Ai cũng có khả năng  thương yêu
  Khi mới bắt đầu tập thiền  quán tâm từ, 
metta, có một kinh nghiệm đã giúp tôi thấy rõ được tâm thức  mình, cũng như cách tôi liên hệ với những người chung quanh. Lúc ấy, tôi được  hướng dẫn thực tập ban rải tình thương của mình đến một người dưng, mặc dù lúc  đó tôi cũng không hiểu rõ “
người dưng” là như thế nào. 
  Thầy tôi, ngài 
Anagarika  Munindra, chỉ nói rằng tôi hãy chọn một người nào gần đây, người mà tôi  không thương cũng không ghét.
  Lúc ấy tôi đang sống ở Ấn Độ,  và trong tu viện nhỏ nơi tôi trú ngụ có một ông lão làm vườn. Tôi gặp ông ta mỗi  ngày, nhưng thật sự tôi chưa bao giờ nghĩ gì về ông. Ông chỉ là một người mà  tôi nhìn thấy mỗi khi đi ngang qua. Và tôi giật mình khi ý thức được rằng, có  biết bao nhiêu người như vậy chung quanh tôi, những người mà tôi hoàn toàn  không thương cũng không ghét. Khám phá đó tự nó cũng là một sự giác ngộ đối với  tôi.
  Và rồi trong nhiều tuần liên  tiếp, đều đặn mỗi ngày, trong lúc ngồi thiền tôi bắt đầu quán tưởng về ông lão  làm vườn, và niệm thầm những câu như: “Mong cho ông được an vui, mong cho ông  được khoẻ mạnh, mong cho ông không bị khổ đau.” 
  Sau một thời gian, tôi bắt đầu  cảm thấy một sự ấm áp và thân thiện đối với ông lão, và mỗi khi tôi đi ngang  ông con tim tôi mở rộng ra.
  Và đó cũng là một kinh nghiệm  rất quan trọng trên con đường thực tập của tôi. Tôi khám phá được rằng, cảm  tình của tôi đối với một người nào đều tùy thuộc vào ở chính nơi tôi, mà thật  ra, tình cảm ấy hoàn toàn không hề dính dáng gì đến người kia, đến thái độ của  họ, hay vào hoàn cảnh. Ông lão làm vườn trước sau vẫn vậy không thay đổi. Ông  không hề đổi cách ông làm việc hay thái độ đối với tôi. Nhưng vì tôi có một cái  nhìn mới, và một sự thực tập, con tim tôi bắt đầu mở rộng ra với một sự cảm  thông chân thành và quý mến.
  Và điều này cũng giúp tôi học  được một bài học quan trọng về năng lượng có mặt của tâm từ. Vì tình thương này  không hề tùy thuộc vào bất cứ một cá tính nào của người kia, nên nó sẽ không dễ  biến đổi thành thù ghét, hờn giận hay là bực dọc, như các loại tình thương có  điều kiện khác. Tình thương vô điều kiện này được phát xuất từ một con tim rộng  lượng.
  Chúng ta ai cũng có thể cảm  nhận được thứ tình thương này, nhưng có thể ta sợ hoặc nghĩ rằng nó hoàn toàn nằm  ngoài khả năng của mình. Nhưng tâm từ không phải là những năng lực dành riêng  cho các bậc như là Đạt-lai Lạt-ma, Mother Teresa, hoặc một hạng người xa xôi  nào đó. Chúng ta ai cũng có thể thực tập và phát triển, và đều có khả năng  thương yêu theo cách ấy.
  Làm sao ta có thể mở  rộng con tim mình ra trước những khổ đau? Tuệ giác nào có thể làm phát khởi một  tâm từ trong ta?
  Có một sự thật rất đơn giản  và sâu sắc là hạnh phúc chân thật không hề phát xuất từ sự thu góp hoặc tích chứa  cho nhiều những cảm giác vui thú. Bạn hãy thử nhìn lại cuộc đời mình đi, với những  cảm giác dễ chịu, những sự kiện vui thích mà mình đã kinh nghiệm, chúng có mang  lại cho ta một hạnh phúc nào vĩnh viễn chăng? Chúng ta biết chắc là không, bởi  vì tự chúng cũng không thể nào có mặt lâu dài được.
  Xã hội và văn hoá chúng ta  lúc nào cũng vun bồi cho một niềm tin rằng hạnh phúc được phát xuất từ những cảm  giác vui thích. Có lần tôi xem một trang quảng cáo thuốc lá có hình của một đôi  nam nữ rất đẹp đứng trong một khung cảnh như thiên đàng, với điếu thuốc trên  tay, bên dưới là dòng chữ: “Không có gì ngăn trở được thú vui của tôi.” Và đó  không chỉ là lời quảng cáo cho thuốc lá mà thôi, thật ra nó có mặt khắp nơi  trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Có được cái này và bạn sẽ có hạnh phúc, nhận  được cái kia thì bạn sẽ có một niềm vui...
  Một điều rất nguy hiểm là niềm  tin này – hạnh phúc chân thật có thể phát xuất từ những cảm giác vui thích – sẽ  khiến ta trở nên khép kín với những gì mang lại cho ta sự khó chịu. Nhưng nếu  ta đóng chặt con tim trước khổ đau thì ta cũng tự lấp kín nguồn suối thương yêu  của chính mình.
  Tuệ giác thiền tập sẽ giúp ta  thấy rằng, hạnh phúc hoàn toàn không tùy thuộc vào những cảm giác dễ chịu của  ta. Nhưng nếu vậy thì hạnh phúc chân thật bắt nguồn từ đâu? Và đó cũng là câu hỏi  chính của thiền tập.
  Thiền tập là một nghệ thuật sống,  một nghệ thuật tương quan với những gì có mặt trong ta và chung quanh ta. Mỗi  khi ta có những cảm xúc như buồn hay vui, giận hờn hay thương yêu, sợ hãi hay  can đảm... bao giờ cũng có rất nhiều cách khác nhau để ta quan hệ với chúng. Ta  có bị vướng mắc không? Ta có nhận chúng là mình không? Tâm ta có rộng lớn đủ để  chấp nhận chúng không, hay đang bị chúng sai xử?
  Tâm ta cũng giống như một bầu  trời rộng lớn, một không gian bao la. Mọi vật có thể khởi lên trong đó, nhưng  không gian ấy vẫn không hề bị ảnh hưởng. Với công phu thiền tập tâm ta có thể  được giống như bầu trời ấy, không hề bị lôi cuốn hay dính mắc vào một hiện tượng  nào hết. Với một tâm như vậy, chắc chắn ta sẽ an trú trong hạnh phúc, vì nó  không hề bị thay đổi hay chi phối bởi những điều kiện. Không có một hạnh phúc  nào cao tột hơn là niềm an lạc. Và sẽ có lúc ta cảm nhận được sự thật ấy.
  Điều quan trọng ta cần nhớ là  hãy xem tâm từ như là một sự thực tập. Có lúc ta cảm thấy thương yêu, và sẽ có  lúc không. Cũng có những lúc niềm đau nỗi khổ to lớn quá, ta cần phải bước lui  lại một chút, khép kín lại một chút, để mình không bị tràn ngập. Những lúc ấy,  ta cần tạo cho mình một khoảng không gian để có thể lấy lại được sự quân bình  và an ổn. Và với một năng lượng mới, ta lại có thể mở rộng con tim mình ra. Mỗi  lần thực tập tâm từ là mỗi lần năng lượng thương yêu trong ta được lớn mạnh  thêm.
  Trong thiền tập cũng như  trong cuộc sống hằng ngày, vấn đề quan trọng không phải là ta có một kinh nghiệm  đặc biệt nào, mà là ta thực tập tiếp nhận chúng như thế nào! Nếu ta biết đối xử  với chúng cho khôn khéo, cho dù bất cứ điều đó là gì, tâm ta sẽ mở rộng ra trước  mọi kinh nghiệm của cuộc sống. Và tuệ giác ấy sẽ nuôi dưỡng, làm lớn mạnh tâm từ  trong ta.
  Đức Đạt-lai Lạt-ma nói:  “Chúng ta chỉ là những người khách ghé thăm hành tinh này. Chúng ta ở đây nhiều  lắm thì cũng chín mươi, hoặc trăm năm là cùng. Trong thời gian ấy, ta hãy gắng  làm gì cho hữu ích, mang lại những gì là tốt lành cho cuộc đời bằng cuộc sống của  mình. Hãy tập cho mình có một sự an lạc, và chia sẻ niềm an lạc ấy đến với người  chung quanh. Và nếu ta đóng góp được hạnh phúc cho kẻ khác, ta sẽ thấy được mục  đích của cuộc đời này, ý nghĩa của cuộc sống này.”
  Điều đó rất đơn giản. Chúng  ta chỉ ở đây trong một thời gian thật ngắn ngủi. Chúng ta có thể làm điều gì tốt  lành với cuộc sống của mình không? Ta có thể tạo cho mình một niềm an lạc và  san sẻ hạnh phúc ấy với người khác được chăng? Và khi ta đóng góp thêm cho hạnh  phúc của kẻ khác ta sẽ thấy được mục đích và ý nghĩa của cuộc đời này. Công việc  của ta là vậy. Và đó cũng là một thử thách của ta.
  
Joseph Goldstein
Bố thí là sự tu tập
  Nhiều năm trước đây tôi có hướng  dẫn những khóa tu học với chủ đề bố thí như một phương pháp tu tập. Những người  đến tham dự là một nhóm tình nguyện viên của một trung tâm thiền tập trong  vùng. Chúng tôi khám phá ra một điều khá ngạc nhiên là chỉ có một vài người  trong nhóm nghĩ rằng, sự phục vụ của mình cũng là một phương pháp tu tập. Còn  đa số thì cho rằng, họ bỏ công sức và thì giờ làm việc là vì không có đủ tiền,  cho nên họ tình nguyện giúp việc trong các trung tâm để có thể tham dự các khoá  tu học miễn phí. Trong tâm những người ấy chỉ chú trọng đến những gì được tiếp  nhận hơn là những gì mang ra ban cho. 
  Cũng có một số người nói rằng,  họ tình nguyện vì việc này thích hợp với “triết lý sống” của họ, phụng sự là một  việc cao thượng “đáng làm”, thế thôi! Họ không cảm thấy có gì đặc biệt trong  công việc ấy cả. Và họ cũng không thấy được có một tương quan nào giữa sự tình  nguyện của mình với một phương pháp tu tập. Họ nghĩ rằng bố thí hay cúng dường  chỉ có nghĩa là ta kính dâng tặng một số tiền cho vị thầy hướng dẫn sau mỗi  khóa tu.
  Theo tôi thì các tình nguyện  viên này đã vô tình không ý thức được những hạnh phúc lớn trong sự bố thí công  sức và thời giờ của họ. Chúng ta ai cũng biết rằng, mình cần bỏ công sức vào những  việc gì mình tin và trân quý, nhưng ít ai trong chúng ta lại có thể hiểu được  sâu sắc về lợi ích của nó.
  Và tôi cũng ngờ rằng, trong  chúng ta có mấy ai hiểu được lý do vì sao sự bố thí lại được xem là rất quan trọng  trong đạo Phật. Chúng ta ai cũng biết ban cho là một điều tốt lành, và ta sẵn  sàng giúp đỡ người khác mỗi khi có ai cần đến. Nhưng chúng ta có nhìn sâu sắc  và thấy được rằng bố thí cũng là một con đường tu tập giải thoát chăng? 
  Có một vị thầy rất nổi tiếng  có dạy rằng: “Trong cuộc sống đầy những thúc đẩy chạy theo vật chất này, gốc rễ  là lòng tham ái, bố thí là con đường đưa ta đến Niết-bàn.”
  Khi giảng dạy cho những người  mới bước vào con đường tu tập, đức Phật thường bắt đầu bằng cách dạy họ bố thí.  Và có nhiều người tin rằng, sở dĩ đức Phật đặt nó vào địa vị đầu tiên trong các 
ba-la-mật là vì bố thí là nền tảng căn bản nhất, các 
ba-la-mật khác đều phát triển từ sự bố thí. 
  Nhưng cũng có khi vì nó được  nhắc đến đầu tiên mà ta có thể cho rằng nó không quan trọng, chỉ là bước đầu  cho người sơ cơ mới vào đạo. Ta có thể bỏ qua để thực tập những cái khác “
cao”  hơn! “Biết rồi, biết rồi, bây giờ thực tập tiếp sang cái khác đi!” Nhưng thật  ra bố thí hay cúng dường không chỉ là một phần của con đường tu học, mà nó  chính là nền tảng căn bản của sự tu tập. Và chính từ nền tảng đó mà tất cả những  cái khác được xây dựng lên.
  Có một vị sư trưởng trong  truyền thống của Ngài 
Ajahn Chah nói rằng, sở dĩ đức Phật dạy bố thí đầu  tiên là vì nếu một người không thể thực tập bố thí thì ta không thể dạy đạo cho  người ấy. 
  Nếu ta không thấy được tầm  quan trọng của sự bố thí, và không có một kinh nghiệm gì về nó, thì những hình  thức tu tập khác – như là trì giới, thiền quán, hoặc tâm từ – sẽ không thể nào  cất cánh nổi. Ta cần phải có một sự mềm mỏng của con tim, một sự nhẹ nhàng êm  ái, một thái độ vị tha, trước khi có thể bắt đầu bước đi trên con đường tu tập!  Và sự nhẹ nhàng êm ái ấy chỉ có thể được phát triển bằng kinh nghiệm trực tiếp  của sự bố thí.
  Tôi nghĩ không hề quá đáng  khi cho rằng hiểu và ý thức rõ năng lượng của bố thí là một điều kiện tiên quyết  trên con đường giải thoát. 
  Vậy ta thực hành bố thí trên  đường tu tập như thế nào? Câu trả lời là: Bằng cách tiếp xúc lại với hạt giống  rộng lượng trong ta, và học trực tiếp từ chính kinh nghiệm thực tập bố thí. 
  Tôi biết điều này không đơn  giản như mình nghĩ, nhưng sự thực tập bố thí có công năng chuyển hóa được 
ngã  chấp. Với sự thực tập này, chúng ta sẽ chuyển hoá được những vướng mắc  trong ta – chỉ biết có mình, của mình và cho chính mình – và ta thay thế chúng  bằng sự quan tâm đến những an lành của người khác.
  Trên con đường tu tập, bố thí  là một phương pháp thực tập rất nhiệm mầu. Ta hãy kinh nghiệm trực tiếp từ hai  hành động của mình: ban cho và nắm giữ, cái nào mang lại cho ta khổ đau và cái  nào mang lại cho ta nhiều hạnh phúc hơn? 
  Đức Phật có dạy:
  
“Này các thầy, trong cuộc sống này, một  người biết ban cho sẽ có ba hạnh phúc. Ba hạnh phúc ấy là gì? Trước khi bố thí  tâm người ấy cảm thấy hạnh phúc. Trong khi bố thí, tâm người ấy cảm thấy an lạc.  Và sau khi bố thí tâm ngươi ấy cảm thấy rất hân hoan.” 
  (Anguttara, 6.37)
  Ta  hãy thử thực tập và hãy tự mình kinh nghiệm điều đó!
  
Gloria Taraniya  Ambrosia
Lá chắn tình thương
  Tôi nghĩ câu chuyện Phật giáo  đầu tiên mà tôi được nghe khi mới bắt đầu tu tập, vào ba mươi năm trước, là câu  chuyện này. Có một bọn cướp kéo ngang qua miền quê ở Nhật, gieo tang tóc và  kinh hãi cho bất cứ nơi nào chúng đến. Khi chúng sắp sửa kéo đến một làng nọ, tất  cả các tu sĩ trong ngôi chùa của làng đều rủ nhau di tản hết, chỉ có vị trú trì  là ở lại. Khi bọn cướp bước vào chùa, chúng thấy vị sư trưởng ngồi yên trong tư  thế toạ thiền giữa chánh điện, vững chãi và tĩnh lặng. 
  Tên tướng cướp lộ vẻ tức giận,  hắn bước đến gần vị sư, tuốt gươm ra và hét lớn: “Tên kia, ngươi có biết ta là  ai không? Ta là người có thể đâm lưỡi gươm này xuyên qua người của ngươi mà  không hề rúng động hay chớp mắt!” 
  Vị sư mở mắt nhìn tên tướng  cướp và nói: “Và thưa ngài, tôi là người có thể để lưỡi gươm của ngài đâm xuyên  qua mà không hề rúng động hay chớp mắt!”
  Phải mất nhiều năm tôi mới thật  sự hiểu được ý nghĩa sâu sắc của câu chuyện thiền ấy. Ngày xưa, tôi không bao  giờ có thể tưởng tượng được là mình có thể đứng trước một sự việc như vậy mà lại  không chớp mắt. Khi còn trẻ, nếu như có ai đi thử tánh giật mình của tôi thì chắc  chắn tôi sẽ thất bại hoàn toàn. Và một lý do khác nữa khiến tôi không thích câu  chuyện ấy vì nó có vẻ coi thường sự sống quá! Ngày xưa tôi nghĩ câu chuyện ấy  muốn nói rằng, đối với vị thiền sư thì việc sống hay chết cũng không có gì khác  biệt. Nhưng đối với tôi thì chúng là một trời một vực khác nhau. Tôi thì rất muốn  sống!
  Thật sự tôi không biết phải  chăng câu chuyện ấy có ý muốn nói rằng, vì có được một tuệ giác lớn, thấy được  chân lý, nên đối với vị thiền sư vấn đề sanh tử không có gì khác biệt nhau!  Nhưng tôi nghĩ đó không phải là vấn đề quan trọng. Điểm quan trọng, mà bây giờ  theo tôi hiểu, là vị thiền sư ấy thật sự biết rõ rằng, trong giây phút đó ông không  thể làm gì khác hơn được hết. Câu chuyện không hề nói gì về việc vị thiền sư ấy  cảm thấy thế nào về cái chết; chỉ nói rằng ông vẫn giữ được sự quân bình của  mình trước cái chết không tránh được trước mắt. 
  Đứng trước một khó khăn chắc  chắn sẽ xảy ra, ta có hai sự chọn lựa. Ta có thể chống cự bằng thân hoặc trong  tâm, và rồi chỉ tạo nên nhiều rối loạn và bất an cho chính mình. Hoặc ta có thể  đơn giản nhận biết rằng sự thật đang xảy ra là như vậy! Mà bạn biết không, thường  thì đó là điều xảy ra khi những việc trọng đại, ví dụ như một cái chết, đang sắp  sửa đến gần. Tâm ta sẽ buông bỏ hết những hy vọng về một thực tại khác hơn. Và  khi ta buông bỏ được những kỳ vọng ấy, tâm ta cũng sẽ trở nên buông thư và an  tĩnh hơn. Nó không còn mệt mỏi đi tìm kiếm một lối thoát nào, vì thật ra không  còn cách nào khác hơn nữa. Thế nên, mặc dù đó là sự chấm dứt, nhưng không có gì  là khổ não.
  Điều quan trọng đối với tôi  là làm sao để thấy được sự khác biệt giữa khổ (
suffering) và đau (
pain).  Khổ là phần xáo động, căng thẳng xảy ra trong tâm, nó chỉ là phần phụ trội, cộng  thêm vào cho cái đau của thân hoặc tâm. Nếu ta tránh được sự căng thẳng ấy là  ta cũng tránh được cái khổ. Và vị thiền sư trong chuyện đã có thể buông bỏ được  sự căng thẳng ấy. 
  Bạn biết không, ngay cả những  ai chưa có nhiều năm tháng tu tập cũng vẫn có khả năng buông bỏ được cái phần bất  an ấy, khi họ bắt buộc phải đối diện với những gì không thể tránh né được. Mà  đó không phải là lý thuyết suông đâu! Tôi đã từng chứng kiến điều này nơi những  người bạn của tôi, khi họ đang hấp hối với chứng bệnh ung thư.
  Một thái độ vô úy, không sợ  hãi, chỉ đơn giản là một thái độ biết chấp nhận bất cứ việc gì đang xảy ra.  Nhưng đó không phải là một thái độ “
dửng dưng”, “
bất cần đời” của  tuổi trẻ mới lớn, có tính cách thách thức. “
Bất cứ việc gì” ở đây có  nghĩa là cho dù đó là bất cứ sự thật nào. Cái này xảy ra vì cái kia xảy ra, cái  này có mặt vì cái kia có mặt. Luật nghiệp quả có thật. Đây là những gì đang có  mặt và xảy ra trong giây phút này. Thực tại là như vậy và không thể khác hơn.  Nó là như thế đó, và một thái độ biết chấp nhận luôn có khả năng xoa dịu mọi bất  an.
  Sự vô úy như thế còn phát xuất  từ một tấm lòng từ ái và tốt đẹp, cho dù ta phải đối diện với bất cứ sự đe doạ  nào. Lẽ dĩ nhiên là ta cảm thấy sợ hãi, nhưng thay vì chống cự lại, ta ôm lấy  và chấp nhận nỗi sợ ấy – tâm từ là một liều thuốc có công năng trực tiếp giải  trừ hết mọi sợ hãi. 
  Điều này đã được diễn tả qua  một hình ảnh rất đẹp về đức Phật trong đêm thành đạo. Đức Phật ngồi dưới cội bồ-đề,  một dáng ngồi thanh thản và tĩnh lặng, và bao bọc quanh ngài như có một tấm màn  chắn bảo vệ. Bên ngoài, chung quanh là các ma vương, chúng là những phiền não,  khổ sở đàn áp tâm ta. Có những ma vương cầm giáo nhọn hướng về đức Phật, có những  ma vương hiện hình thành những thiếu nữ xinh đẹp đầy khêu gợi, chúng muốn ngăn  chặn sự tập trung của Phật, muốn khơi dậy sự sợ hãi trong tâm ngài trước sự tấn  công tới tấp từ mọi phía. 
  Nhưng đức Phật vẫn ngồi yên bất  động, với một bàn tay chạm xuống mặt đất, như muốn nói rằng: “Ta có toàn quyền  có mặt ở nơi này.” Tấm màn chắn che chở chung quanh, bảo vệ Phật khỏi mọi sợ  hãi và khổ đau đó chính là lòng từ. Chính năng lượng tâm từ của ngài đã toả chiếu  và làm tan biến mọi khổ não và lo âu.
  Thái độ bao dung và tâm từ của  ta cũng là tấm chắn bảo vệ và che chở chính mình. Trong hình ảnh ấy, khi những  ngọn giáo và mũi tên bay chạm vào tấm màn chắn bao quanh Phật, chúng biến thành  những đoá hoa thơm lả tả rơi xuống mặt đất chung quanh ngài. Tôi nghĩ rằng những  đoá hoa đó tượng trưng cho sự chuyển hóa, khổ đau biến thành hạnh phúc. Và nếu  ta biết nuôi dưỡng tâm từ, với một tấm lòng rộng mở, cũng như đức Phật, ta sẽ  có khả năng làm tan biến mọi sự mê mờ, khổ đau và tất cả những sợ hãi trên cuộc  đời này.
  Bây giờ ta hãy trở lại với  câu chuyện của vị thiền sư kia. Giả sử trong tu viện của ông có những vấn đề  khó khăn, bất hòa, những đệ tử của ông tỏ thái độ bất kính, bỏ ông đi tìm một vị  thầy khác. Hoặc là ông bị mắc chứng bệnh đau khớp xương, không thể ngồi thiền  trên toạ cụ như xưa... Nếu như tôi là người viết chuyện, tôi sẽ kể rằng vị thiền  sư ấy không hài lòng với những gì xảy ra, có lẽ ông thất vọng về phương pháp dạy  đệ tử của mình, ông muốn cho cơ thể mình bớt đau... Nhưng ông vẫn không hề rúng  động hay chớp mắt!
  
Sylvia Boorstein
 TAi cũng biết thương  yêu
  Tâm 
Bồ-đề,
 Bodhicitta, trong đạo Phật cũng còn có nghĩa là một tâm hoàn toàn rộng mở.  “
Citta” có nghĩa là tâm, và “
bodhi” có nghĩa là giác ngộ.
  Con đường phát triển tâm 
Bồ-đề  là một hành trình cá nhân của mỗi chúng ta. Con đường ấy cũng chính là cuộc đời  mà ta đang có, một hành trình trên con đường giác ngộ. Nhưng giác ngộ không phải  là những gì ta đạt được sau khi nghe những lời hướng dẫn và thực hành đúng. Thật  ra, trong vấn đề giác ngộ ta không thể nào “
thực hành đúng”!
  Trên hành trình ấy, ta đi về  một hướng mà mình không biết rõ, và nơi đó ta cũng không thể xác định chắc chắn.  Chúng ta chỉ biết tập cho mình có một cái nhìn mới, biết cảm nhận thực tại một  cách cởi mở và uyển chuyển hơn. Phát triển tâm 
bồ-đề là một phương cách  giúp ta thực hiện được điều ấy. Và chúng ta có thể bắt đầu bằng cách tiếp xúc  trực tiếp với những gì đang có mặt, bằng cách nhận diện những cảm xúc của mình.
  Tâm 
Bồ-đề thường có mặt  những khi ta cảm thấy an tĩnh và hạnh phúc, khi ta biết thương yêu, dù bất cứ  dưới một hình thái nào. Trong mỗi giây phút an lạc là tâm bồ-đề có mặt. Và nếu  ta biết nhận diện và trân quý những giây phút ấy, cho dù nó có ngắn ngủi hoặc mỏng  manh đến đâu, tâm thương yêu cũng sẽ từ từ nới rộng ra theo thời gian. Khả năng  thương yêu của ta có một năng lượng rất lớn, nếu biết nuôi dưỡng và tưới tẩm,  nó sẽ lớn rộng ra đến vô cùng tận.
  Và tâm 
bồ-đề không chỉ  hiện hữu khi ta cảm thấy an tĩnh mà thôi, thật ra nó cũng có mặt trong những  lúc ta cảm thấy tức giận, ghen ghét, ganh tỵ hoặc trong những lúc bất mãn sâu  xa. Ngay giữa những cảm xúc tiêu cực và đau đớn nhất, ta cũng vẫn có thể tiếp  xúc được với tâm 
bồ-đề của mình, nếu ta biết tiếp nhận chúng với một con  tim rộng mở và ý thức rằng đó là một khổ đau chung. Chúng ta đều cùng chia sẻ với  nhau một nỗi khó khăn ấy, khổ đau này không phải là của riêng ai. 
  Ngay giữa một hoàn cảnh khốn  khó nhất, ta vẫn có thể nghĩ đến những người đang cùng một cảnh ngộ như mình,  và cầu mong cho tất cả được an vui, được thoát ra khỏi khổ đau. Và mỗi khi ta  tiếp xúc với cảm xúc ấy, những bức tường chia cách giữa ta và người chung quanh  sẽ tự động tan biến mất.
  Trên đảo 
Cape Breton,  nơi tôi ở tại 
Nova Scotia, vào mùa đông những mặt hồ đều bị đông cứng.  Nó cứng chắc đến nỗi người ta có thể lái xe hơi hay xe tải chạy lên trên đó.  Nhà phát minh ra điện thoại là ông 
Alexander Graham Bell khi xưa cũng đã  cất cánh phi cơ của ông trên mặt hồ ấy. Nó đông cứng đến như vậy. Và tôi liên  tưởng đến những thói quen, tập quán của chúng ta, dường như chúng cũng đông đặc  giống như mặt nước đá ấy. Nhưng khi mùa xuân đến, những tảng băng đá đó sẽ tan  chảy. Tính chất của nước muôn đời vẫn vậy, chưa bao giờ bị hư hao hoặc mất đi,  cho dù là đang ở giữa một mùa đông dài vô tận. Nó chỉ thay đổi hình tướng mà  thôi. Và khi tảng băng tan ra, tính chất mầu nhiệm nuôi dưỡng sự sống của nước  lại có mặt.
  Bản chất bao dung và rộng mở  của một tâm 
bồ-đề cũng tương tự như thế. Nó bao giờ cũng có mặt nơi này,  cho dù lúc ấy ta có cảm tưởng như tình thương của mình hoàn toàn bị khô cằn hoặc  chai đá, dường như mình có thể đáp được cả một chiếc phi cơ lên trên ấy!
  Những khi tôi cảm thấy tâm hồn  mình như đang ở giữa một mùa đông dài tăm tối, và dường như không gì có thể làm  cho nó tan chảy được, tôi chợt nhớ lại hình ảnh này và biết rằng, cho dù tảng  băng có đông cứng đến đâu, dòng nước thương yêu vẫn không hề bị khô cạn hay mất  đi. Nó lúc nào cũng hiện hữu. Và trong những giây phút ấy, tôi ý thức được tâm 
bồ-đề của mình vẫn đang có mặt, dầu là trong một dạng đông cứng và bất động.
  Tôi biết rằng, mình có thể  làm tan chảy trạng thái đông đặc ấy bằng hơi ấm của tâm từ. Và phương cách hay  nhất là ta hãy tưởng nhớ đến một người nào mình thương mến, thân thiết hoặc biết  ơn. Có nghĩa là ta khơi dậy năng lượng ấm áp đang sẵn có trong ta. Nếu như ta  không nghĩ ra được một người nào thì ta có thể nghĩ đến một hoàn cảnh nào đó,  hoặc một loại hoa lá nào mà ta ưa thích chẳng hạn. Đạo sư 
Trungpa Rinpoche thường nói: “Tất cả mọi người, ai cũng có ưa thích một cái gì đó. Cho dù đó có  thể chỉ là một ổ bánh mì.” Ý ông muốn nói, ta hãy tiếp xúc với niềm vui sẵn có  trong ta và nuôi dưỡng nó.
  Hãy nghĩ đến một người hay một  hoàn cảnh nào có thể tự động khơi dậy tâm từ trong ta. Tâm từ là ý muốn đem niềm  vui đến cho người khác và giúp họ vơi bớt khổ đau. Đó không phải là lòng thương  hại hoặc một thứ tình cảm máy móc, nhưng được phát xuất từ cảm nhận rằng tất cả  chúng ta đều cùng chung một hoàn cảnh như nhau. 
  Tâm từ là một mối quan hệ  bình đẳng. Vì vậy, những khi nào cảm thấy như mình bị đông cứng, bạn hãy tiếp  xúc với tình thương ấy đang sẵn có trong ta – cảm xúc đối với người nghèo khó,  đớn đau vì bệnh tật, với những người thân, hoặc với bất cứ ai ở nơi nào – hãy để  cho điều đó làm tan chảy những tảng băng đông cứng và mở rộng con tim mình ra.
  Tình thương cũng giống như những  yếu điểm trên một bức tường thành kiên cố của cái 
ngã. Và chúng ta nên tấn  công vào những chỗ hở ấy. Nếu ta chỉ tiếp xúc được với tâm từ trong một giây ngắn  ngủi thôi, điều đó cũng sẽ khiến cho khổ đau của ta được mềm ra, và khả năng hạnh  phúc sẽ được tăng trưởng thêm một chút. Và ngay trong giây phút ấy ta tiếp xúc  được với tâm 
bồ-đề.
  Khi tôi còn nhỏ, tôi có xem  những truyện tranh về một nhân vật tên là 
Popeye. Bình thường thì ông ta  rất yếu ớt, và có nhiều khi bị người khác hiếp đáp, đe doạ. Những lúc ấy ông ta  lấy hộp rau 
spinach ra và nuốt trọn hết. Ông chỉ cần mở nắp hộp ra và đổ  hết vào miệng rồi, đùng một cái, ông trở thành một người đầy tự tin và sức mạnh  vô địch để đối phó với bất cứ đối thủ nào. 
  Khi chúng ta dùng những cảm  xúc thương yêu để tiếp xúc với tâm 
bồ-đề thì việc ấy cũng xảy ra với  chính ta! Tâm bồ đề cũng giống như rau 
spinach của tâm linh vậy. Nhưng  xin các bạn đừng nói lại với ai là tôi đã ví dụ như vậy nhé!
  
Pema Chưdrưn
 Như cánh chim trong  cơn gió mạnh
  Trong buổi lễ quy y Tam bảo,  những người chính thức trở thành Phật tử đều nhận được một pháp danh. Mỗi pháp  danh thường có ý nói đến hạnh nguyện tu tập của người ấy. Tôi có một ghi nhận  này, là mỗi khi một phật tử (người Tây phương) nhận được pháp danh nào có nghĩa  như là “buông dứt” hay “từ bỏ” (renunciation), họ đều tỏ vẻ không thích. Nhưng  tôi nghĩ thật ra thì tùy chúng ta hiểu chữ ấy như thế nào mà thôi. 
  Tôi thì được học rằng buông bỏ  ở đây có nghĩa là buông bỏ sự vướng mắc của mình. Cái mà ta muốn từ bỏ ở đây là  một thái độ khép kín và tránh né cuộc sống. Bạn có thể nói rằng, sự từ bỏ cũng  đồng nghĩa với sự cởi mở và tiếp xúc với giây phút hiện tại.
  Và có lẽ cũng đúng khi ta  nghĩ rằng, nền tảng của sự từ bỏ ấy chính là một cái ta chân thật, đó là bản tính  tốt lành và vui tươi của ta. Theo truyền thống đạo Phật cũng như trong nhiều  truyền thống tâm linh khác, bản chất của mỗi chúng ta là vui khoẻ và tốt lành.  Mỗi người chúng ta sinh ra đều có đầy đủ khả năng thương yêu và với một tuệ  giác. Sự từ bỏ ấy nói rằng, chúng ta đã có sẵn hết những gì mình cần và những  gì đang có là rất tốt lành. Chỉ cần chúng ta biết tiếp xúc lại với cái giây  phút hiện tại này mà thôi.
  Mới đây khi tôi ngồi trong một  văn phòng bác sĩ, trên tường có treo bức tranh người phụ nữ da đỏ nắm tay một  bé gái, cả hai cùng đi trên đường, bên dưới là dòng chữ: “Bốn mùa đến rồi đi,  xuân qua rồi hè đến, hè hết rồi thu sang, thu đi thì đông tới. Con người sanh  ra và lớn lên, truởng thành, rồi già và chết. Tất cả đều có những vòng xoay của  nó. Ngày sang đêm, đêm tiếp nối ngày. Đẹp thay khi ta cũng là một phần của tất  cả những cái ấy.”
  Sự từ bỏ có nghĩa là ta ý thức  được rằng, cái ý muốn được sống trong một thế giới được chở che, nhỏ nhoi, và  giới hạn của ta là không thật. Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống  này và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì  chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ. 
  Trong lúc ngồi thiền, ta trở  về với hơi thở của mình. Trong mỗi hơi thở ra, ta sẽ có một cảm nhận cởi mở và  tiếp xúc với giây phút hiện tại. Rồi khi tâm ta bị lôi kéo theo những mơ tưởng  xa xôi nào đó, ta thầm nói: “Đó chỉ là suy nghĩ.” Chúng ta nói thầm một cách rất  từ tốn và chính xác. Mỗi lần ta có thể từ bỏ được sự suy nghĩ ấy, mỗi lần ta  buông bỏ ở cuối mỗi hơi thở ra, thì đó cũng chính là một sự từ bỏ cơ bản: buông  thả cái thái độ nắm giữ và ôm chặt của mình.
  Như một dòng sông đang chảy mạnh  xuống núi, và đột nhiên gặp phải những tảng đá lớn và nhiều cây cao. Dòng nước  không thể nào chảy tiếp được nữa, mặc dù nó đang chảy rất mạnh và có nhiều năng  lượng. Dòng nước bị dừng hẳn lại. Và trong cuộc đời, đôi khi chúng ta cũng bị  ngăn chặn giống như thế. Khi ta tập buông thả ở cuối một hơi thở ra, tập buông  bỏ những suy nghĩ của mình, thì cũng giống như ta đang dời những tảng đá lớn ấy  sang một bên, giúp cho dòng nước được trôi chảy tiếp, để cho năng lượng sự sống  của ta được diễn tiến và tiếp tục đi tới. Chúng ta không vì sợ hãi những gì  mình không biết mà đắp thêm những tảng đá, xây lên những đập nước để trốn tránh  sự sống.
  Vì vậy mà sự từ bỏ cũng có  nghĩa là nhìn thấy rõ được mình tự bảo vệ như thế nào, ta đóng kín ra sao, và  tránh né những gì, và rồi thực tập làm sao để cởi mở. Điều đó có nghĩa là ta sẵn  sàng tiếp nhận bất cứ những gì đang đặt trước mặt mình, bất cứ chuyện gì đến gõ  cửa ta, bất cứ chuyện gì xảy ra trên điện thoại... 
  Muốn làm được việc ấy ta phải  có khả năng bước đến ngay sát bờ mé của chính mình, và chỉ khi ấy ta mới thật sự  biết được thế nào là buông bỏ. Có một câu chuyện về một nhóm người cùng leo lên  một ngọn núi cao. Ngọn núi có một dốc thẳng đứng và rất cheo leo. Khi leo lên  được một khoảng, có vài người quay lại nhìn xuống và cảm thấy choáng váng, họ  đông cứng vì sợ hãi. Những người này đã bước đến ngay bờ mé của mình và họ  không thể tiến xa hơn được nữa. Nỗi sợ hãi của họ quá lớn, khiến họ không còn  dám cử động. Những người khác thì tiếp tục leo cao hơn, họ vẫn nói năng cười  đùa với nhau. Nhưng khi vách núi trở nên dốc hơn, nguy hiểm hơn, lại có thêm một  số người nữa trở nên đông cứng vì sợ hãi. Từ chân núi lên đến ngọn, có những điểm  khác nhau mà người ta gặp được cái bờ mé của chính mình, họ bỏ cuộc và không thể  nào tiến xa hơn được nữa. 
  Nhưng bài học của câu chuyện ấy  là, vấn đề ở đây không phải là nơi nào mà ta gặp bờ mé, giới hạn của mình, mà  điểm quan trọng chính là ta bắt gặp nó.
  Cuộc sống là một hành trình  mà ta sẽ tiếp tục bước đến sát bờ mé của mình, hết lần này đến lần khác. Và  ngay nơi đó chính là điểm thử thách của ta! Nếu bạn là một người muốn thật sự sống,  bạn sẽ tự hỏi, “Tại sao ta phải sợ hãi đến thế? Ta muốn trốn tránh những gì  đây, ta không muốn nhìn thấy những gì đây? Tại sao ta không thể tiến xa hơn được  nữa?” 
  Những người leo lên đến đỉnh  núi không phải là những kẻ anh hùng. Có thể họ không biết sợ chiều cao, nhưng rồi  chắc chắn họ cũng sẽ gặp bờ mé của họ ở một nơi nào khác. Những người bỏ cuộc nửa  chừng không phải là kẻ thất bại. Họ chỉ là những người đã gặp bài học của mình  sớm hơn những kẻ khác mà thôi. Dầu sớm hay muộn gì thì rồi tất cả chúng ta đều  cũng sẽ gặp bờ mé, giới hạn của chính mình.
  Nhưng chúng ta phải tập buông  bỏ như thế nào? Làm sao ta có thể vượt thắng được cái năng lượng ngăn trở khiến  ta trở nên bất động, không dám tiến thêm một bước nữa về một nơi mà mình không  biết rõ? Làm sao ta có thể đẩy được cánh cửa đá to lớn ấy để lại tiếp tục bước  qua, để sự sống trở thành một tiến trình chuyển hoá, giúp ta trở nên vô uý và  linh động, như một con chim lượn bay giữa những cơn gió lớn trên bầu trời cao?
  Những con thú và cây cỏ nơi  vùng tôi ở tại 
Cape Breton rất là táo bạo, gan lì, mà cũng thích đùa giỡn  và vui tính. Thời tiết càng khắc nghiệt đến đâu thì những con chim ở đây lại  càng ưa thích bấy nhiêu. Chúng rất thích thú khi mùa đông đến, khi bầu trời có  những cơn gió hung bạo và thiên nhiên phủ toàn tuyết và đá. Những con chim này  thường thách thức những cơn gió mạnh. Chúng đậu lên những cây cao rồi bám chặt  lấy cành bằng chân và ngay cả bằng mỏ. Khi những cơn gió ào đến thật mạnh,  chúng buông thả ra và bị thổi tung, cất bổng lên cao. Chúng giương cánh ra và  bay lượn lên cơn gió. Sau một lúc, chúng lại trở về đáp xuống trên cây và bắt lại  từ đầu. Đó là một trò chơi. 
  Có lần, tôi thấy chúng trong  một trận gió mạnh hung dữ như một cơn bão, chúng níu lấy chân nhau và cùng rơi  xuống, rồi chúng thả nhau ra tung bay khắp nơi. Xem như một trò xiếc vậy! Chúng  chắc chắn phải có một sự đam mê trước những thử thách và đối với cuộc sống. Như  bạn thấy, đó là một thái độ rất đẹp và đầy cảm hứng. Và chúng ta cũng giống y  như vậy.
  Mỗi khi ta thấy mình đã đến  sát bờ mé, giới hạn của ta, thay vì nghĩ rằng: “Mình đã lầm rồi,” ta chỉ cần  công nhận giây phút hiện tại này và bài học của nó. Thay vì tự bảo rằng:  “không,” ta hãy nhẹ nhàng từ tốn cảm nhận con tim mình, nó có một năng lượng cởi  mở, tha thứ và thương yêu đối với chính ta.
  Con đường của giác ngộ là con  đường mà ta phải tiếp tục đối diện với những thử thách lớn, và rồi ta thực tập  làm sao để làm mềm dịu và cởi mở ra. Nói một cách khác, khi đối diện với những  gì là cứng rắn và ngăn trở, ta thực tập sự buông bỏ bằng cách cảm nhận nó bằng  cả con tim của mình. Ta có một tâm từ đối với hoàn cảnh nan giải của mình, và  cho cả cái tình trạng chung của nhân loại. Ta làm cho nó mềm dịu đi, để ta có  thể thật sự ngồi yên đó với những cảm giác khó khăn của mình, và để cho chúng lại  càng làm cho ta được mềm dịu hơn.
  Con đường của sự từ  bỏ là con đường biết chấp nhận, biết nói “vâng” đối với cuộc sống. Trước hết,  ta ý thức rằng ta đã tiến đến ngay sát bờ mé của mình, tất cả những gì trong ta  đều đang chống lại, đang nói không, và chính ngay ở điểm đó ta thực tập mềm dịu.  Lúc đó là một cơ hội để ta thực tập tâm từ đối với chính mình, điều đó sẽ mang  lại cho ta một thái độ vui tươi và cởi mở – biết vui đùa như một con chim trước  những cơn gió mạnh.
  
Pema Chodron
  Tràng chuỗi lo âu
  Cầm lên một tràng chuỗi niệm  Phật, và lập tức bạn sẽ cảm thấy ngay cái cảm giác rất dễ chịu trong tay mình.  Mà điều ấy cũng có mặt với tất cả mọi xâu chuỗi cầu nguyện trong những truyền  thống tôn giáo khác. 
  Trước hết, đó là một cảm giác  làm an dịu tâm hồn, mà dường như nó chỉ tăng lên khi những hạt chuỗi trở nên  trơn láng và đậm màu hơn theo với thời gian sử dụng. Và tiếp theo là biểu tượng  của nó – một sự liên kết, nối liền với một truyền thống rất xa xưa. Lần qua những  hạt chuỗi trên tay là bạn đang tiếp xúc với một phương pháp thực tập cổ truyền.  Những ngón tay bạn đang nâng niu những hạt chuỗi ấy trong giây phút này, và mai  sau lại sẽ có những ngón tay khác tiếp nối công việc ấy, khi bạn đã đi rồi.
  Tràng chuỗi cũng được xem như  là một phần của chiếc y. Nó được mang quanh cổ hoặc ở nơi tay. Sau hình tượng đầu  tròn áo vuông của người xuất gia thì xâu chuỗi là một biểu tượng rõ rệt nhất của  người Phật tử, đặc biệt là các cư sĩ. 
  Lúc ban đầu, thật ra xâu chuỗi  được sáng tạo ra là để cho người cư sĩ sử dụng. Ngày nay ta thấy người tu sĩ  cũng thường mang theo, nhưng thật ra nếu đi ngược lại nguồn gốc ta sẽ khám phá  rằng, những tràng chuỗi là một phương cách giúp ta mang sự thực tập trong tu viện  ra áp dụng vào một cuộc sống đầy giới hạn và thách thức ở ngoài đời.
  Trong Phật giáo, những tràng  chuỗi đầu tiên mục đích không phải để cho các tu sĩ sử dụng. Trong kinh có một  câu chuyện rất phổ biến về nguồn gốc của nó. 
  
“Có lần vua Vaidunya sai sứ giả đến thưa  lên với Phật: 
  ‘Lạy đức Thế Tôn, nước chúng con là một nước  vùng biên thùy, nhiều năm giặc giã, ngũ cốc đắt đỏ, tật dịch tràn lan, nhân dân  đói khổ, chúng con thường không nằm yên được. Chúng con được biết Pháp tạng của  Như Lai rất rộng rãi, sâu xa, đáng tiếc chúng con vì có những việc lo buồn như  thế nên không tu hành được. Chúng con kính mong đức Thế Tôn đặc biệt rủ lòng  thương xót, cho chúng con pháp yếu gì để chúng con ngày đêm có thể tu hành được  dễ dàng và trong đời mai sau xa lìa được mọi khổ não.’
  “
Đức Phật bảo s
ứ giả về thưa với  nhà vua rằng: ‘N
ếu nhà vua muốn diệt được phiền não chướng, báo chướng,  nên xâu một chuỗi tràng một trăm tám hạt bằng hạt cây tra (mộc hoạn tử) và thường  đem theo mình; khi đi, khi ngồi, khi nằm thường nên chí tâm, không phân tán ý,  xưng danh hiệu: Phật-
đà, Đạt-
ma, Tăng-
già, mỗi lần là lần  qua một hạt cây tra. Cứ như thế, lần lượt qua hạt này đến hạt khác.’
” 
  (Kinh Mộc Hoạn Tử, Thích Tâm Châu dịch)
  Và Phật dạy, nếu nhà vua cứ  thực tập như vậy thì sẽ chấm dứt được hết mọi phiền não.
  Đó là câu chuyện xưa nhất nói  về nguồn gốc của tràng chuỗi, và rõ ràng là sự thực tập ấy có ý định dành cho  những ai chưa buông bỏ được những lo âu, phiền muộn của một đời sống thế tục,  chứ không phải dành cho các vị đang sống trong Tăng đoàn của Phật. 
  Và sau này tràng chuỗi cũng  được cả giới tu sĩ sử dụng. Điều này có lẽ nói lên được năng lượng nhiệm mầu của  chúng, có công năng làm an dịu những lo âu của tất cả mọi người, dù là tu sĩ  hay cư sĩ. 
  Trong một buổi phỏng vấn,  ngay chính đức 
Đạt-lai Lạt-ma cũng công nhận rằng Ngài rất gắn bó với  xâu chuỗi của Ngài!
  Sau gần ba mươi năm sử dụng  và làm những tràng chuỗi cho nhiều truyền thống tôn giáo khác nhau, tôi đi đến  một kết luận đơn giản là: Tất cả những tràng chuỗi đều là những chuỗi lo âu – từ  tràng hạt mân côi của đức Giáo Hoàng, cho đến những xâu chuỗi đeo cổ tay bình  thường của người Phật tử, hay không phải Phật tử... cũng đều như thế. Trong mọi  truyền thống tôn giáo, người ta sẽ nói với bạn rằng, những tràng chuỗi của họ  là dùng để cầu nguyện – để tiếp nhận một quyền năng cao lớn hơn, tập trung tâm  ý, để tu tập tâm linh. 
  Lẽ dĩ nhiên đó là một sự thật  ta không hề chối cãi, nhưng đó không phải là mục đích chánh của xâu chuỗi.  Tràng chuỗi là cho những lo âu của ta. Chúng đáp ứng cho một nhu cầu rất cơ bản  của con người, mà thật ra còn có mặt trước cả ý thức về tôn giáo nữa, đó là những  mối lo âu. Xâu chuỗi của Phật giáo công nhận điều ấy. Nó là một phương tiện  giúp ta đối diện với những nỗi lo lắng của mình, nó phối hợp giữa đức tin vào một  cái gì huyền bí với những hành động lặp lại giúp ta có được một sự an tĩnh cho  thân và tâm. Sự khác biệt giữa xâu chuỗi của Phật giáo và những tràng chuỗi của  Tây phương chỉ đơn giản là các ý nghĩa và biểu tượng về những tràng hạt của nó  mà thôi.
  Một xâu chuỗi Phật giáo thường  gồm có 108 hạt, mỗi hạt tượng trưng cho một vô minh, một phiền não mang lại khổ  đau cho đời người. Người ta thường hỏi tôi về con số 108 này, mặc dù sự tính  toán hơi rắc rối một chút, nhưng với cái nhìn của Phật giáo thì điều đó hoàn  toàn rất có ý nghĩa. Có sáu loại phiền não sanh lên khi ta tiếp xúc với các  giác quan của mình, như là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Và những phiền não  này được tiếp nối nhau qua ba thời là quá khứ, hiện tại và tương lai, và như vậy  là ta có con số 18. Nhân nó lên với hai trạng thái tâm thức, thiện và bất thiện,  và rồi ta lại nhân thêm với ba loại cảm thọ phát sinh khi ta có sự tiếp xúc là 
lạc, 
khổ và trung tính (không khổ không vui) – 6 x 3 x 2 x 3 – ta sẽ có con số  108. 
  Thật ra còn có nhiều cách  khác nhau để tính ra con số ấy, nhưng đa số đều gần giống như nhau. 
  Đối với người Phật tử thì vô  minh, cái thấy không sáng tỏ, chính là nguyên nhân gốc của phiền não. Những lo  âu về tiền bạc hay sức khoẻ, nếu ta nhìn cho kỹ, thì thật ra chúng rất là vô  ích. Trên cuộc đời này sẽ không bao giờ ta có đủ tiền bạc, và sức khoẻ thì chắc  chắn cuối cùng rồi cũng sẽ suy giảm, cho dù ta có làm gì đi chăng nữa! Thông điệp  không lời của tràng chuỗi Phật giáo là: “Đừng lo âu về những sự việc, hãy lo về  vấn đề tại sao ta lúc nào cũng lo âu, và giải quyết ngay tận gốc rễ của nó.”  Xâu chuỗi tự chính nó cũng là một giáo pháp.
  Cho dù ta có sử dụng tràng  chuỗi cho bất cứ một việc tụng niệm nào đi chăng nữa, nó bao giờ cũng tàng chứa  những bài pháp rất trọn vẹn. Trước hết, trong truyền thống đạo Phật, tràng chuỗi  được giữ gìn và tôn kính như là một quyển kinh hay y áo của một tu sĩ. Điều này  cũng rất dễ hiểu, vì ta sử dụng những tràng hạt để niệm danh hiệu Phật hoặc các  câu chú, thường được xem như là tinh yếu của các bài kinh. Và kế đến, khác với  xâu chuỗi mân côi của Thiên chúa giáo, tràng chuỗi trong đạo Phật còn cốt ý để  ta mang vào người khi không sử dụng. Vì vậy tràng chuỗi cũng còn được xem như  là một nhắc nhở, chúng ta đang được phủ che bằng chiếc áo chân lý của một con  đường giải thoát. Và rồi trong mỗi tràng chuỗi đều có một “
hạt đạo sư” (
guru  bead). Đó là một hạt to, có ba lỗ, ở cuối tràng chuỗi. “Hạt đạo sư” này  cũng tương đương với chiếc thánh giá trên xâu chuỗi mân côi. Nó tượng trưng cho  vị đạo sư – và giáo pháp – mà chúng ta cứ tiếp tục quay trở về sau mỗi vòng chuỗi.
  Trong truyền thống Phật giáo  Bắc tông, cuối những buổi lễ người ta thường đọc 
Bốn lời nguyện của một  người tu. Trong đó, lời nguyện thứ hai là 
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.  Đó là một sự mâu thuẫn tuyệt vời, một công việc mà ta không thể nào hoàn tất được.  Nhưng tràng chuỗi đã làm sáng tỏ thêm, nó giúp ta thấy và hiểu rõ được điểm  này, vì tràng chuỗi cũng là một vòng tròn bất tận. Khi ta lần một vòng chuỗi,  nó đều bắt đầu và chấm dứt với hạt đạo sư. 
  Theo đúng luật thì ta không  bao giờ lần ngang qua hạt đạo sư này. Thay vì vậy, nếu ta muốn lần thêm một  vòng chuỗi nữa, thì ta phải dừng lại nơi hạt đạo sư ấy, và xoay chuỗi đếm ngược  trở lại, và cứ như vậy mà ta tiếp tục. Với sự thực tập ấy, ta cũng sẽ khám phá  ra rằng phiền não thật sự là vô tận. Chúng ta đang có mặt trong một cảnh giới đầy  phiền não, muốn vượt qua chúng ta chỉ có một cách duy nhất là thoát ra khỏi. Và  khi thực hiện được điều ấy rồi, ta sẽ nhập vào được chung với cảnh giới của chư  Phật.
  Một vấn đề khá đặc biệt trong  phương pháp lần chuỗi là những hạt chuỗi ấy không bao giờ đưa ta đến nơi đó.  Khi vừa sắp đến cảnh giới của Phật thì chúng ta dừng lại và quay ngược trở về.  Hành động ấy tuy đơn giản nhưng lại mang một ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Mặc dù đức  Phật đã chứng đạt được cảnh giới của Niết-bàn, chấm dứt hết tất cả phiền não,  nhưng Ngài vẫn sống một đời giác ngộ như một con người bình thường, sống an lạc  và thong dong giữa mọi chúng sinh khác trong thế giới. Đức Phật là một bậc Như  Lai, 
Tathagata, có nghĩa là “Người đã đến như thế,” chứ không phải là  “người đã đi như thế”.
  Người Phật tử không bao giờ  chối bỏ, trốn tránh hay muốn thoát ra khỏi cuộc đời này. Chúng ta được dạy làm  sao để mình thật sự có mặt và sống an lạc chung với tất cả. Theo thuật ngữ của  nhà Phật thì sự an lạc đó cũng được gọi là 
Tathagata, Như Lai. 
  Như Lai là một bậc đã giác ngộ  như vậy đó, như thế đó, chứ không phải như một sự mong cầu riêng tư nào. Ta  không bao giờ trốn chạy đến một nơi nào khác. Những phiền não, lo âu của lúc  ban đầu tự chính nó cũng là sự giác ngộ ở lúc cuối. Phiền não tức bồ-đề. Vì  không hiểu được điều này mà ta cứ miệt mài theo đuổi một ngôi vị nào đó, một sự  chứng đắc nào đó, để rồi khi gần đến nơi, ta bị bắt phải quay trở lại về với  nơi mình đã đến. Và cũng như thế, chúng ta tiếp nhận Phật pháp qua từng hạt chuỗi  lần qua tay.
  Đó là những bài học mà tràng  chuỗi đã dạy cho tôi. Ngày nay, sau bao nhiêu năm tháng thực tập, tiếp nhận  giáo pháp qua lòng bàn tay, thỉnh thoảng tôi cũng nhận thấy được giáo pháp ấy  trong người khác. Có một bà cụ người Tây Tạng là mẹ của một người bạn tôi, bà  xa quê hương và đang ở gần nơi tôi sống. Đi đâu bà cũng cười thật tươi và có  nhiều hạnh phúc. Bà bị một cái bướu rất lớn nơi cổ, nó sưng thật to và lộ hẳn  trên chiếc cổ áo Tây Tạng truyền thống của bà. Lúc nào bà cũng lần một xâu chuỗi  trên tay, và bao giờ bà cũng mỉm cười. Bà không nói được tiếng Anh, nhưng mỗi  khi tôi nhìn tay bà lần đến phía cuối xâu chuỗi, bà vui vẻ xoay ngược lại và lần  tiếp theo chiều kia, tôi có cảm nhận rằng bà đang an trú trong cảnh giới của  mình, và dường như bà đang nói rất to cho tất cả đều nghe: Phật-đà. Đạt-ma.  Tăng-già. Buddha. Dharma. Sangha. Tất cả Pháp tạng đều có mặt nơi đó. Lúc nào  bà cũng mang theo cạnh bên. Và những khi không lần chuỗi, bà đeo nó trên tay  áo.
Clark Strand