Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài. Phạm vi hoạt động của nó không chỉ giới hạn chung quanh những tàng kinh các, hay những pháp đường của các Tăng viện, mà còn ở cả nơi triều đình, công sảnh, và bất cứ nơi nào mà mọi người có thể tụ tập ít nhất là hai người, trong tất cả sinh hoạt nhân gian. Thêm vào đó là những biến chuyển qua các thời đại, sự dị biệt của các dân tộc… Tất cả được tập đại thành trong một bộ sử khá lớn của Phật giáo về vấn đề giáo dục. Dù vậy, ngày nay, vấn đề đó vẫn còn là một thể tài quá mới mẻ đối với giới Phật học. Sự va chạm giữa hai nền văn minh Đông và Tây, so với sự tiếp xúc giữa hai nền văn minh Hoa-Ấn diễn ra từ cuối thế kỷ I Tây lịch kéo dài cho đến thế kỷ XI hay XII, đặc trưng qua hai triều đại Đường và Tống. Với nỗ lực của trên mười thế kỷ đó, sự va chạm mà chúng ta chứng kiến ngày nay quả là không thấm vào đâu. Khó khăn chính yếu của chúng ta hiện tại không phải là vấn đề phương pháp như đa số lầm tưởng.
Translated by Nguyên TúcThe ideals of education and methods to realize these ideals have a long history in Buddhism. Its activities are not limited to scripture halls or the dharma halls of monasteries but also to courts, public forums, and anywhere people can gather, even if it is just two people, in all human activities. Additionally, through changes over the ages and differences among nations, all are embodied in a substantial Buddhist history concerning education. However, today, this issue remains a relatively new topic for Buddhist scholars. The collision between Eastern and Western civilizations, compared to the interaction between Chinese and Indian cultures from the 1st to the 11th or 12th century, characterized by the Tang and Song dynasties and an effort spanning over ten centuries, is insignificant to the collision we witness today. Our current main difficulty is not a matter of method, as many mistakenly believe.
Những cống hiến của các nhà Phật học trong lãnh vực ngôn ngữ Âu châu đã chứng minh điều đó. Thể điệu trước tác của những hệ thống tư tưởng và văn học của Phật giáo giờ không còn là một “mê hồn trận” khó vào nữa. Xưa kia, người Trung Hoa đã làm thế nào mà nắm ngay được “mạch ngầm” của Phật giáo để thực hiện nó theo bản sắc dân tộc và truyền thống văn học tư tưởng của mình, đấy là kinh nghiệm rất phong phú. Mặc dù giữa hai quốc gia này bị ngăn chận bởi dải sa mạc mênh mông giữa miền Cao Á và ngọn Thông Lĩnh lạnh lùng. Với biên giới thiên nhiên quá hiểm nghèo này, khả năng bình thường của con người khó vượt qua nổi bằng chính hai chân không của nó. Thế mà cả hai dân tộc này đã có lúc “thông cảm” nhau được. Đông và Tây của chúng ta không có những biên giới khốn nạn như vậy, thì sự “thông cảm” tại sao lại khó khăn? Điều đó có nghĩa rằng những khó khăn mà Phật giáo gặp phải, riêng trong lãnh vực giáo dục, không phải là “kỹ thuật khoa học” hay “truyền thống tâm linh” giữa Đông phương và Tây phương. Nhưng nếu gạt những vấn đề này ra ngoài, e rằng chúng ta dễ có khuynh hướng giẫm lên “lãnh vực siêu hình”, như một giai thoại của Trang Tử: “Anh không phải là cá sao biết cá vui?”
The contributions of Buddhist scholars in the field of European languages have proven this. The preconceptions of Buddhism’s philosophical and literary systems are no longer an impenetrable “magic spell.” In the past, how did the Chinese immediately grasp the “undercurrent” of Buddhism to implement it according to their national identity and literary and philosophical traditions? That is a vibrant experience. Despite the vast desert between Central Asia and the cold Tongling mountain range separating these two countries, with this natural and treacherous border, the average human ability could hardly overcome it on foot. Yet, these two nations managed to “sympathize” with each other. Our East and West, without such unfortunate borders, why is “sympathy” so difficult? This means that Buddhism’s difficulties, especially in education, are not due to “scientific technology” or “spiritual tradition” between the East and the West. However, if we ignore these issues, we might be prone to stepping into “metaphysics,” like a story from Zhuangzi: “You are not a fish; how do you know if the fish is happy?”
Chúng ta biết rằng trong những cuộc thảo luận của các Đại học ở Á châu, người ta thường nhắc đến “kỹ thuật khoa học của Tây phương” và “truyền thống tâm linh của Đông phương”. Rồi lấy đó làm sứ mệnh mà các Đại học Á châu phải nỗ lực thể hiện cho “tốt đẹp mọi đường hướng”. Xét về nội dung cũng như ý hướng, điểm vừa nêu chỉ là một khẩu hiệu, không hơn không kém. Chúng tôi sẽ không cố ý khảo nghiệm về hiệu lực của khẩu hiệu này.
In Asian university discussions, people often mention “Western scientific techniques” and “Eastern spiritual traditions.” Then, these are taken as a mission that Asian universities must strive to demonstrate in “all the best ways.” In terms of content and intention, this point is merely a slogan, nothing more. We will not intentionally examine the effectiveness of this slogan.
Hiển nhiên, sự thực phải chấp nhận rằng kỹ thuật khoa học là sản phẩm độc đáo và gần như là độc nhất của Tây phương. Riêng về các Triết gia Tây phương trong thế kỷ này, họ thấu hiểu tính thể kỹ thuật khoa học một cách vô cùng tế nhị. Giả sử chúng ta đã hiểu rõ cặn kẽ một trong những mệnh đề ách yếu của Hiện sinh luận, theo đó, hiện hữu có trước yếu tính. Rồi từ đó mà suy diễn sẽ thấy rằng bản tính sâu xa của một hiện tượng cá biệt được thể hiện ngay trong phương tiện hay phong cách hiện hữu như cá biệt của nó. Đấy chỉ mới là nhận định đại khái. Nếu lấy thí dụ điển hình từ một vài triết gia, về những cống hiến của họ cho thể tài ngôn ngữ trong triết học Tây phương hiện đại, chúng ta sẽ thấy ra đâu là tính thể của “kỹ thuật khoa học” và đâu là bản chất của “truyền thống tâm linh”.
We must accept that scientific technology is a unique and almost exclusive product of the West. Western philosophers of this century understand the nature of scientific technology exceptionally delicately. Suppose we fully understand one of the key propositions of Existentialism, according to which existence precedes essence. From this, we can infer that the profound nature of a particular phenomenon is immediately expressed in the means or style of reality as its particularity. This is just a general assessment. Let’s take typical examples from some philosophers about their contributions to the subject of language in modern Western philosophy. We will see what constitutes the nature of “scientific technology” and the essence of “spiritual tradition.”
Wittgenstein là một điển hình độc đáo; ý tưởng chỉ đạo được ghi trong Tractatus: ngôn ngữ là khuôn hình của thế giới. Do đó, giới hạn của ngôn ngữ chúng ta chính là giới hạn của thế giới chúng ta. Ý tưởng này muốn nói rằng chính tất cả những phương pháp vận dụng ngôn ngữ của chúng ta hình thành nên một vũ trụ quan hay nhân sinh quan nào đó. Mọi “không tưởng” mà người ta có thể khám phá ra ở một triết gia, không phải do bản chất không tưởng trong tư tưởng của ông, nhưng chính ngôn ngữ và phương pháp vận dụng ngôn ngữ của ông đã khép kín ông vào trong tháp ngà của một thứ tư duy không tưởng nào đó. Ngôn ngữ không còn là một thực thể ngoại tại và phổ biến mà ai cũng có thể vận dụng tùy nghi để nói lên những gì ẩn kín trong lòng. Thường nhật, với câu hỏi “cái này là gì?”, chúng ta có cảm tưởng rằng nếu thỏa mãn được chữ “gì?” là đã có thể giải quyết được vấn đề, theo tiêu thức tổng quát của ngôn ngữ (x,y) hay E (x,y).
Wittgenstein is a unique example; the guiding idea recorded in Tractatus is that language is the form of the world. Hence, our language’s limit is the limit of our world. This idea means that all our language methods form a particular universe or view of life. Any “unimaginable” discovery in a philosopher is not due to the unimaginable nature of his thoughts. However, his language and method of using language have enclosed him in the ivory tower of unimaginable thinking. Language is no longer an external and common entity that anyone can use at will to express what is hidden in their heart. Usually, with the question “What is this?”, we have the impression that if the word “what” is satisfied, the problem can be solved according to the general criterion of language (x,y) or E (x,y).
Thực ra, vấn đề chỉ được thỏa mãn bằng cách vận dụng hợp qui đối với các khả biến, lại là tùy thuộc những liên hệ giữa định lượng phổ biến và định lượng cá biệt. Nhưng một khi những định lượng này được cứu xét kỳ cùng, chúng bộc lộ ngay tính cách “giả tưởng” và cuối cùng tiêu thức tổng quát của ngôn ngữ thảy là mệnh đề giả hiệu. Phân tích như vậy tạo nên một cảm giác thất vọng đối với mọi thứ qui tắc ngôn ngữ mệnh danh là “nghiêm túc” hay “chính xác”; và người ta chỉ còn một tin tưởng độc nhất là ngôn ngữ của thi ca. Dù nó không nghiêm túc và chính xác như trong “kỹ thuật khoa học”, nhưng khả năng thông diễn thực tại của nó quả là vô cùng phong phú. Bởi vậy các nhà thực nghiệm luận lý trong triết học Tây phương hiện đại chỉ chịu nghe theo ngôn ngữ của âm nhạc hơn bất cứ mệnh đề triết học hay khoa học nào.
The problem is only satisfied by applying appropriate rules to the variables, depending on the relationship between general and specific quantities. However, when these quantities are examined in detail, they immediately reveal their “fictitious” nature, and in the end, the general criterion of language turns out to be a hypothetical proposition. Such analysis creates a feeling of disappointment with all the rules of language considered “serious” or “accurate,” and people only trust the language of poetry. Although it is not as severe and accurate as “scientific technology,” its ability to interpret reality is vibrant. Therefore, logical experimentalists in modern Western philosophy only listen to the language of music more than any philosophical or scientific proposition.
Ở đây chúng ta cũng không quên những cống hiến của Michel-Foucault đối với nền triết lý ngôn ngữ hiện đại. Trật tự của ngôn ngữ là trật tự của thế giới. Đấy là điểm chính yếu. Ông mệnh danh sự cống hiến của mình là Khảo cổ học. Bởi vì, người ta có thể tìm thấy mọi dấu vết của lịch sử văn minh nhân loại qua các thời đại bằng vào lịch sử phát triển của văn pháp. Dị biệt tính của các nền tư tưởng có thể theo đây mà khám phá. Lấy thí dụ, một trong những khó khăn của những giáo sư triết tại Việt Nam hiện nay đã đối đầu khi phải trình bày về quan niệm L’ être hay Being hay Sein. Người học triết vì vậy rất bối rối, khi các dụng ngữ Việt không chứa thêm các chữ này.
Here, we also must remember the contributions of Michel Foucault to modern linguistic philosophy. The order of language is the order of the world. That’s the main point. He named his contribution Archaeology. The diversity of thought systems can be discovered here because one can find traces of human civilization history through the ages in the history of literary development. For example, one of the difficulties philosophy professors in Vietnam today have faced when presenting the concept of L’ être or Being or Sein. Therefore, philosophy students are perplexed when Vietnamese terms do not contain these words.
Những tồn thể, hữu thể, tính thể, rồi thể tính, vân vân. Vì lẽ rằng cơ cấu văn pháp Việt ngữ không hề có những opus này. Ngôn ngữ Âu châu đã từng bất lực về L’ être et le temps, thì bằng vào cơ cấu văn pháp của Việt ngữ không thôi, chúng ta không làm sao hiểu ra giới hạn của sự bất lực này. Khi một triết gia nói: “Câu hỏi về tính thể là một câu hỏi phổ biến tổng quát nhất, câu hỏi rỗng tuếch nhất trong những câu hỏi, nhưng đồng thời câu hỏi ấy lại cũng có thể được cụ thể hóa chung đúc lại rõ ràng nhất trong bất cứ hiện tính thể cá biệt nào.” Đây là những lời rất xa lạ đối với cơ cấu văn pháp Việt ngữ. “Tính thể là một câu hỏi phổ biến tổng quát nhất,…”, thực sự, l’ être hay être mới là “phổ biến tổng quát” trong tiếng Pháp, còn tính thể thì không như vậy. Khổ tâm nhất cho người ta là không thể thay là cho tính thể. Như vậy, khi một người nói: thảm họa của dân tộc Việt Nam ngày nay được ghi đậm máu và nước mắt trên “câu hỏi về tính thể”, thì đã bộc lộ một cách chua cay về định mệnh khốn nạn của dân tộc này vốn bị ám ảnh bởi khẩu hiệu “phát triển kỹ thuật khoa học Tây phương và duy trì truyền thống tâm linh Đông phương”. Sự phát triển như vậy chỉ có nghĩa là biến tính và tự hủy chứ không phải duy trì gì hết.
Existence, beings, nature, and then natural characteristics. Because the structure of the Vietnamese language does not have these opuses, European languages have been powerless about L’ être et le temps, so with the structure of the Vietnamese language alone, we cannot understand the limit of this powerlessness. When a philosopher says: “The question of nature is the most general and most vacuous question of all questions, but at the same time, it can also be concretized and clarified in any particular nature.” This is very alien to the structure of the Vietnamese language. “Nature is the most general question…”; indeed, l’ être or être is “general” in French, not nature. The most painful thing for people is that nature cannot replace être. So, when someone says that today’s Vietnamese national disaster is deeply marked with blood and tears on “the question of nature,” it bitterly exposes the unfortunate fate of this nation haunted by the slogan “develop Western scientific technology and maintain Eastern spiritual tradition.” Such development only means transformation and self-destruction, not maintaining anything.
Thế nhưng, như đã nói, không phải vì cố giải quyết êm đẹp khẩu hiệu ấy mà những sinh hoạt của tư tưởng Phật học trong lãnh vực giáo dục đã đương đầu với vô số khó khăn. Trong quá khứ, Phật giáo đã từng từ bỏ sắc thái của chế độ tăng lữ vốn phải ẩn cư trong các núi rừng sâu thẳm, để đi đến nơi nào có máu và nước mắt đổ xuống vì nhân sinh; và cũng đã từ bỏ màu sắc Ấn Độ của nó để đi đến nơi nào có sự sống và có khát vọng giác ngộ về lẽ sống. Dù vậy, đức Thích Ca vẫn là người bằng xương bằng thịt, chưa hề là một thần linh cao cả. Do đó, phát triển hay duy trì một sản phẩm văn hóa nào đó không phải là vấn đề trọng đại để có thể đánh lừa như một khẩu hiệu hay một nhãn hiệu. Nó là lửa; chỉ có thể cắm bảng hiệu ở xa chứ không thể cắm ngay giữa lòng. Ngọn lửa đó, một khi được khơi dậy, nó làm sáng ngời lên khát vọng nóng bỏng nhất trong căn để sâu xa của lòng người; để người ta có thể thấy rõ, quả thực, mình muốn gì trong cuộc sống này?
However, as mentioned, it is not because of trying to smoothly resolve this slogan that the activities of Buddhist thought in the field of education have faced countless difficulties. In the past, Buddhism had abandoned the characteristics of the monastic regime that had to hide in deep mountains and forests to go to places where blood and tears were shed for human life and also abandoned its Indian color to go to where life and the desire for enlightenment about the meaning of life exist. Yet, the Buddha was still a flesh-and-blood person, not a sublime deity. Therefore, developing or maintaining a cultural product is not a significant issue that can be interpreted as a slogan or a brand. It is fire; one can only put a sign far away, not right in the heart. That fire, once kindled, illuminates the deepest desires in man’s heart so that one can clearly see what one wants in this life.
Dù sao, không ai lại có thể làm ngơ trước những thành quả mà kỹ thuật khoa học Tây phương đang gây ảnh hưởng lớn lao trên mọi lãnh vực của thế giới hiện đại. Nói riêng cơ cấu tổ chức xã hội, ngay tại Việt Nam, trong những năm qua, Giáo hội Phật Giáo đã gặp những khủng hoảng trầm trọng. Lý do chính yếu, có lẽ người ta phải công nhận rằng đây là vấn đề nan giải giữa những nguyên tắc tổ chức cơ cấu xã hội và truyền thống tâm linh. Nghĩa là, bất cứ bằng cách nào, chúng ta vẫn phải bị đè nặng dưới áp lực của khẩu hiệu Phát triển và Duy trì; giữa kỹ thuật khoa học và truyền thống tâm linh. Truyền thống này dĩ nhiên bị biến tính tận căn để khi được lồng vào những nguyên tắc tổ chức bắt nguồn từ vũ trụ quan và nhân sinh quan của Tây phương; hay rõ hơn, của khoa học và tính cách thực dụng của khoa học. Một số học giả Phật giáo Tây phương khi nghiên cứu về đường lối tổ chức của giáo đoàn tăng lữ của Phật giáo đã tỏ ý làm lạ: bằng một nguyên tắc nào đó mà giáo đoàn tăng lữ đã vượt qua được mọi khủng hoảng đáng lý phải phân hóa; vì sự khủng hoảng đã thực sự diễn ra và tạo thành trên hai mươi bộ phái Phật giáo. Rồi đến khi Đại thừa Phật giáo ra đời, sự xung đột về tư tưởng lại càng rõ rệt. Nhưng, người ta vẫn nhận thấy một điều: sinh hoạt của giáo đoàn tăng lữ không bị phân chia, giáo hội vẫn theo một hình thức duy nhất mệnh danh là nguyên thủy. Có tư tưởng Đại thừa, nhưng chưa hề có giáo hội Đại thừa; tăng lữ vẫn phải sinh hoạt theo Thanh tịnh giới bổn.
Anyway, no one can ignore the achievements of Western scientific technology, with its pragmatic nature for the essential needs of life, which has dramatically impacted all areas of the modern world. Specifically, the organizational structure of society, even in Vietnam, in recent years, the Buddhist Church has faced severe crises. The main reason must be acknowledged as the intractable problem between the principles of social, organizational structure, and spiritual tradition. That is, we still have to be heavily pressured by the slogan of development and maintenance, balancing scientific technology and spiritual practice. This tradition has undoubtedly been fundamentally transformed when incorporated into the organizational principles originating from the Western worldview and perspective on life or, more clearly, of science and the pragmatic nature of science. Some Western Buddhist scholars researching the organization of the Buddhist monastic community have expressed surprise. By some principle, the monastic community has overcome the crises that should have divided it, as the problem occurred and resulted in more than twenty Buddhist sects. Then, when Mahayana Buddhism emerged, the ideological conflict became even more evident. However, one still sees one thing: the monastic community’s life was not divided; the church still followed a single form known as original. There is Mahayana thought, but there has never been a Mahayana church; the monastics still had to live according to the original pure precepts.
Hiển nhiên, trong đó, một vài tiểu tiết được sửa đổi, vì hoàn cảnh địa lý hay thời đại. Chẳng hạn, tại những vùng khí hậu lạnh như ở Trung Hoa, vấn đề khất thực khó mà thi hành đúng theo nguyên thủy; hay không thể triệt để cấm tàng trữ thực phẩm cách đêm. Ngày nay, tổ chức của Giáo hội tại Việt Nam không còn lấy Thanh tịnh giới bổn làm nguyên tắc chỉ đạo, mà căn cứ theo thể thức phân quyền của Tây phương. Thể thức này đang biến tính “truyền thống tâm linh” trong một vài phương diện. Thí dụ, bốn ba-la-di được coi là sinh mệnh của cơ cấu tăng lữ nay dần dần mất tính cách hệ trọng của chúng. Trước đây, một số tăng sĩ, do ảnh hưởng của tâm phân học, đã giải thích các ba-la-di theo đường lối hơi lạ lùng. Tình trạng này đang trở thành sự thật, và người ta chỉ còn cách “hợp thức hóa” những sự kiện “đã rồi”. Trong đây, nội tình còn nhiều phức tạp vượt ngoài khả năng hiện hữu nên chúng tôi không thể đi sâu vào các chi tiết.
Some details were modified due to geographical or temporal circumstances. For example, in cold climates like China, the practice of alms begging is challenging to implement according to the original, or it is impossible to ban food storage overnight wholly. Today, the organization of the Church in Vietnam no longer takes the original pure precepts as a guiding principle but is based on the Western division of powers. This form is transforming the “spiritual tradition” in some aspects. For example, the four parajikas, considered the life of the monastic structure, are gradually losing their importance. Some monks, influenced by analytical thinking, explained the parajikas somewhat strangely in the past. This situation is becoming a reality, and people can only “legitimize” the “after the fact” events. The internal situation is much more complicated than our current ability, so we cannot go into details.
Trên tất cả mọi vấn đề, chính thành quả của kỹ thuật khoa học Tây phương, với tính cách thực dụng của nó đối với những nhu cầu thiết yếu của đời sống, đã là một ám ảnh đè nặng lên tâm trí những người cố duy trì “hữu hiệu” truyền thống tâm linh. Rồi ra, người ta cũng đòi hỏi phương pháp thiền định chẳng hạn, phải làm sao để có hiệu lực y như bất cứ thành quả nào mà khoa học có thể mang đến.
Above all, the achievements of Western scientific techniques, with their pragmatic nature towards the essential needs of life, have cast a heavy shadow on the minds of those striving to maintain the ‘effectiveness’ of spiritual traditions. Consequently, people also demand that methods such as meditation, for example, be effective like any other scientific outcome.
Như vậy, nếu khoa học có thể làm giảm thiểu hay diệt trừ những tai họa nào đó của đời sống thường nhật, người ta cũng muốn đòi hỏi thiền định phải có hiệu năng đó, ít nhất là tương đương, nếu không nói là hoàn hảo hơn. Xưa kia, một người đi học thiền, thiền sư đòi hỏi y phải loại bỏ những mong cầu “thực dụng” nơi thiền. Nếu đời sống thường nhật nhờ tập thiền mà tránh được một vài bất trắc, như bịnh hoạn, thì đấy phải coi là kết quả “đương nhiên”, có tính cách phụ thuộc, không nên lấy đó làm mục đích. Người ta không được phép học thiền để có thể sống qua ngày tháng, sống trọn cuộc đời không tai họa. Nói như thế bỗng nhiên bị coi là không tưởng.
Thus, if science can reduce or eliminate certain calamities of everyday life, people also expect meditation to have at least equivalent if not superior, efficacy. In the past, when someone pursued meditation, the teacher demanded they abandon any ‘practical’ desires in meditation. If everyday life is improved through contemplation, avoiding some misfortunes like illnesses, it should be considered a ‘natural’ result, a dependent aspect, not the purpose. One was not allowed to learn meditation to survive through the days, to live a life without misfortune. Suddenly, this notion is deemed unrealistic.
Một giai thoại khá lý thú kể rằng, khi Phật sửa soạn qua sông bằng đò, ngài gặp một ẩn sĩ; vị này thách thức ngài, với hiệu nghiệm của công trình tập thiền, nếu có, ngài thử vượt qua con sông mà không cần đò; có thế mới chứng tỏ được sự tiến bộ tâm linh. Phật nói, ngài chỉ cần vài xu nhỏ, rất dễ kiếm, là có thể qua sông được, cần gì phải bỏ ra một quãng đời tập thiền. Thực sự, khi muốn khảo nghiệm đời sống tâm linh bằng hiệu năng thực tế, quả tình người ta đã tạo ra một không tưởng trên tất cả mọi không tưởng; thế mà vẫn coi đó là điều lý thú!
An interesting anecdote recounts that when the Buddha was preparing to cross a river by ferry, he met a hermit who challenged him, with the efficacy of his meditation practice, to cross the river without a ferry; only then would it prove spiritual progress. The Buddha said he only needed a few small, easily obtained coins to cross the river, so why waste a part of his meditation life? Indeed, assessing spiritual energy based on practical efficacy creates an illusion beyond all illusions, yet this is still considered attractive!
Khó khăn của chúng ta chính là đây. Ngày nay hay ngày xưa, người ta vẫn đòi hỏi rằng chân lý phải được khảo nghiệm bằng hiệu năng thực tế. Do đó, một nền giáo dục hoàn hảo phải chứng tỏ những hiệu năng nó có thể mang lại để thỏa mãn nhu cầu của người học. Vậy rồi, thay vì mở ra những con đường đi vào thế giới tâm linh sống động, người ta đã quay ngược lại để trở về với những nhu cầu hạ cấp của người học. Họ gieo cho người học những sợ hãi bất an trước một tương lai nào đó. Những “sinh tồn”, “diệt vong” v.v…, đấy là những mệnh đề giả hiệu, chúng có tác dụng làm tăng mối sợ hãi. Nhưng chúng cũng có thế lực khích động rất lớn, và đề ra những đường lối phải theo. Y như một người tranh cử, hăm dọa cử tri bằng những viễn tượng đen tối của ngày mai, nếu mình không được chọn lựa.
This is our difficulty. Whether today or in the past, people have always demanded that truth be tested by practical efficacy. Therefore, a perfect education system must demonstrate its effectiveness to satisfy the learners’ needs. Instead of opening paths into a vibrant spiritual world, people have turned back to meet the lower needs of the learners. They sow seeds of insecurity and fear before a certain future. Terms like “survival,” “extinction,” etc., are hypothetical propositions that increase fear. But they also have a tremendous motivating power, outlining paths to follow. Just like a political candidate was threatening voters with dark visions of tomorrow if not chosen.
Cũng vậy, đối với chúng ta, một đường lối giáo dục được lựa chọn là có phát triển và có duy trì; vừa tiến bộ và vừa không mất gốc. Trong trường hợp cực đoan, nếu bắt buộc phải chọn một trong hai, hoặc phát triển, hoặc duy trì, xưa nay Phật giáo đã chọn lối đi thứ nhất. Gốc của con người là ở tại lòng người, thì dù có phát triển đến đâu bằng cả tấm lòng của mình, chẳng có gì gọi là mất cả. Như trong những thành ngữ quen thuộc: “phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật” hay “khổ hải thao thao, hồi đầu thị ngạn”.
Similarly, an educational path is chosen to be progressive and preserving, advancing yet not losing its roots. In extreme cases, Buddhism has always chosen the former approach, whether progress or preservation. The root of humanity lies in the human heart, so no matter how far it progresses with one’s soul, there is nothing called loss. Familiar sayings like “lay down the butcher’s knife, become a Buddha on the spot” or “the sea of suffering is boundless, turn back and see the shore”.
Trên đây chỉ đề cập đến một vài lý tưởng, gọi là ngoài lề. Bởi vì, trọng tâm của nó, với bốn chữ Duy Tuệ Thị Nghiệp, đã bị biến tính để rồi “tuệ” ở đây có nghĩa là kiến thức học vấn, gồm những “kỹ thuật”, “phương pháp”, dành cho khẩu hiệu phát triển kỹ thuật, khoa học và duy trì truyền thống tâm linh.
The above only refers to a few ideas, called peripheral. Because the focus of the four words Duy Tuệ Thị Nghiệp (Solely Wisdom Is the Profession) has been distorted so that Tuệ here means academic knowledge, including “techniques,” “methods,” indicates the slogan developing scientific techniques and maintaining spiritual traditions.