào kẻ  không biết lễ nghĩa, không có lòng hổ thẹn! 
  Lúc đi lúc về không thưa trình cha mẹ, nói  năng vô lễ, cử chỉ ngạo mạn... Dù song thân hết lời dạy bảo, cô dì, chú bác cạn  lẽ khuyên răn nhưng vẫn không đoái hoài đến. Bởi do tuổi nhỏ không biết gì lại  được người lớn che chở, nuông chiều, lâu ngày chày tháng thành thói quen nên  không còn coi ai ra gì cả. Đến khi lớn lên, tính tình càng thay đổi càng tỏ ra  ngang ngược. Làm chuyện lầm lỗi đã không tự hối cải, ngược lại còn sanh lòng  oán giận, đụng đến là bỏ nhà ra đi. Phiêu bạt chốn giang hồ, kết giao với những  kẻ lọc lừa, gian trá, rồi dần dần cho những việc xấu xa là lối sống mới, là  đương nhiên như vậy! 
  Lại có những kẻ sau khi bỏ nhà ra đi bị kẻ xấu  dụ dỗ nên lưu lạc đến xứ người. Cũng có người vì đi đây đó tìm kế sinh nhai hoặc  do công việc mà phải lìa xa quê hương. Đến khi tuổi tác đã lớn, không đợi sự  ưng thuận của cha mẹ mà tự động cưới vợ, lấy chồng, sanh con đẻ cái. Lúc thì vướng  chuyện này, khi thì mắc việc nọ, dần dà lâu ngày chẳng còn muốn trở về quê nhà  nữa. 
  “Lại có  một số người bất hạnh gặp phải những kẻ xấu khi lưu lạc xứ người, nếu bản thân  không cẩn thận thì thường bị hãm hại, rồi chôn vùi cuộc đời trong chốn lao ngục. 
  
Cũng có người bị cái nghèo và bệnh tật bức  bách, đến nỗi lâm vào cảnh khốn cùng kiệt quệ, đã không được mọi người quan tâm  giúp đỡ, trái lại còn bị ruồng rẫy. Thậm chí có lúc bệnh chết ngoài đường không  ngưòi chôn cất. Từ đó, xương trắng phơi sương, hồn ma vất vưởng nơi đất khách  quê người, chẳng bao giờ còn có cơ hội gặp lại người thân. 
  “Than ôi!  Thật uổng phí cho thâm ân nuôi dưỡng và biết bao kỳ vọng thiết tha của cha mẹ! 
  “Nhưng  đáng thương hơn cả là tấm lòng cha mẹ, ở nơi quê nhà chẳng hề hay biết gì! Vì  quá thương con nên cứ ngày ngày mong ngóng, tin chắc rồi con sẽ trở về. Do nhớ  mong nên chẳng còn lòng dạ nào để làm lụng, ngủ nghỉ. Đôi mắt cũng mờ dần theo  giọt lệ mỏi mòn thương nhớ. Hoặc giả vì buồn thương quá độ mà thành bệnh, có  khi phải ôm buồn tủi xuống tận suối vàng! Dù hình hài đã mất, thần hồn về nơi  âm cảnh, nhưng tình thương của cha mẹ đối với con cái cũng không bao giờ nguôi  ngoai!” 
  
Các bạn thân mến! Các bạn có biết không, những  đứa con bất hiếu như thế, tuy có thể không thấy vướng bận gì khi lìa đời nơi xứ  người, nhưng cái chết ấy có làm vơi được sự hoài vọng ngày ngày của cha mẹ ở  quê nhà hay không? 
  Từ lúc con ra đi, cha mẹ có giây phút nào là  không mong ngóng, nhớ thương con? 
  “Lại có  những đứa con không lo học hành, suốt ngày tụ tập kết thành bè đảng với lũ bạn  xấu, giong ruổi khắp nơi, quậy phá và làm những chuyện bại hoại đạo đức, để rồi  không chỉ gây liên lụy cho người trong nhà mà còn khiến cho cha mẹ phải buồn tủi,  thất vọng. 
  
Những đứa con ấy, ra đi từ lúc mặt trời mọc đến  chạng vạng tối mới về nhà, chẳng quan tâm gì đến cha mẹ ở nhà có cảm thấy lạc lỏng  hiu quạnh, có cần người giúp đỡ chăm sóc hay không. Đến khi tuổi càng cao, cha  mẹ lại chịu nhiều tủi nhục trước sự cười chê của ngưòi đời vì sự bất hiếu, hư đốn  của con cái. 
  “Cũng có  những người con chỉ còn cha hoặc mẹ, lẽ ra phải hết lòng hiếu thuận, chăm nom,  nhưng lại không làm được như vậy. 
  
Chúng ta thường thấy những đứa con này bỏ mặc  cha mẹ hiu quạnh, cô đơn, héo hon trong căn nhà trống vắng trơ trọi, giống như  người khách lạ ở trong nhà trọ, dù có bị đói rách hay không cũng chẳng ai hay  biết! 
  Những người cha mẹ gặp phải tình cảnh này  cũng chỉ biết đêm đêm âm thầm rơi lệ than thở mà thôi! 
  Ngoài ra, chúng ta còn thấy có những người vì  muốn làm hài lòng vợ con nên đối với vợ con thì bảo sao làm vậy, lại cung ứng  tiền của, áo cơm cho vợ con hưởng thụ, không những không chút than vãn mà cũng  chẳng dè dặt. Nhưng đối với lời dạy của cha mẹ thì lại bỏ hết ngoài tai, cũng  không có chút lòng tôn kính! 
  “Lại có  những người con gái trước khi chưa lấy chồng thì hiếu thảo với cha mẹ, nhưng  sau khi lấy chồng rồi thì lại bất hiếu. 
  
Cha mẹ có nói đến vài câu không vui liền sanh  lòng hờn dỗi, còn chồng mình đánh đập chửi mắng lại cam tâm chịu đựng! Sau khi  có chồng thì xem mọi việc bên chồng là hơn hết, còn đối với cha mẹ đã sinh ra  mình thì lần lần nguội lạnh, cách xa! 
  “Lại có  những đứa con gái bất hiếu, sau khi lên xe hoa về nhà chồng rồi thì hiếm khi thấy  về thăm cha mẹ, mà cũng chẳng còn lòng thương kính cha mẹ! 
  
Thư từ không viết, điện tín cũng không!  Thương cho bậc làm cha làm mẹ, bởi thương con lấy chồng xa nhà mà phải cơm canh  không ngon, ngủ chẳng trọn giấc. Như người miệng lưỡi khô khan, khao khát uống  được giọt nước mát ngọt, tình thương của cha mẹ đối với con cái cũng giống như  vậy, không có giây phút nào không nhớ mong con! 
  “Công ơn  cha mẹ như núi cao biển rộng, còn tội bất hiếu với cha mẹ thì dù nói thế nào  cũng không hết được.” 
  Sau khi  nghe Đức Phật giải thích rõ công ơn cao cả của cha mẹ, các thầy đều cảm thấy vô  cùng đau xót. Mọi người quỳ xuống ngậm ngùi rơi lệ, thành tâm bày tỏ lòng ăn  năn sám hối đối với những việc bất hiếu trước đây của mình. Các thầy đều hiểu  rõ, công ơn cha mẹ thật sâu dày như núi cao, biển rộng! 
  Lúc ấy,  các vị đệ tử bạch Đức Phật rằng: 
  – “Xin đức  Thế Tôn rủ lòng thương xót! Xin Người hãy cứu lấy đàn con ngu dại, cho chúng  con có cơ hội chuộc lại lỗi lầm. Xin chỉ bày cho chúng con biết cách nào để báo  đáp thâm ân cao cả của cha mẹ.” 
  Lúc bấy  giờ, Đức Phật dùng tám thứ Phạm âm thanh tịnh,
  vi diệu để nói với Đại chúng rằng: 
  – “Này  các 
tỳ-kheo! Nếu như có người trên vai trái cõng cha, vai phải gánh mẹ,  đi quanh hòn núi Tu-di,
  trải qua một thời gian dài, đến nỗi da thịt nát tan, máu huyết khô cạn, thì  cũng không thể báo đáp được thâm ân cao cả của cha mẹ. 
  “Nếu có  người bất hạnh sanh vào thời mất mùa đói kém, vì không muốn song thân bị đói  khát nên cắt xẻo da thịt của chính mình để phụng dưỡng cha mẹ. Việc làm như thế  so với ân đức của cha mẹ chẳng qua cũng chỉ nhỏ nhoi như một hạt bụi mà thôi. Dầu  da thịt toàn thân đều cắt xẻo ra hết cũng không báo đáp được thâm ân của cha mẹ.
  
  “Giả sử  có người vì cha mẹ mà dùng dao sắc nhọn móc lấy hai mắt mình, dâng cúng chư Phật  và Bồ Tát, hy vọng có thể lấy công đức của việc này để hồi hướng, cầu nguyện  cho cha mẹ được sống lâu, mạnh khỏe. Tấm lòng hiếu thảo như vậy thật lớn lao,  nhưng cũng không đủ để báo đáp được thâm ân sâu dày của cha mẹ trong muôn một. 
  “Hoặc giả  có người vì cha mẹ đốt thân cúng dường Phật và Bồ Tát, mong lấy công đức này hồi  hướng nguyện cầu cho cha mẹ được an vui, sống lâu. Lòng hiếu thảo ấy cũng chưa  đủ để báo đáp được thâm ân của cha mẹ trong muôn một. 
  “Nếu có  người vì cha mẹ mà dùng dao moi lấy tim gan, dù máu tuôn khắp đất cũng không sợ  đau đớn. Lòng hiếu thảo như vậy vẫn chưa đủ để báo đáp được ân đức cao cả của  cha mẹ trong muôn một. 
  “Giả sử  có người vì cha mẹ mà cam tâm chịu đau đớn cắt xẻo, để cho trăm ngàn mũi dao nhọn  đâm xuyên qua thân. Lòng hiếu thảo như vậy cũng chưa đủ để báo đáp công ơn cha  mẹ trong muôn một. 
  “Ví như  có người vì cha mẹ mà có thể chịu đau đớn khi gân, xương, máu, tủy bị đứt rời  tuôn chảy... Nhưng như vậy cũng chưa đủ để báo đáp được công ơn cha mẹ trong  muôn một. 
  “Hoặc  như có người vì cha mẹ mà nguyện nuốt hết các hòn sắt nóng, dù thân thể bị  thiêu cháy, đau đớn thế nào cũng xin chịu hết. Nhưng việc làm như thế cũng  không đủ để báo đáp được thâm ân của cha mẹ.”
  
Các bạn trẻ thân mến! Những ví dụ được nêu ra  ở đây là muốn chỉ rõ ra rằng, cho dù con cái có thật tâm làm được những việc  khó làm, chịu đựng hết thảy những điều rất khó chịu đựng, để mong báo đáp công  ơn cha mẹ, thì điều đó cũng chỉ có được một phần kết quả rất hạn chế. Huống chi  những người suốt đời không hề nghĩ đến việc báo đáp công ơn cha mẹ? Sở dĩ như  thế là vì những việc làm vừa kể trên dẫu có khó khăn và thể hiện sự thành tâm của  con trẻ, nhưng cũng chỉ báo đáp được phần nào sự lao nhọc của cha mẹ mà thôi,  chưa thể so sánh được với tình thương bao la không bờ bến mà cha mẹ đã luôn  dành cho con tự thuở lọt lòng. Vì thế, cách duy nhất để báo đáp công ơn cha mẹ  là phải cố gắng tu dưỡng để trở thành người tốt, và khuyên dạy, chỉ bảo cho nhiều  người khác cũng đều trở thành người tốt như mình. Nhờ công đức đó, may ra mới  có thể đáp đền được công ơn cha mẹ.
  Lúc ấy,  sau khi nghe Đức Phật nói về ân đức sâu dày không thể kể xiết của cha mẹ, các  thầy đều gục đầu khóc nức nở, cảm thấy đau đớn như có hàng ngàn mũi dao đâm xé  trong tâm mình. Nhưng các thầy đều không biết phải báo đáp công ơn cha mẹ như  thế nào, nên cùng nhau bạch Phật: 
  – “Bạch  đức Thế Tôn! Bây giờ chúng con mới biết mình là những đứa con bất hiếu, nhưng  chúng con biết làm thế nào đây, thưa Thế Tôn?”
  Đức Phật  thấy các đệ tử đều có lòng hổ thẹn, bèn dạy rằng: 
  – “Này  các 
tỳ-kheo! Như muốn báo đáp thâm ân của cha mẹ, các thầy nên sao chép,  đọc tụng quyển kinh này, hoặc cúng dường Tam bảo, giữ giới,
  ăn chay, sám hối mọi tội lỗi, rồi hồi hướng công đức ấy cho cha mẹ. Cũng có thể  làm việc bố thí gieo ruộng phước.
  
  “Nếu có  thể vì song thân làm được các việc trên, thì đó đích thực là người con hiếu thảo.  Bằng chẳng được như vậy lại gây thêm nhiều điều ác thì nhất định sẽ rơi vào địa  ngục ngay sau khi chết.”
  
Cách báo đáp công ơn cha mẹ như thế này mới  thật là trọn vẹn, vì không chỉ giúp cha mẹ đỡ phần lao nhọc mà còn mở ra con đường  tu tập thoát khỏi sinh tử luân hồi. Vì thế, việc sao chép truyền bá kinh điển  là rất quan trọng, có thể giúp cho nhiều được có được sự hiểu biết chân chánh để  làm theo; và sự phát tâm hồi hướng sẽ giúp cho mọi việc làm phước thiện đều trở  nên có ý nghĩa sâu xa, chính đáng hơn. Như vậy, chẳng những có thể báo đáp được  công ơn cha mẹ, mà tự thân mình cũng vĩnh viễn được thoát khỏi việc tái sinh  trong các đường ác: địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
  Rồi Đức  Phật dạy tiếp: 
  – “Những  người con bất hiếu, sau khi chết sẽ đến chịu tội ở ngục Vô gián.
  Trong ngục này, bốn phía đều là tường đồng vách sắt, bên trên giăng đầy lưới sắt,  dưới lại có một lớp sắt dày nóng đỏ. Ngọn lửa từ các phía cháy phủ lại, trên  không có thêm những luồng sấm chớp ngoằn ngoèo. Nước đồng sôi và nước sắt nóng  thay nhau rót xối xả lên người phạm nhân, khiến họ đau đớn đến hồn xiêu phách  tán. Thêm vào đó, chó đồng rắn sắt hung dữ đến giằng xé cắn nuốt người có tội,  nên họ không bị phanh thây cũng bị thiêu nướng. Nỗi khổ nói không bao giờ hết! 
  “Lại có  loại địa ngục trên không trung giáo mác không ngớt lao xuống đâm chém người có  tội, khắp nơi rền vang tiếng kim khí, cả bầu trời toàn là rừng kiếm, xe đao, do  các mũi kiếm nhọn tạo thành. Tất cả tội nhân đều bị treo ngược lơ lửng giữa  không trung nên không ai không bị đao kiếm đâm chém. Những phạm nhân chịu hình  phạt khổ đau cùng cực như vậy đều là do đã làm những việc ác độc và bất hiếu với  cha mẹ. 
  “Ngoài  ra, sau khi chịu xong hình phạt ở địa ngục này, phạm nhân lại bị đưa vào chịu tội  ở một địa ngục khác. Ví dụ như có địa ngục trên đầu tội nhân phải đội chậu lửa  cháy hừng hực, hoặc có bánh xe sắt nghiền đi nghiền lại trên thân tội nhân khiến  ruột gan xương thịt của họ bị nghiền nát, đau đớn muôn phần. 
  “Dù bị  trừng phạt tàn khốc như vậy nhưng người có tội cũng không thể chết hẳn. Mỗi  ngày họ phải chết đi sống lại đến muôn lần. Bị trừng phạt như vậy là do lúc còn  sống họ phạm vào các tội ngũ nghịch,
  bất hiếu với cha mẹ.”
  
Các bạn trẻ thân mến! Nói đến địa ngục thì  trong kinh Phật dạy rằng đó chính là sự chiêu cảm bởi các nghiệp ác mà chúng  sinh đã làm. Vì nghiệp ác có vô số hình thức khác nhau, nên địa ngục cũng có vô  số cách hành hình, thọ khổ khác nhau. Những gì được mô tả trên đây cũng chỉ là  một phần tiêu biểu mà thôi, không thể nào nói hết được những đau đớn khổ sở mà  người tạo nghiệp ác phải lãnh chịu. Vì thế, trong kinh Phật có dạy rằng, cách tốt  nhất để tránh được những khổ đau trong địa ngục là đừng bao giờ làm các điều  ác. Bởi vậy, tuy Phật thuyết dạy rất nhiều kinh điển, nhưng trong kinh Đại Bát  Niết-bàn có kệ tóm lại lời Phật dạy như sau:
  Không làm các việc ác,
  Thành tựu các hạnh lành,
  Giữ tâm ý trong sạch,
  Chính lời chư Phật dạy.
  Đức Phật  lại dạy thêm: 
  – “Cách  tốt nhất để báo đáp công ơn cha mẹ không gì bằng việc góp sức sao chép hoặc in ấn  và phổ biến rộng rãi kinh này. Nếu in ra được một quyển tức là đã gieo nhân  duyên gặp được một vị Phật cho cha mẹ và chính mình. Nếu in được mười quyển thì  về sau có thể gặp được mười vị Phật. Từ đó mà suy ra, nếu in ra được trăm cuốn,  ngàn cuốn thì sẽ có công đức được gặp trăm ngàn vị Phật. 
  “Những  người con hiếu thảo nhờ góp sức in kinh và khuyên mọi người hiếu dưỡng cha mẹ  nên được chư Phật và Bồ Tát luôn gần gũi, phù hộ. Đồng thời cha mẹ và chính bản  thân người ấy đều sẽ được sanh về cõi trời, thụ hưởng sự an vui ngay sau khi  qua đời, không bị đọa vào địa ngục chịu cực hình.”
  
  Sau khi  nghe Đức Phật giảng giải về những tội lỗi nặng nề cùng báo ứng của những người  con bất hiếu, tất cả các thầy 
tỳ-kheo đều thành tâm sám hối và phát nguyện  rằng: 
  – “Từ  nay mãi mãi về sau, cho dù thịt nát xương tan chúng con cũng nguyện một lòng  vâng theo lời dạy của đức Thế Tôn, không dám sai phạm.
  “Cho dù  có người dùng móc nhọn kéo lưỡi chúng con ra, rồi dùng cày sắt cày bừa trên đó  như cày ruộng đất, làm cho máu chảy thành dòng, hoặc dùng bất cứ một thủ đoạn  đáng sợ nào để đe dọa chúng con phải thay đổi lời nguyện hôm nay, thì chúng con  thà chịu đau đớn chứ quyết không bao giờ làm trái lời Phật dạy.”
  
Các bạn trẻ thân mến! Việc giữ giới là cực kỳ  quan trọng. Khi Phật sắp nhập Niết-bàn có dạy các thầy tỳ-kheo rằng: “Sau khi  ta nhập diệt, các ông cần phải lấy giới luật làm thầy.” Giữ theo giới luật cũng  chính là ghi nhớ và làm đúng theo lời Phật dạy. Vì thế mà ở đây các thầy tỳ-kheo  đã phát nguyện kiên cố, quyết tâm làm đúng theo lời Phật dạy, cho dù có phải hy  sinh tính mạng cũng không làm sai. Còn các bạn thì sao? Nếu đã hiểu được những  lời Phật dạy là chân lý phù hợp với đời sống chân chánh, bạn có quyết tâm làm  theo hay không? Bạn có tự hứa sẽ trở thành một người con hiếu thảo, nguyện báo  đáp công ơn cha mẹ hay không? 
  Sau đó,  tôn giả 
A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính bạch Phật: 
  – “Bạch  đức Thế Tôn, chúng con phải gọi tên kinh này là gì để tiện việc giữ gìn và làm  theo?” 
  Lúc ấy,  Đức Phật dạy các vị 
tỳ-kheo rằng: 
  – “Kinh  này nên đặt tên là kinh ‘Báo đáp công ơn cha mẹ’. Mọi người hãy ghi nhớ và y  theo đó thực hành cho tốt!” 
  Sau khi  nghe lời Phật dạy, các thầy 
tỳ-kheo đều tỉnh ngộ và cảm thấy rất vui mừng,  trong lòng ngập tràn niềm hân hoan, nguyện đời đờỉ kiếp kiếp vâng theo lời Phật  và mãi mãi không quên sự hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ. 
  Sau đó,  mọi người cung kính đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra, pháp hội đến đây kết thúc. 
CHÚ THÍCH
  
    Tỳ-kheo: là những vị  xuất gia tu hành theo đạo Phật. Đại 
tỳ-kheo là những 
tỳ-kheo thuộc  hàng trưởng thượng, đạo cao đức trọng. 
 
  
      Bồ Tát: là những vị siêng tu  Phật pháp, phát tâm đại từ bi cứu độ tất cả chúng sanh, tự lợi lợi tha, nguyện  cứu vớt tất cả chúng sinh ra khỏi bể khổ, đồng thành quả Phật. Đại Bồ Tát là những  vị Bồ Tát đã tu tập viên mãn công hạnh, chứng ngộ giải thoát, vì hạnh nguyện mà  vẫn tiếp tục ở trong luân hồi để cứu độ chúng sinh.
  
 
  
      Khất thực: hơn hai ngàn năm  trăm năm trước, đức Phật vì muốn cho tất cả mọi người đều có được cơ duyên cúng  dường các bậc tu hành, gieo trồng phước đức, nên dạy hàng đệ tử xuất gia hằng  ngày phải vào thôn xóm nhận thức ăn cúng dường của bá tánh, gọi là đi khất thực.  Điều này đồng thời cũng là để tạo cơ hội cho mọi người được nghe giảng giải Phật  pháp mà tiến tu phước huệ.
  
 
  
      Đức Phật là người đã đạt đến  một nhân cách hoàn thiện nhất. Ngài dạy rằng: Việc đạt đến giác ngộ là do nỗ lực  của chính mỗi người. Chỉ cần mọi ngưòi phát nguyện siêng năng tu tập thì đều có  thể thành Phật. Vì đức Phật đã giác ngộ được chân lý và chỉ bày cho chúng ta  phương pháp tu hành để đạt đến giác ngộ giống như ngài, cho nên xưng tụng rằng  đức Phật là bậc đạo sư tôn quý nhất trên thế gian.
  
 
  
      Xuất gia: là người lìa bỏ đời  sống gia đình, chuyên tâm tu tập theo Phật pháp. Đức Phật dạy rằng: Mọi người  vì vướng bận chuyện gia đình nên thân tâm thường phiền muộn, lo âu, không thể đạt  được sự an vui tự tại. Còn người xuất gia tu hành, rời bỏ gia đình, vào chùa  theo thầy học đạo có thể dứt trừ mọi sự ưu tư phiền muộn, thoát khỏi khổ đau  sanh tử, nhờ vậy có thể hướng dẫn, giúp đỡ làm lợi lạc cho tất cả mọi chúng  sinh khác.
  
 
  
      Tam Bảo: là ba ngôi báu cao  quý nhất trên thế gian, gồm có Đức Phật, Giáo pháp của Phật và chư tăng tu tập  theo giáo pháp của Phật, thường nói ngắn gọn là Phật, Pháp và Tăng. Phật là bậc  giác ngộ, thấy rõ nguyên nhân của mọi khổ đau trong đời sống và chỉ dạy con đường  chấm dứt mọi khổ đau, thoát khỏi sinh tử, nên thế gian tôn xưng Phật là Phật bảo.  Pháp là những lời dạy của Phật, là chân lý giúp chúng sinh tu tập theo đó mà  thoát khỏi khổ đau, sinh tử, đạt được giác ngộ, nên thế gian tôn xưng là Pháp bảo.  Tăng là những vị kế thừa, tự mình tu tập và truyền bá Phật pháp. Nhờ có các vị  này mà tất cả mọi người mới có cơ hội tiếp xúc và học hỏi Phật pháp, nên thế  gian tôn xưng là Tăng bảo.
  
 
  
      Ở đây nói về điều kiện của  người phụ nữ trong các xã hội phong kiến xưa kia, thường phổ biến quan điểm trọng  nam khinh nữ.
  
 
  
      Đoạn này cho thấy sự sống của  thai nhi trong hai tháng đầu là rất mong manh, yếu ớt. Nghiên cứu khoa học gần  đây cũng cho thấy các trường hợp sẩy thai thường rất dễ xảy ra trong giai đoạn  này.
  
 
  
      Thời kỳ trưởng thành của  thai nhi đòi hỏi một lượng dinh dưỡng rất lớn, đặc biệt là chất canxi và phốt  pho. Ở thời điểm này, nếu người mẹ không được cung cấp dinh dưỡng đầy đủ, thai  nhi lại lấy dần dưỡng chất trong cơ thể, thì sản phụ có nguy cơ xảy ra các biến  chứng như bệnh thiếu máu và bệnh răng nướu.
  
 
  
      Theo đạo Phật, đời sống của  mỗi chúng sinh đều chịu sự chi phối của nghiệp lực do chính chúng sinh ấy đã tạo  ra trong quá khứ. Những chúng sinh tạo nhiều nghiệp ác thì phải thọ sinh vào ba  nẻo dữ là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Những chúng sinh thường làm nhiều việc  lành thì được thọ sinh vào ba cảnh giới tương đối tốt đẹp hơn là cõi trời, cõi  người và cõi a-tu-la. Tuy chia làm sáu cảnh giới, nhưng do nghiệp lực thay đổi  trong mỗi kiếp sống nên chúng sinh không nhất thiết ở mãi trong một cảnh giới,  mà có thể nhờ làm việc lành mà được thọ sinh vào các cảnh giới tốt đẹp hơn, hoặc  do làm ác mà phải đọa lạc vào những cảnh giới xấu hơn. Vì tất cả chúng sinh thường  xuyên lưu chuyển, thay đổi thọ sinh trong các cảnh giới này nên gọi là luân hồi.  Luân là luân chuyển, hồi là trở lại, vì chúng sinh luân chuyển trở đi trở lại  trong chính những cảnh giới mà trước đây đã nhiều lần trải qua. Vì chịu sự chi  phối của nghiệp lực, nên muốn thọ sinh được thân người là chuyện rất khó khăn,  cần phải tạo ra được những nghiệp lành tương ứng mới có được.
  
 
  
      Đức Khổng Tứ có nói: “Khi  cha mẹ còn sống, phận làm con không nên đi xa.” (Phụ mẫu tại đường, bất khả viễn  du.) Đó là để cha mẹ khỏi phải lo lắng, trông mong. Nếu bất đắc dĩ phải xa nhà  thì nên thường xuyên có tin tức về, để cha mẹ được biết mình vẫn bình an thì  các vị mới yên lòng.
  
 
  
      Thi sĩ Mạnh Giao đời Đường  có bài thơ Du tử ngâm (Khúc ngâm của đứa con lang bạt) rất nổi tiếng, trong đó  có câu rằng: “Ai dám nói là tấm lòng con cái như tấc cỏ mà đủ để đền đáp công  ơn cha mẹ vòi vọi tràn khắp như nắng xuân’’. (Thùy ngôn thốn thảo tâm, báo đáp  tam xuân huy.) Ân tình cha mẹ dành cho con cái thật khó mà báo đáp trong muôn một!
  
 
  
      Thật đúng là: “Thân con đau  đớn một phần, mẹ cha đứt ruột muôn lần vì con.”
  
 
  
      Tám thứ Phạm âm thanh tịnh,  vi diệu: là các loại âm thanh của những cõi trời, trong sạch không ô nhiễm, khiến  người nghe được thân tâm khoái lạc, được phân ra như sau: 1. âm thanh rất hay,  2. âm thanh dịu dàng, 3. âm thanh hiền từ hòa nhã, 4. âm thanh tôn quý, trí tuệ,  5. âm thanh không mang âm điệu người nữ, 6. âm thanh không sai lệch, 7. âm  thanh sâu xa, vang rộng; và 8. âm thanh trong trẻo không bị khàn.
  
 
  
      Núi Tu-di (Meru), còn gọi  là núi chúa Tu-di, dịch nghĩa là Diệu Cao, chỉ ngọn núi cao nhất, được xem là  trung tâm của một thế giới. Trong vũ trụ rộng lớn vô lượng vô biên có vô số thế  giới, trong mỗi thế giới đều có một ngọn núi chúa Tu-di cao nhất, cho nên có vô  số ngọn núi Tu-di.
  
 
  
      Đức Phật nêu ví dụ này để  nhấn mạnh rằng công ơn của cha mẹ là sâu xa, to lớn, dẫu hết lòng báo đáp như  thế cũng còn chưa báo đáp hết được. Vì thế, các bạn trẻ nên hiểu rằng ở đây  không hề có ý khuyến khích việc báo đáp công ơn cha mẹ bằng cách tự làm tổn  thương chính bản thân mình. 
  
 
  
      Giữ giới: tức là vâng giữ  theo giới luật do đức Phật chế định. Hàng đệ tử Phật tùy theo công hạnh tu tập  đều được dạy phải vâng giữ theo những giới khác nhau, như có giới của hàng 
tỳ-kheo,  giới của 
tỳ-kheo ni, giới của hàng cư sĩ tại gia... Mỗi người khi đã  phát nguyện giữ giới và được truyền giới thì phải hết lòng vâng giữ, dù có hy  sinh tính mạng cũng không phạm vào giới luật. Như vậy gọi là giữ giới. Hàng cư  sĩ tại gia có năm giới căn bản phải vâng giữ, gọi là Ngũ giới, bao gồm: 1.  Không giết hại sinh mạng; 2. Không trộm cướp hay dùng bất kỳ phương cách nào để  lấy được tài sản nào của người khác mà không được sự ưng thuận, cho phép của họ;  3. Không tà dâm, luôn giữ đời sống chung thủy một vợ một chồng, không làm việc  dâm dục với những người không phải là vợ hoặc chồng mình; 4. Không nói dối, suốt  đời nguyện chỉ nói ra những điều chân chánh, đúng với sự thật; 5. Không uống rượu  và các chất gây say.
  
 
  
      Gieo ruộng phước: Việc làm  lành cũng như kẻ gieo hạt giống xuống ruộng, sẽ có ngày được gặt hái kết quả,  vì thế nên gọi là gieo ruộng phước, vì bố thí, làm việc thiện thì chắc chắn sẽ  có ngày gặt hái được nhiều phước lành.
  
 
  
      Địa ngục Vô gián: cũng gọi  là địa ngục A-tỳ, do phiên âm tiếng Phạn là Avỵci.  Vì những tội nhân chịu hành hình trong ngục ấy không có một phút giây nào được  tạm gián đoạn, nên gọi là Vô gián. 
  
 
  
      Tội ngũ nghịch: là năm tội  lớn gồm có: 1. Giết cha, 2. Giết mẹ, 3. Giết vị A-la-hán; 4. Phá sự hòa hợp của  Tăng đoàn; 5. Làm thân Phật chảy máu hoặc hủy hoại tháp miếu, tranh tượng Phật.
  
 
  
      Tục ngữ có câu: “Lời hay  khuyên được một đời, sách hay ích lợi cho người ngàn năm.” Vì thế, dùng lời  khuyên người làm thiện thì chỉ có ảnh hưởng trong một thời gian ngắn, và số người  được nghe cũng giới hạn; còn lưu hành được một quyển sách hay thì sẽ có ảnh hưởng  rộng lớn và lâu dài hơn, vì có thể truyền bá qua nhiều năm cũng như số lượng  người đọc đông đảo hơn nhiều. Nếu là truyền bá kinh điển Phật dạy thì lợi ích  càng lớn lao hơn nữa, không thể kể xiết!