Tháng 12 năm 1983Hoa Tạng Đồ Thư Quán,Cảnh Mỹ, [Đài Bắc], Đài LoanSố lưu trữ: 08-004-0008Mời quý vị mở [sách Pháp Hoa Kinh Đại Thành, quyển hạ], trang 820, hàng đầu tiên, chúng ta xem tiếp từ câu thứ hai.
“Tự mình mê hoặc là ngu; mê hoặc người khác là si. Người nhiều ngu si phân biệt theo các quan điểm tà vạy, bác bỏ cho rằng không có nhân quả, hủy báng đại thừa, đối với các chân lý đúng thật không thể nhận hiểu sáng suốt rõ ràng, hết sức tối tăm u ám.”
Đây là giải thích về ngu si, nằm trong ba độc. Ba độc là tham, sân, si. Tuy tướng của tham sân rất mãnh liệt, nhưng thực ra còn dễ đoạn, duy chỉ có ngu si là khó đoạn nhất. Như ngạn ngữ nói “ngó sen đứt sợi tơ còn vương”, thứ khó đoạn sạch nhất chính là ngu si. Ngu si chính là vô minh. Phật dạy chúng ta Tam vô lậu học chính là để đối trị tam độc phiền não tham, sân, si. Đặc biệt người sơ học chúng ta không thể không lưu ý. Dùng Giới học để dứt trừ tham, dùng Định học để dứt trừ sân hận, dùng Tuệ học để dứt trừ vô minh. Vì vậy, nếu trí tuệ không khai sáng thì không có cách nào dứt trừ được vô minh.
Chỗ này nói rõ cho chúng ta biết thế nào là ngu, thế nào là si. Tự mình mê hoặc gọi là ngu; làm cho người khác mê hoặc thì gọi là si. Có phải là cố ý [mê hoặc người khác] không? Không phải cố ý, thậm chí còn là làm vậy với tâm tốt đẹp. Nhưng tự mình đi lầm đường không biết, khi người khác hỏi đường, lại chỉ con đường đó cho họ đi, đây gọi là “kẻ mù dắt người đui”, đó gọi là si. Vì vậy, từ trong si mới tạo nghiệp. Người ngu chỉ là tự mình có chướng ngại, người si còn liên lụy đến người khác, đặc biệt là những quan điểm tà vạy, hiểu biết của mình sai lầm mà không hay biết. Vì vậy, việc chỉ đường cho người khác thật không dễ dàng. Trong các công án Thiền tông, mọi người đều quen thuộc, như trường hợp của [ông già tìm đến thưa hỏi] Đại sư Bách Trượng,
[1] do nói sai một chữ trong lời chuyển ngữ mà phải đọa làm thân chồn trong năm trăm đời, đó chính là quả báo do ngu si gây ra.
Tội do tham, sân tạo ra rất nặng, thật không ngờ rằng ngu si, chỉ đường sai lầm, làm trì trệ huệ mạng pháp thân của người khác, tội lỗi này còn nặng hơn. Do đó, trong sáu pháp ba-la-mật, duy chỉ có trí tuệ Bát-nhã mới có thể phá trừ ngu si.
Ngu si này cũng là khó [đối trị] nhất trong ba độc. Tham và sân rất rõ ràng, dễ nhận biết, còn ngu si thì thường tự cho mình là đúng, không nhận biết được là mình ngu si. Nếu tự biết mình ngu si thì có thể cứu vớt. Trường hợp tự cho mình là thông minh, tục ngữ thường nói “Thông minh lại bị thông minh hại”, chính là ý nghĩa này.
Trong kinh điển, đức Phật dạy chúng ta, [chưa đắc quả A-la-hán thì] nhất định không tin vào tâm ý của mình. Đây chính là để tránh những lỗi lầm do ngu si gây ra, đừng tin vào tâm ý của mình. Đến lúc nào mới có thể tin vào tâm ý của mình? Đến khi chứng quả A-la-hán mới có thể tin vào tâm ý của mình. Tại sao? Vì A-la-hán có thể gọi là Chánh giác, tri kiến của vị ấy có thể xem là chánh đáng, không có sai lầm. Vì sao vậy? Vì ngã chấp đã dứt trừ, phá trừ được ngã chấp, không còn theo kiến giải của riêng mình, không còn kiến giải của tự ngã. Nói cách khác, trước khi hai loại phiền não, kiến hoặc và tư hoặc, còn chưa dứt trừ, thì tất cả tri kiến của chúng ta đều không đúng.
Chính vì tri kiến của mình không đúng, nên người tu học giống như người không biết đường, không có mắt nhìn. Phật dạy người sơ học phải dựa vào “tứ y pháp”, xem tứ y pháp là nguyên tắc, là cương lĩnh, bao gồm: “Y theo pháp không y theo người”, “y theo nghĩa không y theo ngôn ngữ” - “ngôn ngữ” bao gồm cả văn tự, phải nương theo ý nghĩa hàm chứa, đừng bám chấp vào ngôn ngữ, văn tự; “y nghĩa rốt ráo, không y theo nghĩa chưa rốt ráo”, đây đều là nói về giáo pháp. Điều cuối cùng dạy chúng ta tự mình dụng tâm: “Y trí bất y thức”, “trí” là lý trí, “thức” là tình cảm. Tự mình phải nương theo lý trí, đừng nương theo tình cảm. Phật dạy chúng ta bốn nguyên tắc này.
Do vậy, việc tu học nhất định phải thân cận một bậc thầy. Phải thân cận một bậc thầy thật sự có tu, có học. Đương nhiên, nếu gặp được thầy đã chứng quả thì tốt nhất, nhưng những bậc thầy như vậy không chắc sẽ gặp được. Họ chỉ có thể [do duyên] gặp mà không thể mong cầu. Vậy gặp được bậc thầy có tu hành cũng là tốt rồi.
Bậc thầy có tu có học thì đức hạnh và học thuật của thầy chúng ta đều có thể học theo. Nghĩa là về học vấn và đạo đức, thầy đều có thể làm tấm gương cho chúng ta. Đây là bậc thầy hạng nhì. Bậc thầy hạng nhất là người đã chứng quả, là bậc thầy tốt nhất. Nếu không được, phải cầu bậc thầy hạng nhì, tức là tự thầy có tu có học, tức là nói tu hành và học hiểu đều xem trọng. Nói theo như trong nhà Phật thì vị thầy này thông hiểu ý nghĩa của hết thảy kinh điển, lại còn thực hành, thật sự dụng công tu hành. Tìm được vị thầy như vậy để dẫn dắt chúng ta thì không sai lầm.
Nếu thật sự không gặp thì tìm bậc thầy có học hiểu mà không có thực hành cũng được. Chỉ cần sự giảng giải của thầy thật sự chính xác, chúng ta tiếp nhận rồi tự mình tu hành. Còn bản thân thầy có tu hay không, chúng ta không cần thiết phải quan tâm. Nói cách khác, chúng ta chỉ cần thầy chỉ đường, không cần thầy dẫn đường. Có nghĩa là rất nhiều hành vi của thầy chúng ta không học theo, nhưng thầy giảng giải ý nghĩa giáo pháp rất đúng, hướng dẫn phương pháp rất đúng; thầy chỉ đường không sai, thì như vậy cũng được. Vị thầy này là bậc thầy hạng ba, cũng thuộc vào hàng thiện tri thức, đối với người sơ học chúng ta mà nói là vô cùng quan trọng.
Trước đây chúng ta đã giảng qua kinh A-nan thưa hỏi về sự lành dữ của việc thờ Phật, bộ kinh này đã giảng hơn mười lần. Trong kinh, Phật dạy các đệ tử rằng điều kiện [tu tập] trước tiên là phải gần gũi bậc thầy sáng suốt. Bậc thầy sáng suốt không có nghĩa là nổi tiếng, mà nói sáng suốt tức là người có học hỏi, có hiểu biết, có tu hành. Phải gần gũi những bậc thầy như vậy.
Nếu thật sự không có thầy, không tìm được bậc thầy tốt như vậy, thì đó là do mình không có phước báo. Điều này đích thực là như vậy. Vị thầy tốt chỉ có thể [do duyên] được gặp mà không thể mong cầu. Đó là nhân duyên đời trước mình đã tu, không có nhân duyên thì biết làm sao?
Trong trường hợp này, nếu chúng ta thật sự phát tâm, thì chỉ còn cách cầu học nơi người xưa. Cầu học người xưa bằng cách nào? Đó là làm đệ tử gián tiếp của người xưa, tức là tìm học nơi các chú giải của người xưa. Nhưng nếu tự mình không nắm chắc, ví như kinh Pháp Hoa có hơn một trăm bản chú giải, quý vị không thể tu tập theo tất cả, như vậy cũng rắc rối lắm. Cùng học kinh Pháp Hoa, nhưng tri kiến của mỗi người không giống nhau, vậy phải học theo ai? Nói cách khác, trong hội Pháp Hoa [có nhiều người], bạn sẽ nhận ai làm thầy? Bạn phải tìm được một vị thầy [trong số đó]. Nếu tìm trong những bậc thầy xưa, như Đại sư Thiên Thai Trí Giả, đương nhiên là bậc nhất giảng về kinh Pháp Hoa, nhưng văn tự của ngài quá thâm sâu, người sơ học đọc hiểu rất khó khăn. Tuy là bậc thầy tốt, nhưng trình độ giảng dạy quá cao, chúng ta không phải là đối tượng giảng dạy của ngài. Giống như giáo sư đại học, trình độ chúng ta chỉ là mẫu giáo, tìm được thầy tốt như vậy cũng không hữu ích. Những điều ngài giảng trong giảng đường chúng ta nghe không hiểu nổi. Vì vậy, vừa phải tìm được thầy tốt, vừa phải phù hợp với trình độ của mình, điều này không dễ.
Sau khi tìm được rồi, phải theo sát chỉ một vị thầy, không được thay đổi sang vị thứ hai. Đây là nguyên tắc vô cùng quan trọng. Người xưa gọi là “kế thừa bậc thầy”, như vậy mới thật sự có thể thành tựu, mới có thể được khai ngộ dưới sự chỉ dạy của vị thầy ấy. Sau khi được khai ngộ, mới đủ tư cách tham học. Nói cách khác, mới đủ tư cách gần gũi [học hỏi] các thiện tri thức khác, mới có thể xem các trước tác của người khác.
Tại sao vậy? Vì sau khi được khai ngộ, trí tuệ của quý vị đã mở, quý vị có khả năng phân biệt tà chánh, có khả năng phân biệt đúng sai. Quý vị đọc rộng, nghe nhiều, nghe người khác giảng, câu nào đúng, chỗ nào giảng sai, quý vị đều biết. Phần đúng quý vị có thể tiếp nhận, phần sai quý vị không chấp nhận. Nói cách khác, đều có lợi ích cho quý vị. Khi chưa có năng lực này, nếu quý vị gần gũi nhiều vị thầy thì rắc rối lớn. Vị thầy này chỉ cho quý vị một con đường, nói con đường này tốt; vị thầy kia nói không đúng, thật rắc rối. Được rồi, theo thầy này học. Lại gặp một thầy khác: “Ông ta nói không đúng, con đường kia mới tốt.” Mỗi thầy một lối, gần gũi [học hỏi với] mười thầy thì có mười lối, không biết đi lối nào, khiến tín tâm học Phật của quý vị phải tiêu tan.
Vì vậy, hiện nay các trường Phật học không đào tạo được nhân tài, nguyên nhân là ở đâu? Vì có quá nhiều thầy, kiến giải của các thầy lại không thống nhất. Học sinh khi vào học thì sao? Phải lắng nghe từng vị thầy diễn giảng, mỗi vị giảng theo mỗi cách, nghe xong rồi thì không biết phải theo ai. Không những không được lợi ích, mà đầu óc đầy mâu thuẫn. Không cần nói đến việc người khác khuyên dạy [thế nào], tự tri kiến của bản thân đã có vấn đề, chứa đầy nghi hoặc. Sai lầm trong tình trạng giáo dục hiện nay như thế tạo thành chướng ngại cho người học, mà chướng ngại này đối với người mới học mà nói, là do ấn tượng quan trọng ban đầu, rất khó xóa bỏ. Nói cách khác là gây hại cho cả một đời.
Một vị thầy thực sự có năng lực, khi dạy học trò nhất định không cho phép nghe người khác giảng. Không có sự đồng ý của thầy, nhất định cũng không được tùy tiện xem thêm các kinh sách, chú giải. Cho dù sẵn có Đại tạng kinh, quý vị cũng không được tùy tiện xem, muốn xem phần nào phải được thầy đồng ý. Thầy dạy học, phải chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với học trò, chỉ dẫn cho quý vị một con đường sáng, một con đường tắt, giúp quý vị khai ngộ. Yếu tố then chốt của khai ngộ là phải đạt được nhất tâm bất loạn. Nếu xem nhiều [kinh sách], tâm quý vị sẽ loạn, khó khăn nằm ở chỗ đó.
Vậy thế nào là người học trò tốt? Phải kiên trì theo thầy, không được khai ngộ thì không rời đi. Đối với sự dạy dỗ của thầy phải tuân theo hoàn toàn không chút sai lệch. Đó mới gọi là học trò tốt, mới gọi là thầy trò tương hợp một đường.
Vì vậy, khi nói đến cầu học, trước hết phải tự hỏi mình có đủ điều kiện làm học trò không? Đã theo học với một vị thầy, khi người khác giảng giải chỗ này chỗ khác lại cũng tìm đến nghe, như vậy thì không đủ điều kiện làm học trò. Trong hoàn cảnh chế độ dân chủ ngày nay, thầy không thể nói ra [như trên]. Nếu nói thì bị cho rằng như vậy là quá chuyên chế, quá ngang ngược, chỉ tự cho mình là đúng, người khác đều sai, còn phỉ báng thầy. Cho nên thầy thấy quý vị [đi sai đường] như vậy cũng chỉ gật gật đầu, cứ tùy ý quý vị thôi. Kết duyên lành với quý vị là được, không dạy nữa. Tại sao? Vì không cách gì có thể chỉ dạy.
Do đó, việc kế thừa một bậc thầy rất quan trọng. Nghe nhiều, xem nhiều, như Đại sư Thanh Lương nói, chỉ tăng trưởng tà kiến, tăng trưởng vô minh. Vì vậy, từ xưa đến nay ở Trung quốc, cả Nho gia lẫn Phật pháp đều đề cao việc kế thừa một bậc thầy. Quý vị theo thầy nào học? Theo học với thầy nào thì quý vị là đệ tử kế thừa của vị thầy ấy. Thầy chỉ có một, không được có nhiều thầy.
Hiện nay, nói về Giảng Tòa Đại Chuyên Phật Học, thật ra cũng không có gì sai trái, trước đây vốn do tôi với Lý lão sư ở Đài Trung và một số người khởi xướng lập ra.
[2] Nhưng hiện tại thì thế nào? Hiện tại không tổ chức nữa, vì đã thay đổi biến chất. Thay đổi như thế nào? Thay đổi trở thành nơi đại hội diễn giảng, ý nghĩa ban đầu đã mất. Trước đây thì Giảng tòa Đại chuyên ở Đài Trung quả thật vẫn có sự kế thừa từ thầy dạy. Tuy có sáu phân khoa, sáu vị thầy dạy, nhưng ngoài Lý lão sư, năm vị kia đều là đệ tử của Lý lão sư. [Như vậy vẫn là] một tư tưởng, một phương hướng. Cách dạy như vậy mới có lợi ích, không sai lệch. Khi mời người ngoài đến, tư tưởng phân hóa, bắt đầu có khó khăn. Khó khăn do đó mà tìm đến. Vì vậy, những năm gần đây, trong các khóa giảng vào mùa hè, mùa đông, chúng tôi chủ trương một lần chỉ giảng một bộ kinh, do một người giảng, như vậy mới dễ đạt được lợi ích.
Quý vị thật sự muốn thành tựu, tôi nghĩ không có thầy e rằng không được. Đây là điều kiện quan trọng đầu tiên trong việc tu học của chúng ta, phải có một vị thầy.
Tôi học Phật, cũng nhờ chút căn lành đời trước nên có được chút duyên kế thừa với thầy. Lúc mới bắt đầu học Phật, tôi cũng chỉ theo học một thầy. Những người khác giảng giải tôi đều không nghe. Tại sao không nghe? Vì không phục. Lúc đó tôi ngã mạn cống cao, mắt để trên đỉnh đầu, xem thường hết thảy những người khác. Vị thầy nào tôi không phục, dù giảng đề tài nào tôi cũng không nghe, dù viết ra sách gì tôi cũng không đọc.
Tôi được gần gũi theo học Đại sư Chương Gia, mỗi chủ nhật đều đến chỗ ngài hai giờ, cứ như vậy được ba năm thì ngài viên tịch. Sau khi ngài viên tịch, tôi lúc đó không biết làm sao thì được lão cư sĩ Chu Kính Trụ giới thiệu với Lý lão sư ở Đài Trung.
Đến chỗ Lý lão sư, ngài hỏi tôi trước đây đã đọc qua những kinh nào, đã thân cận những thiện tri thức nào, tôi đều thưa trình rõ ràng. Lúc đó tôi nói đã có đọc Đại tạng kinh. Đại tạng khi ấy chưa xuất bản hết, tôi tự thỉnh một bộ, mỗi tháng được gửi đến một quyển, tôi đều xem qua, được khoảng nửa bộ. Tôi cũng nói đã xem qua bộ Thái Hư Đại sư toàn thư. Mọi thắc mắc đều thỉnh giáo Đại sư Chương Gia, chưa từng thân cận ai khác.
Quý vị có biết lúc đó Lý lão sư đã nói gì không? Ngài nói: “Tốt, hôm nay anh đến học với tôi, những gì anh đã đọc qua trước đây, những gì Đại sư Chương Gia đã dạy, tất cả đều phải bỏ hết đi, hết thảy tôi đều không thừa nhận.” Như vậy, tôi đến với lão sư rồi phải bắt đầu lại từ đầu, hoàn toàn nghe theo thầy. Không có sự đồng ý của thầy, cho dù vị nào giảng kinh cũng không được đến nghe; không có sự đồng ý của thầy, không được xem bất kỳ kinh luận, chú giải nào. Sự hạn chế rất nghiêm khắc.
Tôi theo học dưới sự dạy dỗ của thầy mười năm, tôi được lợi ích. Đó là nhờ tôi chịu nghe lời. Thầy nói sao tôi nghe vậy, tuyệt đối phục tùng, không dám có ý kiến khác, chỉ chuyên tâm học theo thầy.
Sau khi học được chút nền tảng, tôi mới ra ngoài giảng kinh. Khi giảng kinh, tiếp xúc rất rộng. Thường mỗi lần về Đài Trung tôi đều khuyến khích thưa với thầy: “Hiện nay trong Phật pháp, Phật giáo thiếu nhân tài, cần phải bồi dưỡng thêm nhiều người.” Tôi thưa khoảng hai, ba mươi lần, mỗi lần Lão sư nghe xong đều nói: “Đúng vậy, đúng là không có người, chúng ta cần phải bồi dưỡng.” Cuối cùng, có lẽ ngài nghe mãi không chịu được nữa, liền nói: “Thôi được, anh tìm học trò giùm tôi đi!” Từ đó về sau tôi không dám nói nữa. Tại sao? Vì tôi không tìm được học trò như vậy! Tìm người biết nghe lời như tôi, thật là không tìm được.
Học trò ngày nay đều không nghe lời, ý kiến nhiều, tà kiến nhiều. Cũng không thể gọi là ý kiến, vì họ có ý kiến gì đâu! Toàn là tà kiến quá nhiều. Vô minh chướng nặng, tà kiến đầy dẫy, biết làm sao được? Đây chính là ngu si!
Thật sự là bậc thiện tri thức, như chư Phật, Bồ Tát, đâu có lẽ nào không dạy dỗ học trò? Khi gặp được học trò, các vị chỉ tiếc là không thể nhanh chóng truyền thụ hết những gì mình biết cho học trò, đối với học trò hết sức thương yêu. Nhưng nếu học trò không phải là pháp khí thì biết làm sao? Họ không thể tiếp nhận.
Vì vậy, người cầu học chỉ cần hai chữ “thành kính”. Đại sư Ấn Quang dạy: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích.” Quý vị có thể thành tựu được bao nhiêu phần trong việc thân cận với thầy, trong việc tìm đồng đạo tốt, tất cả đều tùy thuộc vào mức độ thành kính của quý vị.
Sự dạy dỗ của thầy thoạt nhìn qua có vẻ như rất chuyên chế, rất độc đoán, không dựa theo lý lẽ, nhưng thực ra trong đó có ý nghĩa lớn lao mà chúng ta không hiểu được. Thầy thật sự có lý, chúng ta không hiểu được cho là thầy vô lý. Đó là do chúng ta ngu si, không phân biệt được có lý hay vô lý, cho cái có lý là vô lý, cái vô lý lại cho là có lý. Đây không phải ngu si thì là gì?
Phương pháp dạy học của thầy như vậy, đó là vì e sợ điều gì? Là sợ những tà tri tà kiến xâm nhập, gây chướng ngại cho việc tu học của quý vị. Ý nghĩa là ở chỗ này. Thầy dùng một phương pháp, một con đường, thúc đẩy quý vị đi theo hướng đó. Đợi đến khi quý vị khai ngộ, xin thưa cùng quý vị, chỉ cần quý vị được khai ngộ, dù muốn ở lại thêm một ngày dưới sự dạy dỗ của thầy, thầy cũng không muốn. Vì sao vậy? Vì quý vị đã đủ tư cách rồi. Cũng giống như ở trường học, học sinh đã tốt nghiệp, dù muốn trở lại trường học thêm vài ngày, nhà trường cũng không nhận. Quý vị đã tốt nghiệp thì phải ra đi. Ra đi để làm gì? Để tham học. Lúc đó, quý vị có thể gặp bất kỳ ai, đọc bất kỳ kinh sách nào, không có bất kỳ hạn chế nào. Tại sao? Vì quý vị đã có chánh tri chánh kiến, mà chánh tri chánh kiến này được bồi dưỡng từ nơi thầy.
Vì vậy, chúng ta thấy ví dụ về đồng tử Thiện Tài trong kinh Hoa Nghiêm, thầy của ngài là Bồ Tát Văn-thù. Bồ Tát Văn-thù dạy Thiện Tài rất chuyên chế. Đợi đến khi trí tuệ khai mở, Bồ Tát Văn-thù không giữ lại nữa, đưa ra bên ngoài, Thiện Tài đi tham học với năm mươi ba vị thiện tri thức. Như vậy đủ thấy thầy không chuyên chế! Khi chúng ta không có khả năng phân biệt tà chánh, sợ quý vị đi lầm đường, không thể không phòng ngừa. Khi có khả năng, tức là trí tuệ đã khai mở, quý vị không còn ngu si nữa, tùy quý vị đi đâu cũng được, tuyệt đối không hạn chế, đó là sự dạy dỗ.
Nói “tà họa” thì “tà” là không chân chánh, “họa” là phân biệt, [nên “tà họa tri kiến” là “phân biệt theo các quan điểm tà vạy”. “Kiến” là kiến giải, tức là trong tâm quý vị khởi lên rất nhiều kiến giải. Lại thưa với quý vị, những kiến giải như thế đều là sai lầm. Chư Phật, Bồ Tát cao minh ở điểm nào? Chính là vì các ngài không có kiến giải, nên tâm các ngài thanh tịnh. Nếu có kiến giải thì kiến giải đó nhất định là tà kiến. Trong chân như bản tánh làm gì có kiến giải? Chỉ khi mê mới có, ngộ rồi thì không. Như trong kinh Lăng Nghiêm nói: “Ở nơi tánh giác khởi lên thành tri kiến thì đó là gốc của vô minh.” Ở đây nói “phân biệt theo các quan điểm tà vạy” chính là “nơi tánh giác khởi lên thành tri kiến” trong kinh Lăng Nghiêm. “Lập” là kiến lập, khởi lên; “họa” [là phân biệt,] cũng có nghĩa là kiến lập.
Mấy câu tiếp theo là những tà kiến nặng nề nhất, cũng có thể nói là ngu si đến cực điểm. “Bác bỏ cho rằng không có nhân quả”, không tin chuyện nhân quả báo ứng, không tin sinh tử luân hồi, không tin thiện có thiện báo, ác có ác báo. Thật ra không phải là không có báo ứng, mà chỉ là chưa đúng thời điểm, do nhân duyên điều kiện chưa chín muồi.
“Hủy báng đại thừa”, ở đây không nói đến Tiểu thừa, tại sao? Vì muốn chỉ việc người Tiểu thừa hủy báng Đại thừa, đó là ngu si. Lấy Phật giáo trên thế giới ngày nay mà nói, một số người ở các nước theo Tiểu thừa hủy báng Đại thừa, không công nhận Đại thừa, cho rằng “Đại thừa không phải do Phật thuyết”. Tại sao? Vì họ chưa từng thấy kinh Đại thừa, cho rằng kinh Đại thừa không phải do Phật nói. Kỳ thực, kinh Đại thừa đều đã được truyền đến Trung quốc.
Khi Phật xuất hiện ở thế gian, những trung tâm hoằng pháp chủ yếu của Ngài đều ở lưu vực sông Hằng. Thái Lan nằm về phía đông, Tích Lan về phía nam. Phật pháp Đại thừa từ Tây Vực, tức Tân Cương ngày nay, lúc đó gọi là Tây Vực, truyền đến Trung Quốc. Căn tánh người Trung Quốc thích hợp với giáo pháp Đại thừa. Kinh điển, cả Đại thừa và Tiểu thừa đều truyền đến Trung Quốc. Nhưng ở Đông Nam Á, chỉ có kinh điển Tiểu thừa, không có kinh điển Đại thừa. Các nước Tiểu thừa chỉ tin Phật Thích-ca Mâu-ni. Ngoài Phật Thích-ca, họ không tin có Phật nào khác. Họ tin rằng người tu tập thành tựu cao nhất cũng chỉ đến quả vị A-la-hán, không có quả vị nào cao hơn, nên khi nghe Phật pháp Đại thừa, họ không thể tiếp nhận. Vì vậy, khi đến Thái Lan, quý vị sẽ thấy chùa chiền được xây dựng rất tráng lệ, bên trong có rất nhiều tượng Phật, hàng ngàn, hàng vạn tượng, đều là tượng Phật Thích-ca Mâu-ni. Chỉ một vị Phật, không có vị thứ hai.
Tây Tạng là Phật pháp Đại thừa, Trung quốc là Phật pháp Đại thừa, hình tượng Phật, Bồ Tát rất nhiều. Đây nói về hủy báng Đại thừa không chỉ bao gồm những người không học Phật, mà là cả một số học giả và cả những người theo Tiểu thừa.
“Đối với các chân lý đúng thật không thể nhận hiểu sáng suốt rõ ràng.” “Chân lý” là chỉ những chân lý như chúng ta hôm nay đang giảng giải, những chân lý đối với vũ trụ nhân sinh, họ không thể hiểu rõ, không thể thông suốt. Sự không hiểu, không thông suốt này đến mức độ “hết sức tối tăm u ám” (quá ư tất mặc), vì “tất” là sơn đen, “mặc” là mực, cả sơn và mực đều đen, dùng để ví cho vô minh, ví cho ngu si.
Chúng ta làm thế nào để phá trừ ngu si? Đây là việc quan trọng bậc nhất. Trước hết phải tu giới, tu định. Giới và định, xin thưa với quý vị, đều là phước báo, đều là tu tích phước. Nếu từ định mà khai mở được trí tuệ thì giới và định mới biến thành công đức. Nếu giới, định không khai mở được trí tuệ thì giới định là phước đức; khai mở trí tuệ rồi, giới định biến thành công đức. Vì vậy, công đức bao gồm phước đức, nhưng phước đức không bao gồm công đức. Do đó, mục đích của việc tu giới, tu định là khai mở trí tuệ. Mục đích tu giới là được định, mục đích tu định là khai mở trí tuệ.
Vì vậy, quý vị không thể trụ mãi trong định. Nếu trụ mãi trong định là sai, làm sao khai mở trí tuệ? Cái gọi là trụ trong định tức là phân biệt cảnh giới trong định, bám chấp nơi cảnh giới trong định. Như vậy thì trí tuệ không thể khai mở, đó là do trụ mãi trong cảnh giới của định.
Vì vậy, đối với tất cả pháp, không chỉ sắc pháp, mà ngay cả tâm pháp, cảnh giới trong định cũng không được phân biệt bám chấp, công phu mới có thể nâng cao, mới có thể tiến bộ dần dần, nếu không sẽ tạo thành chướng ngại. Càng lên cao, cảnh giới càng vi tế, bản thân càng phải lưu ý, phải như kinh Kim Cang nói: “Nên ở nơi không có chỗ trụ mà sanh tâm”, cái tâm này không được trụ.
Công phu này, nếu người có căn tánh lanh lợi, từ lúc mới bắt đầu đã có thể làm. Một mặt nương vào kinh điển, một mặt không trụ vào kinh điển. Chúng ta y theo lý luận, phương pháp trong kinh để tu học, dùng cảnh giới này để tu học, rất nỗ lực tu học, nhưng trong tâm thì thế nào? Trong tâm không phân biệt, không bám chấp, “ngay nơi tướng mà xa lìa tướng”, như vậy thì sự tiến bộ của chúng ta sẽ rất nhanh. Trong Phật pháp gọi là khéo học, rất biết dụng tâm, rất biết học. Tiến độ tu học của những người như vậy rất nhanh. Nếu trong tâm có phân biệt, có bám chấp, đó là không khéo học. Không khéo học thì sẽ biến Phật pháp vô thượng thành phước báo thế gian, nhân duyên thế gian. Tu tập thành tựu phước báo thế gian, đó là tu học không khéo.
Nói đến điều này cũng rất vi tế, chúng ta phải từ từ nhận hiểu. Ví như chúng ta tu tập giới luật, quý vị cũng biết, giới luật là pháp căn bản, không đặt nền tảng trên giới luật thì không thể thành tựu. Cũng giống như xây nhà, nếu không có nền móng, không có nền móng thì chỉ có thể dựng căn lều cỏ, hoàn toàn không thể xây lên nhà lầu, một khi xây lầu sẽ sụp đổ ngay. Nói cách khác, nếu quý vị bỏ qua giới luật, không chịu tu học nghiêm túc, thì thành tựu tương lai của quý vị chỉ như căn lều cỏ mà thôi, chỉ vậy thôi. Như vậy nghĩa là gì? Là chỉ trong phạm vi các pháp ở cõi người, cõi trời. Trong các cõi trời thì bất quá cũng chỉ là cõi trời Dục giới, còn cõi trời Tứ thiền của Sắc giới thì không thể đạt được, không đủ tư cách.
Vì vậy, có thể thấy rõ sự quan trọng của giới luật. Việc này, chúng ta phải nhận thức thật sự rõ ràng, nói thật ra, quả là cũng không dễ dàng. Vì sao vậy? Người phàm tục chúng ta thường sợ sự ràng buộc, sợ giới luật, nghe đến giới luật là chán ghét. Nghe kinh, trong kinh giảng đạo lý nghe cũng thấy hay, thích nghe; nhưng nhắc đến giới luật thì thật đau đầu.
Trước đây tôi theo Đại sư Chương Gia ba năm, Đại sư Chương Gia cũng hiểu tôi rất rõ. Cái đầu của tôi cũng thuộc loại bướng bỉnh, không dễ dàng chấp nhận kiến giải của người khác, rất khó chấp nhận, lại còn rất ngạo mạn. Nhưng ngài sẵn lòng dạy tôi, chính là do tôi có đủ tâm cung kính này, chỉ có được chút ưu điểm này. Vì vậy các vị thầy sau này khi gặp tôi cũng đều sẵn lòng dạy bảo, dù tôi rất ngạo mạn nhưng vẫn có thể dạy, vẫn không bỏ rơi.
Lúc tôi vào khoảng 21, 22 tuổi, tôi có làm một bài văn nêu lên thái độ cầu học của chính tôi. Nếu tôi đọc lên, hnn mọi người nghe xong đều phải hoảng sợ.
“Thầy là trời đất”, nhận trời và đất làm thầy; “pháp tự nhiên”, xem tự nhiên là pháp; “làm bạn với các bậc thánh triết xưa nay”, như Phật Thích-ca Mâu-ni, Khổng tử, có thể làm bạn với tôi... Quý vị xem, khẩu khí này thật hết sức điên rồ! Bài văn này của tôi, những người ở Dallas đều đã xem qua, thật là ngông cuồng tột bậc, dưới mắt không người. Ngay cả Khổng tử, Phật Thích-ca Mâu-ni, Muhammad, Jesus… cũng chỉ là bạn của tôi thôi, quý vị thử hình dung xem! Vì vậy, những người trẻ tuổi trong quý vị mà nói là ngông cuồng kiêu ngạo, tôi thấy vẫn còn chưa điên rồ đến mức như tôi, hãy còn kém xa tôi. Nhưng tôi đối với các vị thầy quả thật rất cung kính, do vậy các ngài sẵn lòng dạy tôi.
Trong ba năm theo học, mỗi lần nói chuyện xong, lúc tiễn tôi ra về, Đại sư Chương Gia đều nhẹ nhàng nói một câu, vừa như khuyên nhủ lại không giống khuyên nhủ. Nhắc tôi một câu gì? “Giới luật rất quan trọng”, thầy luôn nói một câu như vậy. Câu này tôi nghe ước chừng cũng năm sáu mươi lần, vì vậy ấn tượng vô cùng sâu sắc. Nhưng vẫn không đánh thức được tôi. Thầy nhắc nhiều lần như vậy nhưng tôi đều chưa từng coi trọng. Bởi lúc đó trong đầu có quan niệm, giới luật là quy phạm đời sống, quy phạm đời sống thì giống như lễ tiết trong Nho gia. Lễ trong Nho gia, lễ của các thời đại đã khác nhau, lễ xưa với nay khác nhau, lễ trong và ngoài nước khác nhau. Chúng ta nghiên cứu ý nghĩa của nó là được, hiểu nguyên tắc căn bản của nó là được, cần gì phải học lối sống cổ xưa của Ấn Độ ba ngàn năm trước? Không cần thiết, như vậy chẳng phải quá ngu si sao? Tôi cảm thấy họ quá ngu si.
Vì vậy lúc đó tôi học Phật, thấy người ta lạy Phật, tôi cười. Ngu si, quá ngu si! Chúng ta sinh ra ở thời đại này, lễ là nói về tâm cung kính, nghi thức thay đổi theo thời đại. Ngày nay chúng ta gặp tổng thống, lễ cung kính nhất là cúi chào ba cái; chúng ta gặp Phật, lễ cung kính nhất cũng cúi chào ba cái là được, cần gì phải lạy phủ phục xuống đất? Vì vậy, tôi theo Đại sư Chương Gia ba năm, chưa từng lạy ngài, chưa từng lạy, gặp mặt đều cởi mũ cúi chào. Đại sư Chương Gia đối với tôi rất khách sáo. Tôi thấy người khác gặp Đại sư quỳ lạy, đứng bên cười. Đại sư vẫn không bỏ rơi tôi, thật sự là đại từ đại bi, ngài biết bệnh của tôi.
Sau khi ngài viên tịch, có xây tháp ngài ở Bắc Đầu, hỏa táng ở đó. Lúc ấy chúng tôi có một số người, đa phần là đệ tử của ngài, chủ yếu là các Lạt-ma ở Cam Châu. Tại đây có một đệ tử của ngài, duy nhất một đệ tử. Ở đó dựng hai cái lều, chúng tôi túc trực bên cạnh linh tháp của ngài. Các vị Lạt-ma Cam Châu ở đó khoảng nửa tháng, tôi ở trong lều ba ngày.
Ba ngày đêm ở đó tôi suy nghĩ, trong ba năm theo Đại sư, ngài đã dạy tôi những gì? Tôi ở đó tự suy ngẫm lại. Khi tôi suy ngẫm, mới thấy câu “Giới luật rất quan trọng” của thầy có ấn tượng rất sâu. Nhìn chung phải có chút ý nghĩa, nếu không thầy không thể nói nhiều lần như vậy. Lúc này tôi mới quay lại nghiêm túc chú ý đến giới luật. Khi chú ý thì bỗng phát hiện một ý nghĩa. Lễ của thế gian, là quy phạm đời sống của phàm phu chúng ta. Quy phạm đời sống này sẽ thay đổi theo thời đại, khu vực khác nhau. Giới luật lại giống như ranh giới phân chia giữa phàm và thánh, không thể thay đổi, một khi thay đổi thì hóa thành phàm phu. Từ khi tôi phát hiện được ý nghĩa này mới khẳng định được tầm quan trọng của giới học, lúc này mới không một mực chuyên sưu tập kinh luận, mà những gì liên quan đến giới luật tôi cũng sưu tập. Lần này in sách Phạm võng kinh trực giải, cũng là tác phẩm mà vào lúc đó, trước khi xuất gia tôi đã sưu tập. Nhưng sau khi sưu tập rồi tôi cũng xem, mà xem không mấy nghiêm túc, không đọc nhiều như kinh, cũng không siêng năng như đọc kinh.
Tôi học Phật đến nay ba mươi năm, bắt đầu từ năm Dân quốc thứ 42 (1953). Giảng kinh cũng hai mươi bốn năm, tròn hai mươi bốn năm. Tính cả đầu đuôi thì năm 1983
[3] này phải là hai mươi lăm năm, chỉ tính tròn năm thì là hai mươi bốn năm. Đến năm nay mới quyết định pháp môn, xác định phương hướng tu học.
Trước mặt Phật Bồ Tát rút thăm chọn kinh, bởi vì các kinh, thật ra không buông bỏ được kinh điển Đại thừa, vẫn không buông bỏ được. Thầy nhiều lần dạy phải “nhìn thấu suốt, buông bỏ sạch”, nhưng rồi vẫn không buông bỏ hết được. Bộ kinh nào cũng hay, cũng đều ưa thích, nhưng biết rằng nếu cứ tiếp tục như vậy thật sự là mê hoặc chính mình, lại cũng mê hoặc chúng sinh. Mê hoặc người khác, ý nghĩa trong đó rất thâm sâu. Vì vậy mới trước mặt Phật Bồ Tát lễ bái một tuần, tụng niệm một tuần, đem những kinh luận mình ưa thích nhất, tổng cộng hơn mười bộ, những kinh khác đều loại ra, chỉ mười mấy bộ kinh này rất khó bỏ, liền bày ra trước mặt rồi rút thăm để lấy quyết định cuối cùng.
Rút thăm nhằm bộ kinh Hoa Nghiêm, bản dịch 40 quyển.
[4] Nhưng trong mười mấy loại kinh luận của tôi đều không có giới luật, không có giới luật trong đó. Rút thăm nhằm kinh Hoa Nghiêm là có cảm ứng. Lúc trước, tôi ở Đài Trung theo thầy Lý học kinh, bộ kinh đầu tiên chính là phẩm “Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện” [trong kinh Hoa Nghiêm, được học đầu tiên. Bây giờ cách hơn hai mươi năm, ở đây rút thăm, rút nhằm vẫn là phẩm “Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện”, thật có cảm ứng.
Vì vậy, lúc đó đạo trường quyết định vận dụng hai bộ kinh. Một bộ Di Đà Kinh Sớ Sao và một bộ kinh Hoa Nghiêm. Trong kinh Hoa Nghiêm chính là dùng phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện. Những kinh sách khác đều buông bỏ hết. Nay giảng bộ kinh này là đặc biệt vì các vị đồng học ở Giảng tòa Đại chuyên tham gia Phật thất này, nên mới phá lệ giảng bộ kinh này. Đạo trường chúng ta không giảng kinh khác, chỉ giảng Di Đà Kinh Sớ Sao, một đạo trường một bộ kinh, Di Đà Kinh Sớ Sao, Hoa Nghiêm (40 quyển). Lần này đặc biệt cầu nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm giúp chúng ta tiêu trừ tai nạn, không chỉ chúng ta ở đây có tai nạn, mà toàn thế giới đều có tai nạn. Vì vậy Tổ Ấn Quang khuyên người niệm Phật chúng ta, mỗi ngày sau khi khóa tụng sáng xong, gia trì một ngàn danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, cầu nguyện hòa bình cho toàn thế giới. Phật thất lần này của chúng ta cũng chính là ý nghĩa như vậy.
Sau khi chúng tôi quyết định pháp môn hành trì, khai giảng ở đây, vị Quán trưởng của chúng ta mới thỉnh giảng kinh Phạm Võng. Tôi suy nghĩ lại, việc này do tôi quên mất, bà ấy đã nhắc nhở tôi. Đây là điều Đại sư Chương Gia thường nhắc nhở trong ba năm, đáng tiếc thay! Điều này thật khẩn thiết, hết sức khẩn thiết. Nếu không có kinh Phạm Võng thì kinh Hoa Nghiêm và Di Đà Kinh Sớ Sao đều trở thành vô nghĩa, đều phải trở thành vô nghĩa. Vì vậy, lúc này tông chỉ mới được xác định. Tôi cũng mất hết mấy ngày suy nghĩ về vấn đề này, mới xác định tông chỉ “Y theo tâm hạnh của hàng Bồ Tát trong kinh Phạm Võng”.
Kinh Phạm Võng trong Phật pháp cũng thuộc về giáo pháp Nhất thừa. Kinh điển Nhất thừa chỉ có ba bộ, ngoài kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa, bộ thứ ba chính là kinh Phạm Võng. Đây là theo sự phán định giáo pháp của cổ đức, ba bộ này là kinh điển Nhất thừa, còn trên cả Đại thừa.
Do vậy mới quyết định [tông chỉ là] “y theo tâm hạnh Bồ Tát” trong kinh Phạm Võng, “thể nhập cảnh giới giải thoát không thể nghĩ bàn” trong kinh Hoa Nghiêm, tức là cảnh giới không ngăn ngại, [nghĩa là] vận dụng cơ sở [theo kinh Phạm Võng] để thể nhập [cảnh giới] theo kinh Hoa Nghiêm (40 quyển), cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm là Thập đại nguyện vương [của Bồ Tát Phổ Hiền] dẫn về Cực Lạc. Do vậy có chỗ y theo, có chỗ thể nhập, sau đó là an trụ, “trụ nơi cõi Tịnh độ Thường Tịch Quang của Phật A-di-đà”. Trong bốn cõi,
[5] chúng ta phải chọn cõi Tịnh độ Thường Tịch Quang là tối thượng, không cam tâm ở cõi Phàm thánh đồng cư. Chúng ta phải chọn cõi Tịnh độ Thường Tịch Quang.
Quý vị nên biết rằng, thật không dễ dàng! Trong bao nhiêu năm, hầu như đã tìm qua hết thảy những kinh luận Đại thừa, tìm kiếm khắp nơi như người đi du lịch đã thăm viếng xem qua khắp chốn, bây giờ mới tìm được một nơi thích hợp, chúng ta an trụ nơi đây để an dưỡng tuổi già. Tìm kiếm lựa chọn khắp nơi mới chọn được con đường này. Đây không phải là mù quáng, mà là đã trải qua hơn ba mươi năm mới quyết định chọn ra con đường này. Vì vậy, quý vị có thể thấy việc khai mở trí tuệ thật khó khăn biết bao.
Lên giảng đường giảng kinh cũng là một phương pháp khai mở trí tuệ. Nhưng nếu trong đó có xen tạp lòng ham muốn danh lợi thì trở thành chướng ngại. Như vậy giảng kinh sẽ không khai mở trí tuệ, mà được phước báo. Trong tất cả phước báo, đó là phước báo lớn nhất. Hoằng pháp lợi sinh là phước báo lớn nhất. Nhưng điều phải lưu ý là gì? Là không thể khai mở trí tuệ, không thể dứt trừ phiền não. Nói cách khác, không thể thấu triệt lẽ sinh tử, thậm chí cũng không thể vãng sinh. Vậy quý vị nghĩ xem, người này thiếu điều gì? Chính là thiếu giới luật, giới luật dạy quý vị buông bỏ. Kinh luận dạy quý vị quán chiếu thấu suốt, giới luật dạy quý vị buông bỏ. Quý vị có học kinh luận, quán chiếu thấu suốt rồi, nhưng chưa buông bỏ thì không được. Người Tiểu thừa có giới luật, họ buông bỏ rồi, nhưng chưa quán chiếu thấu suốt, vì vậy họ bám giữ trong cảnh giới định, họ cũng không khai mở trí tuệ. Do đó có thể thấy, ba môn học [giới định tuệ] hỗ trợ lẫn nhau, mới có thể thật sự khai mở trí tuệ, phá trừ ngu si phiền não.
Vì vậy tôi khuyên quý vị, trước đây tôi cũng đã có chủ trương, tôi đi khắp nơi đều chủ trương nên chuyên học một môn. Điều đó đã qua bao nhiêu năm rồi, từ năm 1967,
[6] tôi dạy học ở Phật Quang Sơn, lúc ở Phật Quang Sơn đã đề xướng “vào sâu một pháp môn”. Bản thân tôi tu pháp môn Tịnh độ, nhưng liên quan đến kinh luận rất nhiều, rất rộng. Có ai thỉnh giảng kinh gì, tôi lập tức giảng kinh đó cho họ. Chỉ cần có thời gian, ai đến tìm tôi cũng đều đáp ứng. Bây giờ thì ai đến thỉnh tôi giảng kinh, tôi đều không đáp ứng. Chỉ nhận những kinh nào? Chỉ nhận giảng kinh Hoa Nghiêm (40 quyển), giảng Di Đà Kinh Sớ Sao, giảng kinh Phạm Võng. Tôi chỉ đáp ứng giảng ba bộ kinh đó, những bộ kinh khác đều không giảng. Vì vậy, tôi luôn khuyên mọi người “vào sâu một pháp môn”. Vào sâu một pháp môn thì nhất định sẽ có thành tựu.
Ví dụ như trong mười năm, quý vị chỉ học một bộ kinh Pháp Hoa trong mười năm, như vậy quý vị chính là Tổ sư của kinh Pháp Hoa rồi, không còn gì để nói. Nhưng nếu mười năm tôi học mười bộ kinh Đại thừa, thì trong mười bộ kinh Đại thừa đó không có bộ nào thông đạt. Tại sao? Mỗi bộ hiểu biết một chút, mỗi bộ đều không thông suốt.
Ví dụ như có hai người, một người trong mười năm học mười bộ, một người trong mười năm chuyên sâu một bộ. Mười năm sau thì hai người ấy chênh lệch rất lớn. Một người có thành tựu, một người không có thành tựu.
Khi học còn phải biết cách học. Tức là lúc học, chỉ dùng một bản chú giải, không được xem bản chú giải thứ hai. Năm 1977, tôi giảng kinh ở Hồng Kông. Hồng Kông có một vị Thủ Lăng Nghiêm Vương, là Lão Hòa thượng Hải Nhân. Lúc tôi đi thăm ngài, ngài đã 93 tuổi, hiện nay viên tịch rồi. Phương pháp dạy học của ngài, làm đệ tử ngài không dễ, đệ tử ngài chỉ đọc một bộ kinh Kinh Lăng Nghiêm. Không chỉ đọc Kinh Lăng Nghiêm, mà còn đọc một bản chú giải. Bản chú giải ngài dùng là chú giải của Đại sư Ngẫu Ích, Lăng Nghiêm Kinh Văn Cú, hiện có trong Đại sư Ngẫu Ích Toàn Tập. Đệ tử của ngài phải thuộc lòng cả kinh văn và bản chú giải này. Kinh Lăng Nghiêm cũng có gần một trăm bản chú giải. Những bản tôi biết tên có tám mươi bản, còn những bản tôi không biết, không rõ là bao nhiêu. Trong nhiều bản chú giải như vậy, ngài chỉ chọn lấy một bản. Dùng bản chú giải này học thuộc rất kỹ, rất kỹ. Vì vậy đệ tử ngài ai cũng giảng được Kinh Lăng Nghiêm, đều giảng rất hay. Ngài dồn toàn bộ tinh thần, công lực vào một bộ kinh nên thành tựu xuất chúng. Năm đó tôi cũng giảng Kinh Lăng Nghiêm ở Hồng Kông, vì vậy gặp nhau nói chuyện rất tâm đầu ý hợp. Lão Hòa thượng rất từ bi, đã thảo luận với tôi những điểm then chốt trong Kinh Lăng Nghiêm.
Vì vậy, trong tham sân si thì chỉ có ngu si là khó phá trừ nhất. Đó là do thành kiến của chính mình. Kiến giải của chính mình quá kiên cố, không dễ dàng buông bỏ. Ngay cả khi gặp được một vị thầy tốt, quý vị xem như bản thân tôi là một ví dụ, tu học bao nhiêu năm mới giác ngộ. Lúc đó tại sao thầy không nói cho tôi biết? Vì có nói tôi cũng tuyệt đối không tiếp nhận. Không chỉ là không tiếp nhận, mà còn sẽ phản kháng. Nói cách khác, nếu nói với tôi thì thời gian giác ngộ của chính tôi càng phải kéo dài hơn. Vì vậy thầy chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, ngay cả khuyên cũng chẳng khuyên lấy một câu, thật sự là đại từ đại bi. Chính là nhắc nhở quý vị, để trong tâm quý vị có ấn tượng này, về sau mới giác ngộ. Có thể thấy một người khéo dạy học, phương tiện thiện xảo đó không phải người thường chúng ta có thể tưởng tượng được. Ân đức của thầy lớn lao biết bao, không có sự chỉ điểm của thầy, làm sao chúng ta có thành tựu? Làm sao có thể giác ngộ? Làm sao có thể tiếp nhận giáo pháp lớn lao?
Chúng ta xem đoạn tiếp theo. Đoạn này là Đại sư trích dẫn từ Kinh Lăng Nghiêm để giải thích:
“Tiêu dung thanh trần, xoay cái nghe về tánh bản minh, thân tâm và pháp giới sáng ngời như lưu ly lắng trong vô ngại, nên khiến tất cả chúng sanh ngu ngốc mê tối, hạng a-điên-ca vĩnh viễn xa lìa si ám.”
Ngu si là do trần cảnh hư vọng che đậy, vô minh khuất lấp. “Tiêu dung thanh trần” thì không còn che đậy, “lắng trong” không còn khuất lấp. Từ chữ “vô tận” trở xuống đến “gút thắt” là chỉ về kinh văn phía trước.
Đoạn kinh văn này trích từ trong kinh Lăng Nghiêm. Hai câu trước, cũng là nói công đức “xoay tánh nghe vào để nghe tự tánh” của Bồ Tát, có thể “tiêu dung thanh trần, xoay cái nghe về tánh bản minh”. Tiêu là tiêu trừ, tiêu trừ duyên trần cảnh hư vọng, tức là sáu trần cảnh. Sáu trần đều là hư vọng, ngài có thể buông bỏ xa lìa sáu trần. Trong sáu trần, quan trọng nhất chính là pháp trần.
Pháp trần là gì? Pháp trần chính là tà tri tà kiến, chính là kiến giải. Ngài có thể đem những vọng tưởng, kiến giải này buông bỏ, khiến tâm mình thanh tịnh, liền giống như Lục Tổ nói là “xưa nay không một vật”. Lúc này mới trở về sáng suốt soi chiếu, tức là trở về tâm địa thanh tịnh. Tâm thanh tịnh chính là sáng suốt soi chiếu, giống như mặt nước, nước không sóng gió, lúc yên tĩnh chính là sáng suốt soi chiếu, tự có tác dụng soi chiếu.
“Thân tâm và pháp giới sáng ngời như lưu ly”, đây là hình tướng. Pháp giới là nói khắp thảy pháp giới, tức là ngày nay chúng ta gọi là vũ trụ. Toàn bộ vũ trụ và thân tâm của chính mình đều viên dung, không còn ranh giới, không có chướng ngại, giống như một khối lưu ly trong suốt, sạch sẽ, không bám dính một hạt bụi nào.
Thế giới này chính là Nhất chân pháp giới trong kinh Hoa Nghiêm, là Vô ngại pháp giới mà Đại sư Thanh Lương nói, lý sự vô ngại, sự sự vô ngại. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng căn bản trí mà chính mình chứng đắc, gia trì tất cả chúng sinh ngu si. “Hôn” (mê tối) là mê muội, “độn” (ngu ngốc) là chậm chạp, lấy “hôn độn” (ngu ngốc mê tối) làm tính chất của loại chướng ngại này. Chướng ngại này có thể chướng ngại trí tuệ. Có thể chướng ngại trí tuệ nên gọi là ngu si. Bồ Tát dùng thần lực để gia trì những chúng sinh này, ngay cả “hạng a-điên-ca”. A-điên-ca là tiếng Phạn, dịch nghĩa Trung quốc là người không có tâm thiện, đó là ngu si đến cực điểm, vì vậy nói không thiện căn, không tâm thiện, đây là nói người ngu si, mê hoặc đặc biệt nặng, tà tri tà kiến, phủ nhận nhân quả, đều gọi là a-điên-ca. Người ngu si cực nặng, nếu họ có thể nhất tâm xưng niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát, trí tuệ quang minh, oai đức thần lực của Bồ Tát cũng có thể gia trì, giúp họ khai mở trí tuệ, vĩnh viễn xa lìa si ám. Đây là Bồ Tát có loại trí tuệ, đức năng này, giúp chúng sinh có ba độc tham sân si phiền não đặc biệt nặng, cũng có thể xa lìa ba độc.
Phần trước đã nói với quý vị, mười hai đại nguyện lấy đoạn này làm trung tâm. Bởi vì nếu lìa ba độc thì bảy nạn ở phần trước tự nhiên không còn, hai sự mong cầu ở phần sau đương nhiên trọn đủ, “có cầu có ứng” là đạo lý tất nhiên. Vì vậy nói về ba độc, đoạn kinh văn này là then chốt, chúng ta phải đặc biệt xem trọng. Trong kinh dạy chúng ta, phải “thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm”. Dưới đây là một đoạn kết luận, do chính đức Phật nói ra. Đức Phật gọi:
“Này Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có những oai thần lớn lao như vậy, làm lợi ích rất nhiều.”
Kinh văn nói “nhiêu” là rất nhiều, rất phong phú; tức là lợi ích rất phong phú, lợi ích rất nhiều.
“Do vậy chúng sanh nên thường xưng niệm.”
Quý vị xem đó, việc thoát bảy nạn chú trọng niệm bằng miệng, tức khẩu nghiệp, đến như lìa xa ba độc thì điều này phải là niệm trong tâm ý. Sức mạnh của niệm trong tâm ý so với niệm bằng miệng thì sâu xa hơn nhiều. Niệm bằng miệng có thể cảm ứng với Bồ Tát Quán Âm, có thể thoát được tai nạn trước mắt, còn ba độc là căn bản, không cách gì nhổ bỏ. Vì vậy, nếu muốn lìa ba độc, phải dùng ý căn thọ trì thánh hiệu Bồ Tát, mới có thể đạt được cảm ứng.
Do đó có thể thấy, chú giải của Đại sư Thanh Lương trong chương Quán Tự Tại, cũng không phải do ngài tự bịa đặt. Ngài có căn cứ từ kinh điển. Chúng ta đọc xong, “y pháp bất y nhân”, lời Đại sư Thanh Lương nói, trong kinh điển có căn cứ, đó chính là khai thị của Phật. Dưới đây nói về việc đáp ứng hai sự mong cầu. Mời quý vị xem kinh văn:
“Nếu có phụ nữ muốn sinh con trai, cúng dường lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm liền sinh con trai phước đức, trí tuệ; nếu muốn sinh con gái, liền sinh con gái xinh đẹp, nết na đoan chính, từng trồng sâu các gốc công đức, được mọi người yêu kính. Này Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức thần như vậy.”
Hai sự mong cầu chính là cầu con trai, cầu con gái. Quý vị nên biết, đây là nói trường hợp trong mạng số không có con. Nếu mạng số có con thì cần gì phải cầu? Trong mạng số không có con cái nhưng vẫn có thể cầu được. Trong tất cả sự cầu nguyện, đặc biệt nêu ra việc này, có thể thấy trong tất cả sự cầu nguyện của người thế gian, lấy việc này là lớn nhất, lấy sự cầu nguyện này là phổ biến nhất, mọi người đều quan tâm. Cầu danh lợi, cũng có người không thích danh lợi, nhưng nói đến con cái, không ai không muốn có con cái, không ai không muốn con cái tốt đẹp. Vì vậy đặc biệt nêu ra ví dụ này.
Chúng ta xem phần chú giải của Pháp sư:
“Có ba trường hợp mang tội bất hiếu,
[7] trong đó không con nối dõi là tội lớn.”
Hai câu này, trong nền văn hóa cổ xưa của Trung quốc có thể nói là vô cùng quan trọng. “Không có con thì dòng họ dứt mất.” Xã hội Trung quốc là xã hội luân lý, trong xã hội luân lý thì quan trọng nhất chính là thờ cúng ông bà tổ tiên. Vì vậy, mở kinh Lễ ra thì điều đầu tiên trong Ngũ lễ chính là Cát lễ. Nếu quý vị không có con nối dõi thì ai sẽ cúng giỗ? Đây là nét đặc sắc trong văn hóa của Trung quốc, là căn bản văn hóa của Trung quốc, chúng ta phải biết. Từ xưa đến nay, quý vị xem các vị hoàng đế, khi giành được chính quyền, cái gọi là được thiên hạ, nói theo ngôn ngữ ngày nay, lật đổ chính quyền trước, giành được chính quyền, lên ngôi hoàng đế. Việc đầu tiên họ làm là gì? Là xây dựng gia miếu của mình, thái miếu, phải tế tự tổ tiên. Từ đường của hoàng đế gọi là thái miếu, từ đường của thường dân gọi là tông từ, đây là việc đầu tiên. Cùng lúc đó chính là ban hành điển chương chế độ, chế tác lễ nhạc, mới thành một triều đại.
Sau khi Dân quốc thành lập, lật đổ chính phủ chuyên chế Mãn Thanh, nhưng chúng ta không kế thừa văn hóa Trung quốc xây dựng thái miếu. Trước đây hoàng đế do một người làm, thái miếu chỉ cúng tổ tiên một nhà. Vì vậy, bao nhiêu năm nay tôi suy nghĩ vấn đề này, Dân quốc thành lập, nên xây dựng miếu gì? Là tông từ thờ trăm họ. Bao nhiêu năm nay tôi luôn đề xướng. Chỗ chúng ta cúng, tôi tâm có thừa mà sức không đủ, bài vị ở đây nên viết theo trăm họ. Mỗi năm chúng ta có lễ Thanh minh, Trung nguyên, Đông chí, chúng ta cúng tế tổ tiên, không phải tế tổ tiên một người, chúng ta tế Tổ tiên trăm họ của dân tộc Trung Hoa.
Trong thời đại dân chủ, toàn bộ dân tộc chúng ta là một nhà, không phân biệt, đều là huynh đệ tỷ muội. Vì vậy quốc gia có ba đại điển tế, thứ nhất là tế tổ tiên, đây là căn bản; thứ hai là tế thầy, tế thầy chính là tế Khổng Tử, những năm gần đây chính phủ đề xướng, tế thầy; thứ ba là tế trung liệt, những người có cống hiến cho quốc gia, dân tộc, hy sinh vì nước, vì dân tộc, chúng ta có đền thờ liệt sĩ, ba loại tế tự. Ba loại tế tự này lấy cúng tế tổ tiên làm căn bản. Quý vị nghĩ xem, nếu như ngay cả tổ tiên cũng không có thì tế thầy là giả dối, không phải thật. Cha mẹ còn không yêu kính, làm sao yêu kính thầy? Những sự tưởng nhớ khác, ý nghĩa đều kém xa.
Vì vậy, tế tổ tiên là căn bản lớn nhất, chúng ta nên xây dựng tông từ trăm họ. Người chủ tế tông từ trăm họ trong một quốc gia chính là tổng thống. Hoặc tổng thống ra lệnh, do viện trưởng hành chính làm đại diện, đại diện toàn quốc. Trong một tỉnh có tông từ trăm họ của tỉnh đó, trong một huyện thị có tông từ trăm họ của huyện thị đó. Tôi ở nước ngoài đều đề xướng, phàm nơi nào có người Trung quốc, nên xây dựng một tông từ trăm họ ở đó, là biểu tượng đoàn kết tinh thần của chúng ta, là đại diện văn hóa Trung quốc. “Kính cẩn tưởng nhớ người đã khuất”, tức là nghĩ nhớ đến tổ tiên, chúng ta không dám làm việc xấu. Làm việc xấu có lỗi với tổ tiên, ý nghĩa vô cùng trọng đại. Hy vọng đồng tu chúng ta đều chú ý đến việc này, chúng ta phải hết lòng hết sức thúc đẩy việc này.
Ở đây nói đến “Có ba trường hợp bất hiếu, không con nối dõi là tội lớn, không con thì dòng họ dứt tuyệt. Tại sao lại chỉ riêng nêu người phụ nữ? Bởi vì đối với người phụ nữ thì không có con là nỗi khổ, bị chồng ruồng bỏ, bị mẹ chồng xem thường.” Trong bản văn dùng chữ phụ (婦)
[8] chính là chỉ người mẹ chồng, cả cha mẹ chồng đều xem thường người phụ nữ ấy, “người ngoài cũng chê cười”.
Vì vậy, người phụ nữ không có con cái quả thật rất đau khổ. Đây là vấn đề trong quá khứ, vì [xã hội] đặc biệt xem trọng việc nối dõi tông đường nên vấn đề này đương nhiên là nghiêm trọng. Hiện nay, trong thời đại dân chủ, một số quan niệm dần dần thay đổi, dù có con trai hay không cũng không sao, không xem trọng. Bây giờ cũng không có lễ, từ thời Dân quốc đến nay, quốc gia chúng ta không chế lễ, không chế tác lễ nhạc. Hiện nay về nhạc chỉ có một bài quốc ca, ngoài ra không có gì khác. Vì vậy, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng ta không có chương nhạc thống nhất, không có. Trong lễ cưới, lễ tang cũng không có trang phục nhất định, vì quốc gia không quy định. Vì vậy, hiện nay có nhiều người dùng lễ phục đều là của nhà Thanh, không phải của Trung Hoa Dân Quốc, chỉ dùng của nhà Thanh. Trước đây không thể như vậy, mỗi triều đại đều có lễ tiết riêng, tiêu biểu cho một triều đại.
Trước đây đặc biệt còn có quan niệm “lắm con nhiều cháu”. Nhà nào con cháu nhiều, anh em nhiều thì ai cũng ngưỡng mộ, anh em ít thì cảm thấy cô đơn. Vì vậy không chỉ phải có con cái, mà còn phải nhiều con nhiều cháu. Hiện nay xã hội nhân khẩu đông, đề xướng kế hoạch hóa gia đình, trước đây không có, trước đây khuyến khích sinh đẻ, không có kế hoạch hóa. Mặc dù chính phủ khuyến khích kế hoạch hóa như vậy, vẫn có nhiều người phản đối. Trước đây lúc Tiên sinh Phương Đông Mỹ còn tại thế, một số quan chức Bộ Giáo dục đã thỉnh giáo vấn đề này với lão nhân gia, lúc đó tôi cũng có mặt, tôi nghe được câu trả lời của Phương tiên sinh. Những người đó hỏi, chính phủ đề xướng kế hoạch hóa, hai con là vừa, thầy nghĩ sao? Thầy Phương nghe xong nói, tôi không cho là đúng, tôi vẫn thấy nhiều con nhiều cháu là tốt hơn. Lão nhân gia vẫn giữ quan niệm này, ngài không cho [việc hạn chế] là đúng. Vì vậy trong quan niệm trước đây, ý thức hình thái đó, người phụ nữ không có con cái quả thật rất đau khổ. Vì vậy, trong tất cả những điều cầu nguyện, đặc biệt nêu ra điều này. Đây là cầu nguyện phổ biến, cầu nguyện của mọi người. Nêu ra điều này ý nghĩa rất sâu.
Dưới đây nói đến “con trai phước đức, trí tuệ” và “con gái xinh đẹp, nết na đoan chính”. Trong chú giải cũng có giải thích đơn giản, ở dòng thứ năm: “Con trai có phước đức, trí tuệ, vì nếu có trí tuệ mà không có phước báo, ắt là địa vị thấp hèn, tài sản khốn cùng.” Đây chính là nói quý vị thông minh, có tuệ thì thông minh, người tuy thông minh nhưng không có địa vị trong xã hội. Ví như trước đây, chúng ta rất dễ thấy, lấy ví dụ như thời xưa, được gọi là “tú tài cùng khốn”. Tú tài là gì? Là người thông minh, nhưng không có công danh, chỉ đỗ tú tài thôi, không có địa vị, lại không có tiền tài giàu có, phải nghèo hèn cả đời. Đây chính là có trí nhưng không có phước.
“Có phước đức, không có trí tuệ, ắt là nhận thức kém cỏi, thấy biết cạn cợt.” Có người có phước báo, làm kinh doanh phát đạt giàu có, hoặc cũng được làm quan, làm ông quan hồ đồ, nhưng người ấy có phước báo. Kiến thức rất nông cạn, không có trí tuệ, xử lý sự việc thường đảo lộn thị phi, việc gì cũng phải hỏi nơi người khác, nghe sự chỉ bày của người khác, tự mình không có chủ kiến, không có chủ trương. Người như vậy có phước báo nhưng không có trí tuệ. Như trong các vị hoàng đế, quý vị đều biết vào thời Tam quốc, A Đẩu con Lưu Bị chính là có phước báo, được làm hoàng đế, nhưng không có trí tuệ. Ông được người giúp đỡ rất tốt là Gia Cát Lượng. Nếu không có Gia Cát Lượng giúp, sớm đã mất nước rồi. Ông ấy có phước báo [nhưng không có trí tuệ].
Vì vậy, tốt nhất là phải được phước báo, trí tuệ đầy đủ. Nhưng phước tuệ đầy đủ quả thật không dễ. Vừa có phước báo, vừa có trí tuệ, điều này rất khó được. Trong kinh cũng dẫn một đoạn kinh văn trong kinh Lăng Nghiêm, chúng ta cùng đọc qua:
“Mười hai là, viên dung các hiện tượng, xoay tánh nghe trở về, đạo tràng bất động hòa vào thế gian nhưng không hủy hoại thế giới, nên có thể biến hiện khắp mười phương cúng dường chư Phật Như Lai số như vi trần, ở bên mỗi đức Phật làm Pháp vương tử; nên khiến chúng sanh trong khắp pháp giới, nếu ai không có con, muốn cầu con trai, liền sanh được con trai phước đức trí tuệ.”
Những đại nguyện này của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng giống như Bốn mươi tám nguyện của Phật A-di-đà, nguyện nào cũng sẽ được thực hiện, nhưng quý vị phải hiểu phương pháp cầu. Trong kinh văn rõ ràng nói với chúng ta, trang 820, dòng thứ ba từ bên trái sang, quý vị đọc xem: “Lễ bái cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm”. Vì vậy, khi cầu nguyện với Bồ Tát Quán Thế Âm, cần phải lễ bái. Nếu quý vị nghi ngờ rằng, tôi cầu nguyện chỉ cần trong tâm niệm, nơi miệng niệm là được, cần gì phải lễ bái? Phật Thích-ca Mâu-ni rõ ràng bảo quý vị lễ bái, vậy việc này quý vị phải đi hỏi Phật Thích-ca Mâu-ni, tôi không trả lời được. Phật dạy chúng ta làm như vậy, quý vị làm như vậy là đúng, không sai. “Y theo pháp không y theo người”, Phật đã dạy chúng ta. Quý vị phải hiểu đạo lý này. Bất kể là cầu tiêu trừ tai nạn, hay cầu tiêu trừ nghiệp chướng, lìa xa ba độc là tiêu trừ nghiệp chướng, hoặc cầu tất cả sự vật, tốt nhất là miệng niệm, tâm nhớ tưởng, thân lễ bái đều có, thì muôn lần đều kết quả. Đây là phương pháp tu hành tôi nói với quý vị, nhất định phải tu như vậy. Lạy Phật quả thật được tiêu trừ nghiệp chướng, mà còn là sự vận động tốt, đối với thân thể chúng ta thêm cường tráng, không cần học Thái cực quyền. Học loại đó không có ý nghĩa, lạy Phật nhiều tốt hơn.
Vì vậy, các bậc đại đức xưa nay, những người học Phật, mỗi ngày tổng cộng phải lạy mấy chục lạy, mấy trăm lạy, quả thật có lợi ích. Lạy Phật, trong đạo dưỡng sinh là thượng thừa. Thân là một cấu trúc cơ học cần vận động, không vận động thì già hóa. Thân cần vận động, lạy Phật là vận động; tâm cần thanh tịnh, lúc lạy Phật tâm thanh tịnh, nhất tâm nghĩ nhớ đến thánh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, tâm này rất thanh tịnh, phương pháp tu này rất hay. Lúc tôi chịu lạy Phật, chính là nhờ thông suốt ý nghĩa này, tôi mới chịu lạy Phật; ý nghĩa không thông, bảo tôi lạy Phật, tuyệt đối không làm được. Vì vậy lúc tôi học Phật đã ảnh hưởng rất nhiều người, lúc đó tôi làm việc trong cơ quan, đồng nghiệp chúng tôi có hơn ba trăm người, sau khi tôi học Phật, quan niệm mỗi người đều thay đổi. Bởi vì sao? Mọi người đều biết tôi là kẻ ngoan cố, kẻ ngoan cố học Phật, Phật giáo nhất định có điều gì đó đặc biệt, nếu không sao ông ấy chịu học? Vì vậy mà ảnh hưởng rất nhiều người.
Chúng ta cùng đọc qua phần chú giải:
“Cầu con trai được sinh con trai, đây là bậc đại sĩ hiện thân vào đời, cúng dường phụng sự chư Phật khắp nơi, dùng thần lực của bậc Pháp vương tử để gia trì khiến cho được như vậy.” Đây là nói việc cầu sinh con trai.
Đoạn này, Pháp sư Viên Anh trong phần Giảng Nghĩa, trong sách Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa có giải thích, cho rằng người thế gian sợ không có con trai, nhìn chung có ba lý do. Thứ nhất là lúc tuổi già thể lực suy yếu, không có người phụng dưỡng, không có người hầu hạ, đó là việc rất khổ. Vì vậy có con cái, con cái hiếu thảo, tuổi già được hưởng phước. Nền giáo dục của Trung quốc, xin thưa với quý vị, là giáo dục phước đức trí tuệ. Thời thơ ấu, thiếu niên là đặt nền tảng trí tuệ, phước đức; thời trung niên là phục vụ xã hội, tạo phước cho nhân quần; tuổi già thì hưởng phước. Đây là nhân sinh quan theo Trung quốc, tuổi già thì hưởng phước. Nếu không có con cái, tuổi già phải khổ.
Lý do thứ hai, chính là gia nghiệp không có người kế thừa. Gia tộc của mình, sự nghiệp của mình không có người giao phó.
Thứ ba là cúng giỗ, việc cúng giỗ thờ tự nhất định sẽ bị dứt mất. Vì vậy, từ xưa đến nay coi trọng con trai, ý nghĩa là ở chỗ này. Bởi vì chế độ Trung quốc từ xưa là con trai kế thừa, đặc biệt là đích trưởng, tức trưởng tử kế thừa. Quý vị xem trong lễ phục xưa, hiện nay có người không biết, không hiểu. Mặc đồ tang khi để tang, đồ tang làm bằng vải gai, vải thô, đó là người phải trả hiếu nặng nhất. Đồ tang không viền gọi là “trảm thôi”. Vậy ai mặc? Chính là người con trưởng và người dâu trưởng, tức là hai người phải mặc. Con thứ mặc đồ tang có viền, gọi là “tề thôi”, là mức độ trả hiếu giảm hơn một bậc. Tại sao con trưởng được xem là phải trả hiếu nặng? Vì con trưởng kế thừa gia nghiệp. Điều này trong gia lễ ngày xưa rất xem trọng. Hiện nay thì rất qua loa, không mấy chú trọng, những người trẻ đều không biết.
Trong bản kinh này chỉ dạy chúng ta phương pháp cầu Bồ Tát, không nói rõ nguồn gốc thần lực gia trì của Bồ Tát. Nguồn gốc năng lực của Bồ Tát, trong kinh Lăng Nghiêm nói rất rõ, “viên dung các hiện tượng, xoay tánh nghe trở về, đạo tràng bất động”, hai câu này nói về công phu tu chứng của Bồ Tát. Ngài có thể tiêu dung huyễn hình tứ đại, xoay tánh nghe chân thật trở về, chứng nhập cảnh giới bất sinh bất diệt, đây chính là đạo tràng bất động. Cái gọi là “Nhất thừa tịch diệt tràng địa”, cũng chính là “trụ nơi cảnh giới giải thoát không thể nghĩ bàn” trong kinh Hoa Nghiêm, hoặc “Tịnh độ Thường tịch quang” trong pháp môn Tịnh độ, chính là cảnh giới này. Vì vậy, ngài có thể dùng vô lượng vô biên phân thân, hoặc chúng ta gọi là hóa thân, để thân cận chư Phật trong khắp các cõi nước mười phương, “phụng sự cúng dường chư Phật khắp nơi”, tức là làm đệ tử Phật. “Pháp vương tử”, vì Phật được gọi là Pháp vương, đệ tử Phật gọi là Pháp vương tử. Nhưng cũng không thể tùy tiện gọi là Pháp vương tử, phải thật sự là bậc kế thừa di giáo, lưu thông giáo pháp Đại thừa. Giống như con cái ở thế gian, kế thừa gia nghiệp của cha, phát huy càng thêm sáng tỏ, rạng rỡ tổ tông, như vậy mới là con cái tốt. Đệ tử Phật cũng vậy, kế thừa di giáo của Phật, đem Phật pháp phát huy sáng tỏ rộng truyền, hoằng pháp lợi sinh, đây là Pháp vương tử của Phật, trưởng tử của chư Phật Như Lai. Bồ Tát Quán Thế Âm tiêu biểu cho sự hoằng pháp lưu thông, đương nhiên nếu không phải Pháp vương tử thì còn ai là Pháp vương tử? Dùng thần lực này gia trì cho những chúng sinh không có con, họ cầu nguyện với Bồ Tát Quán Thế Âm, có cầu ắt có ứng.
Pháp sư Viên Anh trong phần Giảng Nghĩa kể câu chuyện của chính ngài. Ngài chính là do mẹ ngài cầu Bồ Tát Quán Thế Âm mà được sinh ra. Nhưng nói ra cũng đáng thương, lúc ngài năm tuổi thì cha mẹ đều qua đời, thành trẻ mồ côi. Ngài được chú, bác nuôi dưỡng. Sau này xuất gia làm Pháp sư, hoằng pháp lợi sinh, quả thật không dễ dàng, cũng không phải người tầm thường.
Đoạn dưới đây là nói việc cầu sinh con gái:
“Con gái nết na đoan chánh, là khởi đầu cho bảy phẩm đức”, bảy phẩm đức này phần trước có nói, tôi không đọc lại, quý vị có thể tự xem sẽ biết.
“Thế nhưng đoan chánh mà không có tướng tốt, ắt là dung mạo xấu xí, hình thể suy kém; lại có tướng tốt đẹp mà không đoan chánh, ắt phải sớm chịu cảnh côi cút góa bụa. Nay dung mạo và hình tướng tương hợp hỗ trợ cho nhau, càng làm rõ đức hạnh. Đoan chánh thì được thương yêu, có tướng tốt thì được kính trọng, cho nên nói rằng được mọi người yêu kính.”
Đoạn này đại ý nói rằng, người con gái phải có tướng tốt, cũng phải đoan chánh, như vậy mới có thể được mọi người vừa yêu thương vừa kính trọng, đức hạnh mới được trọn vẹn.
Chúng ta xem tiếp theo, trong kinh Lăng Nghiêm có đoạn kinh văn này, ý nghĩa càng thêm rõ ràng. Kinh nói rằng:
“Mười ba là, sáu căn viên thông chiếu sáng không phân biệt, trùm khắp mười phương thành đại viên kính không Như Lai Tạng, nên thừa lãnh pháp môn bí mật của mười phương Như Lai nhiều như vi trần không hề thiếu sót, và khiến cho pháp giới chúng sanh, nếu ai không có con, muốn cầu con gái thì sanh được con gái tướng tốt đoan chánh, phước đức dịu dàng, được nhiều người kính quý.”
Chúng ta đọc tiếp cho hết đoạn văn, vì thời gian sắp hết:
“Cầu sinh con gái được sinh con gái, đó là đại sĩ viên thông bao hàm cảnh giới, thừa lãnh từ đức Như Lai, thọ nhận sức của pháp môn thêm vào, thánh lực rất lớn, không có gì mà không ban cho.”
Dưới đây là một đoạn tổng kết lại:
Trong kinh Lăng Nghiêm nói “sáu căn viên thông”, viên là viên dung, thông là thông đạt, tức là phía trước nói “một căn quay về nguồn, sáu căn đều giải thoát”. Ý nghĩa viên thông phía trước đã nói rất nhiều. Chỗ này chúng ta cần hiểu rõ, chính là trong kinh nói “chiếu sáng không phân biệt”. Đây là nói sáu căn sáng suốt linh diệu, soi chiếu hỗ dụng không hai không khác. Vì vậy “thành đại viên kính”, tức là chuyển a-lại-da thành Đại viên kính trí. Đây là chuyển trên quả vị. Chúng ta biết rằng, các thức thứ sáu, thứ bảy là chuyển trên nhân; các thức thứ năm, thứ tám là chuyển trên quả. Có được năng lực này rồi mới có thể “thừa lãnh pháp môn bí mật của mười phương Như Lai nhiều như vi trần không hề thiếu sót”, đặc biệt nói rõ tất cả “pháp môn bí mật”, trong đó bao hàm ý nghĩa đức hạnh nữ giới. “Bao hàm cảnh giới mười phương”, có thể bao hàm các thế giới chư Phật trong mười phương, Bồ Tát có thể lãnh thọ pháp môn của chư Phật, những gì gọi là Đại, Tiểu, quyền, thật, hiển, mật đều có thể thọ trì mà không quên mất. “Thừa thuận” chính là đức hạnh của người phụ nữ, lãnh thọ chính là điều kiện quan trọng của khuê môn. Do đó, nói những điều như vậy đều tương ứng với cầu sinh con gái. Như vậy, gia trì pháp giới chúng sinh không con, nếu cầu con gái, Bồ Tát Quán Thế Âm có thể dùng oai đức thần lực gia trì cho họ, có thể mãn nguyện cho họ, họ có thể đạt được, tức là sinh được con gái đoan chánh, phước đức, nhu thuận. Bên ngoài có phẩm đức, dung mạo đoan chánh, trang trọng, chính là có phước; bên trong đủ các tính tốt, nhu thuận, người Trung quốc nói là điềm đạm nết na, như vậy là có đức. Có phước, mọi người gặp liền thích; có đức, mọi người đều kính trọng.
Quý vị xem, vừa kính trọng vừa yêu thích, thật sự là khó được. Nếu nói người ta yêu thích mà không kính trọng, như vậy cũng không hoàn toàn; kính trọng nhưng lại không yêu thích, như vậy cũng không trọn vẹn. Vừa kính trọng vừa yêu thích, đức hạnh người phụ nữ mới là trọn vẹn. Bồ Tát Quán Thế Âm Bồ Tát có thể giúp chúng sanh mãn nguyện như vậy, đây là điều chúng ta mong cầu.
Đến đây đã giới thiệu xong đoạn về “hai sự mong cầu”. Hôm nay chúng ta giảng đến đây thôi.
_________________________________
CHÚ THÍCH [1] Nguyên tác nói “像百丈大師” (như Đại sư Bách Trượng) là cách kể lại quá ngắn gọn, dễ gây hiểu lầm, vì đây là câu chuyện của ông già (là con chồn hiện thân) đến thưa hỏi Đại sư.
[2] Năm 1972, Hòa thượng Tịnh Không làm Tổng chủ giảng tại Giảng Tòa Đại Chuyên Phật Học này.
[3] Nguyên bản ghi là “這七十三年 - giá thất thập tam niên” (năm 73 này), nhưng theo ngữ cảnh của đoạn văn thì phải là năm 1983, cũng là năm giảng bài này. Như vậy Hòa thượng bắt đầu học Phật từ năm 1953 và bắt đầu giảng kinh khoảng từ năm 1959.
[4] Kinh Hoa Nghiêm có các bản dịch khác nhau, bản 40 quyển do Bát-nhã dịch vào đời Đường, bản 60 quyển do Phật-đà-bạt-đà-la dịch vào đời Đông Tấn, bản 80 quyển do Thật-xoa-nan-đà dịch vào đời Đường. Ở đây Hòa thượng nói đến bản 40 quyển nên gọi là “Tứ thập Hoa Nghiêm”.
[5] Bốn cõi (Tứ độ) bao gồm Phàm thánh đồng cư độ (凡聖同居土), Phương tiện hữu dư độ (方便有餘土), Thật báo vô chướng ngại độ (實報莊嚴土), Thường tịch quang độ (常寂光土).
[6] Nguyên bản nói “五十六年 - ngũ thập lục niên” (năm 56), chỉ năm Dân quốc thứ 56, tức là năm 1967. Bởi vì con số 56 không thể là số tuổi (vì đến năm 1983 Hòa thượng mới 56 tuổi) và cũng không thể là năm 1956, vì đến năm 1959 Hòa thượng mới bắt đầu giảng kinh.
[7] Ba trường hợp mang tội bất hiếu theo Nho gia bao gồm: Thứ nhất, nuông chiều mà không ngăn cản, để cha mẹ làm điều bất nghĩa; thứ hai, cha mẹ già không hết lòng phụng dưỡng; thứ ba, không sinh con nối dõi tông đường, khiến dòng họ phải tuyệt tự.
[8] Thông thường chữ “phụ” (婦) này dùng chỉ người con dâu.