Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được. (I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Đừng chờ đợi những hoàn cảnh thật tốt đẹp để làm điều tốt đẹp; hãy nỗ lực ngay trong những tình huống thông thường. (Do not wait for extraordinary circumstances to do good action; try to use ordinary situations. )Jean Paul
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Sự hiểu biết là chưa đủ, chúng ta cần phải biết ứng dụng. Sự nhiệt tình là chưa đủ, chúng ta cần phải bắt tay vào việc. (Knowing is not enough; we must apply. Willing is not enough; we must do.)Johann Wolfgang von Goethe
Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Tu tập Phật pháp »» Xem đối chiếu Anh Việt: MỘT SỐ Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG TRONG PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN »»
Khi Phật giáo truyền đến phương Bắc, Trung Hoa là điểm quan trọng và chủ yếu của nhánh này. Sự phát triển của Phật giáo làm ảnh hưởng đến sự độc tôn của Nho – Lão, vì thế xảy ra những mâu thuẫn và xung đột không thể tránh được. Các pháp sư phải linh hoạt quyền biến phương tiện để hoằng hóa. Măc khác tín ngưỡng địa phương, văn hóa, nghệ thuật bản địa lại tác động đến Phật giáo. Các pháp sư phải linh hoạt chấp nhận sự giao thoa và cũng lợi dụng các yếu tố đó để dẫn dụ. Dần dà Phật giáo Bắc truyền mang màu sắc Trung Hoa rất đặc thù và khác biệt với dòng Nam truyền. Hai hình tượng rất đặc biệt trong Phật giáo Bắc truyền ấy chính là Quán Thế Âm Bồ Tát và Phật Di Lặc. Từ đây truyền rộng sang Việt Nam, Nhật Bản, Đại Hàn… Mấy ngàn năm nay, hình tượng hai ngài phổ biến sâu rộng trong quần chúng, in sâu vào tâm thức mọi người…
Quán Thế Âm Bồ Tát là vị Bồ Tát phát mười hai đại nguyện độ chúng sanh, cứu khổ cứu nạn, căn cứ vào phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa. Ngài có năng lực không thể nghĩ bàn. Phật giáo Bắc truyền tạc tượng, vẽ tranh ngài dưới hình tướng một người nữ. Đây là ý nghĩa biểu trưng cho tình thương bao la vô bờ bến của người mẹ hiền đối với đàn con thơ dại. Việc kiến tạo và tôn thờ hình tượng ngài Quán Thế Âm Bồ tát chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ mẫu từ văn hóa bản địa. Người Hoa tin tưởng và thờ Thiên y thánh mẫu, Thiên Hậu Nương nương, mẫu Diêu Trì…Người Việt thờ mẫu Thượng Ngàn, mẫu Liễu Hạnh, mẫu Tứ phủ… Từ đó người Hoa tạo tượng, vẽ tranh Quan Âm tống tử, Quan Âm với Thiện Tài – Đồng Tử - Ngọc Nữ…Người Việt ta tạo tác Quan Âm thiên thủ thiên nhãn. Pho tượng Quan Âm thiên thủ cổ nhất hiện được thờ ở chùa Bút Tháp (Hà Bắc). Đây là một kiệt tác nghệ thuật của người Việt và là hình tượng Quan Âm phổ biến cùng với những hình tượng Quan Âm bạch y, Quan Âm đứng trên đầu rồng, Quan Âm cầm cành dương rảy nước cam lộ… hầu như ai cũng biết, ai cũng tin tưởng và lễ bái.
Quan Âm thiên thủ thiên nhãn tượng trưng cho năng lực và từ bi của ngài. Ngàn con mắt là biểu trưng cho trí huệ vô biên không thể nghĩ bàn, là vô tri vô sở bất tri, không có gì mà không biết. Ngàn cánh tay biểu trưng cho năng lực bất khả tư nghị của ngài, vô năng vô sở bất năng, không có gì là không thể làm được! Mắt trí huệ quán sát nỗi thống khổ trầm luân trong ba ngả sáu đường của chúng sanh. Ngàn cánh tay ban vui cứu khổ, vớt chúng sanh đang chìm đắm trong bể khổ sanh tử luân hồi. Cành dương và cam lộ là Phật pháp, pháp là phương chước đưa người ra khỏi khổ, ra khỏi vô minh để đi đến an vui, niết bàn tịch tịnh. Ngàn mắt ngàn tay là ý nghĩa biểu trưng, thật ra thì vô lượng mắt, vô lượng tay vì chúng sanh vô lượng, nỗi thống khổ vô lượng kia mà. Ngoài hình tượng ngàn mắt ngàn tay ra còn có những hình tượng Quan Âm bốn tay, sáu tay, tám tay và mỗi tay cầm một loại pháp khí khác nhau… Tất cả đều là ý ngĩa biểu trưng.
Trong Phật giáo Mật tông, Quán Thế Âm Bồ Tát là vị bổn tôn rất quan trọng. Hình tượng ngài được tạc dưới nhiều kiểu: Mã Đầu Quan Âm, Thập nhất diện Quan Âm, Chuẩn Đề Quan Âm, Như Ý Luân Quan Âm… Không phải chỉ ở Việt nam mới có tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn. Phật giáo Trung Hoa, Tây Tạng đều có cả, mỗi dòng truyền thừa có cách tạo tác khác nhau nhưng chung quy cũng đều tôn kính năng lực, trí huệ và lòng đại bi không thể nghĩ bàn của ngài.
Khi đọc tụng kinh Phổ Môn ta thấy yếu tố: Niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thì dao gậy kẻ ác sẽ gãy, vào lửa không cháy, xuống nước không chìm, gặp ác thú không bị hại, bị thuốc độc được vô sự…Tất cả những điều ấy cũng là ý nghĩa biểu trưng. Khi mình đọc tụng kinh hay niệm danh hiệu Bồ Tát sẽ có công năng hóa giải tam độc: lòng tham tài, sắc, dục.. vô hạn của chúng ta; sự sân hận như lửa cháy, như thuốc độc… vô cùng nguy hiểm; sự si mê mê mờ như người quờ quạng trong đêm trường, trong đường hiểm nạn… mà không biết đâu chánh - tà… Những điều này vừa mang ý nghĩa biểu trưng vừa có yếu tố tín ngưỡng dân gian. Người dân dốc lòng tin vào thần thông quảng đại, cứ một lòng cầu nguyện sẽ được độ, sẽ được như ý…
Niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm là một phương pháp tu bằng tín tâm để định tâm, tịnh tâm. Là phương tiện để đưa người về với ngôi nhà Phật giáo, dẫn dụ người bỏ ác làm thiện, tu tập từng bước để đi đến giải thoát. Niệm bất cứ danh hiệu Bồ Tát hay danh hiệu Phật nào cũng đều hữu dụng, tuy nhiên vì căn cơ, vì nhân duyên, vì niềm tin, vì sở thích mà mỗi người chọn lấy danh hiệu vị nào hợp với mình. Phật và Bồ Tát vốn vô ngã, không có Ta – người, không có phân biệt chẻ chia… chẻ chia ấy là chính chúng ta. Niệm danh hiệu Bồ Tát hay Phật chính là để buông bỏ, hóa giải tam độc để tịnh hóa tâm mình. Thay vì tâm mình chìm đắm trong tham, sân, si giờ mình niệm Phật hay Bồ Tát tức là thay cái niệm tam độc bằng niệm thanh tịnh. Niệm tức là nghĩ, nhớ, tưởng và từ đó hành theo.
Trong các kinh, Phật gọi Bồ Tát Quán Thế Âm là ông nhưng hình tượng của ngài ngoài đời là nữ nên nhiều người thắc mắc, Quán Thế Âm Bồ Tát là nam hay nữ? Phật và Bồ Tát vô tướng, chẳng còn nam hay nữ. Các ngài có thể hiện ra vô lượng tướng, tùy theo tâm niệm chúng sanh, tùy theo hoàn cảnh nhân duyên hóa độ. Kinh cũng nói rõ ngài Quán Âm có thể hiện ra thân Đế Thích, Thiên Vương, Tỳ Sa Môn, trưởng giả, cư sĩ, tể quan, thân đồng nam, đồng nữ, quỷ thần… thậm chí chiếc lá, âm thanh… Tâm chúng sanh thiên sai vạn biệt, căn tánh bất đồng vì vậy mà Phật và Bồ Tát vô tướng có thể hiện ra vô lượng tướng chứ không chỉ là tướng nam hay nữ.
Nhìn chung thì tạo hình nghệ thuật tranh, tượng Bồ Tát Quán Thế Âm đều thể hiện dáng dấp từ bi, ban vui cứu khổ, tự tại… với mọi tư thế: đứng, ngồi, chế phục rồng dữ, rảy cam lộ, thõng chân…đều là những đặc tính biểu trưng chung của các pho tượng Quán Thế Âm của các nền văn hóa Hoa, Nhật, Hàn, Việt. Riêng hình tượng ngài Quán Thế Âm của người Champa (Chiêm Thành) lại hoàn toàn khác, rất giống với hình tượng thần Vishnu và Shiva vì văn hóa Champa chịu ảnh hưởng nặng nề Ấn Độ giáo. Tượng Quán Thế Âm của Champa có tướng nam, mặc Dhoti ( một loại trang phục của tu sĩ cổ đại), đeo trang sức bắp tay, tóc búi, ngực trần, hở vai trái… Rất nhiều tượng Quan Thế Âm Bồ Tát trong nền văn hóa Champa không chỉ chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo mà còn chịu ảnh hưởng từ nghệ thuật tạo tác tượng Phật của Gandhara (Pakistan ngày nay). Nơi này là một trong những địa điểm quan trọng của Phật giáo cổ đại và cũng là nơi giao thoa giữa văn minh Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại.
**
Trong kinh Di Lặc Hạ sanh, đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni có nói về sự ra đời của một vị Phật tương lai đó là ngài Di Lặc. Thời gian ngài đản sanh là một con số thiên văn, không thể nào dùng con số của người thế gian mà tính được. Đại khái là khi mà tuổi thọ con người giảm xuống còn 10 tuổi và từ mười tuổi tăng lên đến 84.000 tuổi vậy, mà mỗi lần 100 năm thì mới tăng hay giảm một tuổi. Còn có một cách xem xét khác là khi nào Phật pháp ở thế gian hoàn toàn biến mất thì khi ấy ngài Di Lặc mới hạ sanh, bởi vì không bao giờ có hai vị Phật giáo hóa cùng một thời gian. Tuy có khập khiễng nhưng ta có thể ví như nhiệm kỳ của tổng thống vậy, khi nào tổng thống cũ còn đương nhiệm thì không thể có tổng thống mới điều hành công việc.
Bồ Tát Di Lặc cũng là một hình tượng phổ biến sâu rộng và rất nổi tiếng trong Phật giáo Bắc truyền, nhất là ở Trung Hoa, Việt Nam. Bồ Tát Di Lặc còn được gọi với các danh xưng khác như: Hoan Hỷ Phật, Phật may mắn, Phật cười… Sở dĩ nhu vậy là vì hình tượng của ngài được tạc hay vẽ dưới tướng một người đàn ông mập mạp, ngồi phanh bụng, miệng cười toe toét. Bụng phệ to biểu trưng cho sự dung chứa. Người thế gian có vô số khổ đau, bất như ý đến độ không chịu đựng nổi nhưng ngài thì không sao cả. Miệng cười toe toét vì tâm rỗng rang an lạc, cười với tất cả những khổ đau mà chúng sanh không sao cười nổi, cười với vô số phiền não mà chúng sanh chịu không thấu. Hình tượng ngài Di Lặc còn được tạc hay vẽ kèm theo sáu đứa trẻ đu bám trên thân, đứa thì móc mũi, ngoáy tai, chọc mắt, khều miệng, cù lét thân… Sáu đứa trẻ ấy tượng trưng cho sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu căn của ta chấp vào sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh ra sáu thức và từ đó vô số phiền não, hệ lụy làm chúng ta: sướng – khổ, hờn – mừng, vui – giận, thích – ghét, lấy – bỏ… Sáu đứa trẻ trên thân ngài chính là lục tặc, sáu tên giặc, sáu cánh cửa mở ra giải thoát hay sanh tử luân hồi. Kinh Lăng Nghiêm có đoạn viết mười phương chư Phật đồng thanh nói với ngài A Nan và đại chúng: “Điều khiến ông phải sanh tử luân hồi chính là sáu căn của ông chứ không phải vật gì khác. Khiến ông chứng vô thượng Bồ Đề cũng chính sáu căn của ông chứ chẳng phải vật gì khác.” Tu học Phật pháp chính là tu ở sáu căn của chính mình.
Thật ra thì trên hình tượng của ngài Di Lặc chúng ta chỉ thấy có 5 đứa trẻ thôi, đứa thứ 6 chúng ta không thể thấy, vì nó là biểu trưng cho ý căn. Ý căn vốn vô hình, vô tướng nên không thể vẽ hay tạc được. Phật giáo cũng như chính trị, văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm từ Phật giáo, văn hóa, chính trị Trung Hoa. Vì vậy mà hình tượng ngài Di Lặc trong Phật giáo Việt Nam cũng từ Trung Hoa vậy. Hình Tượng ngài Di Lặc trong Phật giáo Tây Tạng Hoàn toàn khác với Trung Hoa, Việt Nam. Hình tượng của ngài được tạc hoặc vẽ rất tôn nghiêm, dõng mãnh, tinh tấn y hệt như tôn tượng của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Hình tượng ngài Di Lặc trong Phật giáo Kim Cang thừa ngồi hoặc đứng đều thẳng lưng, tay bắt ấn, mắt mở to, ngực nở, tóc búi…Nói chung không khác mấy với hình tượng Phật Thích Ca Mâu Ni. Sự khác biệt này thể hiện quan điểm mỹ thuật, đặc điểm văn hóa và cách nhìn nhận vấn đề của các dân tộc khác nhau. Tâm chúng sanh vốn vô vàn sai biệt. Phật và Bồ Tát tùy tâm tánh, căn cơ của chúng sanh mà thị hiện là vậy!
Có một điều đáng chú ý là có những người Hoa, người Việt làm tượng tranh ngài Di Lặc để bán không biết là họ thiếu kiến thức hay cố tình nhập nhằng mà tạo ra những sản phẩm đánh đồng giữa ngài Di Lặc với ông thần may mắn. Những pho tượng cũng dáng dấp to béo, bụng phệ và những đứa trẻ đu bám nhưng lại thêm thắt vô tay cầm xâu tiền hoặc thỏi vàng…Người bình dân và Phật tử sơ cơ mua về thờ cúng, khấn vái, cầu xin rất mơ hồ, chẳng phân biệt được đâu là ông thần may mắn đâu là Phật Di Lặc. Việc này đã biến một vị Phật tương lai, một vị Bồ Tát thành một ông thần may mắn, phò hộ việc mua bán, phát tài phát lộc…
Cũng có một số người thắc mắc về ngày vía của Phật A Di Đà, Quán Thế Âm, Di Lặc… Họ nói: “Phật và Bồ Tát vô ngã sao lại có ngày vía? ngày vía ở đâu?” Thật ra đó cũng chỉ là biểu trưng mà thôi. Nói tánh không, bát nhã, vô tướng, vô ngã…thì làm sao đại chúng sơ cơ nắm bắt được. Ngày vía cũng là phương tiện, hơn nữa theo Phật giáo Bắc truyền thì ngày vía chính là ngày sinh của một vị tổ sư được cho là hóa thân của Phật hay Bồ Tát. Chẳng hạn như ngày vía Phật A Di Đà là ngày sinh của Hòa thượng Vĩnh Minh Diên Thọ. Ngày vía của ngài Di lặc là ngày sinh của Bố Đại hòa thượng… Phật tử sơ cơ cần có một điểm để nắm bắt, cần có điểm tựa để tin tưởng mà thực hành… Chính vì thế mà các tổ sư mới dùng đến phương tiện thiện xảo để đưa Phật pháp đến với mọi người.
Tiểu Lục Thần Phong
Ất Lăng thanh, 0925
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.110 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập