Chúng ta có lỗi về những điều tốt mà ta đã không làm. (Every man is guilty of all the good he did not do.)Voltaire
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Tôi phản đối bạo lực vì ngay cả khi nó có vẻ như điều tốt đẹp thì đó cũng chỉ là tạm thời, nhưng tội ác nó tạo ra thì tồn tại mãi mãi. (I object to violence because when it appears to do good, the good is only temporary; the evil it does is permanent.)Mahatma Gandhi
Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Chấm dứt sự giết hại chúng sinh chính là chấm dứt chuỗi khổ đau trong tương lai cho chính mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được. (I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tư tưởng Tịnh Độ Tông »» IV. Tịnh Độ Tông của Nhật Bản »»

Tư tưởng Tịnh Độ Tông
»» IV. Tịnh Độ Tông của Nhật Bản

Donate

(Lượt xem: 3.935)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Tư tưởng Tịnh Độ Tông - IV. Tịnh Độ Tông của Nhật Bản

Font chữ:


Diễn đọc: Giang Ngọc

SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Trung Hoa là một lục địa lớn và ngày xưa gọi là Trung Quốc. Người Trung Hoa hay tự hào về nền văn hóa 5.000 năm của họ, nên thường cho các dân tộc lân bang là rợ Hồ hay Hung Nô, ý để ám chỉ cho những dân tộc thua kém mình. Vì thế chữ Trung Quốc cũng có nghĩa là nước ở giữa, nước trung tâm, nước nằm lên trên những nước khác v.v… Ý nghĩ ấy dường như đến thế kỷ 21 này người Trung Hoa vẫn còn dùng đến.

Vì những nước có địa lý nằm sát với Trung Quốc như Việt Nam, Đại Hàn và Nhật Bản, nên có một sự giao thương, một sự liên đới cận kề bắt buộc phải trao đổi để tự tồn, nếu không sẽ bị cô lập hoặc bị chiếm làm thuộc địa như Việt Nam (3 lần Bắc thuộc) và bị xâm chiếm thời Mông Cổ ở thế kỷ 13 (như Đại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam). Riêng các dân tộc khác cũng nằm gần biên giới Trung Hoa như: Lào, Ấn Độ, Pakistan, Mông Cổ, Tây Tạng, Nga Sô v.v… nhưng những quốc gia này nhờ dãy núi Hy Mã Lạp Sơn ngăn cách cũng như thuộc nền văn hóa khác, cho nên người Trung Hoa thời xưa không dễ dàng gì vượt qua núi rừng, đèo ải để chiếm những nước này làm thuộc địa. Đây có thể là điều may mắn của những dân tộc kia chăng?

Riêng ở Việt Nam, Đại Hàn, Nhật Bản mãi cho đến thế kỷ 20, 21 nhưng chữ Hán vẫn là ngôn ngữ thường dùng trong các chùa. Tuy tiếng Đại Hàn, tiếng Nhật đã có cách riêng phát âm và cách viết theo văn tự của mình, nhưng chữ Hán vẫn còn giữ phần quan trọng trong 50% cách viết và cách nói.

Việt Nam cho đến thế kỷ 17 đã dùng chữ La Mã thay thế hoặc phiên âm chữ Hán để đọc, nhưng mãi cho đến đầu thế kỷ 20, triều đình nhà Nguyễn vẫn còn dùng Hán văn để ra đề thi cho các thí sinh thi Hương (Tú Tài), thi Hội (Cử Nhân) và thi Đình (Tiến Sĩ).

Việc học ngoại ngữ ngày nay, vào thế kỷ 21 này ở từng quốc gia trên 5 châu lục là chuyện bình thường. Lý do duy nhất là để ngoại giao, tìm hiểu, nghiên cứu. Còn ở những thế kỷ trước, chủ nghĩa thực dân của những nước lớn đi xâm chiếm các nước nhỏ để làm thuộc địa lại có ý nghĩa khác. Đầu tiên họ muốn khai hóa dân tộc ấy, phải cho dân tộc bị trị kia học ngôn ngữ "mẫu quốc" của họ trước. Ví dụ như thuộc địa của Trung Hoa thì học chữ Hán, thuộc địa của Pháp học tiếng Pháp, thuộc địa của Anh học tiếng Anh, thuộc địa của Hòa Lan học tiếng Hòa Lan v.v…

Chữ thực dân viết bằng chữ Hán có nghĩa là một dân tộc bị xâm lược. Chữ thực (植) này gồm 2 bộ. Đó là bộ mộc (木) và bộ trực (直). Bộ mộc có nghĩa là cây, mà đã là cây thì phải có rễ, rễ ấy mọc thẳng vào đất, nên trở thành chữ thực. Vậy, những nước lớn đi chiếm nước nhỏ đều có ý đồ mong cho cấy được rễ ngôn ngữ và văn hóa vào đó thì họ mới cai trị được. Đây là một cái ách bị khống chế trong bao đời mà nhiều dân tộc trên thế giới đã bị trải qua.

Riêng Nhật Bản là một quốc gia đảo quốc gồm 4 đảo lớn và vô số đảo nhỏ trải dài từ Bắc chí Nam là: Bắc Hải Đạo (Hokkaido), Bổn Châu (Kyushu). Người Nhật viết bằng chữ Hán, nhưng phát âm theo lối Nhật. Điều ấy cũng dễ hiểu. Vì viết và nói cho người Nhật nghe, chứ không phải cho người Trung Quốc nghe. Việt Nam chúng ta có chữ Nôm và Hán Việt, Đại Hàn có chữ Hán Hàn và chữ Đại Hàn. Đây là sự nỗ lực của các dân tộc bị nền văn hóa Hán tộc chi phối, nhưng họ đã vươn lên để thoát ra sự bị trị và tạo thế đứng cho dân tộc mình.

Người Nhật Bản trong thời gian Đệ nhất và Đệ nhị thế chiến (1914-1918) và (1939-1945) đã chiếm Đài Loan và Đại Hàn làm thuộc địa, nên những nhà viết sử Nhật Bản đa phần né tránh, ít hoặc không đề cập đến Đại Hàn, vốn là nơi Phật Giáo đã trực tiếp truyền vào Nhật Bản. Sau này, vào đời nhà Đường mới có những nhà Sư Trung Hoa trực tiếp sang Nhật Bản truyền giáo như Ngài Giám Chân Hòa Thượng (Kanlin) và vào thế kỷ 13 cũng có một số chư Tăng Nhật Bản sang Trung Quốc du học như Ngài Đạo Nguyên (Dogen), nhưng thuở ban đầu sự giao thương giữa Đại Hàn và Nhật Bản bằng đường biển qua các thương thuyền và Phật Giáo đã được truyền vào đây từ thế kỷ 4 - 5, để đến thế kỷ 6 là một thế kỷ thật đặc biệt. Vì Phật Giáo được chính nhà Vua là Thánh Đức Thái Tử (Sotoku Taisi) chủ trương mang Phật Giáo vào nhân gian và mỗi ngày trước khi lâm triều, nhà Vua đều hướng về xứ Ấn Độ để lễ bái chư Phật và các vị Tổ Sư Truyền Thừa.

Nara (Nại Lương) là kinh đô cũ của Thánh Đức Thái Tử trị vì, sau đó mới dời về Kyoto (Kinh Đô) và đến thời Minh Trị Thiên Hoàng (Meiji Tenno) vào năm 1868, thủ đô đã được dời về Tokyo (Đông Kinh) cho đến ngày hôm nay.

Khi Phật Giáo được du nhập vào nước Nhật, bất kể là từ Trung Hoa, Đại Hàn hay Ấn Độ, là Phật Giáo của người Nhật, chứ không còn nguyên chất là Phật Giáo của các xứ được truyền đến nữa. Ví dụ như khi người ta nghe Chado (Trà Đạo), Kendo (Kiếm Đạo), Judo (Nhu Đạo), Karate (Không Thủ), Ikebana (Trì hoa), Shodo (Thơ Đạo), Zen (Thiền) v.v… người ta hiểu ngay là của người Nhật, mặc dầu tất cả những ngành nghề, nghệ thuật ấy đều từ Trung Quốc được truyền sang. Bất kể là do các vị Sư Đại Hàn, Trung Quốc mang đến hay chính họ sang Trung Hoa, Đại Hàn để học tập, tu niệm và sau đó mang về lại quê hương của họ, nó đã biến thái một cách tài tình, thích nghi với nền văn hóa tại đây, để người dân cùng an hưởng thọ nhận, vui đạo mà tu, để được lợi lạc cho mình và cho người.

Ví dụ như nhìn thấy kiến trúc tự viện của Nhật Bản thì chúng ta biết ngay không phải của Đại Hàn hay Trung Quốc. Vì lẽ kiến trúc của Nhật ít màu sắc hơn Trung Quốc và thanh nhã hơn Đại Hàn. Nhìn mái cong bằng đồng của một ngôi chùa Nhật Bản, bất cứ thuộc Tông Phái nào, chúng ta sẽ liên tưởng ngay đến sự độc lập dân tộc, cao vút lên tận hư không. Các chéo góc vươn cao như những cánh phượng hoàng tung bay vào gió nhẹ, giống như tinh thần Võ Sĩ Đạo của quốc gia này, mà điều ấy ngay cả quê hương gốc của nó xuất phát từ Trung Hoa vẫn không đào tạo ra được tinh thần dân tộc cao cả như vậy.

Nhật Bản là xứ động đất quanh năm nên chùa chiền được xây dựng bằng những loại gỗ quý đặc biệt, không giống như cách xây dựng của Trung Quốc và Việt Nam. Bây giờ nếu có ai đến chùa Pháp Long (Horyu) hay chùa Đông Đại (Todaiji) tại Nara (Nại Lương) thì sẽ vô cùng kinh ngạc. Vì không hiểu rằng ngày xưa người ta chưa phát triển về kiến trúc, tại sao họ đã xây dựng được những ngôi chùa vĩ đại như vậy? Đến đây để chỉ cúi đầu thán phục cho ý chí và tâm nguyện của người xưa, ngoài ra không thể phẩm bình gì khác hơn nữa.

Những ngôi tháp bằng gỗ xây 3 tầng, 5 tầng, 7 tầng hay 9 tầng v.v… cũng là cách kiến trúc rất đặc biệt. Nó không là những stupa của Ấn Độ, không giống những Đại Tháp của Trung Hoa hay những Phù Đồ của Việt Nam. Tất cả đều làm bằng gỗ, lớp này chồng lên lớp khác, mối này ăn khớp với mối kia và hầu như không có một cây đinh nào được sử dụng vào đó cả. Rồi những tượng Phật bằng gỗ hay bằng đồng được điêu khắc và chạm trổ cách hơn 1.500 năm về trước vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Quả là những tuyệt tác nghệ thuật của Phật Giáo tại quê hương xứ mặt trời này vậy.

Trước khi đi vào Tịnh Độ Tông của Nhật Bản chúng ta nên tìm hiểu về cuộc đời và tư tưởng của Thánh Đức Thái Tử, để từ đó, chúng ta có một cái nhìn tổng quát và khách quan hơn về Phật Giáo tại đảo quốc này.

"Thánh Đức Thái Tử - Sotoku Taishi (572-621). Cũng gọi là Cứu Độ Hoàng Tử, Phong Thông Nhĩ Mệnh, Thượng Cung Thái Tử, Thánh Vương, là vị Hoàng Tử thứ hai của Thiên Hoàng Dụng Minh, Nhật Bản. Ông bẩm sinh thông minh, là nhiếp chính của Thiên Hoàng Suy Cổ. Ngoài Nho học, Phật học, ông còn thông suốt cả Lịch học, thiên văn, địa lý… Ông từng phái học sinh đến du học tại Trung Quốc vào thời Tùy, tận lực du nhập văn hóa Trung Quốc vào Nhật Bản. Ông đặt ra 12 bậc quan (603) và 17 điều Hiến Pháp (604) làm nòng cốt cho nền nhân chính ở Nhật Bản. Điều thứ 2 trong Hiến Pháp này quy định lòng tin chân thành đối với Tam Bảo. Bình sinh, ông tin thờ Phật Pháp, tận lực phát huy tinh thần Đại Thừa. Ông thường giảng 3 bộ kinh Pháp Hoa, Duy Ma và Thắng Man, kiến lập các viện Bi Điền, Kính Điền, phát triển sự nghiệp cứu tế toàn dân. Ông xây dựng 4 ngôi chùa lớn là chùa Tứ Thiên Vương, chùa Pháp Long, chùa Quảng Long và chùa Pháp Hưng, đặt vững nền tảng cho sự truyền bá Phật Giáo tại Nhật Bản để điều hòa văn hóa Trung Quốc và văn hóa Nhật Bản.

Ông mất năm 612 (có thuyết nói 622), hưởng dương 49 tuổi, được an táng tại Ki Trường, Đại Phản (Osaka), Nhật Bản. Truyện ký của ông được ghi trong "Thượng Cung Thánh Đức Pháp Vương Đế Thuyết" và trong "Nhật Bản thư kỷ". Vào thời Bình An (Heian) và Liêm Thương (Kamakura) rất thịnh hành truyện tranh về Thái Tử Thánh Đức. Trong dân gian và các chùa miếu cũng phổ biến việc thờ chân dung hoặc tượng khác của Thái Tử."

(Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 5291). Xem Thánh Đức Thái Tử truyện lịch quyển hạ, Nhật Bản thư kỷ quyển 21, Nguyên hanh thích thư).

Qua tiểu sử đơn giản của Thánh Đức Thái Tử như trên, chúng ta thấy được những điểm chính như sau:

Ông là một vị Vua, một Phật Tử, không phải là một Tăng sĩ, nhưng đã có công giúp cho Phật Giáo đương thời được hưng thịnh qua việc giảng kinh, xây chùa và lấy giáo lý Phật Giáo san định thành Hiến Pháp để cai trị nhân dân, trong đó điều thứ 2 của Hiến Pháp 17 điều gần giống như là những biểu ngôn được khắc trên các trụ đá của Vua A Dục khi ông ta còn tại vị tại Ấn Độ. Đây là cái trí của một bậc minh chúa, muốn đem cái hay cái đẹp của Đạo giáo ứng dụng vào lòng người. Có như vậy dân mới được an cư và lạc nghiệp. Từ đó sự cai trị của ông càng dễ dàng hơn.

Kinh Pháp Hoa vốn được xiển dương mạnh mẽ tại Trung Hoa và Việt Nam, Đại Hàn qua nhiều thời đại khác nhau và ở Nhật kinh Pháp Hoa đã được Ngài Nhật Liên Thánh Nhơn (Nichiren Shonin) tạo thành một Tông Phái riêng biệt gọi là Nhật Liên Tông vào thế kỷ 13, nhưng ở vào thế kỷ 6, nghĩa là trước 700 năm Thánh Đức Thái Tử đã giảng kinh này tại chùa Horyu (Pháp Long) tại Nara rồi. Kế tiếp là giảng kinh Duy Ma Cật tượng trưng cho tinh thần Bồ Tát hiện thân qua một cư sĩ nam và giảng kinh Thắng Man, hiện thân qua một cư sĩ nữ. Tất cả xuất gia và tại gia đều hòa quyện lại với nhau để hộ trì và phát triển Phật Pháp.

Điều đặc biệt khác là nhà Vua đã điều hòa văn hóa Trung Quốc và văn hóa Nhật Bản để người Nhật Bản tiếp thụ nền văn hóa Khổng Mạnh chứ không bị đồng hóa. Đây là tấm gương sáng cho Vua Minh Trị sau này. Ông Thiên Hoàng này duy tân cải cách đất nước vào năm 1868 theo lối học thuật của Tây phương, nhưng hoàn toàn không bị văn hóa Tây phương áp đảo. Ông cho những người dân học giỏi sang Anh quốc học về thương mại, qua Pháp học về ngoại giao, qua Đức học về giáo dục v.v… Sau khi tốt nghiệp các trường tại các xứ Tây phương này, Vua Minh Trị đón họ về nước để phục vụ cho quê hương Nhật Bản và kể từ đó họ đã đứng ngang hàng với những cường quốc như Hoa Kỳ, Nga Sô, Đức quốc vào những năm tháng ở cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 này.

Tại Trung Hoa, Phật Giáo đã có chia Tông Phái tương đối rõ ràng rồi, nhưng ở Nhật đến thế kỷ 13 mới là thế kỷ hoàn chỉnh nhất. Riêng về Phật Giáo tổng quan thì chúng ta có thể điểm qua thời kỳ đầu đến thời kỳ phân chia bộ phái tại Nhật (từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 13, để chúng ta có được một cái nhìn cụ thể hơn.

"Todaiji - Chùa Đông Đại cũng gọi là Hoa Nghiêm tự, Hằng Thuyết Hoa Nghiêm tự, Thành Đại tự, Tổng Quốc Phần tự, Kim Cang Minh Tứ Thiên Vương Hộ Quốc tự.

Chùa nằm ở thành phố Nara (Nại Lương), Nhật Bản, là Tổng Bổn Sơn của Tông Hoa Nghiêm.

Muốn thế giới Liên Hoa Tạng được thực hiện ngay ở cõi đời này và muốn Phật Pháp được hưng thịnh, vào năm Thiên Bình thứ 10 (738) Thiên Hoàng Thánh Vũ ban lệnh kiến tạo chùa Đông Đại, đúc tượng Phật Tỳ Lô Giá Na bằng đồng, được hoàn thành vào năm Thái Bình Thiên Bảo thứ 4 (752), là một trong bảy ngôi chùa lớn ở Nam Đô.

Năm Trị Thừa thứ 4 (1180) Chùa bị quân lính của Bình Trọng Hoành thiêu hủy trong chiến tranh. Về sau Ngài Tuấn Thừa kiến thiết lại với sự giúp đỡ của Nguyên Lai Triều. Năm Vĩnh Lộc thứ 10 (1567) chùa lại bị binh hỏa Tam Hảo, Tùng Vĩnh đốt cháy. Đến thời đại Nguyên Lộc (1688-1703) Ngài Công Khánh lại trùng tu, tức là điện Đại Phật thờ tượng Bổn Tôn hiện nay.

Điện Đại Phật là kiến trúc bằng gỗ lớn nhất thế giới, làm theo kiểu 2 tầng 4 mái và một dãy hành lang bao quanh. Những cánh sen trên tòa cao của Đức Phật Bổn Tôn Lô Xá Na được làm vào thời kỳ sáng lập chùa này, là thế giới Liên Hoa Tạng được chạm trổ rất nhỏ, bộ phận đầu được tu bổ vào thời đại Giang Hộ (Edo). Các cánh cửa của chiếc lồng đèn bằng đồng hình tám góc ở trước Đại Điện là nghệ thuật thuộc thời Thiên Bình, trên có những bức chạm nổi rất tinh vi. Cổng lớn ở hướng chính Nam của chùa là kiến trúc thuộc thời kỳ Liêm Thương (Kamakura), tiêu biểu cho kiểu kiến trúc Ấn Độ. Tượng lực sĩ Kim Cương ở hai bên Đại Điện là kiệt tác bằng gỗ lớn nhất do Vận Khánh và Khoái Khánh chạm trổ. Tam Nguyệt Đường (Pháp Hoa Đường) ở chân núi phía Đông điện Đại Phật có niên hiệu xưa hơn chùa Đông Đại, gọi là chùa Kim Chung, Viện Quyên Sách.

Nhìn từ ngoài thì Bổn Đường (Chánh Điện) của thời kỳ Thiên Bình và Lễ đường thuộc thời đại Liêm Thương hài hòa với nhau thành một thể. Tượng Đức Bổn Tôn Nguyên Sách Quan Âm (bằng sơn khô), tượng Nhật Quang, Nguyệt Quang (tượng đắp) và Tứ Thiên Vương, đều là những tượng được tạo vào thời Thiên Bình. Ngoài ra còn nhiều tượng Phật khác nữa.

Phía sau nhà bếp có thờ tượng Bí Phật chấp kim cương thần. Ở khoảng giữa Nhị Nguyệt đường và Phật điện là Khai Sơn đường (Lương Biện Đường), lầu chuông, Tam Muội Đường (Tứ Nguyệt Đường) v.v… đều là những kiến trúc nổi tiếng của thời đại Liêm Thương.

Viện giới đàn ở phía Tây điện Đại Phật là một trong ba giới đàn. Tượng Tứ Thiên Vương (tượng đắp) là tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc của thời đại Thiên Bình. Bát Cước môn ở góc Tây Bắc của Chuyển Hại Môn là kiến trúc ở thời Thiên Bình. Viện Chính Thương ở phía Bắc cũng nằm trong phạm vi của chùa Đông Đại.

Về phương diện chạm trổ thì có 8 lá phướn hình vị Tăng, tượng Phật Thích Ca Đản Sanh bằng đồng, về chân dung thì có tranh của Lương Biện và Thừa Tuấn.

Ngoài ra, thư viện chùa Đông Đại còn cất giữ nhiều thứ nhạc cụ, Câu Xá Mạn Đồ La, 55 cuộn tranh về kinh Hoa Nghiêm, Đông Đại tự yếu lục (10 tập), văn thư xưa, kinh chép tay thời cổ, v.v…". (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 1818 - 1819).

Cứ theo lịch sử chùa Đông Đại ở Nara như trên thì năm Thái Bình Thiên Bảo thứ 4 (752) là năm khánh thành chùa này. Đặc biệt trong lễ khánh thành này, nhà Vua cũng như Triều đình đã thỉnh Ngài Bồ Đề Tiên Na (704-760) đến Nara để làm lễ khai nhãn cúng dường. Như vậy, ta thấy rằng Vua Chúa và chư Tăng Nhật Bản lúc bấy giờ rất trọng vọng vị này. Vì Ngài là người Ấn Độ, đã đến Lâm Ấp (Việt Nam) và cùng với đệ tử là Ngài Phật Triết (người Việt) cùng đến Trung Quốc và sau đó đến Nhật Bản. Trong lễ khánh thành này có tấu những vũ nhạc như Truyền Bồ Tát Vũ, Bạt Đầu Vũ, Lâm Ấp Vũ v.v… những điệu múa này có liên quan đến Phật Giáo Lâm Ấp (Việt Nam) thuở ấy và hiện nay mỗi năm chùa Đông Đại nhân lễ Vu Lan vẫn còn cho múa những điệu múa xưa được truyền qua từ Lâm Ấp và trong lịch sử chùa Đông Đại bên trên cũng cho ta thấy rằng hiện nay (2011) Chùa vẫn còn gìn giữ những thứ nhạc cụ cổ xưa. Vì lẽ đây là chùa của Vua quan xây dựng và những lễ lớn như lễ khánh thành năm 752, chắc chắn phải có những Hoàng Hậu, Hoàng Phi, Công Chúa, Thái Tử đi cùng. Ngoài việc dự lễ Khai Quang ra, những vị này còn được xem những vị Tăng từ xa mang đến Nhật Bản những điệu vũ lạ mắt nữa và các Ngài đã tập cho người Nhật múa, để cho những người tham dự thưởng lãm.

Sau đây chúng ta tìm hiểu thêm về Ngài Bồ Đề Tiên Na và Ngài Phật Triết cũng như vị trí nước Lâm Ấp ngày xưa và sự đóng góp của Phật Giáo Lâm Ấp (Việt Nam) cho Phật Giáo Nhật Bản từ thế kỷ 8 đến nay, trải qua hơn 1.300 năm, để từ đó chúng ta có một cái nhìn có tính cách liên tục về lịch sử Phật Giáo Việt Nam sau này.

"Ngài Bồ Đề Tiên Na tên tiếng Phạn là Bodhisena. Dịch ý là Giác Quân. Ngài là người Nam Thiên Trúc, dòng Bà La Môn, họ Bà La Trì, tinh thần sáng suốt, tính tình điềm đạm. Do lòng ngưỡng mộ sự linh ứng của Bồ Tát Văn Thù ở núi Ngũ Đài mà đến Trung Quốc.

Năm Khai Nguyên 23 (735, có thuyết nói năm Khai Nguyên 18) Bồ Đề Tiên Na lại cùng với các Ngài Đạo Truyền và Phật Triết người nước Lâm Ấp vượt biển Đông sang Nhật Bản. Năm Thiên Bình Thắng Bảo thứ 3 (751, có thuyết nói năm thứ 2), Ngài nhậm chức Tăng Chính. Tháng tư năm Thăng Bình Thắng Bảo thứ 4 (752), tượng Đại Phật của chùa Đông Đại được hoàn thành, Ngài được các Sư Hành Cơ v.v… suy cử làm Đạo Sư trong lễ "Khai Nhãn cúng dường" (tức lễ Yểm tâm điểm nhãn).

Năm Thiên Bình Bảo Tự thứ 4, Ngài dặn dò các đệ tử rồi thị tịch trong tiếng niệm Phật, thọ 57 tuổi (760). Người đời gọi Ngài là Bà La Môn Tăng Chánh, Bồ Đề Tăng Chánh, hoặc gọi tắt là Bồ Đề". (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 666).

(Xem Đại An tự Bồ Đề truyền lai ký, Đường Đại Hòa Thượng đông chinh truyện, Đông Đại tự yếu lục quyển 1, quyển 2, quyển 6, Nhật Bản Cao Tăng truyện yếu văn sao quyển 1).

Ở đây có nhiều vấn đề cần đặt ra. Ví dụ như nhân duyên nào mà Ngài Bồ Đề Tiên Na cùng với Ngài Đạo Tuyền và Ngài Phật Triết người Lâm Ấp (Việt Nam) đến Ấn Độ rồi Trung Quốc và qua Nhật Bản? Họ đến Việt Nam chăng? hay chỉ đi Trung Quốc và vị Sư Phật Triết người Lâm Ấp ấy đóng vai trò gì trong lễ khánh thành chùa Đông Đại cũng như đối với văn học Phật Giáo Nhật Bản thuở bấy giờ? v.v…

"Theo Phật Quang Đại Từ Điển (trang 4293) cho biết thì Ngài Phật Triết hay Phật Triệt là danh Tăng người Lâm Ấp (Việt Nam) sống vào khoảng thế kỷ 8.

Sư sang Thiên Trúc (Ấn Độ), thờ Ngài Bồ Đề Tiên Na làm Thầy, thông suốt mật chú. Sau, Sư theo Ngài Bồ Đề Tiên Na đến Trung Quốc. Năm Khai Nguyên 24 (736), hai Thầy trò cùng đến Nhật Bản, trọ ở chùa Đại An, dạy tiếng Phạn, rất được triều đình và dân chúng kính trọng.

Năm Thiên Bình Thắng Bảo thứ 4 (752) chùa Đông Đại cử hành nghi thức Khai Nhãn cúng dường Đại Phật, Sư tấu vũ nhạc, truyền Bồ Tát vũ, Bạt Đầu vũ, Lâm Ấp vũ…

Sư có tác phẩm: Tất Đàm Chương 1 quyển".

Xem ra như vậy hai Thầy trò Ngài Bồ Đề Tiên Na và Ngài Phật Triết đã có nhân duyên tại Ấn Độ. Vào năm nào thì sử không cho biết rõ, nhưng căn cứ theo năm sinh và năm tịch của Ngài Bồ Đề Tiên Na chúng ta có thể chia ra các giai đoạn như sau:

Giai đoạn một - từ năm 704-724 - Ngài Bồ Đề Tiên Na xuất gia và thọ giới Tỳ Kheo tại Ấn Độ.

Giai đoạn hai - từ năm 724-728 Thầy trò gặp nhau tại Ấn Độ, nhận nghĩa Thầy trò.

Giai đoạn ba - từ năm 728-730 hai Thầy trò đi bộ hoặc đi đường biển từ Ấn Độ về Lâm Ấp (Việt Nam).

Giai đoạn bốn - từ năm 730-735 đến và ở lại Ngũ Đài Sơn tại Trung Quốc để đảnh lễ Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Giai đoạn năm - từ 735-752 lưu trú tại Nhật Bản để dạy tiếng Phạn và các điệu vũ Phật Giáo cũng như nhận chức Tăng Chánh từ Tông Hoa Nghiêm chùa Đông Đại và năm 752 chính thức làm Đạo Sư khai nhãn cúng dường Đại Phật tại đây.

Giai đoạn sáu - từ năm 752-760 giai đoạn cuối đời của Ngài Bồ Đề Tiên Na tại Nhật Bản.

Trên đây là cách chia theo lối nhìn của chúng tôi dựa theo lịch sử, chưa hẳn đã là đúng hoàn toàn. Tuy nhiên chúng tôi muốn dựa vào đây để làm rõ những sự kiện dã sử về Ngài Phật Triết và tạo ra một sử thật, dựa theo năm tháng của Ngài Bồ Đề Tiên Na để điểm qua những điều quan trọng mà ngoài Ngài Bồ Đề Tiên Na đã đóng góp cho Phật Giáo Nhật Bản ra thì Ngài Phật Triết cũng đã đóng góp nhiều vấn đề không kém phần quan trọng cho Phật Giáo tại xứ này.

Cứ theo sử truyện bên trên thì Ngài Phật Triết đến Ấn Độ và thờ Ngài Bồ Đề Tiên Na làm Thầy. Dĩ nhiên là phải nhỏ tuổi hơn Ngài Bồ Đề Tiên Na và trai trẻ mới có đủ sức khỏe ra khơi từ Lâm Ấp để đi đến Ấn Độ. Trong sử không chép rõ Ngài Phật Triết sinh năm nào vào thế kỷ 8 tại Lâm Ấp, nhưng có thể cho rằng Ngài Phật Triết nhỏ hơn Ngài Bồ Đề Tiên Na từ 5 đến 10 tuổi thì Ngài sinh độ năm 709-714 tại Lâm Ấp. Từ 15 đến 20 tuổi mới sang Ấn Độ. Lúc ấy Ngài Bồ Đề Tiên Na đã ở vào giai đoạn 2, tức giữa năm 724-728. Thời gian 4 đến 5 năm này để kết nghĩa Thầy trò tu học và dĩ nhiên họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Phạn chứ không thể là một ngôn ngữ nào khác. Sau đó hai Thầy trò cùng xuống thuyền và chắc chắn phải ghé Lâm Ấp, quê hương của Ngài Phật Triết để nghỉ ngơi cũng như học hỏi thêm những điệu múa tại đây, sau đó giai đoạn bốn (730-735) đến và ở lại Trung Quốc để đảnh lễ Ngài Văn Thù. Từ năm 735 đến 752 là 17 năm họ cư trú tại Nhật Bản, dạy tiếng Phạn cho chư Tăng và dĩ nhiên các Ngài phải học tiếng Nhật để đàm thoại nữa.

Năm 752 là năm khánh thành chùa Đông Đại và Ngài Bồ Đề Tiên Na ở cương vị Tăng Chánh thì Ngài Phật Triết không nhất thiết chỉ là một đệ tử theo hầu. Vì lúc đó Ngài đã trưởng thành và còn dạy tiếng Phạn cho chư Tăng cũng như Phật Tử nữa. Đến năm 760 thì Ngài Bồ Đề Tiên Na viên tịch tại Nhật, hưởng dương 57 tuổi. Trong khi đó thì không biết Ngài Phật Triết còn ở lại Nhật bao lâu và viên tịch ở đâu. Do vậy chúng ta có thể tiên đoán rằng Ngài Phật Triết còn ở lại Nhật Bản một thời gian dài sau đó để dạy tiếng Phạn và dạy những vũ điệu của Lâm Ấp cho người Nhật. Như vậy Sư có thể sinh vào giữa năm 609-614 và tịch vào khoảng 70. Nghĩa là năm 679 hoặc 684 chăng? Đây chỉ là giả thuyết do tác giả tạo nên, để cho phù hợp với niên đại của Ngài Bồ Đề Tiên Na. Mong rằng về sau này sẽ có những sử liệu để soi sáng thêm.

Sau đây tìm hiểu một ít chứng cứ sử liệu về nước Lâm Ấp thời xa xưa đã có mặt trên bản đồ của thế giới, nhưng ngày nay thì không còn nữa.

"Lâm Ấp quốc là tên một nước xưa nằm ở đông bộ bán đảo Trung Nam, nay là vùng Trung và Nam bộ Việt Nam.

Vùng đất này vốn là căn cứ địa của dân tộc Chàm. Nhà Tây Hán đặt huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam, gọi là Tượng Lâm Ấp, gọi tắt là Lâm Ấp. Vào những năm cuối đời Đông Hán, có người tên là Khu Liêu, giết quan huyện, tự xưng là Lâm Ấp quốc vương. Từ đời nhà Tấn về sau, Lâm Ấp thường triều cống Trung Quốc. Khoảng năm Đại Nghiệp đời Tùy (605-616), tướng nhà Tùy là Lưu Phương đánh chiếm nước này đặt làm quận Lâm Ấp. Khoảng năm Chí Đức (756-757) đời Đường, đổi tên là Hoàn Vương, đóng đô ở Chiêm Thành (Cham thanh). Vì thế Lâm Ấp còn được gọi là Chiêm Ba (Champa), Chiêm Bà, Ma Ha Chiêm Ba, Chiêm bất lao (Champrura). Vào năm Thuần Hóa thứ 2 (791) đời Bắc Tống, vị Sa Môn nước này tên là Tịnh Giới đến Trung Quốc dâng ngọc như ý, chuông đồng và hương Long não.

Ngoài ra, cứ theo văn bia Nhật Bản, Nam Thiên Trúc Bà La Môn Tăng Chánh và Đại An tự Bồ Đề truyền lai ký trong Đông Đại tự (Todaiji) yếu lục quyển 2 ghi chép, thì vào năm Khai Nguyên thứ 18 (730) đời Đường Sa Môn nước Lâm Ấp tên là Phật Triết (Phật Triệt) cùng đi với Ngài Bồ Đề Tiên Na đến Nhật Bản, truyền vào vũ điệu Bồ Tát, Bạt Đầu, Nhạc Lâm Ấp, v.v… Đến đời Minh, Chiêm Thành bị Việt Nam thôn tính. Vào năm Quang Tự 12 (1886) thì trở thành thuộc địa của nước Pháp.

Phật Giáo được truyền vào Chiêm Thành thời nào không được rõ. Nhưng theo Tùy thư Nam man liệt truyện thứ 47, thì phần đông nhân dân nước này tin theo Phật Giáo, văn tự giống như văn tự Thiên Trúc (Ấn Độ). Còn Cựu Đường thư Nam man liệt truyện quyển thứ 147 cũng cho biết, nhân dân đặc biệt tin Phật Pháp và rất nhiều người xuất gia. Như vậy ta có thể suy đoán trước thời Tùy, Phật Giáo đã được truyền vào Chiêm Thành rồi.

Ngoài ra, cứ theo Nam Hải ký quy nội Pháp truyện quyển 1, thì tại Chiêm Thành Phật Giáo Tiểu Thừa, đặc biệt là Kinh Lượng Bộ, rất thịnh hành". (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 2731-2732).

(Xem Đại Đường Tây Vức ký quyển 10, Đại Đường cầu pháp Cao Tăng truyện quyển hạ, Phật Tổ thống ký quyển 42, Lương thư Chư dị biệt truyện thứ 48).

Căn cứ vào những sử liệu có thật của Trung Quốc và Nhật Bản bên trên thì có hai Thầy trò người Thiên Trúc tên là Bồ Đề Tiên Na và người Lâm Ấp (Việt Nam) tên là Phật Triết đã xuất hiện vào thế kỷ 8. Tuy niên đại đến Trung Quốc và Nhật Bản có sai khác đôi chút, nhưng vào năm 752 tại chùa Todaiji ở Nara vẫn là một sự kiện lịch sử có thật và hai Thầy trò của Ngài đã đóng góp một vai trò chủ chốt trong lễ Khai Nhãn cúng dường tượng Đại Phật tại đó.

Theo sử thì người Trung Quốc gọi những dân tộc Nam Phương như: Việt Nam, Chiêm Thành, Thái Lan là Nam man, nghĩa là giống dân man di mọi rợ sống ở phía nam. Còn các nước như Tây Vức, Mông Cổ v.v… là Tây Hồ, tức là những dân tộc kém văn hóa ở phía Tây. Nếu là Tây Hồ, Nam man mà làm được Tăng Chánh như thầy trò ngài Bồ Đề Tiên Na, chức này gần như là Quốc Sư của Triều đình Nhật Bản lúc bây giờ, thì quả thật nước Ấn Độ và Lâm Ấp cũng rất đáng tự hào.

Từ thế kỷ 15 trở đi, cả dãy đất miền Nam từ Quảng Nam trở xuống đều bị dân tộc Việt Nam chiếm cứ, cho nên Chiêm Thành, Phù Nam, Lục Chân Lạp v.v… đã trở thành quê hương của người Việt. Do vậy người Việt Nam cũng có thể nói rằng Ngài Phật Triết cũng là người Việt Nam, người có công rất lớn trong thời gian đầu mang những lễ nhạc, các điệu vũ và tiếng Phạn đến dạy cho dân chúng cũng như chư Tăng tại đây. Điều quan trọng là mãi cho đến thế kỷ 21, chùa Todai vẫn còn tại Nara và những bài múa nhân lễ Vu Lan từ Lâm Ấp truyền đến Nhật vào thế kỷ 8 vẫn còn biểu diễn trong những ngày lễ trọng đại của Phật Giáo Nhật.

Ba, bốn quốc gia có mặt trên bản đồ thế giới từ những thế kỷ đầu dương lịch. Thế mà đến thế kỷ 15 trở đi, không còn sót lại một chút dấu vết nào trên bản đồ thế giới, quả là một việc thương tâm. Nhưng cái mất, cái được lâu nay vẫn là chuyện thường tình trên thế gian này. Chỉ mong rằng những người cầm quyền và con cháu của các dân tộc này nếu còn tồn tại đâu đó cũng nên lấy một ngày nhất định để tưởng niệm về Tổ Tiên dòng giống của họ. Đây là điều nên làm, dầu cho chính thể hay triều đại nào cũng nên nghĩ tới.

Ngày nay những thế hệ trẻ sinh ra sau này khi nói đến nước Lâm Ấp, Chàm, Phù Nam, Lục Chân Lạp v.v… họ không biết là những nước nào và nằm ở đâu. Nhưng nhờ các chứng cứ sử liệu của đời trước để lại, chúng ta đã hiểu rõ ràng và từ đó mỗi người trong chúng ta tự phải có bổn phận đối với quê hương đất nước của mình.

Ngài Giám Chân Hòa Thượng (687-763) người Trung Quốc cũng đã mang Luật Tông truyền vào Nhật Bản vào năm 753 và tiếp đó có nhiều chư Tăng từ Nhật Bản sang Trung Quốc du học và sau khi thành tựu những pháp tu, các Ngài về lại Nhật Bản mở các đạo tràng để cho dân chúng và Tăng Ni tu học.

A. Ngài Nguyên Tín (Genshin) và Tư Tưởng Tịnh Độ

"Ngài sinh năm 942 và viên tịch năm 1017. Là Cao Tăng Nhật Bản thuộc tông Thiên Thai, Tổ của dòng Huệ Tâm, thường gọi là Huệ Tâm Tăng Đô, người Đại Hòa (huyện Đại Lương).

Sư lên núi Tỷ Duệ thờ Ngài Lương Nguyên làm Thầy, học rộng nhớ lâu, được nhiều người kính phục. Về sau, Sư sáng lập ra dòng Huệ Tâm rất có thế lực.

Tác phẩm của Sư có đến hơn 70 bộ, 150 quyển, trong đó, nổi tiếng hơn cả là Nhất Thừa yếu quyết, Vãng Sanh yếu tập, Quán Tâm Lược yếu tập… đều được thu vào Huệ Tâm Tăng Đô toàn tập.

Ngoài ra, trong những sách về mỹ thuật Tịnh Độ giáo, tương truyền có rất nhiều tác phẩm của Sư, nhưng không có chứng cứ để khảo sát.

Sư thị tịch vào niên hiệu Khoan Nhân năm đầu (1017) hưởng thọ 76 tuổi. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 3534).

(Xem Thủ Lăng Nghiêm viện Nguyên Tín Tăng Đô truyện, Huệ Tâm Tăng Đô hành trạng ký, Đại Nhật Bản quốc Pháp Hoa kinh nghiệm ký quyển hạ).

Ngài Nguyên Tín được Tịnh Độ Chơn Tông Nhật Bản tôn xưng là Đệ nhất Tổ. Tuy rằng thời gian kế tiếp cả hơn 200 năm sau mới có Đệ nhị Tổ là Ngài Pháp Nhiên ra đời. Phật Giáo đồ Tông Tịnh Độ của Nhật họ hãnh diện là Tịnh Độ Tông của họ có sự truyền thừa mạch lạc như sau:

- Đệ Nhất Tổ (Ngài Long Thọ người Ấn Độ)
- Đệ Nhị Tổ (Ngài Thế Thân người Ấn Độ)
- Đệ Tam Tổ (Ngài Đàm Loan người Trung Quốc)
- Đệ Tứ Tổ (Ngài Đạo Xước người Trung Quốc)
- Đệ Ngũ Tổ (Ngài Thiện Đạo người Trung Quốc)
- Đệ Lục Tổ và cũng là Sơ Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản (Ngài Nguyên Tín người Nhật)
- Đệ Thất Tổ và cũng là Đệ Nhị Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản (Ngài Pháp Nhiên người Nhật)
- Đệ Bát Tổ và cũng là Sơ Tổ của Tịnh Độ Chơn Tông Nhật Bản (Ngài Thân Loan người Nhật).

Nhưng theo Tiểu Sử của Ngài Nguyên Tín ở trên, chúng ta thấy Ngài tu theo phái Thiên Thai ở núi Tỷ Duệ. Vậy phái Thiên Thai là phái gì và tư tưởng của Ngài Nguyên Tín có ảnh hưởng gì với Tịnh Độ?

"Tông Thiên Thai Nhật Bản thì tôn Truyền Giáo Đại Sư Tối Trừng làm Sơ Tổ. Sư từng đến Trung Quốc vào đời Đường, thụ pháp nơi các vị đệ tử Ngài Trạm Nhiên như Đạo Thúy, Hành Mãn … Sau khi trở về Nhật Bản, Sư khai sáng yếu chỉ nhất trí giữa 4 Tông: Viên Giáo, Thiền, Viên Giới và Mật Giáo ở núi Tỷ Duệ, khác với Tông Thiên Thai của Trung Quốc. Rồi đệ tử của Ngài Tối Trừng là Sư Viên Nhân, đệ tử của Ngài Nghĩa Chân là Sư Viên Trân cũng lần lượt đến Trung Quốc vào đời Đường thờ các Ngài Tông Dĩnh, Lương Tư làm Thầy, học giáo pháp Thiên Thai, lại còn thụ học các pháp bí yếu của 3 bộ Kim, Thai, Đại Pháp Tô Tất Địa và các kinh quảng tân dịch, làm cho giáo học Mật Giáo Thiên Thai được phát triển phổ biến. Đến thời Ngài An Nhiên thì tông Thiên Thai của Nhật Bản đã được Mật Giáo hóa một cách cực đoan.

Thiên Thai thống trị một tông, nhưng đến các Ngài Viên Nhân, Viên Trân trở đi thì pháp hệ tách ra làm hai. Đồ chúng của Ngài Viên Trân đi ra khỏi núi Tỷ Duệ, trụ ở chùa Viên Thành (Chùa Tam Tỉnh) gọi Tự Môn, núi Tỷ Duệ thì gọi là Sơn Môn. Sơn Môn đến thời Ngài Lương Nguyên, giáo học lấy Viên Giáo sẵn có làm tông chỉ, các đệ tử ưu tú xuất hiện rất đông và thế lực tông này nổi lên khá mạnh. Đệ tử Ngài Lương Nguyên là Nguyên Tín thì cổ xúy tư tưởng Tịnh Độ, lập ra dòng Huệ Tâm, một vị đệ tử khác là Giác Vận thì lập dòng Đàn Na, gọi chung là "Huệ Đàn Nhị Lưu" (Hai dòng Huệ, Đàn). Cộng chung, hệ thống Thai Mật (Mật Giáo thuộc Tông Thiên Thai) đến đời sau có tất cả 13 dòng phái thuộc Tông Thiên Thai. Đến cuối thời kỳ Bình An về sau thì các dòng phái thuộc Tông Thiên Thai nói trên dần dần xem trọng khẩu truyền, do đó sinh ra chủ trương "khẩu truyền pháp môn". Trái lại, phương tiện giáo học thì dần dần suy vi. Ngoài ra, sự vùng dậy của tăng binh, sự tranh cướp của chính quyền, cộng với việc đốt phá của Chức Điền Tín Trường… đều đã góp phần đưa núi Tỷ Duệ đến thời sụp đổ. Cho mãi đến thời đại Giang Hộ, núi Đông Duệ, núi Nhật Quang lần lượt được khai sáng mới phục hồi được sự hưng thịnh như xưa. Lại nhờ Mạc Phủ đương thời khuyến khích việc học vấn nên giáo học cũng dần dần phục hưng. Hiện nay có các Tông Phái như: Tông Thiên Thai (chùa Diên Lịch, núi Tỷ Duệ), Tông Thiên Thai Tự Môn (chùa Viên Thành), Tông Thiên Thai Chân Thịnh (chùa Tây Giáo) …

Giáo nghĩa của Tông Thiên Thai có thể lược chia ra các khoa: Tam Đế viên dung, Nhất niệm tam thiên, Nhất tâm tam quán, Lục Tức… Tông này lại dùng 5 thời 8 giáo để phán thích Thánh giáo một đời của Đức Phật.

Từ đời Dân Quốc (1912) về sau, Thiên Thai học được phục hưng nhờ sự nỗ lực của Đại Sư Đế Nhàn (1858-1932), Ngài sáng lập Quán Tông Nghiên Cứu Xã, chuyên môn giáo dục người học Thiên Thai, nhân tài xuất hiện rất nhiều, như các vị Tôn Túc: Nhân Sơn, Thường Tỉnh, Bảo Tỉnh, Tỉnh Tu, Đàm Hư, Thiên Định, Khả Đoan…". (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 5764-5765).

(Xem Phật Tổ Thống Ký quyển 5-22, Thiên Thai Cửu Tổ truyện, Thiên Thai Sơn Phương ngoại chí, Bát Tông cương yếu quyển hạ, Yếu Giáo chưng thông lộ ký quyển 12). Xem thêm: Sơn gia Sơn ngoại, Ngũ thời Bát giáo, Thai Mật, Tam Đế, Nhất Niệm, Tam Thiên, Nhất Tâm Tam Quán, Lục Tức).

Sở dĩ phải trích lại đoạn trên có liên hệ với Tông Thiên Thai, vì lẽ ngay từ ban đầu núi Tỷ Duệ vẫn là nơi phát xuất 4 tông phái chính gồm: Viên Giáo, Thiền, Viên Giới và Mật Giáo. Từ Viên Giáo, Ngài Lương Nguyên phát triển mạnh. Đệ tử Ngài Lương Nguyên là Ngài Nguyên Tín lại cổ xúy Tịnh Độ riêng biệt và từ đây trở thành tư tưởng chính của Ngài Nguyên Tín. Vì thế Tịnh Độ Tông Nhật Bản suy tôn Ngài là Đệ Nhất Tổ.

Ngài Nguyên Tín có bộ "Vãng Sanh yếu tập" làm tông chỉ cho sự tu hành, nên đây cũng có thể nói là tư tưởng về Tịnh Độ chính yếu thuở ban sơ ấy.

"Vãng Sanh yếu tập là một tác phẩm gồm 3 quyển, hoặc mỗi quyển chia phần đầu, phần cuối, cộng chung là 6 quyển, do Ngài Nguyên Tín, vị Tăng Nhật Bản soạn (984-985), được thu vào Đại Chánh Tạng tập 84.

Sách này được biên soạn theo thể tài vấn đáp, gom chép ý nghĩa vãng sanh trong hơn 160 bộ kinh điển, được chia ra làm 10 môn:

- Chán lìa cõi uế
- Thích cầu Tịnh Độ
- Chứng cứ Cực Lạc
- Niệm Phật chính tu
- Phương pháp trợ niệm
- Biệt thời niệm Phật
- Lợi ích của sự niệm Phật
- Chứng cứ của việc niệm Phật
- Mang theo các nghiệp mà vãng sanh
- Chọn lựa hỏi đáp.

Nhờ thấy lẽ vô thường của cuộc đời trước mắt mà phát nguyện sanh về Tịnh Độ, nếu muốn vãng sanh Cực Lạc thì phải xem việc niệm Phật là quan trọng nhất. Về việc niệm Phật thì lập ra 2 phương thức là Quán niệm và Xưng niệm. Ngài Nguyên Tín cho rằng: Quán niệm thù thắng hơn, còn Xưng niệm thì mọi người đều có thể thực hành được. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 7059-7060).

Tư tưởng tín, nguyện, hạnh của pháp môn tu theo Tịnh Độ là một chủ trương chung, chứ không riêng biệt của một vị Sư nào. Ngay như Trung Hoa, Nhật Bản hay Ấn Độ cũng không được đặc biệt nhắc đến, nhưng khi Tông này được truyền sang Việt Nam, đây là một tiêu đề mà các vị giảng sư Phật học hay đề cập đến. Dĩ nhiên là nó không đi ra ngoài tông chỉ của Tịnh Độ, nhưng nó không được một vị Tổ Sư nào chủ xướng cả.

Riêng Ngài Nguyên Tín tụng Vãng Sanh yếu tập đã làm sáng tỏ 10 vấn đề khi thực hành theo phép tu này và Ngài còn cho rằng pháp quán niệm nghĩa là vừa niệm Phật vừa quán tưởng thù thắng hơn. Quán tưởng ở đây có thể theo 16 phép quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, hoặc giả quán cảnh giới Tịnh Độ theo kinh A Di Đà. Hành giả nào quán niệm được như vậy mới thù thắng. Còn xưng danh hiệu Phật và niệm lên thành tiếng thì ai cũng có thể thực hành được. Bất kể trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, người tu theo Tịnh Độ cũng có thể hành trì một cách dễ dàng.

Ngài Nguyên Tín gom chép và biên soạn quyển "Vãng Sanh Yếu Tập" này trong hơn 160 bộ kinh có liên quan về vấn đề Tịnh Độ thì phải nói rằng: Đây là một công trình nghiên cứu đồ sộ nhất, qua sự thể nghiệm bản thân của chính Ngài.

Đầu tiên là "chán lìa cõi ô uế". Vì sao vậy? Vì đối lại với Tịnh Độ là cõi dơ uế. Cõi ấy chính là cõi 5 trược ác thế này. Nơi đây kẻ thân, người thù, kẻ giàu, người nghèo, kẻ trí, người ngu, kẻ ác, người hiền thường hay sống chung đụng với nhau trong một nhà, một xã hội, một quốc gia v.v… nên đã xảy ra không biết bao nhiêu là oan gia trái chủ. Do vậy phải có tâm chán ngán và phát tâm lìa khỏi thế giới này sau khi mạng chung để sanh về thế giới Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà. Nơi ấy sẽ không còn ân, không còn oán, không còn sầu, không còn già, không còn chết nữa, thì làm gì có luân hồi sanh tử, để con người phải khổ đau tục lụy?

Điều thứ hai là ưa cầu sanh về Tịnh Độ. Khi đã có mục đích rõ ràng, thì hành giả cứ thế mà nhắm hướng lên đường. Con đường giải thoát sanh tử ấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chỉ dẫn rõ ràng và Đức Phật A Di Đà đang chờ đợi chúng ta nơi ngưỡng cửa Tây Phương Cực Lạc ấy. Nếu ai vui ưa thì có thể xuống thuyền Bát Nhã để vượt sông mê và nương vào ánh sáng Vô Lượng Quang ấy để lần về giải thoát.

Điều thứ ba là chứng cứ Cực Lạc. Cõi này tự mắt phàm của chúng ta chẳng thấy được, nhưng qua lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni qua kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ mà chúng ta tin rằng có một thế giới như vậy. Việc này do Đức Phật Thích Ca nói ra. Chúng ta tin tưởng tuyệt đối nơi Ngài, vì Ngài chẳng bao giờ nói lời hư dối với chúng sanh.

Điều thứ tư là niệm Phật chính tu. Ai tu theo pháp môn này thì việc niệm Phật là việc chính của sự tu hành. Có thể niệm thành tiếng, cũng có thể niệm thầm, lại cũng có thể niệm trong vô niệm, hay ngồi trước tượng Phật để quán tưởng rồi niệm. Ngày xưa chưa phát minh ra tràng hạt thì niệm bằng cách bỏ hạt đậu vào trong hũ hay lấy hạt đậu từ hũ ra và căn cứ vào đó để đếm số. Ngày nay cả máy điện tử cũng có thể dùng cho việc này. Vì trong hiện tại có nhiều cách tính đếm rất là tiện lợi.

Điều thứ năm là phương pháp trợ niệm. Một người sắp lâm chung, phải để thi thể họ chỗ thông thoáng, đầu xoay về hướng Bắc, mặt xoay về hướng Tây. Bên trên đầu của họ nên để một hình hay tượng Phật. Những người trợ niệm nên niệm lớn cho người sắp lâm chung nghe được để khiến cho người ấy chỉ tập trung nơi câu Phật hiệu A Di Đà, chờ Phật đến tiếp dẫn về Tây Phương, không còn việc gì khác phải bận tâm nữa. Trước giờ phút lâm chung, trong khi trợ niệm chư Tăng, Ni hay người thân cũng chỉ nên nói những điều vui, những việc tốt của người sắp mất, để thần thức của họ thấy cao hơn khi lìa thể xác, không nên nói điều gì vấn vương, buồn tẻ hay khổ đau cho họ nghe, hoặc giả cũng đừng nên chọc họ giận tức qua những người họ không ưa mà đến trợ niệm, có thể khiến cho họ dễ đi vào cõi thấp hơn. Điều ấy với những người trợ niệm cần nên lưu ý.

Điều thứ sáu là biệt thời niệm Phật. Nghĩa là niệm Phật trong một thời gian nhất định nào đó. Có thể là trong một ngày niệm mấy lần hay trong một tuần lễ, 14 ngày, 21 ngày, 49 ngày v.v… Biệt thời niệm Phật trở thành Thời Tông của Phật Giáo Nhật Bản sau này do Ngài Nhất Biến chủ xướng. (1239-1289).

Điều thứ bảy là lợi ích của sự niệm Phật. Khi chúng ta niệm Phật thì miệng đọc câu Phật hiệu, tâm nhớ nghĩ đến Đức Phật A Di Đà hoặc cảnh giới Tây Phương Cực Lạc, tay lần tràng hạt v.v… Như vậy thân, khẩu, ý đều thanh tịnh, khiến ta khó suy nghĩ hay thực hành những việc ác. Niệm quen trở thành thuần thục. Đây là một phản xạ có điều kiện, khi câu Phật hiệu được nghe đến bên tai mình. Do vậy, niệm Phật là một điều lợi ích vô cùng, khi còn sống cũng như khi lìa trần.

Điều thứ tám là chứng cứ của việc niệm Phật. Gương niệm Phật của người xưa để lại quá nhiều. Từ Tăng, Ni cho đến tục gia Phật Tử. Nhiều người đã vãng sanh nhờ niệm Phật. Đây là những chứng cứ để người đời sau theo đó mà tu hành. Vi dụ như người niệm Phật thường hay biết trước giờ lâm chung, khi chết thân thể mềm mại, thơm tho. Có ánh sáng từ Tây Phương chiếu đến, trong nhà có hương thơm lạ, người chết hơi ấm còn tồn tại nơi đỉnh đầu v.v… Đây là những bằng chứng là hành giả niệm Phật ấy có thể vãng sanh.

Điều thứ chín là đới nghiệp vãng sanh. Cõi Tây Phương Cực Lạc là cõi Phàm Thánh đồng cư Tịnh Độ, nên người đồ tể buông dao, có thể thành Phật cũng là chuyện thường tình. Vì trong kinh Quán Vô Lượng Thọ cách quán thứ 16 về Hạ Phẩm Hạ Sanh có cho biết rõ về điều này. Nói tóm lại, pháp môn niệm Phật, nếu ai tin ưa, bất kể là người hiền, kẻ ác đều được vãng sanh về cõi giới Cực Lạc.

Cuối cùng là việc chọn lựa hỏi đáp. Ngài Nguyên Tín khuyên người Niệm Phật nếu có nghi ngờ điều gì thì nên tạo ra những nghi vấn và đem điều nghi vấn này đến những bậc thông thái, lão luyện trả lời cho. Từ đó không còn thắc mắc nữa, khiến cho con đường tu học, niệm Phật của hành giả không có gì có thể gây ra chướng ngại được.

B. Ngài Nguyên Không (Pháp Nhiên) và Tư Tưởng Tịnh Độ

Những người tu theo pháp môn niệm Phật, cầu sau khi lâm chung được vãng sanh Cực Lạc quốc, nên có nhiều vị Sư Trung Hoa chủ trương rằng:

Tin Phật
Niệm Phật
Có khả năng thành Phật

Đây là một mệnh đề giống như Tam Đoạn luận của Triết gia Socrates:

Tất cả mọi người đều phải chết
Tôi là người
Vậy tôi phải chết.

Tin Phật là điều kiện đầu tiên và cốt yếu nhất. Tin Phật cũng có nghĩa là tin vào tự lực của mình tin Phật, chứ không phải tin vào một ai khác. Kẻ nào đó ở bên ngoài mình, thì không phải là mình.

Khi tin xong chưa đủ. Vì niềm tin ấy bị đóng băng tại đó. Ta phải phát khởi niềm tin ấy bằng cách ngày đêm niệm Phật. Sở dĩ ta niệm Phật vì ta nhớ đến ân đức của Đức Phật A Di Đà mà ta niệm. Ngài, từ một thuở quá khứ xa xôi, đã vì chúng sanh mà phát ra 48 lời nguyện để tạo thành quốc độ thanh tịnh của Ngài và nơi ấy chính là chốn an lạc, tự tại để cho chúng sanh nương về.

Nếu dụng công một cách miên mật như vậy thì điều chắc chắn có thể xảy ra là sự thành Phật. Thành Phật là kết quả của sự dụng công miên mật của một hành giả tu theo pháp môn Tịnh Độ vậy.

Pháp môn này được truyền khắp Á Châu từ thời kỳ Chánh Pháp, đến thời kỳ Tượng Pháp và qua thời kỳ đầu của thời kỳ Mạt Pháp vào thế kỷ 10 - 11 là một động cơ rất lớn và có lý do vững chắc để chư vị Tổ Sư lập ra Tông Phái của mình để chuyên tu. Ví dụ như ở Nhật Bản là trường hợp điển hình nhất.

"Ngài Nguyên Không (1133-1212) còn gọi là Pháp Nhiên Thượng Nhân, Hắc Cốc Thượng Nhân.

Ngài là vị Cao Tăng Nhật Bản và là Tổ thứ hai Tịnh Độ Tông Nhật Bản, người huyện Cương Sơn.

Năm lên 9 tuổi Sư xuất gia, 15 tuổi lên núi Tỷ Duệ thờ Ngài Hoàng Viên và Duệ Không làm Thầy. Sư học tập giáo nghĩa Thiên Thai và đọc nhiều kinh điển, Sư xem tất cả các kinh tới 5 lần mà vẫn chưa thấy được con đường xuất ly, sau nhờ đọc được bộ Quán Kinh sớ của Đại Sư Thiện Đạo mà khai ngộ. Sư bèn dựa vào tác phẩm "Vãng Sanh yếu tập" của Ngài Nguyên Tín mà sáng lập ra Tông Tịnh Độ, chuyên tu pháp môn niệm Phật tại Cát Thủy thuộc Đông Sơn. Trên từ triều đình, công khanh, dưới đến các tầng lớp võ sĩ, thứ dân… đều quy y Sư. Nơi đạo tràng, tiếng xưng danh Niệm Phật của Tăng tục không dứt, nhưng bị giáo đồ của phái bảo thủ gièm pha. Sau vì việc 2 cung nữ của Thượng Hoàng Hậu Điểu Vũ tên là Trùng Tùng và Linh Trùng xuất gia tu hành ở đạo tràng Niệm Phật tại Lộc Cốc, đã dẫn đến việc tố cáo của Nam Đô Bắc Lãnh, nên cuối cùng đạo tràng niệm Phật của Sư bị đình chỉ, 2 vị Tăng bị xử trảm, còn Sư lúc đó đã 75 tuổi thì bị lưu đày đến Tam Kỳ. Cùng năm ấy Sư được cho phép vào ở chùa Thắng Vĩ tại Nhiếp Tân (Phủ Đại Phản) tạm trú 4 năm. Ở đây Sư tiếp tục hoằng dương Tịnh Độ, giáo hóa Tăng tục. Đến niên hiệu Kiến Lịch năm đầu (1211) Sư mới được phóng thích trở về Kinh Đô (Kyoto).

Năm sau, Sư tịch ở Đại Cốc, Đông Sơn, thọ 80 tuổi.

Sư để lại các tác phẩm: Tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật tập, Hắc Cốc Thượng Nhân ngữ đăng lục, được thu vào Pháp Nhiên Thượng Nhân toàn tập". (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 3530).

(Xem Pháp Nhiên Thượng Nhân truyện ký, Bản triều Tổ Sư truyện ký hội từ, Nguyên Hanh thích thư quyển 5).

Ở đây có nhiều sự kiện tiêu biểu cần trình bày.

Sự kiện thứ nhất là sự truyền thừa của Tịnh Độ Tông tại Nhật Bản.

Theo Tịnh Độ Chơn Tông của Nhật Bản thì Ngài Thân Loan, đệ tử của Ngài Pháp Nhiên, lập Thầy mình làm Sơ Tổ của Tông này, nhưng theo lịch sử truyền thừa như chúng ta thấy, Ngài Pháp Nhiên không phải tự nhiên mà hiểu được Tịnh Độ, nếu không có quyển "Vãng Sanh Yếu Tập" của Ngài Nguyên Tín. Tuy Ngài Nguyên Tín sống cách xa Ngài Pháp Nhiên cả 200 năm về trước, nhưng qua dữ liệu này các sử gia cho rằng Ngài Nguyên Tín làm Sơ Tổ của Tịnh Độ Tông và Ngài Pháp Nhiên Đệ Nhị Tổ và Ngài Thân Loan Đệ Tam Tổ. Thế nhưng ngày nay ở Nhật, Tịnh Độ Tông hay Tịnh Độ Chơn Tông khi được nhắc đến, người ta chỉ còn biết đến Ngài Pháp Nhiên với Ngài Thân Loan chứ không biết đến Ngài Nguyên Tín nữa, nhiều khi Ngài Thân Loan là đệ tử của Ngài Pháp Nhiên, nhưng vì chủ trương mới hơn Thầy mình, nên nhiều khi tư tưởng và sự ảnh hưởng còn nhiều hơn Thầy mình nữa.

Như phần sử liệu truyền thừa của Trung Quốc bên trên, chúng ta thấy Ngài An Thế Cao mới là người đầu tiên mang Thiền học vào Trung Quốc vào năm 148, nhưng Trung Quốc vẫn không lập Ngài làm Sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa, mà mãi cho đến năm 520 khi Ngài Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ qua Trung Quốc, Ngài mới chính thức được người đời sau xưng là vị Sơ Tổ của Thiền. Có lẽ vì có sự truyền thừa liên tục. Còn Ngài An Thế Cao chỉ là người giới thiệu Thiền Học vào Trung Quốc thuở ấy mà thôi.

Sự kiện thứ hai là sắc đẹp và đường tà, tiếng tăm và lợi dưỡng.

Khi hai cung nữ Tùng Trùng và Linh Trùng của Thượng Hoàng Hậu Điểu Vũ bỏ chốn hoàng cung để theo Ngài xuất gia tu học. Vì thuở ấy danh tiếng Ngài Pháp Nhiên đã lẫy lừng, khiến nhiều người trên từ triều đình, công khanh, dưới đến bàng dân thiên hạ ai ai cũng quy kính, tin theo. Do vậy những phái Phật Giáo khác ở Nam Đô Bắc Lãnh không thích thấy cảnh này, nên đã dùng nữ sắc ấy để tố cáo Ngài Pháp Nhiên cũng như Đệ tử của Ngài. Có lẽ vì vậy mà sau khi Ngài và Ngài Thân Loan ở tù về, ở tuổi gần 80 rồi, Ngài thấy Phật Pháp khó bền lâu, cho nên Ngài đã cho phép và đốc thúc Ngài Thân Loan chính thức lập gia đình. Có thể đây là một lý do thầm kín bên trong chăng?

Sự kiện thứ ba là tư tưởng của Ngài Pháp Nhiên qua "Một tờ văn khởi thảo". Đây là những lời nói cuối cùng của Thượng Nhơn trước khi viên tịch. Ngài khuyên mọi người chỉ nhất tâm niệm Phật chứ không còn gì khác nữa và trên một tờ giấy quan trọng này, Ngài đã lăn dấu tay của Ngài vào đó để làm chứng tích. Năm ấy là năm Kiến Lịch thứ 2 (1212) lúc đó Ngài thọ thế 80 tuổi.

Năm nay và sang năm (2011-2012) tại Nhật Bản kỷ niệm 800 năm vị Sơ Tổ của Tịnh Độ Tông viên tịch và 750 Ngài Thân Loan. Đây là sự kiện rất trọng đại của phái Tịnh Độ Chơn Tông này. Ở Nhật đa phần các chùa thờ Tổ khai sơn, khai Tông lớn hơn là thờ Phật. Vì họ nghĩ rằng: Phật ra đời tại Ấn Độ từ xa xôi rồi. Chỉ có các vị Tổ mới là những người truyền thừa tâm phúc cũng như lời dạy của Phật. Cho nên Tổ quan trọng hơn Phật. Đây có lẽ chỉ là quan niệm của người Nhật, chứ không nhất thiết là của tất cả các Phật Tử ở các quốc gia khác."

"Tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật tập gọi tắt là Tuyển trạch tập.

Tác phẩm này gồm một quyển, do Ngài Nguyên Không người Nhật Bản biên soạn, được thu vào Đại Chánh tạng tập 83. Sách này được soạn vào năm Kiến Cửu thứ 9 (1198) bằng Hán văn theo lời thỉnh cầu của Cư sĩ Quan Bạch Cửu Điều Kim Thực.

Nội dung sách này chia làm 16 chương, nói rõ ý chỉ nghiệp nhân vãng sanh, lấy niệm Phật làm gốc, đồng thời, trong mỗi chương đều có trích dẫn văn để giải thích. Nhưng việc chuyên tu niệm Phật được trình bày trong sách bị chê bai, cho nên sau khi Ngài Nguyên Không qua đời, sách này mới được ấn hành. Ngài Cao Biện có soạn Tồi tà luận - Cuốn sách vấn nạn nổi tiếng - để bác bỏ tác phẩm này, mặc dầu vậy nhưng nó vẫn là tông điển căn bản của Tịnh Độ Chân Tông ở Nhật Bản, cho nên có nhiều loại bản in". (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 6579).

Nội dung của tác phẩm "Tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật tập" này nói về lời nguyện thứ 18 của Đức Phật A Di Đà. Theo Ngài Pháp Nhiên thì cho rằng do tự lực niệm Phật mà được vãng sanh về Tịnh Độ, trong khi đó Ngài Thân Loan, đệ tử của Ngài Pháp Nhiên thì cho rằng: Việc niệm Phật được vãng sanh là do bản nguyện lực của Đức Phật A Di Đà, đó là tha lực chứ không thể là tự lực vãng sanh. Đây có thể là điểm chính yếu có sự sai khác giữa Thầy và trò. Do vậy sau khi Ngài Pháp Nhiên qua đời, sách này mới được ấn hành là vậy.

Tiếp đến là tác phẩm "Hắc Cốc Thượng Nhân Ngữ Đăng Lục". Đây cũng là tư tưởng về Tịnh Độ của Ngài Pháp Nhiên gồm 18 quyển, do Sư Liễu Huệ Đạo Quang, người Nhật soạn.

"Sau khi Ngài Pháp Nhiên, Tổ khai sáng của Tông Tịnh Độ Nhật Bản, thị tịch được 62 năm, vào năm Văn Vĩnh 11 (1274), do trong môn phái phát sinh các kiến giải khác nhau, nên Sư Liễu Huệ Đạo Quang mới căn cứ theo các bài giảng và lời khai thị của Ngài Hắc Cốc Thượng Nhân (Pháp Nhiên) mà soạn thành sách này để chỉnh đốn lại môn phong.

Toàn bộ sách gồm Ngữ Đăng Lục 15 quyển và Thập Di 3 quyển, trong đó, chia làm 2 phần: chữ Hán và chữ Nhật.

- Phần chữ Hán gồm Hán ngữ đăng lục (17 chương) và Thập Di quyển thượng (3 chương).

- Phần chữ Nhật gồm Hòa ngữ đăng lục 5 quyển (24 chương) và Thập Di quyển trung, hạ (8 chương).

Phần chữ Nhật được khắc in vào niên hiệu Nguyên Hanh năm đầu (1321) là bản in Tịnh Độ giáo sớm nhất trong các bản khắc chữ Nhật, do đó rất nổi tiếng". (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 2079).

Thông thường sau khi Thầy mình tịch rồi thì đệ tử mỗi người mỗi ý hướng khác nhau. Đó là chưa kể những sự kiện đau lòng, vì Ngài Pháp Nhiên mới ở tù về cùng các đệ tử khác, trong đó có Ngài Thân Loan. Ngoài ra có 2 vị đệ tử còn bị xử trảm nữa. Quả là những sự kiện quá đau lòng.

Ngay như thời Phật còn tại thế, với uy đức của Ngài, Ngài đã quy tụ hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn, hàng trăm vạn người, trên từ Vua quan, dưới đến thứ dân, nhưng sau khi Ngài viên tịch có những vị Tỳ Kheo trẻ vui mừng. Vì không còn Phật, nên không cần phải giữ gìn những oai nghi, tế hạnh nữa. Khi Ngài Ca Diếp nghe được như vậy mới suy nghĩ phải có kỳ kết tập kinh điển gấp rút sau 100 ngày, do Vua A Xà Thế bảo trợ cho 500 vị A La Hán trùng tuyên lại những lời dạy của Đức Phật gồm cả 3 tạng: Kinh, Luật, Luận. Còn ở đây, Ngài Pháp Nhiên sau khi viên tịch không những chỉ có những sự kiện đau lòng đã xảy ra bên trên mà còn những sự kiện tiếp theo của Ngài Thân Loan lúc bấy giờ nữa. Nào là Ngài tự xưng là "Ngu ngốc Thân Loan" và lại có vợ, cả 5 người con nữa. Đây có lẽ là những sự lủng củng nội bộ cần phải chấn chỉnh. Do "Hắc Cốc Thượng Nhân Ngữ Đăng Lục" lúc bấy giờ là một chiếc phao duy nhất để duy trì Tông môn, nhất là với những ai còn muốn sống đời tịnh hạnh như Thầy mình để thực hành pháp môn Tịnh Độ.

Tại Nhật Bản, sau khi Ngài Pháp Nhiên viên tịch (1212) thì Tông phái Tịnh Độ này được hướng dẫn bởi Ngài Thân Loan. Ngài Thân Loan đã dựa vào Thầy mình để lập ra một phái mới gọi là: Tịnh Độ Chơn Tông. Đây là một phái cải cách có từ thế kỷ 13 tại Nhật, trong khi các nước Á Châu gần đó, cho đến thế kỷ 20 vẫn chưa biết gì nhiều. Do vậy, phần tiểu sử cũng như hành trạng và tư tưởng của Ngài Thân Loan chúng ta sẽ có cơ hội khảo sát rõ ràng hơn ở phần sau.

C. Ngài Thân Loan (Shinran) và Tư Tưởng Tịnh Độ

Dựa theo tiểu sử của Ngài Nguyên Không Pháp Nhiên thì Ngài tịch năm 1212 tại Đại Cốc ở Đông Sơn, lúc ấy Ngài 80 tuổi và trước đó 4 năm, nghĩa là từ năm 1198-1211 Ngài được triều đình cho phép về ở Chùa Thắng Vĩ tại Nhiếp Tân.

Sau sự kiện hai cung nữ của Thượng Hoàng Hậu Điểu Vũ tên là Tùng Trùng và Linh Trùng xuất gia tu hành ở Đạo Tràng Niệm Phật tại Lộc Cốc đã dẫn đến việc tố cáo của Nam Đô Bắc Lãnh (tức là kinh đô phía Nam, ý nói những chùa thuộc vùng Nara và những người lãnh đạo ở hướng Bắc, ý nói các Tông phái Phật Giáo khác phát xuất từ núi Tỷ Duệ), nên cuối cùng đạo tràng Niệm Phật của Ngài bị đình chỉ, 2 vị Tăng bị xử trảm và một số bị ở tù, trong đó có Ngài Thân Loan, còn Ngài Pháp Nhiên lúc ấy đã 75 tuổi, bị lưu đày đến Tân Kỳ.

Như vậy sự kiện trên xảy ra vào năm 1207 tại Kyoto. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặc quan trọng của Tịnh Độ Tông tại xứ Nhật. Gồm những sự kiện như sau:

Sự kiện thứ nhất. Vì uy tín của Ngài Pháp Nhiên quá lớn, nên trên từ Vua Chúa cho đến thần dân đều ngưỡng mộ quy y. Từ đó những cung nữ trong triều đình mới có cơ hội làm quen với pháp môn niệm Phật. Đây là cái cớ "một hòn đá liệng chết 2 con chim cùng một lúc" để hạ uy tín của Ngài Pháp Nhiên.

Kế đầu tiên là vì các Tông phái khác tại Kyoto lúc bấy giờ hoạt động không được triều đình và dân chúng ủng hộ, cho nên sinh tâm ganh tị đố kỵ, rồi viết tấu trạng lên triều đình, cho rằng Pháp Môn Niệm Phật làm mê hoặc mọi người, mục đích chỉ đi dụ dỗ đàn bà con gái. Do vậy nên cấm pháp môn này lưu hành và truyền bá trong dân chúng.

Kế thứ hai là nữ sắc. Nhân việc hai cung nữ bỏ Thượng Hoàng để đi xuất gia là một nỗi đau lòng mất mát cũng như bẽ mặt của Thượng Hoàng. Do vậy có kẻ gièm pha thêm vào, thì đây là một cách hay nhất để có thể triệt hạ uy tín của Ngài Nguyên Không Pháp Nhiên.

Không những những người tiểu tâm tạo được cơ hội ấy rồi, mà còn cho đám đàn bà con gái đến trước Đạo Tràng Niệm Phật của Ngài chửi bới, vu khống, mạ lỵ chư Tăng đệ tử của Ngài Pháp Nhiên. Do vậy mà có 2 vị bị xử trảm, 4 vị bị lưu đày, trong ấy có Ngài Thân Loan.

Khi Ngài Thân Loan bị đày vào năm 1207 cùng với các vị huynh đệ khác thì Ngài được một người con gái con quan đem lòng yêu thương chăm sóc Ngài và cuối cùng đã trở thành chồng vợ và vị này sau khi sinh ra 5 người con, cũng đã xuất gia với pháp danh là Huệ Tín, cũng đã nổi danh một thời.

Sự kiện thứ hai là: Khi Ngài Pháp Nhiên 75 tuổi thì sự việc này xảy ra. Có lẽ Ngài đã ngán ngẩm với việc đời. Chuyện có nói không, chuyện không nói có, nên khi mối tình vương giả xảy ra giữa người con gái con quan và người đệ tử lớn của mình là Thân Loan, thì chính Ngài Pháp Nhiên đã khuyên Thân Loan nên lập gia đình. Việc lập gia đình ấy có lẽ theo Ngài Pháp Nhiên là một dấu ấn ghi lại sự chơn thật chứ không phải dối trá, điêu ngoa khi làm việc đạo. Nghĩa là khi thương thì nói là thương, khi yêu thì cho cưới nhau, chứ không tránh né việc này.

Có lẽ đây cũng là một cuộc cách mạng trong thiền môn thuở ấy. Vì xưa nay, ai là người xuất gia, đều phải cát ái ly gia, không vướng bận thê nhi, tử tức, thế mà đệ tử của Ngài Pháp Nhiên đã khởi đầu cho một giai đoạn lịch sử như vậy, quả là một người có cái dũng và cái yếu kém của con người. Do cả hai sự kiện này đi kèm cho nên Ngài Thân Loan tự gọi mình là "kẻ trọc đầu ngu ngốc Thân Loan" và là kẻ "Tăng chẳng ra Tăng, tục chẳng ra tục". Thân Loan chấp nhận việc này và từ sự kiện này kéo theo liên tục không biết bao nhiêu sự kiện khác về sau nữa.

Khi lập gia đình thì sinh con đẻ cái và con cái vẫn ở trong chùa. Cho đến khi lớn lên lại kết hôn với những người có liên hệ với chùa và các vị trụ trì khác có gia đình. Đây là cái nhân đầu tiên của Tịnh Độ Chân Tông do Ngài Thân Loan chủ trương. Chỉ có Tông này là chính thức, còn các Tông phái khác vẫn còn giữ nguyên quy củ của Thiền Môn như tự thuở nào. Mãi cho đến năm 1868 là năm mà Vua Minh Trị Duy Tân đất nước Nhật Bản theo đà tiến bộ và phát triển khoa học, kinh tế của người Tây phương. Cho nên Vua Minh Trị, một ông Vua theo Thần Đạo, vốn không có cảm tình nhiều với Phật Giáo, so với Thánh Đức Thái Tử lúc ban đầu, nên Vua Minh Trị đã ra một sắc lệnh vào năm 1868 bắt buộc chư Tăng phải lập gia đình và sống đời kinh tế tự túc để tăng gia việc sản xuất cho quốc gia. Từ đó đến nay (2011) hầu hết tất cả các Tông Phái khác như: Thiền, Mật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa v.v… quý Thầy đều lập gia đình, giống như Tịnh Độ Chơn Tông của Ngài Thân Loan từ đầu thế kỷ 13 vậy.

Nếu kể từ năm 1207 đến năm 1868 là 611 năm và nếu kể từ năm 1868 đến năm 2011 là 143 năm. Nếu tính chung từ 1207 đến nay (2011) là 804 năm chư Tăng Phật Giáo Nhật Bản đã, đương và sẽ sống một cuộc sống giữa thế tục và xuất thế. Họ làm nhiệm vụ giúp đỡ về vấn đề tâm linh cho người Phật Tử, giữa kẻ sống và người chết. Hầu hết họ không thọ giới Tỳ Kheo mà chỉ thọ giới Bồ Tát. Họ vẫn có chế độ xuất gia, nhưng là cha truyền con nối. Nếu vị Trụ Trì ấy không sinh con trai, chỉ sinh con gái, bắt buộc cậu rể phải xuất gia, học đạo theo Tông phái ấy rồi mới được làm chồng cô con gái của vị trụ trì kia. Sau này khi vị Trụ Trì viên tịch thì người rể sẽ thay thế nhiệm vụ trụ trì ngôi chùa ấy.

Vào ngày 22 tháng 2 năm 1972, lần đầu tiên tôi đặt chân đến Nhật Bản để du học, thấy cái gì cũng quá mới mẻ, hiện đại và ngỡ ngàng. Đến cuối năm 1972 tôi thi đậu vào Đại Học Teikyo (Đế Kinh) thuộc thành phố Hachioji. Lúc ấy tôi xin tá túc tại chùa Honryuji tại Hachioji thuộc phái Nhật Liên Tông. Từ đó tôi hiểu nhiều hơn về thực trạng của Phật Giáo Nhật Bản so với lúc ban đầu. Có lần tôi dùng tiếng Nhật để hỏi một vị Tăng trẻ Nhật Bản rằng: Ở Nhật Bản phái Tân Tăng bây giờ ra sao rồi? Vị ấy đáp rằng: Ở đây đâu có ai mới, ai cũng đã cũ hết rồi. Ý vị ấy muốn trả lời rằng: Chư Tăng tại Nhật đã lập gia đình từ lâu rồi, đâu có gì mà cũ với mới.

Khi tôi viết tác phẩm này là vào cuối năm 2011 trên núi đồi Đa Bảo tại Úc Đại Lợi và năm 2012 tác phẩm thứ 59 này mới xuất bản đánh dấu 40 năm tôi ở nước ngoài gồm hơn 5 năm sống ở Nhật và hơn 34 năm sống tại Đức, tôi đã chứng thực được lời nói của vị Sư trẻ tại chùa Honryuji thuở ấy là đúng. Vì chỉ có mình là mới và bảo thủ cũng như lập dị, chỉ muốn đi con đường xưa theo truyền thống, chứ đâu có ai cũ mới gì.

Tôi đọc được một bài phóng sự trên báo Sàigòn tại Úc vào cuối năm 2011 tại Seyney có đăng một tin khá hài hước, khiến cho ai đó có óc tò mò cũng muốn xem thử ra sao. Đó là tin "Những nhà Sư Nhật Bản đăng báo tìm vợ". Tôi đọc hết đoạn văn trên và tự suy nghĩ rằng: Vậy thì những Tu sĩ Nhật Bản đã được có quyền lập gia đình từ thế kỷ 13 đến nay, đã hơn 800 năm rồi mà cũng đâu có giải quyết được hết những chuyện khó khăn của việc lập gia đình để có thêm người nối dõi Tông Phong, Pháp Phái như các vị Tổ đã chủ trương, hoặc như Vua Minh Trị đã đề xướng là chư Tăng lập gia đình để tăng thêm đơn vị sản xuất cho quốc gia? Vấn đề ở đây là vấn đề sanh tử luân hồi, chứ không phải là vấn đề có vợ hay không có vợ. Đi xuất gia mà còn bận rộn con đường tại gia thì làm sao có thể siêu thoát dễ dàng được. Do vậy Tịnh Độ Chơn Tông ở Nhật do Ngài Thân Loan chủ trương rằng chỉ cần tu một đời là thành Phật, không quản là tại gia hay xuất gia. Nếu ai tin niệm câu Phật hiệu Nam Mô A Di Đà thì qua bổn nguyện lực của Đức Phật này, người ấy sẽ siêu sinh về Tịnh Cảnh.

Rồi Chơn Ngôn, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa v.v… hầu như tất cả các Tông Phái khác của Nhật đều chủ trương như vậy (xem thêm các sách mà tôi đã dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Việt như: Lâm Tế Tông xuất bản năm 2006, Tịnh Độ Tông xuất bản năm 2007, Tào Động Tông xuất bản năm 2008, Pháp Hoa Tông (Nhật Liên Tông) xuất bản năm 2009 và Chân Ngôn Tông xuất bản năm 2010), nghĩa là: tức thân thành Phật, một đời tu chứng v.v… Giáo lý ấy có thể khế hợp với người Nhật, nhưng một số người theo Phật Giáo Đông Phương khác chắc khó chấp nhận.

Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã thuộc địa phận nước Đức, mới đây vào năm 2010 có họp đại hội đồng tại Fulda, nhằm giải quyết những khó khăn nội tại của Giáo Hội này, đặc biệt là vấn đề đời sống độc thân của các Linh Mục. Vì suốt trong thời gian qua, Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã đã bị những tín hữu của họ công bố công khai trên báo chí và các phương tiện truyền thông khác nhau về đời sống không thanh tịnh của những chức sắc Tôn Giáo và các Giáo Hội tại Mỹ Châu, Úc Châu cũng như Âu Châu đã bỏ ra số tiền quá lớn, trên cả bao nhiêu tỷ đô la để đền bù cho việc này. Do vậy có một số các nhà Thần Học và những vị thuộc tư tưởng cấp tiến đề nghị hơi táo bạo là "nên chấm dứt đời sống độc thân của Linh Mục". Dĩ nhiên là cũng có người tán đồng, bênh vực cho ý tưởng này, nhưng cũng còn lắm người bảo thủ chống đối lại. Dĩ nhiên là Giáo Hội La Mã cũng thăm dò dư luận và vẫn luôn giữ lập trường của mình như xưa nay. Vì họ lý luận rằng: Như Giáo Hội Tin Lành Đức đã ly khai và các Mục Sư đã có gia đình, người nữ cũng được quyền làm Giám Mục v.v… nhưng những vấn đề tội phạm đâu phải là không có. Ví dụ như uống rượu say khi lái xe, phạm pháp v.v… Do vậy họ kết luận rằng: Đây là vấn về tín lý, vấn đề đức tin chứ không phải là vấn đề lập gia đình hay không lập gia đình.

Trở lại vấn đề này phần trên đối với chư Tăng Nhật Bản cũng vậy thôi. Họ đã được phép lập gia đình hơn 800 năm nay nhưng họ vẫn thiếu người phối ngẫu để kết hôn, nhằm lo cho chùa viện. Như vậy vấn đề chính nó không nằm ở điểm này. Ngoài ra chư Ni tại Nhật không lập gia đình, nhưng các Ni Viện của Nhật Bản vẫn còn tồn tại và phát triển cho đến ngày hôm nay. Vậy vấn đề chính, đó là vấn đề ý thức cá nhân của những người làm việc Tôn Giáo, chứ không phải là vấn đề nên lập gia đình hay không nên lập gia đình.

Nhân đây khi trình bày về hoàn cảnh cũng như hiện trạng của Phật Giáo Nhật Bản thời xưa và thời nay, chúng tôi cũng muốn trình bày một số quan điểm của mình về vấn đề này sau gần 50 năm xuất gia học đạo, ngay cả khi còn sống ở trong nước và hoàn cảnh của người xuất gia đang sinh sống tại ngoại quốc ngày nay.

Trước năm 1975, sau khi Cố Hòa Thượng Thích Mãn Giác du học tại Nhật về, lúc ấy Ngài làm Phân Khoa Trưởng Phân Khoa Phật Khoa tại Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, có lần đề nghị với Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ là nên cho chư Tăng Việt Nam lập gia đình giống như chư Tăng Nhật Bản. Lúc ấy quý Thầy theo Tây học còn trẻ đa phần chấp nhận bằng cách làm thinh. Còn Ôn Trí Thủ bảo rằng: Tôi già rồi, còn quý Thầy trẻ muốn làm gì thì làm! Có vui gì đâu khi dân mình còn khốn khổ mà quý Thầy lại chủ trương như vậy! Thế rồi chuyện cũ đã chìm sâu vào dĩ vãng. Vì lúc ấy không có sự kiện nào quan trọng xảy ra như sự kiện vào năm 1207 tại Nhật. Như vậy Ngài Thân Loan không những được Thầy mình là Ngài Pháp Nhiên chấp nhận một cách dễ dàng, mà còn khuyến khích Ngài Thân Loan tiến hành việc lấy vợ nữa. Còn ở Việt Nam chúng ta thuở ấy những Hòa Thượng lớn không tán đồng, thì quý Thầy nhỏ đâu dám chính thức. Mặc dầu ở Việt Nam cũng có một số Tông phái khác chính thức lập gia đình như Cổ Sơn Môn và những Ông Lục ở miền Tây.

Riêng tôi, khi độ đệ tử xuất gia cũng gặp một vài trở ngại, nhất là những người trẻ xuất gia tại ngoại quốc này. Đây là việc riêng của tôi, nhưng cũng có thể là việc chung của Giáo Hội. Vì lẽ hoàn cảnh ở ngoại quốc, nơi nào cũng giống nhau cả. Đi từ vấn đề căn bản là giáo dục. Nền giáo dục của Á Châu chúng ta, nhất là giáo dục Tôn Giáo, chúng ta chọn cách từ chương và mô phạm, nghĩa là ông Thầy dạy cái gì thì người học trò học cái đó, không phản đối, không tìm tòi thêm, nên cái học ấy có tính cách thụ động. Trong khi đó tất cả các trường tại ngoại quốc ngày nay, từ Tiểu Học lên Trung Học, từ Đại Học lên Hậu Đại Học, đều dạy những gì người học trò muốn học, chứ không phải dạy những gì như ông Thầy muốn dạy. Ở ngoại quốc họ trọng tư tưởng cá nhân. Vì vậy chủ nghĩa cá nhân tại học đường là một chủ nghĩa chỉ đạo cho mọi sinh hoạt trong đời sống thường tình. Từ nhà, chùa, giáo đường ra đến học đường, tu viện v.v… tất cả ở Âu Mỹ đều trọng cách giáo dục này. Dĩ nhiên, đây chẳng phải là một lối giáo dục hoàn hảo, nhưng những thế hệ sinh ra và được đào tạo nơi đây, tất cả đều chịu ảnh hưởng như vậy. Nếu chúng ta không khéo giải quyết, sẽ tạo ra một tác dụng ngược lại, không cần thiết, từ đó khiến cho thế hệ đi trước và thế hệ đi sau khó bề mà cảm thông và gần gũi với nhau được.

Ngày xưa tôi quan niệm rằng: "Tu thì phải tu cho trót, gọt thì phải gọt cho trơn." Đó là câu tục ngữ Việt Nam và đa phần quan niệm của người Việt Nam cũng vậy. Nghĩa là khi đã phát tâm đi xuất gia rồi thì phải trọn đời tu niệm, ở trong chùa để hành đạo và cầu giải thoát sanh tử luân hồi. Điều này cũng ví như người ta gọt một quả cam hay quả dưa, phải gọt cho trọn vẹn, không bỏ lỡ giữa chừng. Thật ra đây là lý tưởng, còn trên thực tế không phải vậy. Vì lẽ tất cả đều do nhân duyên và nghiệp lực của mỗi người thành tựu và chi phối. Cho nên Đức Phật nói trong kinh A Hàm rằng: Ai hiểu được pháp duyên khởi là hiểu Pháp, ai hiểu Pháp, tức người ấy hiểu Phật, hoặc ngược lại người nào hiểu Phật, tức là người ấy hiểu Pháp và người nào hiểu Pháp, tức là hiểu pháp duyên khởi. Vậy duyên khởi là gì?

Pháp duyên khởi Phật dạy rằng:

“Tất cả các pháp đều do nhân duyên sinh
Tất cả các pháp đều do nhân duyên diệt
và tự tánh của các pháp đều là không.”
Sanh và diệt không ai sanh ra và không ai có thể tự làm cho mất đi, ngoại trừ chính hiện tượng ấy tự sanh và tự diệt. Như vậy nhân duyên sẽ tạo ra sự sanh, diệt hay tồn tại của một pháp, mà pháp ấy tự tánh nó vốn là không. Nếu đã là không, thì bám víu và chấp vào không để làm gì? Vì bản thể của vạn vật là không có tướng thật. Nếu hiểu được như vậy rồi thì cái nhìn của chúng ta về sum la vạn tượng trong trời đất này sẽ thông thoáng hơn.

Ngay như lấy trường hợp những bạn đồng tu của tôi làm điển hình. Trong gần 50 năm ấy đã có biết bao nhiêu người tu không nổi nữa nên đã hoàn tục lập gia đình. Có nhiều người cũng khốn đốn, khổ sở chạy cơm từng bữa mà vẫn không trả nổi nợ áo cơm và thê tử. Cũng có người sau khi hoàn tục, lại xuất gia trở lại và có người cũng chẳng bén mảng đến chùa, nhưng số ít vẫn còn tiếp tục tu học tại Thiền môn và trở thành Thượng Tọa, Hòa Thượng, Ni Sư cũng như đi Trụ Trì một vài chùa to lớn ở trong cũng như ngoài nước. Đây là một bằng chứng điển hình để chính tôi và tôi cũng mong rằng tất cả mọi người Việt Nam, Phật Tử cũng như không Phật Tử nên có cái nhìn thông thoáng hơn về việc xuất gia học đạo của một người nào đó. Do nhân duyên mà họ xuất gia tu học và cũng bị trở duyên mà họ phải về lại sống với cuộc sống thường tình, thì chúng ta cứ tự nhiên chấp nhận, không cưỡng ép và đòi hỏi gì nhiều hơn nữa. Vì họ đã không thể gánh một gánh nặng trên vai đi tiếp tục nữa, thì người ấy có quyền để gánh xuống nghỉ và họ tiếp tục bước đi trong kiếp sống của một con người bình thường. Chúng ta không vì thế mà khinh chê họ, coi thường họ, để họ có khi phải đối nghịch với Đạo thì chúng ta sẽ mất đi một con người đã có tâm với đạo suốt một đoạn đường dài. Biết đâu sống với cảnh đời oái oăm ngang trái, họ có đủ kinh nghiệm để họ trở lại đường tu. Vì Đức Phật có cho phép một người đàn ông có thể vào ra 7 lần nơi cửa Phật, trong khi đó người nữ chỉ một lần thôi.

Nếu chúng ta mở thoáng cánh cửa như thế, thì họ lui tới cửa chùa dễ dàng hơn và việc Đạo chúng ta cũng có người phụ giúp. Bằng ngược lại, chúng ta chỉ thiếu người và không khéo còn tạo ra những thế bất lợi khác nữa. Do vậy chúng ta nên nhìn họ dưới con mắt bình thường. Còn nghiệp duyên của họ, tự họ phải xoay xở lấy. Vì cửa chùa là cửa Từ Bi, bao giờ cũng mở rộng.

Như vậy theo quan điểm của riêng cá nhân tôi về việc trên là: Vị nào muốn sống một cuộc sống Phạm hạnh suốt đời ở Thiền môn, điều ấy quá tốt và đáng trân quý, thì xin hãy là nơi mô phạm, nơi Phước điền để cho tín chúng quy ngưỡng và tiếp tục con đường xuất gia có ý nghĩa của mình cho đến khi nắp quan tài đậy lại.

Còn vị nào đã phát tâm đi xuất gia, nhưng giữa đường gãy gánh vì bất cứ một lý do gì đó như: Vướng nghiệp tình duyên, hoàn cảnh gia đình, chán đời sống tu sĩ, nghiệp chướng, bệnh hoạn v.v… thì hãy về đời lấy vợ sinh con, hoặc ở độc thân như thế để tiếp tục hộ trì Phật Pháp bằng nhiều hình thức khác nhau, không có gì trở ngại cả. Cho nên Đức Phật đã dạy rằng: Đệ tử của ta gồm hai hạng. Đó là người xuất gia và người tại gia. Người xuất gia sống không có gia đình riêng, sống một cuộc đời tịnh hạnh, nhằm giúp đỡ cho nhân sinh thoát khỏi kiếp sanh tử luân hồi. Còn người tại gia sống có gia đình. Xây dựng gia đình thành một cuộc sống an lạc, hạnh phúc để hộ trì Tam Bảo.

Nói tóm lại người nào muốn xuất gia thì vào chùa tu học, không muốn đi tu nữa thì hoàn tục. Dầu có hoàn tục cũng còn có cơ hội đi xuất gia lại nữa, không có gì để phải phân vân. Vì vậy các nước Nam Tông Phật Giáo như Thái Lan, Lào, Cam Bốt, Tích Lan đều có tạo ra tục lệ tu trả hiếu, tu tạo phước, tu gieo duyên cho những ai muốn sống với cửa chùa trong thời gian một tuần lễ, 3 tháng, một năm. Nếu thấy sống ở Thiền Môn thích hợp thì tiếp tục tu trì, nếu không, có thể gởi y áo lại chùa để hoàn tục. Tất cả đều được chấp nhận theo truyền thống Nam Tông. Chỉ riêng truyền thống Bắc Tông còn giới hạn bởi quan niệm xưa cũ như trên đã trình bày. Vậy chúng ta nên sửa đổi lại. Vì thời gian đã thay đổi thì thế giới phải đổi thay và quan niệm sống Đạo cũng phải khế hợp với từng thời đại và từng địa phương vậy.

Dĩ nhiên là Tôn Giáo nói chung và Phật Giáo nói riêng, sẽ không bị tiêu diệt, dầu ở bất cứ hình thức nào. Nó chỉ biến dạng để thích nghi tùy theo từng thời điểm và từng quốc độ để lời Phật dạy vẫn còn có giá trị với khoảng không gian vô cùng và thời gian vô tận ấy. Nếu lỡ có những cư sĩ nam hay hay cư sĩ nữ, hoặc Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni phá giới thì họ phải tự sám hối về những hành vi tội lỗi của mình và nhất là luôn phải có những thiện hữu tri thức đi cùng để khuyên răn giúp đỡ người phạm giới ấy nhớ câu Phật hiệu A Di Đà, để ít ra trạng thái lâm sàng xảy đến, thì người này cũng sanh về Tịnh Độ ở Thai Cung Biên Địa trong Hạ Phẩm Hạ Sanh. Đây chính là lời bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà đã được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy cho Hoàng Hậu Vy Đề Hy trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ cách quán thứ 16 ở Hạ Phẩm Hạ Sanh.

Trên đây không phải là sự bênh vực hay tán đồng một xu thế hay trào lưu mới nào. Vì xu thế hay trào lưu chỉ có tính cách như một phong trào. Phong có nghĩa là gió, trào có nghĩa là nước thủy triều. Mỗi ngày gió thay đổi nhiều lần, nhiều hướng, còn thủy triều lên xuống hai lần, mỗi lần mỗi khác, đâu có lần nào giống nhau. Do vậy mà chúng ta phải đứng lên trên tất cả những sự thay đổi để dung hợp, sửa đổi từ quan điểm cho đến cách nhận thức v.v… có như thế Đạo Phật mới được phát triển.

Đức Phật đang ngự trị trên tòa sen, trên không trung khi Ngài nhìn xuống chúng sanh ở thế giới Ta Bà này ở vào thời kỳ mạt pháp như vậy, chắc Ngài cũng vận bi tâm nhiều lắm để soi đường chỉ lối cho chúng sanh, nhưng nay là thời ma mạnh mà pháp Phật thì càng yếu dần, cho nên hiện tượng ma hại Phật, ma giả Phật đã làm cho điêu đứng cửa chùa và Phật Pháp không ít. Chỉ mong rằng đời nào cũng luôn có những bậc chân nhân xuất thế, nhằm cứu Đạo giúp đời. Có như vậy cuộc đời này mới có giá trị hơn. Bằng ngược lại, dầu chúng ta có sống với bao nhiêu tiện nghi vật chất do con người và khoa học ngày nay đem lại đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ là những ảo ảnh của cuộc đời. Vì mọi hiện tượng không thật có trên thế gian này. Ngay cả hiện tượng vui buồn, được, mất, hơn, thua, lợi, danh v.v… tất cả đều vô nghĩa và dẫu cho con người có một tình yêu cao thượng, một địa vị giàu sang, một ngôi vị Đế Vương đi nữa… thì tất cả cũng chỉ là một sự cảm thọ của ngũ uẩn gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân mà thôi. Khi mắt không còn thấy đẹp, tai không còn nhận ra tiếng hay, mũi không còn ngửi được mùi thơm, lưỡi không còn nếm được những vị ngon, ngọt và thân không còn cảm nhận được sự mịn màng, mềm dịu, tươi mát nữa thì lúc ấy không cũng lại hoàn không mà thôi.

Trên đây chỉ là ý kiến thô thiển riêng tư của chúng tôi, tự thấy đối với bản thân mình, đối với những người đồng liêu thuở nhỏ và ngay cả đối với những người đệ tử xuất gia của mình ở ngoại quốc ngày nay, tuyệt nhiên không đại diện cho ai cả để đi đến một điểm chung, mà đây chỉ là quan niệm cá nhân riêng lẻ. Nếu ai đó cần thì cứ tham khảo. Việc nào chấp nhận được thì chấp nhận. Còn việc nào nếu thấy trái tai gai mắt, trái ý nghịch lòng, thì hãy xem đây là việc gió thổi mây bay mà thôi. Xem ra chẳng có vấn đề gì quan trọng cả.

Sau đây là Tiểu Sử của Ngài Thân Loan Thánh Nhơn (1173-1262).

"Tổ khai sáng của Tịnh Độ Chơn Tông Nhật Bản, người Kyoto, họ Đằng Nguyên.

Sư mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, theo Ngài Từ Viên ở viện Thanh Liên cạo tóc xuất gia. Từ đó Sư đổi tên nhiều lần như: Phạm Yến, Xước Không (tức Đạo Xước và Nguyên Không), Thiện Tín, Ngu Ngốc Thân Loan… Sau, Sư đến núi Tỷ Duệ và Nam Đô (Nara) học tập, nghiên cứu các Tông, nhưng chưa được thỏa mãn. Niên hiệu Kiến Nhân năm đầu (1202), bấy giờ đã 29 tuổi, Sư đến tham vấn Ngài Pháp Nhiên ở Cát Thủy mới đạt được túc chí và dốc toàn lực vào pháp môn niệm Phật tha lực. Nhưng pháp môn niệm Phật của Ngài Pháp Nhiên bị chê bai, nên Thầy trò đều đắc tội (xem thêm sự kiện năm 1207 ở trên). Sau, Ngài Thân Loan được phép trở về Kyoto, bèn đến các vùng Tín Nùng (huyện Trường Dã), Hạ Dã (huyện Bản Mộc), Thường Lục (huyện Thứ Thành)… thuyết pháp giáo hóa, tín đồ quy y rất đông.

Niên hiệu Nguyên Nhân năm đầu (1224) Sư soạn Giáo Hạnh Tín Chứng, 6 quyển, tại thảo am Đạo Điền ở Thường Lục, trở thành Thánh Điển căn bản của Chân Tông sau này. Sau, niên hiệu Nguyên Nhân năm đầu được lấy làm kỷ nguyên khai Tông lập Phái. Năm 60 tuổi, trên đường trở về Kyoto, Sư sáng lập chùa Cẩm Chức ở Mộc Bộ thuộc Cận Giang (huyện Tư Hạ). Sau khi đến Kyoto, Sư ra sức giáo hóa và soạn thuật tại các chùa Cương Kỳ, Cát Thủy, Ngũ Điều, Tây Động Viện…

Năm Hoằng Trường thứ 2 (1262), Sư thị tịch, thọ 90 tuổi. Đệ tử an táng Sư ở Huệ Cốc, thụy hiệu là Kiến Chân Đại Sư.

Sau khi làm Đệ tử Ngài Pháp Nhiên, được Thầy cho phép, Sư lấy Huệ Tín làm vợ. Đó là khởi nguồn cho chế độ lấy vợ của Tịnh Độ Chân Tông. Con trai của Sư là Thiện Loan (Nghĩa Tuyệt) và con gái là Ni Giác Tín đều nổi tiếng ở đời. Đệ tử của Sư có các vị: Chân Phật, Tính Tín, Duy Viên…

Sư để lại các tác phẩm như: Giáo Hành Tín Chứng, Tịnh Độ Văn Loại tụ sao, Ngu Ngốc sao, Nhập Xuất nhị môn kệ tụng, Nhất niệm đa niệm văn ý, Duy Tín sao văn ý… và rất nhiều loại tán khác". (Trích Phật Quang Đại Từ Đìển trang 5346).

(Xem Thiện Tín Thánh Nhơn Thân Loan truyện hội, Thập Di cổ đức truyện quyển 7, 9, Tịnh Độ Chân Tông Thánh Giáo mục lục).

Xem qua Tiểu Sử của Ngài Thân Loan và Ngài Pháp Nhiên chúng ta thấy những sự thật mà sử sách đã được ghi. Đó là việc các Ngài bị tù đày và chuyện thị phi. Ngài Thân Loan lấy vợ (có lẽ là năm 1207, lúc ấy Ngài 34 tuổi) và sau khi Ngài lấy vợ cũng là lúc Thầy mình sắp viên tịch, cho nên có nhiều vấn đề trong huynh đệ đã xảy ra liên tục, cho nên Ngài mới viết thành Giáo Hạnh Tín Chứng để làm tài liệu tu học cho chư Tăng, Ni và Phật Tử, với những ai còn thích tu tập theo pháp môn Niệm Phật cũng như hoài vọng đến Thầy mình. Thế nhưng sau này Ngài Duy Tín cũng sao lục lại 18 điều, 10 điều đầu là lời dạy của Thánh Nhân, 8 điều sau là tư tưởng của Ngài và những người đại diện đương thời. Đây có thể nói là một quyển sách bình luận về tư tưởng Tịnh Độ của Ngài Pháp Nhiên và Ngài Thân Loan.

Sự kiện tiếp theo là qua những tác phẩm sáng tác của Ngài Thân Loan, trong ấy Ngài đã nói lên được tất cả những điều Ngài muốn tỏ bày dựa theo Bổn Nguyện lực của Đức Phật A Di Đà. Ví dụ như Ngài cho rằng: người ác dễ tu hơn người hiền và Phật, Bồ Tát thương những người ác hơn, tăng tục không có sự phân biệt khi tu theo pháp môn Tịnh Độ và tư tưởng nhị hà bạch lộ dựa theo tư tưởng của Ngài Thiện Đạo và Pháp Nhiên. Riêng Thân Loan, Ngài chủ trương muốn vãng sanh Tịnh Độ thì phải có đầy đủ 5 điều kiện. Đó là: Chí tâm, tín nhạo, dục sanh, nhiếp thủ và bất xả. Đồng thời Ngài chủ trương việc vãng sanh có hai loại là hoàn tướng và vãng tướng. Điều quan trọng và khác biệt nhất giữa hai Thầy Trò là việc vãng sanh ấy hoàn toàn dựa vào tha lực và do bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà, chứ tự lực vãng sanh hầu như không thể thực hiện được. Đó là những tư tưởng căn bản, chúng ta sẽ lần lượt điểm qua từng sự kiện một để làm sáng tỏ tư tưởng của Ngài. Những tài liệu tích góp, ngay cả những câu chuyện được kể lại để ghi chép vào sách vở về sau này, công của Ni Huệ Tín không phải nhỏ.

Giáo Hạnh Tín Chứng là một bộ sách gồm 6 quyển. Đây là bộ Thánh Đìển quan trọng của Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản được thu vào Đại Chánh tân tu tập 83. Ở đây Ngài muốn giải thích về Chân Phật độ và hóa thân độ. Năm quyển đầu giải thích về giáo lý chân thật, quyển thứ 6 thì nói về giáo lý phương tiện. Những lời dạy ấy (giáo) dùng để chỉ cho Kinh Đại Vô Lượng Thọ, Hành tức là thực hành niệm 6 chữ hồng danh Nam Mô A Di Đà Phật, Tín là cái nhân chính của sự vãng sanh, cũng là lòng tin đối với Đức Phật A Di Đà, Chứng nghĩa là nhờ Hành và Tín mà được chứng quả. Chân Phật độ nghĩa là Tịnh Độ. Lại nói: Trong hóa thân độ tu hành giáo phương tiện để hiển rõ "chân" (Chân Phật độ) và "ngụy" (Hóa thân độ).

Tư tưởng này được lặp lại qua tư tưởng: Giữa hai dòng sông có một con đường trắng, do Ngài Thiện Đạo chủ xướng, Ngài Pháp Nhiên lặp lại và bây giờ Ngài Thân Loan làm sáng tỏ hơn. Nghĩa là khi tâm thức của người chết đang trôi lơ lửng giữa một dòng sông bên này hướng về sự sanh tử và một dòng sông bên kia hướng đến sự đọa lạc. Ở giữa lại xuất hiện một con đường màu trắng, nơi ấy có Đức Phật A Di Đà xuất hiện để đón tiếp chúng sanh qua tiếng niệm Phật nhất tâm của những thiện hữu tri thức và cả người đang hấp hối.

Sau khi bản dịch về Tịnh Độ Tông của tôi dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Việt thì nhạc sĩ Phi Long, tức là Thầy Viên Giác trụ trì chùa Đôn Hậu tại Trondheim Na Uy đã sáng tác một bản nhạc tên là "Giữa hai dòng sông" rất hay. Đây là tư tưởng Tịnh Độ của ba vị Tổ thuộc Tịnh Độ Tông Trung Hoa và Nhật Bản.

Năm 2012, tại Nhật có lễ kỷ niệm 750 năm của Ngài Thân Loan và 800 năm của Ngài Pháp Nhiên viên tịch. Tại đó Tịnh Độ Chân Tông cử hành những pháp hội đặc biệt để báo ân chư Tổ của họ và dĩ nhiên những tác phẩm đặc biệt như trên sẽ xuất hiện rầm rộ ở Nhật và ngoại quốc để xiển dương tư tưởng của Tông phái mình.

Tại sao Ngài cho rằng: Kẻ ác tu mau chứng đạo hơn người hiền? Ngài Thân Loan lấy những ví dụ lịch sử như chuyện của Vô Não, của A Xà Thế để chứng minh. Ngài kể rằng: Khi Vô Não gặp Phật, Vô Não muốn giết hại Phật. Vô Não bảo rằng:

Này ông Cồ Đàm! Ông hãy dừng lại!

Đức Phật đáp: Chính ngươi mới là người đáng dừng lại, còn Như Lai đã dừng lại từ lâu rồi!

Chỉ nghe một câu ấy mà Vô Não buông dao giết người xuống, quy y Phật và chứng quả Dự Lưu. Điều ấy chẳng phải là người ác, khi hồi đầu, họ đều có tính giác cao chăng?

Ví dụ thứ hai mà Ngài đưa ra là A Xà Thế, khi nghe Hoàng Hậu Vy Đề Hy mẹ mình kể về cha mình, tức là Vua Tần Bà Sa La thuở A Xà Thế còn nhỏ bị bịnh nhọt đầy mình. Bình Sa Vương vì không muốn con mình bị đau nhức, nên đã dùng chính miệng của mình để hút những mụt nhọt ấy, khiến cho A Xà Thế bớt đau. Khi nghe đến đó, A Xà Thế hối hận vô cùng và bảo quân hầu hãy thả Phụ Vương ta ra. Nhưng lúc ấy thì Bình Sa Vương nhờ tu theo pháp Bát Quan Trai do Đức Phật đã chỉ dạy mà ông đã băng hà, sanh thiên trước đó mấy ngày. Ngay khi thức tỉnh như vậy A Xà Thế đã chứng quả Dự Lưu và chính nhà Vua này đã hỗ trợ chư Tăng để kết tập kinh điển lần thứ nhất sau khi Đức Phật nhập diệt 100 ngày tại động Thất Diệp do Ngài Ma Ha Ca Diếp làm thủ tọa.

Có lẽ đó là vào thời chánh pháp. Bởi vì có nhờ uy lực của Phật, đã nhiếp hóa những chúng sanh khó trị này, còn thời tượng pháp và thời mạt pháp này ít có người nào được như vậy.

Tiếp đến Ngài Thân Loan giới thiệu tư tưởng độc đáo của mình về lòng từ của Đức Phật A Di Đà đối với những người kém phước đức như sau: Ngài bảo rằng: nếu cha mẹ nào đó có mấy người con, trong số con cái ấy có người bệnh nặng, thì cha mẹ ấy quan tâm người con bị bệnh hơn là những người bình thường khác. Từ điểm này Ngài Thân Loan cho rằng: Phật sẽ cứu những kẻ tội lỗi, những người ác không khác hơn những người hiền, ngược lại còn cứu nhanh, cứu gấp nữa.

Hoàn tướng có nghĩa là sau khi chúng sanh ấy đã vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, nhưng nếu còn tâm cứu độ chúng sanh ở thế giới Ta Bà này nữa, thì có thể phát nguyện trở lại thế gian này để độ sanh.

Còn vãng tướng là tướng của một hành giả đã được vãng sanh và ở nơi thế giới Tịnh Độ ấy để tu cho đến giải thoát, chứng quả vô thượng Bồ Đề. Đây cũng là tư tưởng Bồ Tát đạo theo Tịnh Độ Chân Tông mà Ngài Thân Loan đã chủ trương.

Tất cả những sự vãng sanh như vậy theo Ngài Thân Loan đều là do tha lực và bổn nguyện lực của Đức Phật A Di Đà, còn tự lực vãng sanh dưới cái nhìn khác với Thầy mình là hoàn toàn không thể thực hiện được. Dầu cho người ác hay người hiền, người lành hay kẻ dữ… đều do Đức Phật A Di Đà qua bổn nguyện lực mà tiếp dẫn về Tây Phương Tịnh Độ qua 48 lời nguyện của mình.

Để được vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, Ngài Thân Loan chia ra làm hai đối tượng rõ ràng qua 5 việc như sau: Đó là 3 việc của người cầu giải thoát sanh tử và 2 việc của Bồ Tát tiếp dẫn về Tây Phương. Ba việc đầu ấy là: Chí tâm, tín nhạo và dục sanh. Hai việc sau là nhiếp thủ và bất xả.

Một hành giả muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc phải một lòng chí tâm, chí thành cầu nguyện khi niệm Phật và phải vui tin theo câu Phật hiệu ấy thì việc niệm Phật mới linh ứng. Kế tiếp là người phát tâm sanh về thế giới ấy phải thực sự muốn vãng sanh. Đây là 3 điều kiện căn bản để phát nguyện.

Khi Bồ Tát Quan Âm và Bồ Tát Thế Chí đến đón về Tây Phương rồi thì hai Ngài này sẽ nắm giữ chúng sanh ấy khi đã có ý vãng sanh và sự gìn giữ thật chu đáo, không cho chúng sanh này bị đọa lạc trong sanh tử luân hồi nữa.

Ngài Thân Loan hành trì Pháp Môn Niệm Phật với tư cách nửa đời, nửa đạo. Vì lẽ Ngài có gia đình con cái, nhưng Ngài không bỏ tư cách người tu. Do vậy Ngài hay tự gọi mình là "kẻ ngu ngốc trọc đầu Thân Loan". Sau đây chúng ta nên tìm hiểu về tác phẩm này để rõ biết tư tưởng của Ngài.

"Cũng gọi là Nhị quyển sao. Tác phẩm này gồm 2 quyển, do Ngài Thân Loan soạn, được thu vào Đại Chánh tạng tập 83".

Sách này có thể được xem là tác phẩm phán thích giáo tướng của Tịnh Độ Chơn Tông Nhật Bản. Sách chủ trương thuyết Nhị Song tứ trùng, chia Phật Giáo thành Đại Thừa Tiểu Thừa. Đại Thừa lại được chia thành Đốn Giáo và Tiệm Giáo, Đốn Giáo lại được chia ra làm Nan Hành, Dị Hành và Hoành Siêu, Thụ Siêu. Còn Tiệm Giáo thì được chia thành Nan Hành, Dị Hành và Hoành Xuất, Thụ Xuất". (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 3329).

Tư tưởng Nan Hành và Dị Hành xuất phát từ tư tưởng của Ngài Long Thọ trong Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận. Nghĩa là theo Ngài Long Thọ cho biết rằng: Nan hành là khó thực hiện vãng sanh một cách rốt ráo. Còn Dị hành nghĩa là trong thời mạt pháp chỉ cần nương vào câu Phật hiệu Nam Mô A Di Đà Phật để niệm tụng, quán tưởng thì dễ được tiếp dẫn về thế giới Tây Phương Cực Lạc hơn. Bởi vì đây chính là do lời thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà mà các chúng sanh được như nguyện.

Tư tưởng này được truyền qua Trung Hoa bởi Ngài Đàm Loan, Đạo Xước và Thiện Đạo. Đến Ngài Thiện Đạo thì giáo nghĩa Tịnh Độ đã quá rõ ràng, nhưng khi Tịnh Độ được truyền vào Nhật Bản qua Ngài Nguyên Tín, Pháp Nhiên rồi đến Thân Loan lại càng tinh tế, tỉ mỉ hơn nữa. Nhật Bản có thể nói là nơi tiếp thụ và chuyển hóa tư tưởng Tịnh Độ từ thời Đức Phật còn tại thế và dẫn đến ngày hôm nay. Đây là cái hay, cái khôn khéo của người Nhật cũng như của Phật Giáo Nhật Bản vậy.

Hoành Siêu nghĩa là siêu thăng ra khỏi chiều ngang. Có nghĩa là tâm thức của người mất đi đầu thai theo kiểu chiều ngang. Còn Thụ Siêu có nghĩa là thọ nhận sự siêu sanh qua việc cầu nguyện. Còn Hoành Xuất có nghĩa là ra thẳng ngay (ý nói không qua trung gian nào) và Thụ Xuất có nghĩa là vượt qua khỏi. Đây cũng là tư tưởng mới về Tịnh Độ của Ngài Thân Loan chủ trương.

Riêng trong phẩm "Nhập Thai Tạng Pháp Giới" trong kinh Đại Bảo Tích, Đức Phật dạy rất rõ về việc đi đầu thai này. Thông thường các vị Bồ Tát ở địa vị "Nhứt Sanh Bổ Xứ" thường chọn ngoài thai cung của một người mẹ để sanh vào. Vì Bồ Tát hạ sanh từ một cõi trời nào đó xuống thế giới Ta Bà này là do nguyện lực. Do vậy Bồ Tát luôn luôn chủ động trong lúc gá thai. Điều đặc biệt là gá vào hông bên phải của người mẹ và thai nhi đứng chứ không ngồi. Do vậy khi sanh ra Bồ Tát biết đi liền.

Còn chúng sanh do nghiệp lực phải thọ sanh. Cho nên không có quyền lựa chọn, mà phải đi đầu thai qua ba cách sau đây:

- Cách thứ nhất - Tâm thức đi ngang để chọn nghiệp. Nghĩa là nếu người ấy lúc còn sống biết làm lành, lánh dữ, giữ tròn 5 giới cấm của Phật chế, thì sau khi thần thức rời thể xác, tiếp tục đi chọn nơi để đầu thai làm người. Có khi là người thân trong gia đình, dòng họ, mà cũng có khi là người ngoài, do nghiệp duyên đã tạo ra trong nhiều đời trước tích tụ lại. Kết quả ấy do nghiệp sai khiến để đi đầu thai.

- Cách thứ hai - Tâm thức đi thẳng lên bên trên. Những người này đa phần trong quá khứ đã tạo mười thiện nghiệp, hoặc giả tu theo sáu Ba La Mật, thì tâm thức ấy sau khi rời thể xác, đi thẳng theo con đường màu trắng để đi đầu thai ở thế giới cao hơn.

- Cách thứ ba - Tâm thức đi thẳng xuống phía dưới. Nghĩa là nếu những chúng sanh trong đời trước làm ác mà không có tâm tàm quý và cũng chẳng có thiện hữu tri thức giúp đỡ khuyên răn, sau khi mạng chung, thần thức tự động theo vệt sáng màu đen để đi vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.

Theo quan niệm xưa thì cách đi đầu thai có 3 loại như vậy, nhưng theo Ngài Thân Loan thì tâm thức ở trạng thái lâm sàng đều xuất hiện theo những dự đoán tuần tự theo như phái Tịnh Độ Chân Tông này chủ trương.

Ngài Thân Loan cũng còn viết tác phẩm khác, gọi là Nhất Niệm Đa Niệm.

"Tiếng dùng của Phật Giáo Nhật Bản. Nghĩa của một niệm và nghĩa của nhiều niệm.

Nghĩa một niệm là chỉ cho một tiếng xưng danh cũng đã đủ làm nhân quyết định vãng sanh, bởi thế không cần nhiều niệm xưng danh. Còn nghĩa nhiều niệm thì chỉ cho người đã phát tâm niệm Phật thì phải niệm liên tục cho đến lúc lâm chung không dứt, mới được vãng sanh Tịnh Độ.

Nhưng Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản lại giải thích khác. Một niệm là tín tâm, nhiều niệm là xưng danh, tức cho rằng nhân của sự vãng sanh quyết định ở một niệm tín tâm, còn nhiều niệm xưng danh sau đó là biểu hiện sự báo ân Đức Phật.

Ngoài ra, còn có các điểm về vấn đề này như:

- Ngài Hạnh Tây đề xướng Phật trí nhứt niệm, chủ trương Phật và phàm phu là cùng một thể, trong một niệm tín tâm của phàm phu ứng hợp với một niệm Phật trí, thì chắc chắn cũng vãng sanh Tịnh Độ.

- Ngài Long Khoan thì chủ trương nghĩa nhiều niệm, cho rằng phải tích lũy nhiều công phu niệm Phật, niệm liên tục, không ngừng nghỉ, mới có thể vãng sanh”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 3678-3679).

Thật sự ra không có vị Tổ Sư nào chủ trương sai với ý Phật cả, nhưng nó chỉ đúng với điều kiện của phàm phu hay người trí mà thôi. Cũng có lúc Đức Phật bảo thế này với người này, mà thế khác với người khác. Ví dụ như trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng: "Nếu chúng sanh ở cõi giới Ta Bà này tu hành và giữ giới pháp trong một ngày một đêm thanh tịnh thì bằng một năm ở thế giới Cực Lạc. Nếu chúng sanh tu bảy ngày bảy đêm thanh tịnh ở thế giới Ta Bà này, bằng hàng trăm năm tại thế giới Cực Lạc."

Nếu căn cứ theo lời dạy này thì đâu có cần phát tâm sanh về Cực Lạc thế giới để làm gì, nhưng ý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn dạy chúng ta rằng: Ở thế giới Ta Bà này toàn là cảnh ác, nếu có ai đó làm được như vậy thì sánh bằng ở Cực Lạc, nhưng mấy ai làm được điều này trong một ngày một đêm thanh tịnh không có bợn nhơ của tâm ý, không có sự suy nghĩ, phán xét xằng bậy của nội tâm? Do vậy tu ở Ta Bà khó lắm, chứ không phải dễ.

Ngài Thân Loan cũng nói rằng - Chỉ cần một niệm nhất tâm thôi! Nhưng nhất tâm của một con muỗi, nhất tâm của một con người, nhất tâm của một chư Thiên, nhất tâm của một vị Bồ Tát. Tất cả đều giống nhau, mà cũng đều khác nhau. Ví như Phật tánh là một, nhưng thể tánh chẳng đồng: Do vậy nhiều niệm đối với phàm phu vẫn là điều cần thiết để cho chúng ta có cơ hội luyện tâm cho đến chỗ nhất tâm.

Một niệm biến tam thiên trong kinh Hoa Nghiêm lại khác với chủ trương này. Hoa Nghiêm cho rằng trong một niệm ấy đều chứa cả 3.000 thế giới, nhưng một niệm nhất tâm đối với những người tu theo pháp môn Tịnh Độ có nghĩa là muốn thực hiện lời nguyện thứ 18 của Đức Phật A Di Đà trong "nhất tâm bất loạn" ấy.

Sau Ngài Thân Loan, giáo nghĩa của Tịnh Độ Tông đã rõ ràng qua tư tưởng của Pháp Nhiên và Thân Loan nên không lập Tông nữa, mà chỉ có chia ra các phái Tịnh Độ khác nhau ở các tỉnh xa xôi thuộc về miền Bắc hay miền Nam của nước Nhật để gìn giữ tín đồ mà thôi. Từ đó đến nay (2011) cả Tịnh Độ Chân Tông lẫn các Tông Phái khác tại Nhật Bản, tuy nội dung giáo hóa có khác nhau, nhưng hình thức cử hành những lễ trọng trong năm đều giống nhau. Ví dụ đây là những ngày lễ căn bản của Phật Giáo Nhật Bản.

Các ngày Lễ Đản Sanh, xuất gia, thành đạo, nhập Niết Bàn của Đức Phật chùa nào ở Nhật cũng đều cử hành để kỷ niệm vị khai sáng ra Đạo Phật.

Ngày lễ Thanh Minh trong tháng 3 và tháng 9, người Nhật gọi là lễ Bỉ Ngạn, nghĩa là lễ cầu nguyện cho người chết sớm siêu sinh qua bên kia bờ giải thoát.

Ngày lễ Vu Lan rằm tháng bảy. Ngày nay người Nhật hay cử hành theo dương lịch, ít có nơi nào căn cứ vào âm lịch. Ngày này là ngày trọng đại của các Tông Phái, nhằm cầu nguyện cho những người quá vãng được sanh về cõi Phật.

Ngày kỵ các vị Tổ Sư khai sơn lập Tông như Ngài Nguyên Tín, Ngài Pháp Nhiên, Ngài Thân Loan v.v…

Rồi ngày Tết cổ truyền, đa phần các chùa ở Nhật đều cử hành theo lệ cũ đã có từ ngàn xưa như ở Trung Quốc hay Việt Nam.

Ngày nay mặc dầu nước Nhật đã Tây hóa gần trọn vẹn, nhưng bản sắc dân tộc của họ vẫn còn hầu như nguyên thủy. Điều ấy phải nói rằng: Sở dĩ có được việc này là do các Tông Phái Phật Giáo của Nhật giữ một vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy nền văn hóa Tôn Giáo cổ truyền tại nơi đây.

Ngày 11 tháng 3 năm 2011 vừa qua một trận Tsunami (Sóng Thần) hãi hùng đã bủa vây và cào đi 5 tỉnh miền Đông Nhật Bản, khiến cho 25.000 người chết và mất tích, của cải, tài sản v.v… không còn sót một vật gì. Duy chỉ còn niềm tin của họ là trọn vẹn và từ đó họ đang phục hồi lại quê hương của họ qua những đặc tính sau đây:

Đặc tính thứ nhất là đúng giờ. Người Nhật từ nhà chùa, nhà thờ đến trường học, công tư sở, nhà ga xe lửa, máy bay v.v… hầu như đúng giờ đến 99,99%. Đôi khi cũng có 0,01% sai giờ, nhưng đó là chuyện ngoài ý muốn. Từ em bé cho đến người lớn tuổi, người già cả ai ai cũng ý thức được điều này. Do vậy chữ tín có lẽ họ đặt lên hàng đầu giống như người Trung Hoa. Phàm hẹn cái gì với ai, ở đâu, không bao giờ họ để cho người được hẹn phải chờ đợi. Tất cả đều tin tưởng nhau, tất cả đều trông cậy vào nhau. Có lẽ nhờ vậy mà giờ nào việc ấy, không bị xen lẫn, trộn pha cái này qua cái khác. Cho nên xã hội của họ tiến bộ rất nhanh và rất nhịp nhàng.

Đặc tính thứ hai là sạch sẽ. Trên thế giới này nếu nói có nước nào sạch nhất thì cũng khó nói. Vì mỗi nước có một cách sạch sẽ riêng. Ví dụ như người Singapore thì giữ gìn nơi công cộng thật sạch, người Thụy Sĩ thì cảnh sắc thiên nhiên tuyệt vời, người Đức siêng năng lau chùi kiếng cửa sổ, sạch nhất thế giới v.v… Còn người Nhật, nếu quý vị muốn biết cái sạch của họ như thế nào ở nơi công cộng thì hãy đến nhà ga Tokyo để xem và thẩm định. Nhà ga này mỗi ngày lên xuống cả 2 đến 3 triệu người, nhưng bạn đi tìm những mảnh giấy vụn hay rác rưởi vứt bừa bãi trên đường rầy hay sân ga, hầu như không có. Ai ai cũng có bổn phận bỏ giấy vụn, giấy dơ vào thùng rác. Do vậy mà đâu đâu cũng thấy sạch sẽ.

Nếu bạn tới một ngôi chùa, bạn sẽ quan sát từ chánh điện đến nhà Tổ. Từ nhà khách đến nhà bếp. Từ cầu tiêu đến nhà tắm… Bạn có thể dùng ngón tay trỏ của mình để lên bất cứ nơi đâu trên ngạch cửa, rồi kéo ngón tay đi từng hàng dài như vậy, sau đó bạn nhấc tay mình lên xem thử có bụi dính vào tay không. Nếu có tức là chùa đó ở không sạch. Nếu không, bạn biết rằng chùa ấy mỗi ngày lau dọn đến 2 lần, nên mới được sạch như vậy. Vì lẽ quét chùa, lau nền nhà cũng là lau tâm của một hành giả khi thể hiện việc công phu. Do vậy họ trân trọng trong việc làm và lễ phép khi chào hỏi, nên mới được như vậy.

Đặc tính thứ ba là tin tưởng nhau và ít khởi tâm tham - Là con người, dĩ nhiên vẫn còn tham đắm là chuyện bình thường, nhưng qua trận Tsunami vừa qua thế giới chứng kiến rằng có khoảng 8.000 tủ sắt đựng tiền bị trôi tứ tung đó đây. Người ta nhặt hết đem về cơ quan chính phủ tại Sendai, Fukushima v.v… ai là chủ của những tủ sắt ấy họ tự đến nhận lại. Có tủ sắt có cả hằng triệu đô-la tiền mặt, nhưng vẫn không bị mất. Những tủ sắt nào không ai nhận, chắc rằng thân nhân đã qua đời. Khoảng 3.000 tủ sắt vẫn còn niêm phong tại đây. Hầu như không có ai đến hôi của trong hoàn cảnh tang thương của dân họ. Do vậy mà họ tự tin để sống và để phát triển cho quê hương mình.

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Liên Châu gồm có các nước như: Hoa Kỳ, Canada, Úc và Đức v.v… quý Thầy, quý Cô và quý Phật Tử tại các châu lục đã quyên góp được 130.000 USD, đây chỉ là số tiền nhỏ, chúng tôi đã sang Nhật vào đầu tháng 6 năm 2011 và đến ủy lạo các nơi như Sendai và Fukushima. Phái đoàn chúng tôi gồm 15 chư Tăng, Ni và 15 cư sĩ Phật Tử. Ở Nhật khó nhất là tìm tiệm bán đồ chay. Tôi làm thông dịch và vào một quán bán Soba (mì sợi) để kêu 13 tô cho 13 vị (có 2 vị không dùng). Sau khi dùng xong, tôi đưa 15 tờ 1.000 Yen để trả cho 13 tô mì Soba, trong đó có ý tặng 2.000 Yen cho công phục vụ. Thế mà bà chủ bảo rằng: Tại sao Thầy tính sai vậy? Chúng tôi chỉ cần 13.000 Yen cho 13 tô, chứ đâu có cần đến 15.000 Yen làm gì? Tôi bảo rằng: Dư 2.000 Yen ấy xin tặng cho người phục vụ. Bà chủ quán đáp rằng:

- Thưa Thầy trong 13.000 Yen ấy đó đã có tiền phục vụ rồi. Xin cảm ơn Thầy và quý vị đã quan tâm.

Bây giờ người tặng lại cảm thấy thẹn lòng. Vì cho không đúng chỗ, nên lấy 2.000 Yen trở lại. Tôi đem câu chuyện này để kể cho các Phật Tử nghe. Ai cũng tấm tắc khen: "Tại sao người Nhật ít khởi tâm tham thế." Đây chỉ là một bằng chứng nhỏ vào ngày 01 tháng 6 năm 2011 tại một quán mì nhỏ ở Asakusa thuộc Tokyo. Nếu quý vị nhân lên 10 tiệm như vậy, rồi 100 tiệm và 1.000 tiệm ở Nhật cũng vậy thôi.

Quý vị đến Nhật nếu lỡ để quên đồ trong xe điện hay mất ví ở nơi công cộng, nếu trong giỏ xách và ví tiền ấy có để giấy tờ tùy thân thì bạn đừng lo. Vì hầu như không bao giờ bị mất cả. Ngày mai, ngày mốt bạn sẽ được cảnh sát ở khu gần đó báo tin cho bạn là đồ đánh rơi của bạn đã có người nhặt được và hiện đang được lưu giữ tại bót cảnh sát đâu đó. Bạn chỉ cần đến nơi kia, nói đúng hết những chi tiết thì bạn sẽ nhận lại được đồ của bạn đã đánh rơi.

Riêng người Nhật có một tục lệ hơi buồn cười mà trên thế giới này chắc chẳng có nước nào xảy ra cả. Đó là khi họ sinh ra thường hay ở nhà thương và cầu nguyện nơi Thần Xã, lớn lên tại nhà, làm lễ cưới tại nhà thờ, khi chết mời quý Thầy đi đám và tro cốt được giữ tại chùa. Không biết có ai nghiên cứu về vấn đề này chưa? Nhưng trên thực tế là như vậy. Ngày nay những thanh niên nam nữ theo hình thức mới, nên hầu như những đám cưới họ đều tổ chức ở nhà thờ. Vì đây là tục lệ của người Tây Phương được du nhập vào. Còn đám ma sở dĩ họ phải làm ở chùa, vì mồ mả Ông bà Tổ tiên, cha mẹ của họ được chôn cất trong vườn chùa. Ở Nhật đất hẹp, người đông. Chỉ có vườn chùa là nơi khả dĩ rộng rãi để bảo quản những huyệt mộ của gia đình họ. Cho nên đây là lý do duy nhất để họ phải đi chùa, mặc dầu có thể họ theo đạo khác.

Người Nhật cũng có một đạo chung, đó là Shinto, Shinto nghĩa là Thần Đạo. Đạo này do vua chúa ngưỡng vọng và trị vì đất nước này, nên họ đã tạo ra một đức tin như thế. Điều này cũng như Anh Giáo tại Anh quốc. Tuy là Thiên Chúa Giáo, nhưng là đạo riêng của Hoàng Gia và những ai ngưỡng vọng Nữ Hoàng, nên gọi là Anh Giáo.

Tại Nhật Bản hiện có nhiều Tông và Phái khác nhau. Trên đây duy chỉ nhắc đến các vị Tổ của Tông Tịnh Độ và tư tưởng của các Ngài. Do vậy mà không đề cập đến những Tông Phái khác. Nếu quý vị nào muốn nghiên cứu thêm về Tông Phái Phật Giáo Nhật Bản thì có thể đọc những sách mà chúng tôi đã dịch sang tiếng Việt như có lần đã giới thiệu bên trên.

Thực tế mà nói: Mỗi dân tộc, mỗi Tông Phái đều muốn xiển dương điều hay điều tốt của quê hương mình, của Tông Phái mình. Đâu có ai muốn đem điều xấu, điều dở ra trình bày. Do vậy, chúng ta là hậu học, khi nghiên cứu tìm hiểu về tư tưởng của người xưa chỉ nên được ý quên lời. Có như thế chúng ta mới thâu thập được những tinh túy của Phật Giáo tại nơi đó. Không nên cố chấp và ganh tị hay đố kỵ để phê phán một Tông Phái nào. Vì việc ấy chỉ có thể đúng ở đây mà không phải ở kia. Ví như tại Ấn Độ là như thế, mà ở Nhật Bản không phải vậy thì chúng ta cũng không thể nào nói cái nào hơn cái nào được. Tất cả đều do nhân duyên mà thành tựu hoặc bị hủy hoại mà thôi!


    « Xem chương trước «      « Sách này có 10 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.219.209.144 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (249 lượt xem) - Hoa Kỳ (16 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Đức quốc (3 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - Hungary (1 lượt xem) - ... ...