1. Giải thích tên phẩmKINH VĂNPhẩm Thí dụ, thứ baGiải thích tổng quátTrước tiên giải thích tổng quát. “Thí” là nêu ra tình huống so sánh, “dụ” là [qua tình huống so sánh đã nêu mà] chỉ bày dạy bảo rõ ràng. [Đó là] lấy việc này so với việc kia, mượn sự việc dễ hiểu để chỉ bày dạy bảo ý nghĩa sâu xa.
Phần trước, văn trường hàng và kệ tụng đã nói rõ, giảng rộng 5 lượt về chư Phật. Hàng thượng căn trí sáng nhanh nhạy nghe thuyết dạy đầy đủ liền được khai ngộ; hạng trung căn, hạ căn ôm giữ mê lầm nên chưa thể khiến cho được giác ngộ, nhưng tâm đại bi [của Phật] không thôi dứt, trí tuệ khéo léo vô cùng, liền chỉ dạy nhìn cây lay động mà biết có gió thổi, nêu hình quạt tròn để ví cho mặt trăng,
[1] khiến [những người nghe pháp] đều được khai ngộ hiểu rõ, cho nên gọi là thí dụ.
Giải thích phân biệtDùng pháp thế gian để so sánh với pháp xuất thế gian, nhân nơi những việc từng có mà được nghe việc chưa từng có nên hoan hỷ phấn chấn, giống như trong kinh này dùng ví dụ cha và con của thế gian để so sánh với đạo sư và đệ tử xuất thế gian.
[2]Lại dùng pháp sinh ra của thế gian để so sánh với pháp sinh ra xuất thế,
[3] khiến cho nhận được lời dạy của Phật, chẳng để mất Đại thừa, cũng giống như trong kinh này nói người cha rõ biết trong lòng của các con trước đây đều ưa thích những món đồ chơi quý giá.
Lại dùng pháp trừ diệt của thế gian để so sánh với pháp trừ diệt xuất thế,
[4] tuy [hàng Thanh văn] đã được vô lậu, nhưng nghe pháp này cũng trừ diệt được ưu tư buồn bực, giống như trong kinh này nói, ta làm cha, có thể cứu được những khổ nạn [của các con], nhưng không thể cứu chúng khỏi sự thiêu đốt [trong nhà lửa].
Lại dùng pháp chẳng sinh chẳng diệt của thế gian để so sánh với pháp chẳng sinh chẳng diệt xuất thế gian,
[5] khiến cho [người nghe pháp] được an trụ trong trí tuệ chân thật, [tự biết rằng] chắc chắn sẽ được làm Phật, giống như trong kinh này nói [những người con ông trưởng giả] ngồi lên xe báu thẳng đường đến đạo tràng.
Nên biết rằng, đức Phật dùng một âm thanh nói ra các thí dụ, khéo léo giúp cho hàng trung căn và hạ căn đều nhận được sự lợi ích của Tứ tất đàn, cho nên gọi là phẩm Thí dụ.
Lược nói theo Tạng giáo thì đức Phật vốn có ý muốn tán thán Phật thừa, nhưng vì chúng sinh không đủ sức kham nhận nên mới suy nghĩ nhớ lại những phương tiện khởi từ lòng đại bi của chư Phật trước đây. Nhân đó mới đi đến Lộc uyển rồi xưng tán [pháp môn phương tiện ví ba thừa như] ba loại xe [dê, xe nai và xe trâu]. Hàng Nhị thừa trở xuống chỉ tự cứu được mình, không lo nổi cho người khác. Bồ Tát cưỡi xe trâu [có khả năng] đưa người khác ra khỏi nhà lửa, cho nên gọi là đại [Bồ Tát]. Đây là giải thích phẩm Thí dụ theo Tạng giáo.
Lại nữa, cả ba hạng người [trong ba thừa] đều sợ lửa thiêu đốt [mà bỏ chạy]. Hàng Thanh văn thì [nhút nhát] như dê, quay đầu chạy thẳng không hề nhìn lại. Hàng Duyên giác như nai mẹ [thương con nên] vừa chạy vừa quay đầu [nhìn lại]. Hàng Bồ Tát như voi lớn [dũng mãnh], tự thân chống đỡ với tên đao cứu giúp người khác cùng ra khỏi [đám cháy]. Kinh Niết-bàn nói [hàng Nhị thừa như] thỏ, như ngựa, [không đủ sức vượt qua dòng sông lớn mười hai nhân duyên].
[6] Đó là giải thích phẩm Thí dụ theo Thông giáo.
Lại nữa, hàng Tam thừa mới phát tâm gần đây, nương theo lý cạn cợt, trí tuệ yếu kém, dứt trừ thông hoặc,
[7] vẫn chưa tận bờ thấu đáy, chưa phải rốt ráo đến bờ giải thoát.
[8] Bồ Tát đã phát tâm từ rất lâu xa, nương theo lý sâu xa, trí tuệ vững chắc, dứt trừ biệt hoặc,
[9] đã rốt ráo cội nguồn, thấu suốt tánh thể. Đại Phẩm [Bát-nhã] nói: “Hàng Nhị thừa như chút lửa đom đóm, hàng Bồ Tát như ánh sáng mặt trời.” Đây là giải thích phẩm Thí dụ theo Biệt giáo.
Lại nữa, [nếu như] ban sơ vừa được thấy thân Phật, nghe Phật thuyết dạy liền tin nhận hết thảy, thể nhập trí tuệ Như Lai, những người như vậy thật dễ hóa độ, chẳng làm cho đức Như Lai phải khó nhọc. Như trong kinh Hoa nghiêm nói: “Ngay nơi sự việc đã là chân thật.” [Như vậy] thì chẳng đợi [nêu ra] thí dụ [mới rõ biết lẽ thật]. Nhưng vì những người chưa thể nhập được nên trong hơn 40 năm [đức Phật phải] dùng những phương tiện khác để giúp hiển bày nghĩa lý rốt ráo, cho đến hôm nay ở thành Vương Xá mới quyết định thuyết giảng Đại thừa, khiến cho tất cả [chúng sinh đều được] khai, thị, ngộ, nhập trí tuệ Phật, không phải chỉ riêng một người được diệt độ. [Đó gọi là] nay giống như xưa, xưa giống như nay, chẳng hai chẳng khác. Bậc thượng căn trí tuệ sáng suốt, vừa nghe thuyết dạy liền có thể hiểu rõ, nên không làm cho Như Lai phải khó nhọc, lại cũng chẳng đợi nêu ra thí dụ [mới hiểu]. Nhưng chỉ vì hạng trung căn và hạ căn [nghe lời Phật dạy] trái với sự bám chấp từ lâu nay nên sinh nghi hoặc, do dự chần chừ nơi ngã rẽ [bước vào Đại thừa], phải đợi đến hôm nay [đức Phật] đưa ra thí dụ [như trưởng giả ban cho các con những] xe báu lớn thì mới được lợi ích. Đây là giải thích phẩm Thí dụ theo Viên giáo.
[Những cách giải thích phẩm Thí dụ theo] bản tích hay quán tâm đều theo đó có thể hiểu rõ được, không cần phải nêu ra. Đại lược là như vậy.
Phần thuyết chánh pháp
[10] có 5 phần kinh văn, phần thứ nhất đã trọn nghĩa, 4 phần sau [ý nghĩa] chưa trọn vẹn. [Cho nên] phẩm [Thí dụ] này lẽ ra nên bắt đầu ngay sau phần chư thiên nói kệ và trước phần nêu thí dụ căn nhà đang bốc cháy. [Có lẽ do] người ghi chép kinh này đã thay đổi sắp xếp lại, đặt phần trình bày chỗ nhận hiểu [của ngài Xá-lợi-phất] mở đầu cho phẩm này.
[11]Lại có người cho rằng: “Phần phát khởi [giáo pháp cho] hàng trung căn đặt ở đầu [phẩm Thí dụ trong] quyển hai này cũng giống như 6 điềm lành với nội dung hỏi đáp là mở đầu cho phần thuyết chánh pháp, [cho nên] nội dung trình bày chỗ nhận hiểu rồi được Phật thụ ký là mở đầu cho phần thuyết thí dụ. Đó là [nói theo] tâm lý con người mà thôi, [nếu như] đặt phần [trình bày nhận hiểu này] sau phần thuyết chánh pháp, [lẽ nào lại khiến cho] hàng trung căn không tỏ ngộ hay sao?
2. Xá-lợi-phất trình bày chỗ nhận hiểuKINH VĂNLúc bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất hân hoan phấn chấn, liền đứng dậy chắp tay, chiêm ngưỡng dung nhan Phật rồi bạch rằng: “Nay con theo đức Thế Tôn mà được nghe pháp âm này, trong lòng hân hoan phấn chấn, được việc chưa từng có. Vì sao vậy? Trước đây con theo Phật, từng được nghe pháp như thế này, thấy các vị Bồ Tát được thụ ký sẽ thành Phật, mà [hàng Thanh văn như] chúng con không được dự phần [vào việc thụ ký ấy] nên hết sức tự cảm thương, nghĩ mình đã mất đi tri kiến vô lượng của Như Lai. Bạch Thế Tôn! Con thường một mình ở dưới gốc cây trong chốn núi rừng, mỗi khi tĩnh tọa hoặc đi kinh hành đều tự nghĩ rằng: ‘Chúng con cũng cùng thể nhập tánh pháp, vì sao đức Như Lai lại dùng pháp Tiểu thừa để hóa độ [chúng con]? Đây là lỗi của chúng con, chẳng phải do đức Thế Tôn. Vì sao vậy? Nếu chúng con đợi đến khi [Thế Tôn] thuyết dạy về nhân thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì ắt có thể dùng pháp Đại thừa mà được giải thoát. Nhưng chúng con lại không hiểu được sự thuyết dạy tùy phương tiện thích hợp [của đức Như Lai], nên ban sơ vừa được nghe pháp [Tiểu thừa], có sự tỏ ngộ liền tin nhận ngay, suy xét [theo đó], lấy đó làm chỗ chứng ngộ.’ Bạch Thế Tôn! Con từ xưa nay, cả ngày lẫn đêm vẫn luôn tự trách mình, đến hôm nay theo Phật được nghe pháp chưa nghe, vốn chưa từng có, nên dứt trừ hết mọi sự nghi hoặc, hối tiếc, thân tâm thư thái an nhiên, được sự an ổn sảng khoái. Ngày hôm nay con mới biết mình đích thực là con Phật, sinh ra từ miệng Phật, hóa sinh từ pháp Phật, cũng được có phần trong pháp Phật.”Phần này là thứ hai, nêu chỗ nhận hiểu [của ngài Xá-lợi-phất] gồm việc tiếp nhận những giáo pháp được nghe và trình bày những điều nhận hiểu. Trong văn trường hàng thì cả 2 ý nghĩa này được nói chung, trong phần kệ tụng thì trình bày riêng. Cho nên gọi phần này là trình bày chỗ nhận hiểu. Kinh văn lại chia làm 2 phần. Thứ nhất là phần mở đầu của người chép kinh, thứ hai là nội dung ngài Xá-lợi-phất tự trình bày.
Phần mở đầu cũng chia làm 2, [đó là] nói chỗ nhận hiểu trong tâm và hình dung cử chỉ biểu lộ ra bên ngoài. Nhận hiểu trong tâm gọi là “hân hoan”. Vui mừng biểu lộ ra bên ngoài thành hành vi cử chỉ gọi là “phấn chấn”. Từ nơi bậc [thầy giác ngộ] tuyệt diệu mà được nghe giáo pháp tuyệt diệu, có được sự nhận hiểu tuyệt diệu. [Trong 3 điều tuyệt diệu này], chỉ may mắn gặp được một cũng đủ để vỗ tay mừng vui, huống chi cùng lúc gặp được cả 3, sao lại có thể không “hân hoan phấn chấn”?
Kinh văn nói: “Nay con theo đức Thế Tôn mà được nghe pháp âm này, trong lòng hân hoan phấn chấn.” [Đó là nói] trong tâm ngoài thân hòa hợp nên khiến cho vui mừng như thế. Đây là giải thích theo thế giới [tất đàn].
Lại nữa, thay đổi từ Tiểu thừa sang học Đại thừa, đó là từ bỏ sự nghèo khổ nơi lều cỏ mà [quay về] nhận lấy sản nghiệp giàu sang trong gia tộc. Kinh văn nói: “Ngày hôm nay con mới biết mình đích thực là con Phật.” Do đó nên vui mừng. Đây là giải thích theo vị nhân tất đàn.
Lại nữa, [được nghe diệu pháp rồi] bao lo buồn hối tiếc đều tan biến; những khó khăn, nghi hoặc đều dứt trừ, mọi sự che chướng trong ngoài đều thông thoáng, rỗng rang sáng suốt.
[Kệ tụng trong] kinh văn [phần sau] nói: “Con đã sạch lậu hoặc, được nghe cũng dứt phiền.” Do vậy nên hoan hỷ. Đây là giải thích theo đối trị tất đàn.
Lại nữa, những gì hàng con Phật cần đạt được thì đều đã đạt được. [Kệ tụng trong] kinh văn [phần sau] nói: “An trụ trong thật trí, con nhất định thành Phật.” Đây là giải thích theo đệ nhất nghĩa tất đàn.
Lược theo giáo nghĩa thì nói vui mừng hân hoan là niềm vui chứng nhập quả vị, nhưng vị A-la-hán đã thoát ra khỏi sự trói buộc của phiền não trong ba cõi, phá bốn trụ địa,
[12] trừ sạch quả báo phiền não,
[13] gặp việc nguy hại không lo buồn, được sự lợi lạc cũng chẳng mừng vui, nay [kinh văn] nói là “hân hoan vui mừng”, nhất định không phải là sự vui mừng như của thế gian. Nếu [tu tập] khổ nhẫn phát khởi sáng suốt, hoặc đạt đến bậc rốt ráo vô học, thì [đều là những điều] trước đây đã đạt được rồi, nay không thể lại vui mừng lần nữa.
Nếu ba hạng người [tu tập trong ba thừa] đều dùng cách mặc nhiên vô ngôn để nói đạo, tuy tánh thể phân chia ra khác biệt nhau nhưng đạt đến chứng nhập lẽ không cũng đồng nhất như nhau. Niềm vui của sự chứng nhập đồng nhất đó, [vị A-la-hán cũng] đã đạt được từ lâu rồi, nên hôm nay cũng không thể vui mừng lần nữa.
Nếu dùng hai pháp quán không
[14] làm phương tiện tu đạo, thì giả quán dứt sạch chỗ hẹp hòi thô lậu của hàng Nhị thừa, không quán trừ hết chỗ lăng xăng tán loạn của phàm phu. Vượt qua cả hai chỗ thiên lệch xấu ác, đạt được sự hân hoan vui mừng lớn lao.
Theo Viên giáo thì chứng ngộ vào hàng Sơ phát tâm trụ được gọi là Hoan hỷ trụ. Hạnh đầu tiên [trong Thập hạnh] cũng gọi là Hoan hỷ hạnh. Sơ địa [trong Thập địa] cũng gọi là Hoan hỷ địa. Ngài Xá-lợi-phất đã là bậc thượng căn, trí tuệ nhanh nhạy sáng suốt, tất nhiên đó là sự hân hoan vui mừng vượt thoát và thể nhập, mà ví như không vượt thoát, thể nhập thì cũng vẫn gọi là hân hoan vui mừng. Giải thích như trên đều là nói theo giáo nghĩa.
Giải thích theo bản tích thì bản là ngài Xá-lợi-phất vốn đã thành Phật từ xa xưa, hiệu là Phật Kim Long Đà, [còn hình tích là] vì trợ giúp đức Phật Thích-ca [giáo hóa nên hiện làm] vị đệ tử trí tuệ [ở bên phải đức Phật]. Ban đầu [ngài thị hiện] đi theo ngoại đạo, [rồi sau] phá trừ tà kiến quay sang chánh đạo. Đó là vị sữa tươi, hân hoan vui mừng làm lợi ích cho hàng phàm phu. Tiếp đến là vị sữa đặc, hân hoan vui mừng làm lợi ích cho bậc hiền thánh. Tiếp theo nữa là các vị váng sữa sống (sinh tô), váng sữa chín (thục tô), hân hoan vui mừng làm lợi ích cho các vị Bồ Tát. Đến hôm nay làm vị đề hồ, hân hoan vui mừng thể nhập tri kiến Phật, làm lợi ích cho những người học Phật. Những sự hân hoan vui mừng như vậy đều là [sự thị hiện] hình tích mà có.
Giải thích theo quán tâm [y như trên có thể hiểu được] không cần ghi chép vào đây. Đại lược là như vậy.
Trong phần mở đầu nói đến hình dung cử chỉ bên ngoài, “liền đứng dậy chắp tay”, đó gọi là dùng thân nhận hiểu. Trước đây [hai pháp] quyền và thật chia hai, như hai bàn tay không chắp lại, nay đã hiểu được quyền chính là thật, như hai bàn tay chắp lại [thành một].
“Hướng về Phật” là ý nghĩa trước đây [cho rằng] pháp quyền chẳng phải nhân thành Phật, pháp thật cũng chẳng phải quả thành Phật. Nay hiểu được rằng quyền tức là thật, thành nhân viên mãn thành tựu lớn lao. Nhân phải hướng đến quả, cho nên nói là “chắp tay hướng về Phật”.
[15]“Chiêm ngưỡng dung nhan Phật” là biểu hiện sự nhận hiểu được lẽ chân thật của ngài Xá-lợi-phất. Lẽ thật ấy tức là cảnh giới Phật, chẳng phải pháp phương tiện. [Hết lòng] “chiêm ngưỡng dung nhan Phật”, không còn khởi lên ý niệm gì khác, đó là biểu hiện khai mở tri kiến Phật. Ý hiểu rõ về pháp thật lại cũng hiểu rõ pháp quyền, thân nhận hiểu pháp quyền cũng là hiểu rõ pháp thật. Nêu lên [ý và thân là] để mỗi bên đều hỗ trợ làm rõ ý nghĩa cho nhau.
Từ câu “bạch rằng” trở đi là nói sự nhận hiểu bằng lời, tức là ngài Xá-lợi-phất tự trình bày. Phần kinh văn này chia làm 2 phần. Thứ nhất là phần kinh văn trường hàng, thứ hai là phần kệ tụng.
Phần kinh văn trường hàng lại chia làm 3 đoạn. Đoạn thứ nhất nêu vấn đề gồm 3 sự vui mừng, đoạn thứ hai giải thích và đoạn thứ ba tóm kết trọn vẹn.
Đoạn thứ nhất nói “nay con theo đức Thế Tôn”, đó là nêu việc thân con được gặp thân Phật, cho nên gọi là sự vui mừng đến từ thân [Phật]. Lại nói “được nghe pháp âm này”, đó là từ nơi kim khẩu của Phật mà được nghe, cho nên gọi là sự vui mừng [có được] từ miệng [Phật]. Lại nói “được việc chưa từng có”, đó là nêu việc ý của con hiểu được ý Phật, cho nên gọi là sự vui mừng đến từ ý [Phật]. Đó là nêu vấn đề gồm 3 sự vui mừng [của ngài Xá-lợi-phất khi được gặp Phật].
Đoạn thứ hai từ câu “Vì sao vậy?” trở đi là phần giải thích, nêu ra những điều trước đây đã để mất và nói rõ những điều ngày nay vừa đạt được.
Từ câu “Vì sao vậy?” cho đến hết câu “mất đi tri kiến vô lượng của Như Lai”, nói việc ngày trước không được gặp Phật là mất mát. Ngày trước đức Phật vì các vị Bồ Tát mà thụ ký [ngày sau thành Phật] nhưng “hàng Thanh văn chúng con không được dự phần vào việc thụ ký ấy”. Ý nghĩa “gặp Phật” rất sâu xa, vì không gặp Phật nên không có được sự vui mừng đến từ thân [Phật].
[Kinh văn nói] “được nghe pháp như thế này”, đó là nói khi [Phật thuyết các kinh Hoa nghiêm, Phương đẳng] như mặt trời [vừa lên] chiếu sáng trên núi cao,
[16] [hàng Thanh văn nghe pháp lúc này, tuy] trong lòng âm thầm nhận biết có nghe, nhưng bên ngoài biểu lộ như câm như điếc, tuy nghe pháp như vậy mà không thể chứng đạo. Chỉ là trong giáo pháp Phương đẳng cũng nghe về trí tuệ chân thật Đại thừa, so với giáo pháp [được nghe] hôm nay không khác biệt, cho nên nói là “nghe pháp như thế này”.
Kinh văn nói “thụ ký” nghĩa là trong thời Phương đẳng [Phật] thụ ký cho các vị Bồ Tát [sẽ thành Phật], hàng Nhị thừa [khi ấy] không được dự vào việc thụ ký.
Kinh văn nói “hết sức tự cảm thương”, trong kinh Tư Ích và kinh Tịnh Danh
[17] đều nói, [hàng Nhị thừa] khi nghe khen ngợi Đại thừa, phá bỏ Tiểu thừa thì trong tâm hoài nghi, biểu hiện bên ngoài thì [tự thấy mình] thấp kém, cho nên gọi là cảm thương. Nói “đã mất đi tri kiến vô lượng của Như Lai”, đó là nói để mất cái thấy của con mắt Phật (Phật nhãn), để mất cái biết của trí tuệ Phật (Phật trí).
Từ câu “Bạch Thế Tôn” cho đến hết câu “là lỗi của chúng con, chẳng phải do đức Thế Tôn” nêu rõ chỗ mất ngày trước là không được nghe pháp. Vì thân ở trong chốn núi rừng, tâm bám chấp đạo Tiểu thừa, không được nghe pháp, nên không có sự vui mừng đến từ miệng [Phật].
Kinh văn nói “con thường một mình ở dưới gốc cây...” là nói khi suy ngẫm về lỗi lầm của mình. “Cùng thể nhập tánh pháp” là nói rõ ra về lỗi lầm đó. Do bám chấp một lý thể nhập, hoài nghi công năng các pháp môn của ba thừa [nên sinh ra sai lầm], vì cùng một lý thể nhập mà sao [hàng Thanh văn] mất đi tri kiến [Phật], [pháp môn của] ba thừa [công năng] khác biệt, sao Bồ Tát riêng được [thụ ký], [nên cho rằng] đã thụ ký riêng thì hẳn đức Như Lai có sự thiên lệch. [Suy nghĩ như vậy] nên thành lỗi lầm. Nay tự nêu lại những lỗi ấy nên nói là hối lỗi.
[Kinh văn nói] “là lỗi của chúng con”, đó là nói do mình tự mê chấp pháp quyền, không liên quan gì đến lý trong giáo pháp, lại do mình tự hoài nghi lẽ chân thật, không liên quan gì đến sự thiên lệch của Phật. Kể lại lỗi lầm ngày trước, chẳng những để cung kính tạ lỗi với Như Lai, mà còn là nêu ra để tự nhận lỗi.
[Đoạn thứ ba] từ câu “Vì sao vậy” cho đến hết câu “vẫn luôn tự trách mình” là nêu lỗi ý không nhận hiểu được. Do không đợi Phật thuyết nhân [thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác] nên không có chỗ hiểu chân thật, lại vì không rõ biết phương tiện nên không hiểu được pháp quyền. Vì không có chỗ hiểu nên không có được niềm vui đến từ ý [Phật]. Lỗi lầm ngày trước đã sáng tỏ nên nay có thể tự nêu rõ.
Nói không “đợi đến khi Thế Tôn thuyết dạy về nhân thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, đó là tự trách mình không hiểu được lẽ chân thật. Nói “không hiểu được sự thuyết dạy tùy phương tiện thích hợp của đức Như Lai” là tự trách mình không hiểu được pháp quyền thừa.
[Nói về Phật] thuyết dạy nhân [thành tựu Chánh giác] có hai nghĩa. [Thứ nhất là nói] trước đây [khi Phật thuyết dạy trong kinh Phương đẳng đã] không thọ nhận mà lại chờ đợi. [Thứ hai là nói] về sau [Phật thuyết dạy Tiểu thừa đã] không dừng lại để chờ đợi [Phật thuyết dạy Đại thừa].
[Khi Phật thuyết kinh Phương đẳng, giống như] ban sơ [mặt trời vừa mới mọc] chiếu trên núi cao, đó là làm sáng tỏ trí tuệ thấu hiểu ba chân lý.
[18] Như vậy là đạt được nhân [thành tựu quả] Phật. [Phật thuyết dạy] như vậy để hướng đến hàng Thanh văn, “nhưng [hàng Thanh văn chúng con] chẳng chịu thọ nhận”, đó là sự mất mát trước đây. Pháp của chư Phật lâu xa về sau tất yếu sẽ thuyết dạy lẽ chân thật rốt ráo, “nhưng [hàng Thanh văn chúng con] chẳng dừng lại chờ đợi [đến lúc đó], mà trong khoảng thời gian ở giữa lại vội vàng chấp giữ pháp Tiểu thừa”, chẳng hiểu rõ được pháp quyền, pháp thật. [Phần chấp pháp Tiểu thừa này có thể hiểu] theo như kinh văn nói rõ.
Từ câu “hôm nay theo Phật được nghe pháp chưa nghe” trở đi là tóm kết thành tựu ba niềm vui. Trước nói tóm kết, sau nói thành tựu. “Theo Phật” tức là gặp Phật, là tóm kết sự vui mừng đến từ thân Phật. “Được nghe pháp” là tóm kết sự vui mừng đến từ miệng Phật. “Dứt trừ hết mọi sự nghi hoặc, hối tiếc” là tóm kết sự vui mừng đến từ ý Phật. “Mới biết mình đích thực là con Phật”, đây là thành tựu ý nghĩa được gần Phật, [là thân được thành tựu]. “Sinh ra từ miệng Phật” là kết lại [ý nghĩa] khẩu được thành tựu. “Hóa sinh từ pháp Phật” là kết lại tâm ý được thành tựu.
[Giảng giải] như trên là thấu hiểu tận cùng hàm ý kinh văn, giải thích sáng tỏ nghĩa lý tiềm ẩn.
Nay lại dùng nghĩa tứ tất đàn để giải thích kinh văn. Từ câu “con theo đức Thế Tôn” trở đi là sự hân hoan vui mừng thuộc thế giới tất đàn. Từ câu “Vì sao vậy?” trở đi nêu việc trước đây mất mát và nói rõ việc ngày nay đạt được, đó là sự hân hoan vui mừng thuộc về vị nhân tất đàn. Từ câu “Bạch Thế Tôn! Con từ xưa nay...” trở đi là sự hân hoan vui mừng thuộc về đối trị tất đàn. Từ câu “Ngày hôm nay con mới biết...” trở đi là sự hân hoan vui mừng thuộc về đệ nhất nghĩa tất đàn.
Lại lược nói qua [sự mô tả] các niềm vui là làm sáng tỏ tứ tất đàn. Tâm hoan hỷ dấy động niềm vui, thường chưa từng có. Niềm vui làm dao động tâm tưởng,1 biểu lộ ra hành vi cử chỉ bên ngoài.2 Đại lược là như thế.
KINH VĂNKhi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn lặp lại nghĩa trên nên đọc kệ rằng:Con nghe pháp âm này,Được việc chưa từng có.Lòng hết sức mừng vui,Lưới nghi hoặc dứt sạch.
Xưa nay nhờ ơn Phật,Dạy chẳng mất Đại thừa.
Tiếng Phật rất ít có,Người nghe dứt não phiền,Con đã sạch lậu hoặc,Được nghe cũng dứt phiền.Phần kệ tụng gồm 25 khổ rưỡi kệ, có 3 tổng đoạn.
Tổng đoạn đầu tiên gồm 1 khổ kệ, nêu lên 3 sự vui mừng3 [từ việc ngài Xá-lợi-phất] nghe [Phật dạy] mình cũng [có thể] được làm Phật.
Tổng đoạn thứ hai từ câu “Xưa nay nhờ ơn Phật” trở đi, gồm 22 khổ kệ, giải thích về 3 sự vui mừng, chia làm 3 đoạn.
Đoạn đầu tiên có 1 khổ rưỡi kệ, tụng về sự vui mừng được gặp Phật. Phần kinh văn trường hàng nói “mất đi tri kiến vô lượng của Như Lai”, trong kệ tụng nói “chẳng mất Đại thừa”. Phần trước trong văn trường hàng nói “mất” là luận theo nghĩa xa, phần kệ tụng nói “chẳng mất” là luận theo nghĩa gần, hai phần hỗ tương nhau để làm rõ ý nghĩa.
KINH VĂNCon ở trong hang núi,Dưới gốc cây giữa rừng,Ngồi thiền hoặc kinh hành,Thường suy xét một việc:
“Chúng con thật đáng trách,Sao tự xem thường mình?Cũng đều là con Phật,Cùng vào pháp vô lậu,Nhưng tương lai không thể,Giảng thuyết đạo Vô thượng.
Thân sắc vàng, tướng tốt,Mười lực, các giải thoát.Chúng con cùng một pháp,Nhưng chẳng được như Phật.
Không tám mươi vẻ đẹp,Mười tám pháp chẳng cùng...Những công đức như vậy,Chúng con đều không có.
Con kinh hành một mình,Thấy Phật giữa đại chúng,Mười phương đều nghe danh,Rộng làm lợi chúng sinh,Tự xét không được vậy,Vì tự xem thường mình.
Nên suốt ngày lẫn đêm,Con thường xét việc này.Muốn thưa hỏi Thế Tôn,Tánh Phật còn hay mất?
Con thường thấy Thế Tôn,Ngợi khen các Bồ Tát,Rồi trong suốt ngày đêm,Suy lường mãi việc ấy.
Hôm nay nghe Phật dạy,Mới biết Phật tùy nghi.Bởi pháp khó nghĩ bàn,Phải phương tiện dẫn dắt.Đoạn thứ hai từ câu “Con ở trong hang núi” trở đi, có 11 khổ kệ, tụng lại nội dung “không được nghe pháp” trong phần văn trường hàng. Đoạn này được chia làm 2 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất có 9 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa phần văn trường hàng ở trên nói vì thân ở xa nên chẳng được nghe [pháp Phật].
KINH VĂNCon vốn xưa tà kiến,Làm thầy các Phạm chí.Thế Tôn biết tâm con,Thuyết Niết-bàn, trừ tà.
Con dứt sạch tà kiến,Chứng đắc được pháp không.Khi ấy con tự nhủ:“Đã được diệt độ rồi.”Tiểu đoạn thứ hai, từ câu “Con vốn theo tà kiến” trở đi, gồm 2 khổ kệ, tụng lại nội dung trong văn trường hàng trên nói “cùng thể nhập pháp tánh” nhưng không được nghe [pháp Đại thừa]. “Tà kiến” là nói sự bám chấp của phàm phu, “thể nhập pháp tánh” là nói sự bám chấp của Nhị thừa, cả hai đều chẳng nghe được pháp [Đại thừa].
[Trong đoạn trước nói] “nên suốt ngày lẫn đêm”, [hàm ý] Niết-bàn là ngày, còn trong chốn sinh tử là đêm.
[Lại khởi tâm nghi rằng,] trong sinh tử có Niết-bàn sao? Hay ngoài sinh tử có Niết-bàn chăng? Khi được chứng ngộ thì cả hai mối nghi đó đều tan biến.
Lại nói rằng, sinh tử và Niết-bàn đều gọi là đêm, trừ được các mối nghi ấy gọi là ngày. Ngày đã bừng sáng thì hai mối nghi [như trên] đều tiêu tan.
Lại nữa, phàm phu có hai loại. Thứ nhất là những kẻ sơ cơ [đã chọn] theo học Đại thừa, thứ hai là những người đã học Tiểu thừa rồi mới vào Đại thừa. Từ nơi sự tướng mà vào thẳng [Đại thừa] là kém cỏi, ví như [học qua luận] A-tỳ-đàm mà vào là tốt hơn. Bồ Tát cũng giống như vậy, từ [pháp hội] Hoa nghiêm mà vào [thẳng] Đại thừa thì việc hóa đạo yếu ớt, gột rửa qua đủ năm giai vị [Tiểu thừa]1 rồi vào [Đại thừa] thì tốt hơn.
KINH VĂNHôm nay mới tự biết,Chẳng phải thật diệt độ.Chỉ khi đã thành Phật,Đủ ba mươi hai tướng,Khắp trời, người, dạ-xoa,Rồng, thần... đều cung kính,Khi ấy mới đúng là,Thật Vô dư diệt độ.
Nay Phật giữa đại chúng,Nói con sẽ thành Phật.Con nghe tiếng pháp ấy,Nghi hối đều dứt sạch.
Lúc vừa nghe Phật nói,Rất kinh sợ, hoài nghi,Cho là ma giả Phật,Làm loạn tâm con chăng?
Phật dùng đủ mọi duyên,Thí dụ, khéo giảng thuyết,Tâm an ổn, như biển,Con nghe dứt lòng nghi.
Phật thuyết trong quá khứ,Vô số Phật diệt độ,Trụ yên trong phương tiện,Cũng đều thuyết pháp này.
Phật hiện tại, tương lai,Nhiều vô số, vô lượng,Cũng đều dùng phương tiện,Diễn thuyết pháp như vậy.
Như Thế Tôn hiện nay,Từ sinh ra, xuất gia,Thành đạo, chuyển pháp luân,Cũng dùng phương tiện thuyết.
Phật thuyết đạo chân thật,Ba-tuần không thể thuyết.Nên con biết chắc chắn,Không phải ma giả Phật.Bởi con sa lưới nghi,Nên tưởng rằng ma nói.Đoạn thứ ba từ câu “Hôm nay mới tự biết” trở đi, gồm 9 khổ rưỡi kệ, tụng lại nội dung trong văn trường hàng ở trên, nói trong tâm được chỗ hiểu nhiệm mầu. Phần văn trường hàng trên nói rõ do không đợi Phật thuyết nhân thành Chánh giác, không hiểu được chỗ [tùy nghi dùng] phương tiện [của Phật], phần kệ tụng này thì nói đã được nhân thành Chánh giác, cũng đã hiểu được chỗ phương tiện [của Phật]. Được nghe [Phật dạy] “con nhất định thành Phật” là nói [đã được] nhân thành Chánh giác; được nghe năm đời Phật thuyết giảng đều như nhau
[19] nên hiểu rõ được là ma hay không phải ma, đó là hiểu được phương tiện. [Hai nghĩa này] hỗ tương cho nhau làm rõ nghĩa một bên của phần nói về năm đời Phật, tức là nhận lãnh được ý nghĩa kinh văn.
KINH VĂNNghe tiếng Phật êm dịu,Sâu xa, rất vi diệu,Diễn giảng pháp thanh tịnh,Tâm con rất hoan hỷ.Dứt nghi nan hối tiếc,An trụ trong thật trí,Con nhất định thành Phật,Được trời người cung kính.Chuyển Pháp luân Vô thượng,Giáo hóa các Bồ Tát.Tổng đoạn thứ ba từ câu “Nghe tiếng Phật êm dịu” trở đi có 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại nội dung tóm kết và thành tựu trong phần văn trường hàng ở trên, [ý nghĩa rõ ràng có thể hiểu được theo] như kinh văn.
3. Kể lại thành tựu xưa kia của Xá-lợi-phấtKINH VĂNLúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Hôm nay ta sẽ nói rõ giữa đại chúng này, có chư thiên, loài người, sa-môn, bà-la-môn v.v. Trước đây ta từng ở nơi hai vạn ức vị Phật,[20] vì thuyết dạy đạo Vô thượng nên thường giáo hóa ông. Ông cũng theo ta học đạo trong suốt đêm dài [của vô minh si ám]. Ta dùng phương tiện dẫn dắt ông được sinh vào trong Chánh pháp của ta. Xá-lợi-phất! Xưa ta dạy ông chí nguyện hướng theo Phật đạo, nay ông đã quên hết cả rồi nên [khi chứng quả Tiểu thừa] mới tự cho mình đã được diệt độ. Nay ta muốn làm cho ông nhớ lại chí nguyện và sự tu tập thuở xưa nên mới vì hàng Thanh văn mà thuyết kinh Đại thừa này, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.”Phần kinh văn trường hàng thứ ba từ câu “Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất” trở đi, đức Phật thuật lại sự thành tựu xưa kia [của ngài Xá-lợi-phất]. Phần trên ngài Xá-lợi-phất đã tự trình bày chỗ được tỏ ngộ, phần này đức Như Lai thuật lại [việc xưa để] giải thích [chỗ hiểu của ngài] không hư vọng.
Phần này chia làm 3 đoạn. Đoạn thứ nhất [kể việc] thuở xưa đức Phật đã từng dạy Đại thừa. Đoạn thứ hai [chỉ ra việc hàng Thanh văn] giữa chừng quên mất [Đại thừa] nên nhận học theo Tiểu thừa. Đoạn thứ ba nói việc [đức Phật] lại [vì hàng Thanh văn] thuyết giảng Đại thừa.
[Đức Phật] nhắc việc xưa kia đã từng giáo hóa [hàng Thanh văn] là để nói về nhân duyên gặp Phật. [Chỉ ra việc] giữa chừng quên mất [Đại thừa] mà nhận học theo Tiểu thừa là để nêu nhân duyên của việc lo buồn hối tiếc khi nghe giáo pháp [Đại thừa]. Trở lại thuyết giảng Đại thừa là để xác nhận chỗ nhận hiểu tỏ ngộ [của ngài Xá-lợi-phất] không hề hư vọng. Phần kể lại thành tựu có 3 ý chính như vậy.
Luận Thập trụ Tỳ-bà-sa
[21] nói: Thân vô thượng là nói [thân có đầy đủ] các tướng tốt, vẻ đẹp;
[22] thọ trì vô thượng là nói [việc thọ trì làm] lợi mình lợi người; cụ túc vô thượng là nói [có đầy đủ] thọ mạng, tri kiến, giới hạnh; trí tuệ vô thượng là nói [có đầy đủ] 4 trí vô ngại;
[23] bất tư nghị vô thượng là nói 6 pháp ba-la-mật; giải thoát vô thượng là nói có công năng phá trừ 2 loại che chướng;
[24] hạnh vô thượng là nói đến hạnh của bậc thánh, hạnh thanh tịnh không nhiễm ô.
Lại nữa, thân vô thượng gọi là bậc Đại trượng phu; thọ trì vô thượng gọi là Đại từ bi; cụ túc vô thượng gọi là đến bờ giải thoát; trí tuệ vô thượng gọi là Nhất thiết trí; bất tư nghị vô thượng gọi là A-la-hán; giải thoát vô thượng gọi là Đại Niết-bàn; hạnh vô thượng gọi là Chánh đẳng giác.
[25]Kinh Bồ Tát Anh Lạc,
[26] quyển 13 nói: Đạo phải thanh tịnh, uế trược chẳng phải đạo; đạo phải chuyên nhất tâm, khởi sinh nhiều niệm tưởng chẳng phải đạo; đạo phải biết đủ, nhiều tham muốn chẳng phải đạo; đạo phải cung kính, kiêu căng ngạo mạn chẳng phải đạo; đạo phải kiểm thúc tâm ý, buông thả phóng túng chẳng phải đạo; đạo phải hiển bày sáng tỏ, tự ẩn khuất chẳng phải đạo; đạo phải tương liên tương thuộc, không thực hành chẳng phải đạo; đạo phải giác ngộ, ngu si mê hoặc chẳng phải đạo; đạo phải giáo hóa, tham tiếc [giữ pháp] chẳng phải đạo; đạo phải gần gũi bạn lành, tụ tập theo kẻ xấu ác chẳng phải đạo.
[27]Những điều như trên đều là dùng đủ mọi cách khác nhau để làm sáng tỏ về đạo vô thượng. Nay kinh [Pháp hoa] này dùng sự viên thông hay thông suốt trọn vẹn là đạo vô thượng, nếu có sự thiên lệch hoặc phân chia thứ lớp thì đều là cách luận giải của những kinh khác.
Đoạn thứ nhất từ câu “Theo ta học đạo trong suốt đêm dài”, đó là nói thuở xưa [ngài Xá-lợi-phất] tuy [được Phật dùng] Đại thừa giáo hóa nhưng chưa phá trừ được sự vô minh, theo Phật thọ học đạo mà trong tâm vẫn còn nghi hoặc si ám. Nhân tố giác ngộ [thuở ấy] tuy đã lâu xa mà còn không hề diệt mất, huống chi sự tỏ ngộ chân thật ngày nay thì sao có thể là hư vọng? Cho nên mới nêu việc đã từng giáo hóa [thuở xưa] để nói việc gặp Phật không hề sai lầm.
“Ta dùng phương tiện dẫn dắt ông được sinh vào trong Chánh pháp của ta.” Câu này có 2 ý nghĩa dẫn dắt. Do ngày xưa [được Phật] dùng Đại thừa giáo hóa nên ngày nay mới khởi sinh sự nhận hiểu Đại thừa. Đây là ý nghĩa [dẫn dắt] thứ nhất. Vì [đức Phật] muốn giúp cho không bị rơi vào các cảnh giới xấu ác nên quyền biến dùng pháp Tiểu thừa dẫn dắt, [nay mới còn có cơ hội gặp Phật]. Đây là ý nghĩa [dẫn dắt] thứ hai.
Đoạn thứ hai từ câu “Xưa ta dạy ông chí nguyện hướng theo Phật đạo, nay ông đã quên hết cả rồi”, nghĩa là giữa đường [tu tập] tự mình từ bỏ Đại thừa, theo học Tiểu thừa, cho nên nói là giữa chừng “đã quên hết cả rồi”. Nếu như ngày nay [chứng quả Tiểu thừa] liền tự cho rằng mình đã được diệt độ, đó chính là “đã quên hết rồi”. Do quên đi chí nguyện Đại thừa, học theo Tiểu thừa nên mới có sự lo buồn hối tiếc, nhưng pháp đã được nghe không phải là hư dối.
Đoạn thứ nhất từ câu “Nay ta muốn làm cho ông nhớ lại chí nguyện và sự tu tập thuở xưa”, tức là nói chỗ nhận hiểu [của ngài Xá-lợi-phất] không phải hư vọng. [Đó là] trước tiên dạy cho giáo pháp quyền thừa, thành tựu sự tốt đẹp nhỏ ở giữa đường tu tập, sau mới hiển bày pháp chân thật để giúp cho thành tựu trọn vẹn chí nguyện thuở xưa đã phát tâm Đại thừa.
4. Xá-lợi-phất được thụ kýKINH VĂN“Xá-lợi-phất! Trong tương lai trải qua vô lượng vô biên số kiếp không thể nghĩ bàn, ông sẽ cúng dường biết bao nhiêu là ngàn muôn ức vị Phật, cung kính thọ trì Chánh pháp, thực hành đầy đủ mọi công hạnh của đạo Bồ Tát, rồi sẽ được thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.[28]“Cõi Phật ấy tên là Ly Cấu, đất đai bằng phẳng ngay ngắn, thanh tịnh trang nghiêm, an ổn vui hòa, phong phú sung túc, chư thiên và loài người đều đông đúc thịnh vượng. Mặt đất nơi ấy toàn bằng lưu ly, đường đi thông suốt về tám hướng, dùng dây bằng vàng ròng giăng theo ven đường, hai bên đường đều có những cây bằng bảy báu đứng thành hàng, trên cây lúc nào cũng có hoa trái.”Tổng đoạn thứ tư từ câu “Xá-lợi-phất! Trong tương lai...” trở đi, nói về việc thụ ký [cho ngài Xá-lợi-phất]. Phần trước ngài Xá-lợi-phất tự trình bày chỗ nhận hiểu, được đức Phật xác nhận là đúng, cho nên được Phật thụ ký [cho về sau sẽ thành Phật]. Nếu đã nhận hiểu Đại thừa thì tự biết mình sẽ thành Phật, đâu cần chờ [Phật] thụ ký. [Nhưng] sự thụ ký có 4 ý nghĩa. Thứ nhất là trước đây [Phật] chưa hề thụ ký cho hàng Nhị thừa, nay nên thụ ký. Thứ hai là hàng trung căn, hạ căn còn chưa tỏ ngộ, nên thụ ký để sách tấn, khuyên họ cố gắng. Thứ ba là để làm cho những ai nghe biết [việc thụ ký này] được kết duyên. Thứ tư là để giúp cho [ngài Xá-lợi-phất] thành tựu trọn vẹn chí nguyện thuở xưa, cho nên thụ ký.
Tổng đoạn này gồm có phần văn trường hàng và phần kệ tụng. Phần văn trường hàng chia ra 10 đoạn.
Thứ nhất, [từ câu “Trong tương lai trải qua...”] là nói về yếu tố thời gian.
Thứ hai, [từ câu “ông sẽ cúng dường...”] là nói về công hạnh tạo nhân.
Thứ ba, [“rồi sẽ được thành Phật”] là nói việc đạt được quả Phật. Về 10 danh hiệu Phật, có rất nhiều cách giải thích, ở đây chỉ nêu ra một cách. Không hư dối gọi là Như Lai; là ruộng phước tốt đẹp [cho chúng sanh] nên gọi là Ứng Cúng; rõ biết pháp giới gọi là Chánh Biến Tri; đầy đủ tam minh gọi là Minh Hạnh Túc; không còn trở lại [luân hồi] gọi là Thiện Thệ, rõ biết mọi quốc độ của chúng sinh gọi là Thế Gian Giải; không ai sánh bằng gọi là Vô Thượng Sĩ; điều phục được tâm người khác gọi là Điều Ngự Trượng Phu; là mắt nhìn của chúng sinh gọi là Thiên Nhân Sư; rõ biết phân biệt tam tụ
[29] gọi là Phật; trừ diệt được ma Ba-tuần gọi là Thế Tôn.
[30]Thứ tư, [từ câu “Cõi Phật ấy tên là...”] nói về cõi Phật, mô tả quốc độ khi ấy.
KINH VĂN“Đức Như Lai Hoa Quang cũng dùng ba thừa để giáo hóa chúng sinh. Xá-lợi-phất! Khi đức Phật ấy ra đời, tuy không phải đời xấu ác nhưng do phát nguyện từ trước nên vẫn thuyết giảng giáo pháp ba thừa.“Thời đại ấy tên là Đại Bảo Trang Nghiêm. Vì sao tên là Đại Bảo Trang Nghiêm? Vì cõi Phật ấy xem các vị Bồ Tát là đại bảo, nghĩa là báu vật lớn lao. Các vị Bồ Tát ấy số nhiều vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn, vượt ngoài giới hạn của mọi sự tính toán hay thí dụ so sánh, chỉ trí tuệ Phật mới rõ biết được số lượng ấy. Khi [các Bồ Tát] muốn bước đi liền [tự nhiên] có hoa báu nâng dưới bàn chân. Các vị Bồ Tát ấy không phải mới phát tâm, mà đều đã từ lâu vun trồng cội gốc công đức, tu hạnh thanh tịnh ở nơi vô lượng trăm ngàn vạn ức đức Phật, thường được chư Phật ngợi khen tán thán, thường tu tập trí tuệ Phật, có đầy đủ các pháp thần thông lớn lao, khéo rõ biết cửa vào của hết thảy các pháp, chân thật không hư dối, tâm thường nhớ nghĩ chí nguyện kiên cố. Các vị Bồ Tát như vậy đông đảo đầy khắp cõi Phật ấy.Thứ năm, [từ câu “Đức Như Lai Hoa Quang cũng dùng ba thừa...”] là nói về việc thuyết pháp [của đức Phật ấy].
Thứ sáu, từ câu “Thời đại tên là...” nói về tên gọi của thời đại, [tức là thời gian khi ấy].
Thứ bảy, [từ câu “Các vị Bồ Tát ấy số nhiều vô lượng vô biên...”] nói về số lượng đại chúng [Bồ Tát ở cõi Phật ấy].
KINH VĂN“Xá-lợi-phất! Thọ lượng của đức Phật Hoa Quang là mười hai tiểu kiếp, không tính thời gian còn là Vương tử, chưa thành Phật. Người dân trong cõi Phật ấy có tuổi thọ tám tiểu kiếp.“Sau khi trải qua mười hai tiểu kiếp, đức Như Lai Hoa Quang thụ ký cho Bồ Tát Kiên Mãn sẽ thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngài bảo các vị tỳ-kheo: “Bồ Tát Kiên Mãn đây sẽ thành Phật tiếp theo [sau ta], hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri ... Cõi Phật ấy cũng giống như cõi này.”“Xá-lợi-phất! Sau khi đức Phật Hoa Quang diệt độ rồi, Chánh pháp tiếp tục lưu truyền được ba mươi hai tiểu kiếp, thời Tượng pháp cũng lưu truyền ba mươi hai tiểu kiếp.”Thứ tám [từ câu “Xá-lợi-phất! Thọ lượng của đức Phật Hoa Quang...”] nói về thọ lượng [của đức Phật và người dân cõi Phật ấy].
Thứ chín, [từ câu “Sau khi trải qua mười hai tiểu kiếp...”] là nói về vị Bồ Tát bổ xứ [sẽ thành Phật tiếp theo sau đức Phật Hoa Quang].
Thứ mười, [từ câu “Xá-lợi-phất! Sau khi đức Phật Hoa Quang diệt độ...”] là nói thời gian Phật pháp còn tiếp tục lưu truyền ở thế gian. Tất cả đều có thể nhận hiểu rõ ràng theo như kinh văn. Luận Đại [Trí độ], quyển 48 nói, ngài Xá-lợi-phất [thành Phật], Chánh pháp [lưu truyền thế gian được] 32 tiểu kiếp, [đó là mỗi khi] có 3 tai kiếp, gồm nạn đói, dịch bệnh và chiến tranh, khiến tất cả chúng sinh đều diệt mất thì gọi là 1 tiểu kiếp. Tuy nhiên, chỉ dựa vào sự đo lường một thời gian nhất định cũng gọi là 1 tiểu kiếp, như [đức Phật] thuyết kinh Pháp hoa trong 60 tiểu kiếp [nơi Pháp hội] thì đó chỉ là một quãng thời gian được đo lường, không phải do 3 tai kiếp diệt hết chúng sinh bên ngoài [Pháp hội] mà gọi là tiểu kiếp.
KINH VĂNLúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:Xá-lợi-phất tương lai,Thành Đại trí Thế Tôn,Hiệu là Phật Hoa Quang,Sẽ độ vô số chúng.Phần kệ tụng có 11 khổ rưỡi kệ, chia làm 2 tổng đoạn.
Tổng đoạn thứ nhất gồm 10 khổ kệ [chia làm 9 đoạn], tụng lại 9 ý nghĩa trong phần văn trường hàng bên trên, lược bớt không tụng về ý nghĩa Bồ Tát bổ xứ [sẽ thành Phật tiếp theo], nhưng lại nêu thêm việc cúng dường xá lợi Phật.
Tổng đoạn thứ hai có 1 khổ rưỡi kệ, tóm kết và xưng tán.
Đoạn đầu tiên của tổng đoạn thứ nhất có 1 khổ kệ, tụng về sự chứng đắc quả Phật [trong tương lai của ngài Xá-lợi-phất].
KINH VĂNCúng dường vô số Phật,Trọn đủ hạnh Bồ Tát,Các công đức, thập lực...Rồi chứng quả Vô thượng.
Trải qua vô số kiếp,Thời Đại Bảo Trang Nghiêm.Cõi nước tên Ly Cấu,Thanh tịnh không uế nhiễm,Mặt đất bằng lưu ly,Dây vàng ròng ven đường,Cây bảy báu đủ màu,Hoa trái thường sum suê.
Các Bồ Tát cõi ấy,Giữ chí nguyện kiên cố,Và trọn đủ tất cả,Thần thông, ba-la-mật,Ở nơi vô số Phật,Khéo học đạo Bồ Tát.Đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ, từ câu “Cúng dường vô số Phật...” trở đi tụng về công hạnh tạo nhân [thành Phật].
Đoạn thứ ba từ câu “Trải qua vô số kiếp...” gồm nửa khổ kệ, tụng về tên gọi của kiếp trong tương lai.
Đoạn thứ tư từ câu “Cõi nước tên Ly Cấu...” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng về [tên gọi và] sự thanh tịnh của cõi Phật ấy.
Đoạn thứ năm từ câu “Các Bồ Tát cõi ấy...” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng về số lượng đại chúng Bồ Tát [ở cõi Phật ấy].
KINH VĂNPhật Hoa Quang giáo hóa,Những Bồ Tát như thế.Phật từng là vương tử,Bỏ ngai vàng, vinh hoa,Trong lần tái sinh cuối,Xuất gia, thành Phật đạo.
Phật Hoa Quang ở đời,Được mười hai tiểu kiếp.Nhân dân cõi Phật ấy,Tuổi thọ tám tiểu kiếp.
Sau khi Phật diệt độ,Chánh pháp vẫn lưu truyền,Ba mươi hai tiểu kiếp,Rộng độ khắp chúng sinh.
Chánh pháp diệt, Tượng pháp,Truyền ba hai tiểu kiếp.Xá-lợi Phật rộng truyền,Trời, người đều cúng dường.Đoạn thứ sáu từ câu “Phật Hoa Quang giáo hóa...” có nửa khổ kệ tụng về việc thuyết pháp [của Phật Hoa Quang].
Đoạn thứ bảy từ câu “Phật từng là vương tử...” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng về thọ lượng [của Phật Hoa Quang và nhân dân ở cõi Phật ấy].
Đoạn thứ tám từ câu “Sau khi Phật diệt độ...” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng về thời gian Chánh pháp [và tượng pháp] còn tiếp tục lưu truyền ở đời.
Đoạn thứ chín từ câu “Xá-lợi Phật rộng truyền...” gồm nửa khổ kệ tụng về việc cúng dường xá-lợi Phật.
KINH VĂNNói về Phật Hoa Quang,Sự việc là như vậy.Bậc Thánh Lưỡng Túc Tôn,Cao tột chẳng ai bằng.Chính ông thành Phật ấy,Nên hãy tự mừng vui.Tổng đoạn thứ hai từ câu “Nói về Phật Hoa Quang...”, gồm 1 khổ rưỡi kệ, tóm kết và xưng tán. “Hãy tự mừng vui” là nói thành tựu ban đầu thể nhập giai vị Hoan hỷ địa [trong Thập địa]. Bồ Tát ở địa vị Sơ trụ có thể hóa thân làm Phật ở 100 cõi Phật, [Bồ Tát ở Thập] hạnh [và Thập] địa thì vượt xa hơn rất nhiều lần.
5. Bốn chúng trình bày chỗ nhận hiểuKINH VĂNKhi ấy, bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, chư thiên, loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già..., đại chúng như vậy thấy ngài Xá-lợi-phất ở trước đức Phật được thụ ký quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì trong tâm đều hết sức vui mừng, vô cùng phấn chấn, mỗi người đều cởi những tấm áo quý đang khoác trên người ra dâng lên cúng dường Phật. Các vị Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm Thiên vương v.v. cùng vô số chư thiên cũng đều dùng những tấm y tuyệt đẹp của cõi trời, những hoa mạn-đà-la, hoa đại mạn-đà-la ở cõi trời... tung rải lên cúng dường Phật. Những tấm y báu cõi trời khi rơi xuống liền dừng lại trên không trung rồi tự xoay chuyển giữa trời, có trăm ngàn loại âm nhạc của chư thiên đồng thời trỗi lên ở giữa không trung, từ trên mưa xuống các loại hoa trời, rồi [chư thiên] cất tiếng nói rằng: “Đức Phật xưa đã chuyển bánh xe pháp lần đầu tiên ở thành Ba-la-nại, hôm nay lại chuyển bánh xe pháp Vô thượng lớn lao bậc nhất.”Phần kinh văn thứ năm nêu việc bốn chúng nhận lãnh [lời Phật dạy] và trình bày chỗ hiểu. Có hai phần: văn trường hàng và kệ tụng.
[Trong văn trường hàng,] trước tiên là phần mở đầu của người chép kinh, nêu việc đại chúng mừng vui hoan hỷ. Tiếp theo là trình bày việc cúng dường [Phật].
Từ sau câu “lên tiếng nói rằng” là chính thức đi vào phần trình bày chỗ nhận hiểu. “Chuyển bánh xe pháp lần đầu tiên...” là nói từng thọ nhận [đức Phật] khai mở pháp quyền. “Hôm nay lại chuyển bánh xe pháp...” là nhận lãnh [lời Phật] hiển bày pháp chân thật.
KINH VĂNLúc bấy giờ chư thiên muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:Xưa ở Ba-la-nại,Phật từng chuyển pháp luân,Dạy tứ đế, các pháp,Sinh, diệt của năm uẩn.
Nay lại chuyển pháp luân,Vô thượng, tối nhiệm mầu.Pháp này thật sâu xa,Ít người có thể tin.Phần kệ tụng có 6 khổ rưỡi kệ, chia làm hai đoạn.
Đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa trong phần văn trường hàng nói về khai mở pháp quyền và hiển bày pháp thật.
KINH VĂNChúng con từ xưa nay,Nghe Phật dạy rất nhiều,Chưa từng nghe pháp này,Rất nhiệm mầu, sâu xa.
Nay Phật thuyết pháp này,Chúng con đều vui theo.Đại trí Xá-lợi-phất,Nay được Phật thụ ký.
Chúng con cũng như vậy,Nhất định sẽ thành Phật.So với khắp thế gian,Là tôn quý, cao nhất.
Phật đạo không nghĩ bàn,Phương tiện tùy nghi nói.Con được bao phước nghiệp,Dù đời này, đời trước,Cùng công đức gặp Phật,Đều hồi hướng Phật đạo.Đoạn thứ hai gồm 4 khổ rưỡi kệ, [chư thiên] tự nói ra chỗ nhận hiểu được và mừng vui theo [việc ngài Xá-lợi-phất được thụ ký] và đem hết thảy mọi công đức hồi hướng về Phật đạo.
“Chúng con cũng như vậy” là nói cũng giống như ngài Xá-lợi-phất nhận lãnh và hiểu được lời Phật, lại cũng giống như ngài Xá-lợi-phất được nhắc lại thành tựu thuở xưa, tức là giống như ngài Xá-lợi-phất sẽ được thụ ký [thành Phật].
Hỏi: Các vị Đại Thanh văn như Ca-diếp, Tu-bồ-đề...
[31] mà còn chưa nhận hiểu được thì có người nào trong bốn chúng lại được tỏ ngộ trước?
Đáp: Trong tứ chúng trời người cũng có đủ ba hạng căn cơ thượng, trung, hạ. Thượng căn thì ngang bằng như ngài Xá-lợi-phất. Hàng trung căn, hạ căn có thể biết, lại cũng nhận hiểu được. Ngài Xá-lợi-phất và Ca-diếp đều theo hạnh quyền thừa. Hàng trung căn và hạ căn [trong Pháp hội] còn chưa nhận hiểu nên ngài Ca-diếp theo hạnh nguyện mà thị hiện cũng chưa nhận hiểu. Kinh Tịnh Danh nói: Chúng sinh chưa khỏi bệnh, Bồ Tát cũng chưa khỏi bệnh.
[32] Đại lược là như vậy.
KINH VĂNLúc ấy ngài Xá-lợi-phất bạch Phật: “Thế Tôn! Nay con không còn nghi ngờ hối tiếc, vì tự thân mình ở trước Phật đã được Phật thụ ký sẽ thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong số một ngàn hai trăm vị đạt tâm tự tại ở đây,[33] thuở xưa khi còn ở bậc hữu học, Phật thường dạy các vị rằng: ‘Giáo pháp của ta có thể giúp xa lìa sinh, già, bệnh, chết, rốt ráo được Niết-bàn.’ Các vị hữu học và vô học ở đây,[34] mỗi vị cũng đều đã lìa xa kiến chấp về tự ngã cũng như những kiến chấp về có hoặc không..., đều tự cho rằng mình đã đạt được Niết-bàn, nay ở trước đức Thế Tôn được nghe những điều chưa từng nghe, thảy đều rơi vào sự nghi hoặc. Lành thay, bạch Thế Tôn! Nguyện Phật vì bốn chúng thuyết dạy rõ nhân duyên, khiến cho được xa lìa sự nghi ngờ hối tiếc.”Từ câu “Lúc ấy ngài Xá-lợi-phất bạch Phật” trở đi là vòng thuyết pháp thứ hai, [đức Phật] vì hàng trung căn mà thuyết thí dụ.
[35] Kinh văn phần này gồm 4 phẩm. Phẩm Thí dụ này là thứ nhất, nội dung khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày nhất thừa. Phẩm Tin hiểu nêu rõ việc hàng trung căn đạt được sự nhận hiểu. Phẩm Thí dụ cỏ thuốc, đức Như Lai thuật cho biết sự thành tựu [của bậc giác ngộ]. Phẩm Thụ ký trao cho [hàng trung căn niềm tin] quyết định [qua việc thụ ký tương lai sẽ thành Phật]. Tất cả 4 phẩm này đều thuộc về phần thuyết thí dụ.
Bốn phẩm kinh tiếp theo đều thuộc về phần thuyết nhân duyên. Như [trong phẩm Ngũ bá đệ tử thụ ký, ngài Kiều-trần-như nêu nhân duyên “buộc hạt châu trong áo” để trình bày rõ sự nhận hiểu [của mình]; [trong phẩm Thọ học vô học nhân ký, đức Phật] dẫn nhân duyên ngài A-nan [cùng với Phật từng ở chỗ] đức Phật Không Vương nên ngày nay được thụ ký... Đại lược là như vậy.
Lại nữa, nếu theo lệ như phần thuyết Chánh pháp thì lẽ ra [thuyết thí dụ này] phải có nói về bốn chúng trong hàng trung căn hoan hỷ, nhưng nay không thấy nói.
[36] [Điều này có thể do 2 lý do.] Thứ nhất, do người chép kinh lược bớt. Thứ hai, vì theo thông lệ [so sánh] trước sau có thể hiểu được [nên không cần chép ra], hoặc phần văn sau nằm ở phẩm Pháp Sư... Đại lược là như vậy.
Phần thuyết thí dụ có 2 tổng đoạn, thứ nhất là thưa thỉnh, thứ hai là [Phật] giải đáp.
Tổng đoạn thứ nhất có nội dung thưa thỉnh, chia làm 3 đoạn.
Đoạn thứ nhất [từ câu “Lúc ấy ngài Xá-lợi-phất bạch Phật...”] là [ngài Xá-lợi-phất] tự nói ra không còn nghi hoặc nữa.
Đoạn thứ hai [từ câu “Trong số một ngàn hai trăm vị...”] là [ngài Xá-lợi-phất] nói ra việc các vị cùng nhóm [hữu học, vô học] đều có nghi hoặc.
Đoạn thứ ba [từ câu “Lành thay, bạch Thế Tôn...”] là [ngài Xá-lợi-phất] rộng vì bốn chúng [mà thưa thỉnh].
Phần tự nói ra [của ngài Xá-lợi-phất] [có thể hiểu rõ ràng] theo như kinh văn [nên không cần giải thích].
[Nói] “cùng nhóm” nghĩa là các vị đồng bậc tu hành, vì nhớ lại thuở xưa [cùng tu tập với nhau] cho nên vì [các vị ấy mà] thưa thỉnh.
Bốn chúng là bối cảnh giáo hóa, [ngài Xá-lợi-phất] vừa mới [chuyển sang Đại thừa] vận khởi tâm đại bi nên rộng vì [khắp bốn chúng] mà thưa thỉnh.
Từ câu “Phật thường dạy các vị rằng...” trở đi là nói sự bám chấp nơi giáo pháp ba thừa trước đây.
Từ câu “nay ở trước đức Thế Tôn được nghe...” trở đi là nói sự bám chấp vào một giáo lý đã được Phật dạy trước đây. Trước đây Phật dạy [giáo pháp] ba thừa là cứu cánh rốt ráo, ngày nay lại nói Nhất thừa là chân thật. Do có sự mâu thuẫn khác nhau khiến cho [thính chúng] sinh nghi ngờ mê hoặc, cho nên [kinh văn] nói rằng: “Thảy đều rơi vào sự nghi hoặc.”
Có người nói rằng, ngài Xá-lợi-phất có 2 mối nghi, thuở xưa và ngày nay, còn 1.200 vị A-la-hán [trong Pháp hội này] chỉ có mối nghi ngày nay. Nay cho rằng, hàng thượng căn [lẽ ra] nghi ít, hàng trung căn, hạ căn phải nghi nhiều hơn, sao có thể nói ngược lại?
Từ câu “Lành thay! Bạch Thế Tôn...” trở đi là rộng vì bốn chúng mà thưa thỉnh. [Ngài Xá-lợi-phất thưa thỉnh Phật “thuyết dạy rõ] nhân duyên”, đó là nói nhân duyên của việc trước đây thuyết dạy ba thừa mà bây giờ chỉ nói Nhất thừa.
KINH VĂNLúc bấy giờ đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Chẳng phải trước đây ta đã từng nói rằng ‘Các đức Phật Thế Tôn dùng đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, phương tiện để thuyết pháp, đều là vì [dẫn dắt đến] quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác’ đó sao? Cho nên, hết thảy những điều thuyết dạy đó đều là vì giáo hóa hàng Bồ Tát.Nhưng này Xá-lợi-phất, nay ta lại sẽ dùng thí dụ để làm sáng tỏ ý nghĩa ấy. Những ai có trí tuệ, nhờ thí dụ này sẽ hiểu được.”Từ câu “Lúc bấy giờ Phật bảo ngài Xá-lợi-phất...” trở đi là tổng đoạn thứ hai, nêu ra nội dung đức Phật giải đáp.
Tổng đoạn này chia làm 3 đoạn. Đoạn thứ nhất là nêu ý phát khởi; đoạn thứ hai là nêu ra thí dụ; đoạn thứ ba là khuyến khích tin nhận.
Đoạn thứ nhất nêu ý phát khởi chia làm 2 tiểu đoạn. Thứ nhất là ức chế, thứ hai là dẫn dắt. Ức chế khiến cho phấn chấn mạnh mẽ, dẫn dắt khiến cho tiến tới mau chóng.
Từ câu “Chẳng phải trước đây ta đã từng nói...” trở đi là nhắc lại phần trước đã nêu rõ pháp quyền. Từ câu “đều là vì [dẫn dắt đến] quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác’...” trở đi là nhắc lại phần trước đã hiển bày pháp thật. Câu “đều là vì giáo hóa hàng Bồ Tát”, dù là quyền hay là thật thì cũng đều thể nhập Niết-bàn vô trụ của Phật đạo. Phần trước đã nói rõ ràng như vậy, vì sao còn bám chấp nơi giáo nghĩa, mê muội si ám không hiểu rõ? [Phật] quở trách như vậy chính là ý nghĩa ức chế.
Từ câu “Nhưng này Xá-lợi-phất, nay ta lại sẽ...” trở đi là tiếp sức dẫn dắt làm cho yên lòng. Phần trước nghiêm khắc quở trách, e rằng [người nghe sinh ra] ai oán tự chìm đắm nên hứa sẽ đưa ra thí dụ để giúp làm sáng tỏ ý nghĩa. Người nào hiểu được [qua thí dụ này] thì vẫn được xưng tán là người có trí.
KINH VĂN“Xá-lợi-phất! Ví như ở một đất nước, đô thành hay thôn xóm kia, có vị đại trưởng giả[37] tuổi cao sức yếu, giàu có vô cùng, sở hữu rất nhiều ruộng vườn, nhà cửa, tôi tớ. Căn nhà của ông hết sức rộng lớn nhưng chỉ có duy nhất một cửa ra vào. Trong nhà có rất nhiều người, một trăm, hai trăm, thậm chí đến năm trăm người cùng ở bên trong. Căn nhà ấy, cả nhà chính và các tầng gác đều mục nát, tường vách nghiêng đổ, cột trụ hư mục, xà nhà với mái nhà đều sắp sụp đổ, rồi bỗng nhiên bốn phía đều có lửa dữ cùng lúc bốc lên, thiêu đốt cả căn nhà. Ông trưởng giả ấy có những người con, hoặc mười người, hoặc hai mươi người, thậm chí đến ba mươi người, đều đang ở trong căn nhà ấy.Đoạn thứ hai Phật nêu ra thí dụ, gồm có văn trường hàng và kệ tụng. [Trong phần] văn trường hàng [nêu thí dụ] lại có phần khai mở và hợp lại. Phần khai mở có khác biệt nhau như trên đã nói, nay chia làm 2 ý. Một là nói tổng quát, hai là nói cụ thể. Phần nói [thí dụ] tổng quát là ví như trong phần nói về Phật Thích-ca có 2 khổ kệ từ câu “Ta nay cũng như vậy...”
[38] đã nói lược qua ý nghĩa trừ bỏ quyền thừa, hiển bày chân thật. Phần nói [thí dụ] cụ thể là ví như trong phần nói về Phật Thích-ca có 41 khổ rưỡi kệ bắt đầu từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, Ta dùng Phật nhãn quán...”, nói rộng ý nghĩa trừ bỏ quyền thừa, hiển bày chân thật.
A. THÍ DỤ KHÁI QUÁTPhần thí dụ khái quát có 6 [hình ảnh nêu ra]. Thứ nhất là ông trưởng giả, thứ hai là căn nhà [của ông trưởng giả], thứ ba là [căn nhà chỉ có] một cửa ra vào, thứ tư là [trong nhà ấy] có 500 người, thứ năm là lửa bốc lên cháy nhà, thứ sáu là [ông trưởng giả ấy] có 30 người con.
[Hình ảnh] ông trưởng giả ở đây là thí dụ cho “Ta” [trong câu kệ], tức là đức Phật Thích-ca, đang chủ trì việc giáo hóa. [Hình ảnh] căn nhà đang bị lửa bốc cháy là thí dụ phần trên có nói chỗ [tu tập Phật pháp được] an ổn, đối với ba cõi không an ổn. [Căn nhà chỉ có] một cửa ra vào là thí dụ cho phần trên [Phật đã] tuyên thuyết chỉ bày pháp môn Phật đạo. [Hình ảnh] 500 người là thí dụ cho phần trên nói về [tất cả] chúng sinh. [Hình ảnh] lửa bốc cháy [trong căn nhà] là thí dụ cho phần trên nói các pháp không an ổn như 5 sự uế trược, 8 loại khổ não.
[39] [Hình ảnh] 30 người con [của trưởng giả] là thí dụ cho phần trên nói [Phật] rõ biết căn tánh và lòng tham muốn của những chúng sinh tu hành theo ba thừa.
1. Thí dụ “ông trưởng giả”Thí dụ nói về ông trưởng giả có ba ý nghĩa, thứ nhất là danh tiếng và công hạnh, thứ hai là địa vị và danh hiệu, thứ ba là đức độ và sự nghiệp.
[Thứ nhất nói về danh tiếng và công hạnh.] Danh tiếng [là bên ngoài, ví] như khách, công hạnh [xuất phát từ tự thân, ví] như chủ. Công hạnh có thân thiết hoặc sơ sài, danh tiếng có gần xa, cho nên nêu các nơi chốn khác nhau để làm rõ danh tiếng và công hạnh. Về bờ cõi cương vực thì phạm vi một nước là xa nhất, đô thành là trung bình, thôn xóm láng giềng là gần gũi nhất. Danh tiếng và công hạnh của ông trưởng giả này vang dội trong khắp ba phạm vi [gần xa] như vậy. [Láng giềng] ở gần không thấy lỗi lầm sai sót nhỏ nhặt nào của ông, người ở xa [trong khắp nước] đều kính trọng bái phục phong thái cao thượng tôn quý của ông. Mọi lời nói [của ông] đều chân thật hòa nhã, mọi việc làm đều thích hợp, mọi suy nghĩ đều đúng đắn.
[40] Danh tiếng và công hạnh của ông tương xứng nhau, quả thật là một bậc đại nhân.
Những điều này hợp với ba nghiệp [thanh tịnh] của Như Lai: công hạnh [Phật] tùy theo trí tuệ, phù hợp với căn cơ [của chúng sanh] mà thi hành sự giáo hóa; danh hiệu [Phật] được biết đến ở khắp nơi; đức độ [Phật] trải rộng khắp pháp giới.
[Các vị] cựu giải cho rằng tâm từ bi rộng khắp hư không trong mười phương gọi là “khắp nước”, đại thiên thế giới gọi là “đô thành”, mỗi một cõi bốn thiên hạ gọi là “thôn xóm”.
[41] Lại có vị cho rằng đại thiên thế giới gọi là “khắp nước”, trung thiên thế giới gọi là “đô thành”, tiểu thiên thế giới gọi là “thôn xóm”.
[42] Những cách giải thích như vậy nay đều không vận dụng.
Đại [Trí độ] luận, quyển 60 nói rằng: [Cảnh giới] nhu thuận nhẫn là “thôn xóm”, vô sinh nhẫn chánh giác là “đô thành”. [Đó là] dùng cả nhân với quả làm thí dụ.
Nay kinh [Pháp hoa] này dùng cả quả với đức làm thí dụ thì cõi thật báo [trang nghiêm] gọi là “khắp nước”; cõi phương tiện hữu dư gọi là “đô thành”, cõi phàm thánh đồng cư gọi là “thôn xóm”. [Chư Phật] từ nơi bản môn thương xót chúng sinh nên thị hiện hình tích, lại thâu nhiếp hình tích quay về bản môn, danh tiếng và công hạnh tương ưng xứng hợp, không có sự khác biệt như chủ với khách, sáng suốt tràn đầy khắp trong ba cõi.
Thứ hai nói về địa vị và danh hiệu, ở đây nêu lên 3 nghĩa. Thứ nhất là [địa vị và danh hiệu] trưởng giả theo thế gian, thứ hai là nghĩa xuất thế gian và thứ ba là theo nghĩa quán tâm.
Trưởng giả theo thế gian có đầy đủ 10 tánh đức. Thứ nhất là dòng tộc cao quý, thứ hai là địa vị cao cả, thứ ba là vô cùng giàu có, thứ tư là có uy lực dũng mãnh, thứ năm có là trí tuệ sâu sắc, thứ sáu là tuổi cao từng trải, thứ bảy là công hạnh trong sạch, thứ tám là đầy đủ lễ nghi, thứ chín là được người trên
[43] ngợi khen xưng tán, thứ mười là được kẻ dưới quy phục noi theo.
Dòng tộc cao quý là nói hàng con cháu nối dõi của [các bậc vua chúa] như Tam Hoàng Ngũ Đế, hoặc sinh trong nhà quan gia quyền quý. Địa vị cao cả là nói giúp việc quốc gia như hàng thừa tướng, các bậc hiền tài, là chỗ dựa cho đấng quân vương.
[44] Vô cùng giàu có là nói giàu đến mức vàng chất đầy kho, bạc chứa thành đống, đầy đủ dư thừa vượt mức. Uy lực dũng mãnh là phong thái nghiêm trang đáng kính, không khắt khe trừng phạt mà sai khiến được người khác.
[45] Trí tuệ sâu sắc là nói [tài trí có công năng như] trong lòng chứa đầy một kho binh khí, có khả năng quyền biến lạ lùng siêu tuyệt vượt trội. Tuổi cao từng trải là nói niên kỷ đã vào hàng trưởng thượng, được tất cả mọi người tôn kính. Công hạnh trong sạch là nói đức hạnh ví như ngọc khuê trắng muốt không chút tỳ vết, việc làm luôn tương ứng với lời nói ra. Đầy đủ lễ nghi là nói mọi sự [hành xử] đều có chừng mực quy củ, làm khuôn thước cho hết thảy người đời noi theo. Người trên [khen ngợi] là nói được người [đứng đầu đất nước] cung kính. Kẻ dưới quy phục là nói người trong khắp thiên hạ
[46] đều quy phục noi theo.
Đầy đủ 10 đức như trên thì gọi là đại trưởng giả.
[Thứ hai là] trưởng giả xuất thế. Phật từ trong chân như thật tế ba đời mà sinh ra, công đức tu tập thành tựu, đạo nghiệp sáng ngời, đầy đủ 10 tôn hiệu cao quý không gì sánh bằng, tài bảo Chánh pháp là muôn công đức đều trọn đủ, mười lực oai hùng mạnh mẽ hàng phục tà ma, chế phục ngoại đạo, một tâm ba trí
[47] thông đạt hết thảy, từ rất lâu xa sớm thành chánh giác nên vốn đã là như vậy, ba nghiệp [thân, khẩu, ý] đều nương theo trí tuệ vận hành không sai sót, đầy đủ oai nghi của bậc giác ngộ, tâm như biển lớn, các bậc giác ngộ trong mười phương đều ngợi khen xưng tán, [chúng sanh] trong 7 hạng phương tiện
[48] đều tìm đến quy ngưỡng nương theo. Như vậy gọi là xuất thế đại trưởng giả, là Phật.
Thứ ba là [trưởng giả] theo nghĩa quán tâm. Trí tuệ quán tâm xuất phát từ thật tướng, chân chánh sinh ra trong dòng giống Phật, tuy chưa phát khởi trí chân thật nhưng ba hoặc
[49] chẳng còn khởi sinh, đây là đắp y Như Lai, được xưng là tịch diệt nhẫn. Trong ba đế
[50] hàm chứa tất cả các công đức, trí tuệ chánh quán hàng phục ái kiến, [quán] trung đạo cùng lúc soi chiếu [hai trí] quyền, thật đều sáng tỏ rõ ràng. Nhờ tích tụ căn lành từ lâu đời mới có thể tu tập được pháp quán này. Pháp quán này vượt trên cả 7 hạng phương tiện.
[51] Phép quán này quán xét tánh thể của tâm, gọi là thượng định, [người thực hành] chắc chắn 3 nghiệp [thân, khẩu và ý] không còn sai lầm, khi đối diện cảnh trần, trải qua các duyên đều giữ được oai nghi không để mất. Nếu có thể quán được như vậy là có lòng tin sâu vững, thấu rõ các tướng, chư Phật đều hoan hỷ, khen ngợi là người khéo hành trì đúng pháp, hàng trời rồng bốn bộ
[52] đều cung kính cúng dường.
Kinh văn phần sau nói rằng: “Phật tử trụ địa vị này, tức được sự thọ dụng như Phật, [thường ở trong cảnh giới ấy mà] kinh hành, hoặc nằm, hoặc ngồi.”
[53] Đã gọi người tu tập như vậy là Phật, lẽ nào lại không gọi là trưởng giả [theo nghĩa] quán tâm?
Nay lấy 10 tánh đức [kể trên] so với kinh văn thì đầy đủ ý nghĩa, chỉ thiếu một ý. [Kinh văn nói] “ở một đất nước, đô thành hay thôn xóm kia, có vị đại trưởng giả”, tức ở cả ba phạm vi như vậy đều ngợi khen xưng tụng là “đại”, lẽ nào lại chẳng phải là dòng tộc cao quý? [Tôn xưng là] trưởng giả, lẽ nào chẳng phải địa vị cao quý? Tuổi cao sức yếu, lẽ nào chẳng phải là lão niên từng trải? Giàu có vô cùng, lẽ nào chẳng phải là thịnh vượng sung túc? Sở hữu rất nhiều nhà cửa ruộng vườn, [tức có khả năng] phân phối điều hành chu đáo, lẽ nào chẳng phải có trí tuệ sâu sắc? Có nhiều tôi tớ, há chẳng phải có uy lực dũng mãnh? Nhà ông rộng lớn, lẽ nào chẳng phải là bậc thầy đức hạnh? Nhà chỉ có duy nhất một cửa, lẽ nào chẳng phải chỉ một đường dạy bảo người khác lễ nghi tiết độ? Trong nhà có rất nhiều người, tức là được kẻ dưới quy phục.
Chỉ thiếu một ý nói về việc được người trên ngợi khen kính trọng. Nay dùng chữ “đại” [trong đại trưởng giả] để bao hàm thêm ý này. Vì được bậc đại nhân biết đến nên gọi là đại.
Từ câu “tuổi cao sức yếu” trở đi có 3 ý xưng tán đức nghiệp. Tánh đức có trong, có ngoài. Bên trong là trí tuệ mưu lược, bên ngoài là tài sản của cải.
“Tuổi cao” thì uyên bác thông đạt những chuyện xưa nay, đó là ví như trí đức của Phật. “Sức yếu” là nghĩa căn tánh ý chí đã thuần thục, đó là ví như đoạn đức của Phật.
Giàu có là ví như ngoại đức [của Phật]. Vô cùng là ví tổng quát cho muôn đức [của Phật]. Ruộng vườn nhà cửa là ví dụ cụ thể: ruộng vườn có thể nuôi dưỡng mạng sống nên ví như thiền định nhờ trí bát-nhã; nhà cửa là chỗ trú ngụ của thân thể, nên ví như cảnh giới chân thật là chỗ nương vào của trí tuệ.
Nếu lược nói thì có 18 pháp không,
[54] còn nói rộng thì có vô số pháp không. Nếu luận về phước đức [của Phật] thì chẳng có công hạnh nào mà [Phật] không tu tập, còn luận về trí tuệ [Phật] thì không một cảnh giới nào không soi chiếu đến. Cho nên [thí dụ ở đây] nói rằng “có nhiều ruộng vườn nhà cửa”.
Tôi tớ là người hầu hạ, để sai khiến, ví cho phương tiện và tri kiến, [đức Phật] đều có đủ, hòa đồng thì soi sáng cả 6 đường [luân hồi], uyển chuyển thì tùy thuận muôn căn cơ [khác biệt của chúng sanh], tức là nói trí tuệ chân thật như tôi tớ để sai khiến.
2. Thí dụ “căn nhà rộng lớn”[Hình ảnh thí dụ] thứ hai là căn nhà của ông trưởng giả rất rộng lớn. Căn nhà ở đây ví với phần trước nói nghĩa an ổn đối lại với không an ổn. Không an ổn là ví cho ba cõi. Chúng sinh đủ mọi tầng bậc đều lấy ba cõi làm nhà. Đức Như Lai ứng hiện giáo hóa thâu nhiếp tất cả [như trong một] nhà nên nói là [căn nhà] rộng lớn.
3. Thí dụ “chỉ có một cửa ra vào”Nói “chỉ có một cửa” là ví với phần trước nói đủ mọi pháp môn đều là tuyên thuyết chỉ bày đạo Phật. Đạo Tràng Quán nói rằng: “Lý thật tướng không khác, trí tuệ lại cũng chỉ có một, không còn đường nào khác để ra khỏi [ba cõi] cho nên nói rằng chỉ có một cửa.”
Ngài Quang Trạch Pháp Vân
[55] nói rằng: “Ba cõi tuy rộng lớn, 96 hạng ngoại đạo
[56] tuy đông, nhưng luận về việc ra khỏi [ba cõi] chỉ có duy nhất lời dạy của Phật, cho nên nói là [chỉ có] một cửa.”
Nay làm sáng tỏ rằng, nếu chỉ lấy riêng phần lý là cửa ra, thì lý ấy [vốn tự nó] chẳng có chỗ thông suốt hay bế tắc, vậy có cửa nào để nói? Nếu chỉ lấy riêng phần giáo là cửa ra, thì người học kinh rất nhiều, do ý gì lại chẳng ra khỏi [ba cõi]? Nay cho rằng lý là chỗ giảng rõ của giáo. Kinh văn nói theo pháp môn Phật dạy mà thoát khỏi được nỗi khổ trong ba cõi, chứng đắc Niết-bàn. Pháp môn [Phật dạy ở đây lại] có hai [biểu ý] là trạch môn và xa môn. [Biểu ý của trạch môn thì] trạch [là căn nhà, nhà đang bốc cháy] là chốn sinh tử, môn [là cửa ra vào,] là con đường phải đi theo để thoát ra, chính là giảng rõ giáo nghĩa phương tiện. [Về biểu ý của xa môn thì] xa [là cỗ xe, dùng xe để dẫn dụ nên cỗ xe] là pháp Đại thừa, môn [là cửa ra,] là giảng rõ giáo nghĩa Viên giáo.
[Lại theo giải thích trên,] nếu cho rằng trạch môn cũng là xa môn, thì ban đầu khi [trưởng giả] dùng ba loại xe [dẫn dụ] để cứu các con, lẽ ra cũng ban cho đồng đều một loại xe lớn. Nhưng [trạch môn] là pháp môn để thoát ra [ngoài ba cõi], không giống như [xa môn là] pháp môn [dẫn dụ để chúng sanh] theo vào, cho nên xét thấy xa môn và trạch môn là khác biệt.
4. Thí dụ “có 500 người”[Kinh văn nói, “trong nhà có rất nhiều người, một trăm, hai trăm, thậm chí đến năm trăm người”.] Năm trăm người là ví cho với nghĩa chúng sinh đã nói ở trên, tức là 5 đường [tái sinh trong luân hồi].
[57]5. Thí dụ “lửa bốc lên cháy nhà”Kinh văn từ câu “Căn nhà ấy, cả nhà chính và các tầng gác...” là ví cho nghĩa “an ổn đối với không an ổn” đã nói ở trên, tức là [thế gian với] 5 sự uế trược. Trước tiên nêu ra hình ảnh nhà đang bị cháy, đây là ví cho quả báo trong 6 đường [luân hồi].
[58] Tiếp theo chỉ rõ lửa đang thiêu đốt, đây là ví cho 8 nỗi khổ và 5 sự uế trược. “Nhà chính” là ví cho Dục giới; “các tầng gác” là ví cho Sắc giới và Vô sắc giới; “tường vách” ví cho tứ đại, “hư mục” ví cho sự suy giảm, hư hoại; “nghiêng đổ” ví cho sự biến thiên, thay đổi; “cột trụ” ví cho mạng sống [của chúng sanh]; “xà nhà” ví cho ý thức; “mục nát” ví cho việc nguy cấp chẳng thể tồn tại được lâu.
Muốn giải thích dễ dàng hơn thì có thể giải thích theo nghĩa quán [thân]. “Nhà chính” là ví cho phần dưới của thân; “các tầng gác” là ví cho phần trên như đầu, cổ v.v.; “tường vách” ví cho da, thịt; “hư mục” ví ấy dụ cho sự già yếu suy nhược; “cột trụ” ví cho hai chân; “mục nát” ví cho sự vô thường; “xà nhà” ví cho bộ xương; “nghiêng đổ” ví cho kỳ hạn sống chết của một đời người; chướng ngại quanh co [trên đường ra] ví cho ruột non, ruột già, cũng có người nói là ví cho tâm thức. Đại lược là như vậy.
Từ câu “bỗng nhiên bốn phía...” trở đi là nêu rõ việc lửa có thể thiêu đốt [căn nhà]. Tám nỗi khổ hiện hữu khắp cùng nơi tứ đại trong tất cả chúng sanh
[59] cho nên nói là khắp “bốn phía”, hết thảy đều là vô thường cho nên nói là “cùng lúc”. “Bỗng nhiên”
[60] là ví cho nghĩa trước vốn không mà nay bỗng có, [bỗng nhiên hiện hữu]. Trước vốn không có những nỗi khổ ấy, chỉ do vô minh mà thành có.
6. Thí dụ “có 30 người con”Từ câu “Ông trưởng giả ấy có những người con...” trở đi, nói “có 30 người con” là ví cho [kệ tụng] phần trước đã nói “biết lòng dục chúng sanh”. [Những chúng sinh này] đã từng tu tập Phật pháp, khuynh hướng tâm tánh
[61] tương quan nhau, đó là ý nghĩa được gọi là con. [Nhưng trước số đó] tâm tánh, lòng dục có khác nhau, nên nói “hoặc mười người” là ví cho hàng Bồ Tát, “hoặc hai mươi người, thậm chí đến ba mươi người” là ví cho hàng Nhị thừa. Những chúng sinh có căn cơ như vậy đều được thoát ra khỏi căn nhà đang cháy, cho nên gọi là con [của ông trưởng giả]. Những chúng sinh không có căn cơ [được độ thoát] tức là 500 người [đang ở trong nhà ấy], hoặc cũng có thể nói là hàng Bích-chi Phật khi hiện khi ẩn không giống nhau, hoặc thuộc Tiểu thừa, hoặc thuộc Trung thừa, đều gọi là trong số 10 người con, đều có đủ tánh của mười trí,
[62] cho nên nói rằng sẵn có tánh của trí bên trong, chỉ là không có tánh trí như thật mà thôi.
Ba phần kệ bên trên, trước là tụng về nghĩa thật, sau tụng về nghĩa quyền. Nay trong phần thí dụ tổng quát cũng trước nói nghĩa thật, sau nói nghĩa quyền. Đại lược là như vậy.
[63]B. THÍ DỤ CỤ THỂKINH VĂNÔng trưởng giả thấy lửa dữ bốc lên quanh bốn phía nhà thì hết sức kinh hãi, liền nghĩ rằng: ‘Nay ta tuy có thể xuyên qua cửa đang cháy mà thoát ra ngoài an ổn, nhưng các con ta đều còn đang ở trong nhà, vui chơi đùa giỡn không hay không biết gì, không chút sợ hãi, lửa cháy thiêu thân, đau đớn kinh người, tâm không chán sợ, không có ý muốn thoát ra.’Từ câu “Ông trưởng giả thấy lửa dữ bốc lên...” là bắt đầu phần thứ hai, nêu thí dụ cụ thể. Phần này lại có 4 thí dụ.
Thí dụ thứ nhất là “ông trưởng giả thấy lửa”. Đây là ví dụ được dẫn khởi từ
[64] phần [kệ tụng trong phẩm Phương tiện] ở trước, nói Phật nhìn thấy [chúng sinh trong 6 đường ở cõi thế gian] với 5 sự uế trược, gồm 4 khổ kệ.
[65]Thí dụ thứ hai là ông trưởng giả từ bỏ sức mạnh mà dùng phương tiện các loại xe đẹp để dẫn dụ.
[66] Đây là ví dụ được dẫn khởi từ phần kệ tụng ở trước, nói đức Phật Thích-ca vì thế gian có 5 sự uế trược mà tạm gác lại giáo pháp Đại thừa, vận dụng giáo pháp Tiểu thừa. Phần này gồm 17 khổ rưỡi kệ, bắt đầu từ câu “ban sơ ngồi đạo trường”.
[67]Thí dụ thứ ba là “cho tất cả các con mỗi người một cỗ xe lớn như nhau”. Đây là thí dụ được dẫn khởi từ phần kệ tụng ở trước nói đức Phật Thích-ca chỉ bày tướng chân thật, gồm 6 khổ kệ, bắt đầu từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, Ta thấy những Phật tử”.
[68]Thí dụ thứ tư là “ông trưởng giả không nói dối”. Đây là thí dụ được dẫn khởi từ phần kệ tụng bắt đầu từ câu “Các ông chớ hoài nghi, Phật là vua các pháp”, gồm 2 khổ rưỡi kệ.
[69]1. Thí dụ “ông trưởng giả thấy lửa”Thí dụ thứ nhất nói “ông trưởng giả thấy lửa”, kinh văn chia làm 4 đoạn, diễn đạt 3 ý. [Bốn đoạn kinh văn gồm] đoạn thứ nhất nói về người nhìn thấy, đoạn thứ hai là những gì được nhìn thấy, đoạn thứ ba nêu sự kinh hãi, đoạn thứ tư nói rộng những điều đã thấy trước đó. [Bốn đoạn này] chỉ diễn đạt 3 ý.
Đoạn thứ nhất, nói “ông trưởng giả nhìn thấy” là nêu rõ người thấy. Ý này ví với phần trên nói “Ta dùng Phật nhãn quán”.
Đoạn thứ hai, nói thấy “lửa dữ bốc lên quanh bốn phía nhà” là nêu những gì được nhìn thấy. Ý này ví với phần trên nói Phật nhìn thấy chúng sinh trong sáu đường luân hồi.
Đoạn thứ ba, nói “hết sức kinh hãi” là ví với phần trước nói nhìn thấy chúng sinh [khổ não trong sáu đường] liền khởi tâm đại bi. Riêng từ câu “các con ta đều còn đang ở trong nhà... ...lửa cháy” trở về sau là nói rộng lần thứ hai việc nhìn thấy lửa [dữ bốc lên], vẫn được giải thích là thuộc về ý nghĩa “hết sức kinh hãi”.
[Bốn yếu tố] thân, thọ, tâm và pháp [ví như] bốn phía chung quanh nhà. Từ bốn yếu tố này mà khởi lên bốn sự điên đảo như [bất tịnh cho là] tịnh, [khổ cho là] vui v.v.
[70] tạo thành 8 nỗi khổ như lửa [thiêu đốt,] hết thảy các nỗi khổ [cũng theo đó mà] tụ tập. Nếu rõ biết thân này là bất tịnh, là khổ, là vô thường, [là vô ngã] thì lửa phiền não sẽ tức thời bị diệt mất.
[Về nghĩa “bốn phía chung quanh nhà”,] theo các nhà cựu giải thì có 3 cách giải thích. Thứ nhất là cho rằng bốn phía ví cho bốn đại,
[71] sáu thức đều trú ngụ trong đó. Thứ hai là cho rằng [4 phía ví cho] 4 loài chúng sinh.
[72] Thứ ba là cho rằng [bốn phía ví cho] bốn sự điên đảo.
Nay dựa theo kinh văn ở phần sau thì 4 phía chung quanh nhà là [ví cho] sinh, lão, bệnh, tử, tức là [nghĩa làm cho] “hết sức sợ hãi”. Nghĩ đến việc [chúng sanh] thối thất những việc lành lớn lao cho nên “sợ”, lo lắng chúng sinh sắp khởi lên những việc xấu ác nặng nề cho nên “hãi”. “Sợ” [như vậy] nên liền khởi tâm từ, vì nghĩ đến chúng sinh không có được niềm vui; “hãi” như vậy nên liền khởi tâm bi vì lo lắng chúng sinh phải chịu khổ não.
[Kinh văn nói:] “Nay ta có thể xuyên qua cửa căn nhà đang cháy này mà thoát ra ngoài an ổn.” Câu này có thể giải thích theo nghĩa sợ hãi [và khởi sinh] từ bi [như trên]. Tuy là từ ngữ chưa rốt ráo nhưng cũng làm rõ việc Phật dùng sức trí tuệ có thể tìm ra cách giáo hóa chân chánh, thấy được cách giảng giải lẽ chân thật. Năm sự uế trược, 8 nỗi khổ đều không thể gây nguy hại [cho Phật] nên gọi là an; cơn gió hung bạo là 4 sự điên đảo không thể làm lay động nên gọi là ổn. An nhiên tự tại ở ngoài trói buộc nên gọi là “thoát ra ngoài”. Nhưng chúng sinh thì không thể được như vậy, phải bị lửa dữ thiêu đốt. Đức Như Lai từ bi vì lo lắng việc lửa dữ [bốc lên] thiêu đốt [chúng sinh nên không tự mình thoát ra], do đó nói là “tuy có thể”.
Kinh văn lại nói “xuyên qua cửa đang cháy”. Nay hỏi rằng, như ví giáo pháp là cửa ra, thì “cửa giáo pháp” ấy là cháy hay không cháy? Đáp lại câu này rằng, cửa giáo pháp không cháy nên Phật dạy giáo pháp là cửa [thoát ra], có thể giúp người bị cháy thoát ra. Người bị cháy thoát ra qua đó nên cửa thoát ra gọi là “cửa đang cháy”. Như người bên trong cửa bị chết thì gọi là “cửa chết”, nhưng thật ra cửa ấy không chết.
Lại hỏi rằng: Nếu như vậy thì giáo pháp là thường còn, chẳng phải pháp hữu vi. Còn nếu chẳng phải như vậy thì sao [nói là] không cháy? Nay giải thích rõ không phải như vậy. Nói về cửa thì có khung cửa với khoảng không. Không có khung cửa thì không lấy gì để biết đó là cửa, không có khoảng không thì không thể thông qua [để ra ngoài]. Khung cửa có thể cháy thành tro than nhưng khoảng không thì không thể cháy mất. Giáo pháp cũng vậy, có nội dung giảng giải và chân lý được giảng giải. Nếu không có nội dung giảng giải thì chẳng lấy gì làm giáo pháp. Nếu không có chân lý được giảng giải thì dựa vào đâu để thoát ra khỏi [ba cõi]? Nội dung giảng giải có thể là vô thường, nhưng chân lý được giảng giải không phải vô thường. Hiểu được nội dung giảng giải, đó là chân lý, nên gọi là “thoát ra ngoài an ổn”. Nội dung giảng giải là điều có thể mất đi, nên gọi là “cửa đang cháy”. Nhưng nếu không từ nơi “cửa đang cháy” đó thì do đâu được “thoát ra ngoài an ổn”? [Cũng như] dựa vào những lời giảng giải mới khế ngộ được chân lý.
Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “Nhân vô thường mà quả là thường.” Theo giải thích này thì điều đó cũng giống như đi qua “cửa đang cháy”. Như [nương theo] giáo pháp vô thường của Tiểu thừa, đó là từ nơi “cửa đang cháy” mà thoát ra. Nếu theo giáo pháp thường trụ Đại thừa thì văn tự chính là giải thoát, ngay nơi giáo pháp chính là chân lý, thấu đạt được chỗ cháy là không cháy, được “thoát ra ngoài an ổn”. Nếu đạt được trí quyền biến của Như Lai, đó là từ nơi “cửa đang cháy” mà thoát ra. Nếu đạt được trí chân thật thì thể hội ngay từ chỗ cháy mà “thoát ra ngoài an ổn”. Cho nên trước nêu ý [đặt các con] trên bàn mà mang ra, [thấy rằng] không thể được. Sau mới dùng [phương tiện] vô thường [dẫn dụ] đưa ra, chính là ý nghĩa này.
[Kinh văn nói] “đắm vui trong sự chơi đùa”. Bám chấp vào kiến chấp gọi là “chơi”, bám chấp nơi tham ái gọi là “đùa”. Lại nữa, mê đắm trong bốn kiến chấp
[73] gọi là chơi, hoang phí công sức gọi là đùa. Bám chấp nơi tham ái cũng vậy. Mê đắm trong năm trần cảnh gọi là chơi, chẳng đạt được gì gọi là đùa. Sinh ra rồi chết đi một đời uổng phí mà không nhàm chán, giống như những đứa trẻ con kia mải mê chơi đùa [trong nhà đang cháy].
[Kinh văn nói] “không hay không biết gì, không chút sợ hãi”. [Những đứa trẻ con ông trưởng giả,] tất cả đều không nói đến việc có lửa cháy, gọi là không hay; không hiểu rằng lửa là thứ nóng bức thiêu đốt, gọi là không biết. Đã không biết lửa là nóng nên chẳng sợ thương tổn thân thể, gọi là “không sợ”; chẳng lo mất mạng nên gọi là “không hãi”.
Chúng sinh [cũng vậy,] hoàn toàn chẳng hay có 8 nỗi khổ [của thân] 5 ấm, chẳng biết đến 4 sự điên đảo, 3 độc [tham, sân, si]. Đã không nhận biết [mình] si mê nên chẳng có gì lo lắng. Si mê ấy che lấp pháp thân, tổn thương tuệ mạng. Do vậy nên không hay sự khổ, không biết lẽ tập [là nguyên nhân của khổ], chẳng sợ tổn hại đạo, chẳng hãi đánh mất [Niết-bàn] tịch diệt.
Chẳng được nghe giáo pháp Tứ đế nên không có văn tuệ, gọi là không hay; không đạt được tư tuệ, gọi là không biết. Không đạt được hiểu biết từ tri kiến nên gọi là không hay; không đạt được hiểu biết từ suy xét nên gọi là không biết. Thấy được chân lý liền kinh sợ nhận hiểu, có suy xét liền chán ghét kinh sợ. Lại không hay có những nỗi khổ trong hiện tại, không biết đến sự khổ trong tương lai. Cho nên kinh văn phần sau nói rằng “vì sự tham lam bám chấp tìm cầu mà hiện tại phải chịu mọi sự khổ não, đời sau còn phải khổ vì đọa vào các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ...”
[74] chính là nghĩa này.
Kinh văn nói “lửa cháy thiêu thân, đau đớn kinh người, tâm không chán sợ, không có ý cầu được thoát ra”. Thân là ví với năm thức, tâm là ý thức, là tâm vương. Thân [chúng sanh] bị 8 nỗi khổ bức bách mà tâm chẳng hề chán sợ phiền não. Lại nói rằng, [chư Phật] đã từng gieo trồng công đức Đại thừa, pháp thân lấy trí tuệ làm thể. Thể [của chúng sinh là] bị 4 sự điên đảo bức bách mà [si mê] chẳng hay chẳng biết, tâm không chán không lo. Không chán với khổ là vô thường, không lo với tập là [nguyên nhân của] phiền não;“không có ý cầu được thoát ra” [là nói] không tu tập đạo, cầu được [Niết-bàn] tịch diệt.
Nay cho rằng chuyện căn nhà đang cháy là ví cho 5 sự uế trược. [Những đứa con] chơi [trong nhà đang cháy] ví cho kiến trược; đùa ví cho phiền não trược; “không hay không biết, chẳng chút sợ hãi” ví cho chúng sinh trược, “lửa cháy thiêu thân đau đớn kinh người” ví cho mạng trược, “tâm không chán sợ, không có ý cầu được thoát ra” ví cho kiếp trược. Những ý nghĩa này tương đương với 5 sự uế trược. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN“Xá-lợi-phất! Ông trưởng giả ấy lại nghĩ rằng: ‘Thân ta mạnh, tay ta khỏe, có thể dùng vạt áo rộng [bọc lấy các con], hoặc đặt chúng trên ghế, trên bàn lớn rồi đưa ra khỏi nhà.’ Nhưng rồi ông lại nghĩ: ‘Nhà này chỉ có một cửa, lại nhỏ hẹp, các con ta thơ dại chưa đủ nhận thức, đắm vui trong chỗ chơi đùa, [nếu làm vậy] e rằng chúng vùng vẫy rơi xuống, ắt phải bị lửa thiêu.’”2. Thí dụ “bỏ ý định dùng sức mạnh, chuyển sang dùng phương tiện”Từ câu “Ông trưởng giả ấy lại nghĩ rằng” trở đi là phần thí dụ thứ hai, [ông trưởng giả] từ bỏ [ý định dùng sức mạnh, bọc các con trong chéo áo hoặc đặt trên bàn lớn để đưa ra, chuyển sang] dùng xe đẹp [để dẫn dụ]. Đây là ví cho ý nghĩa phần trước đã nói tạm gác giáo pháp Đại thừa, vận dụng giáo pháp Tiểu thừa.
Phần [kệ tụng] trước có 6 khổ rưỡi nêu [ý Phật] dự tính dùng giáo pháp Đại thừa e không được; phần sau 11 khổ dự tính nếu dùng giáo pháp Tiểu thừa sẽ [giáo hóa] được.
Phần [nói việc] dự tính dùng giáo pháp Đại thừa không được lại có 3 ý. Thứ nhất, [Phật] dự tính dùng giáo pháp Đại thừa là thích hợp; thứ hai, [xét thấy chúng sinh khi ấy] không có căn cơ; thứ ba, dừng việc giáo hóa.
Nay trong thí dụ này lại chia làm 2 ý. Thứ nhất là dùng pháp khuyên bảo khuyến khích, dự tính như vậy là thích hợp; thứ hai là dùng pháp răn dạy ngăn cản, dự tính như vậy là thích hợp.
[75] Cả hai ý khuyên bảo khuyến khích và răn dạy ngăn cản này, mỗi ý lại chia ra 3 ý nhỏ. Thứ nhất, nêu suy tính như thế là thích hợp; thứ hai, [xét thấy căn cơ chúng sanh] không [đủ sức] thọ nhận; thứ ba là [có ý] buông bỏ.
a. Dùng pháp khuyên bảo khuyến khích[Phần nêu việc] dùng pháp khuyên bảo khuyến khích có ba ý. Ý thứ nhất từ câu “Ông trưởng giả ấy lại nghĩ rằng: ‘Thân ta mạnh, tay ta khỏe...’” trở đi, ví với phần kinh văn ở trước nói Phật muốn dùng Đại thừa để giáo hóa nên trong 21 ngày [sau khi thành đạo] suy nghĩ về việc này. Ý thứ hai từ câu “Nhưng rồi ông lại nghĩ...” trở đi nêu việc các con ông chẳng chịu nghe lời, ví với phần kinh văn ở trước nói Phật nhận thấy chúng sinh không có cơ duyên, căn tánh trì độn không thể hóa độ được. Ý thứ ba từ câu “e rằng chúng lại vùng vẫy rơi xuống, ắt phải bị lửa thiêu” trở đi nói việc buông bỏ [ý định trước, quay sang] khéo léo dẫn dụ, ví với phần kinh văn ở trước nói Phật nghĩ rằng chúng sinh không có cơ duyên, ta nên dừng việc giáo hóa, sớm nhập Niết-bàn.
[Về ý thứ nhất,] từ câu “Ông trưởng giả ấy lại nghĩ rằng ...” trở đi, ví cho việc kinh văn ở trước nói Phật suy nghĩ trong 21 ngày, [nay giải thích về câu] “thân ta mạnh, tay ta khỏe”. Hợp nghĩa với kinh văn phần sau thì đây là nói việc [nếu Phật] chỉ dùng sức thần thông và sức trí tuệ. Trong ví dụ này, thân [ta mạnh] ví cho sức thần thông có thể mang vác, tay [ta khỏe] ví cho sức trí tuệ có thể nâng nhấc. Nương theo tam-muội, đạt tánh đức đoạn dứt lậu hoặc phiền não liền có được thần thông. Nương theo trí tuệ đạt tánh đức trí tuệ liền có [năng lực] thuyết pháp. Tánh đức trí tuệ (trí đức) và tánh đức đoạn dứt lậu hoặc phiền não (đoạn đức) có thể thành tựu pháp thân. Cả hai tánh đức này là từ nơi 2 pháp khuyên bảo khuyến khích và răn dạy ngăn ngừa [của Phật] mà vào. Khuyên bảo khuyến khích là [pháp] vị nhân tất đàn, răn dạy ngăn ngừa là [pháp] đối trị tất đàn. Hai pháp tất đàn này là phương tiện cho đệ nhất nghĩa tất đàn.
Đức Như Lai ban đầu muốn dùng pháp khuyến tấn, dự tính [như vậy là] thích hợp với chúng sinh, [khuyên bảo] khiến cho vâng làm hết thảy các việc lành, thành tựu các pháp Thập lực, Vô sở úy, Nhất thiết chủng trí... nhưng chúng sinh chẳng đủ sức kham nhận.
Tiếp đến [Phật] muốn dùng pháp răn dạy, dự tính [như vậy là] thích hợp [để ngăn ngừa chúng sanh] không làm các việc ác, [nhờ đó] chứng được Đại Niết-bàn, nhưng chúng sinh cũng chẳng đủ sức kham nhận. [Chúng sinh] không có cơ duyên nên thôi dừng việc giáo hóa. Cho nên biết rằng [đức Phật nghĩ đến việc] vận dụng Đại thừa thì hai pháp tất đàn là khuyên bảo khuyến khích và răn dạy chính là thần thông với trí đức và đoạn đức. Cho nên [phần kệ tụng trong] kinh văn ở trước nói: “Định, tuệ, lực trang nghiêm, để cứu độ chúng sanh” chính là ý nghĩa này.
Câu kinh trước khen ngợi ông trưởng giả, nói “tuổi cao sức yếu”, đó là ví cho trí đức và đoạn đức. Trí đức và đoạn đức đó chính là “thân mạnh, tay khỏe”. [Kinh nói ông trưởng giả định dùng] vạt áo với ghế, bàn lớn [để cứu các con]. Pháp Sư Tam Tạng [Cưu-ma-la-thập] nói rằng, ở Ấn Độ dùng vạt áo để đựng các loại hoa đẹp. Khi muốn mang hoa đến dâng tặng lên người cao quý thì dùng vạt áo để chứa hoa. Theo các nhà cựu giải thì “vạt áo” là ví cho nhân [tu tập] Đại thừa, “ghế, bàn” là ví cho quả [thành tựu] Đại thừa. Ban đầu [ngay sau khi thành đạo đức Phật] dự tính [vận dụng] nhân quả Đại thừa, mà việc ấy không có cơ duyên.
Cũng theo các nhà cựu giải lại cho rằng, những vật [trong thí dụ] này ví cho giới, định, tuệ của Đại thừa. Trong bảy ngày đầu tiên [sau khi thành đạo, Phật] suy nghĩ về pháp mà ngài đã chứng đắc. Điều này cũng giống như dùng “vạt áo”. Bảy ngày thứ hai, [Phật] suy nghĩ về căn tánh và cơ duyên của chúng sinh, giống như dùng “ghế”. Bảy ngày thứ ba, [Phật] suy nghĩ biết ơn cây bồ-đề cùng mặt đất [nơi đó đã giúp mình thành đạo], giống như dùng “bàn”. [Các vị giải thích rằng] ý nghĩa này được trích từ kinh A-hàm.
Nay lấy ý nghĩa thí dụ này kết hợp với kinh văn [ở phần sau] nói: “Nếu ta chỉ dùng sức thần thông và sức trí tuệ, không dùng phương tiện, vì chúng sinh mà ngợi khen xưng tán tri kiến, lực, vô sở úy của Như Lai, thì chúng sinh không thể nào nhờ đó mà được cứu độ.” [Như vậy thì] sức thần thông [hay thần lực của Phật] chính là “thân mạnh”, sức trí tuệ tức là “tay khỏe”, như trước đã nói. Tri kiến [Phật] ví như “vạt áo”, vô sở úy ví như “ghế”, thập lực ví như “bàn”. Như Lai dùng thần thông phát khởi ba pháp [tri kiến, vô sở úy, thập lực], lại dùng trí tuệ để rộng nói về ba pháp này, [xét thấy chúng sanh] không có cơ duyên [tiếp nhận] liền định dừng việc giáo hóa.
[Các thí dụ] vạt áo ghế, bàn v.v. [tùy theo cách giải thích] sơ lược, vừa phải hay giảng rộng mà [ý nghĩa] khác nhau.
Như lược nói [về danh xưng] Như Lai tri kiến, tri tức là Nhất thiết chủng trí, kiến tức là Phật nhãn. Danh xưng như vậy ngắn gọn mà ý nghĩa hết sức sâu xa, ví như vạt áo chỉ một vạt mà chứa được nhiều hoa.
Như nói theo cách vừa phải, không lược không rộng, thì danh xưng tứ vô sở úy vận dụng hợp với tứ chân đế, ví như cái ghế, xét về pháp thì không rộng lắm, đối với sự vật thì chỉ an ổn lợi ích không nhiều.
Hoặc nếu nói rộng như danh xưng thập lực, bao quát rộng khắp, thì cũng như cái bàn có nhiều chân, không thể bị nghiêng đổ, xét về pháp là rộng lớn hơn, đối với sự vật thì an ổn lợi ích rất lớn.
Trong 21 ngày [sau khi thành đạo, đức Phật] suy nghĩ muốn truyền dạy Phật pháp [Đại thừa] theo những cách giảng rộng hoặc sơ lược như vậy, nhưng chúng sinh không thể kham nhận, cho nên nói [thí dụ như] vạt áo, như ghế, như bàn, [là những thứ ông trưởng giả ban đầu định vận dụng cùng “thân mạnh, tay khỏe” để cứu các con].
Về ý thứ hai, từ câu “nhưng rồi ông lại nghĩ...” trở đi, nói việc các con chẳng chịu nghe lời [ông bảo ra khỏi nhà đang cháy]. Đây là ví với ý nghĩa kinh văn ở trước nói chúng sinh không có cơ duyên. [Kinh văn nói:] “Nhà này chỉ có một cửa, lại nhỏ hẹp...” Ý nghĩa của “một cửa” thì như trước đã nói, nay lại làm rõ chỗ [khác nhau giữa] nghĩa khái quát và nghĩa cụ thể.
Theo ý nghĩa cụ thể thì “chỉ có một cửa” là nói chỉ một chân lý, một pháp môn thanh tịnh, gọi là chánh giáo, thông suốt chỗ được thông. [Cửa] nhỏ là nói [chánh giáo] không dung hợp [với các pháp như] đoạn, thường, 7 phương tiện v.v. Giáo lý vốn rộng lớn bao quát, ắt không có sự nhỏ hẹp, chỉ là vì chúng sinh không thể vận dụng giáo lý [Đại thừa] này để tự thông suốt. Vì muốn đề cập đến [những chúng sanh] không có cơ duyên như vậy nên mới nói là “nhỏ hẹp”.
Theo ý nghĩa khái quát thì lý vốn thuần nhất không xen tạp cho nên nói là “chỉ có một”; ngay nơi lý này có thể thông suốt cho nên gọi là “cửa”. [Lý này] tinh tế nhiệm mầu rất khó rõ biết cho nên nói là “nhỏ hẹp”. [Về nghĩa] giáo pháp thì xét kỹ trong khắp mười phương, rốt cùng không có thừa nào khác, duy chỉ có một Phật thừa cho nên nói là “chỉ có một”. Giáo pháp này có thể [giúp người] thông suốt cho nên gọi là “cửa”. Giáo pháp này tinh tế nhiệm mầu, kẻ phàm phu không thể rõ biết chỗ thoát ra, đó là chẳng biết pháp quyền; không biết chỗ thể nhập, đó là chẳng biết pháp thật.
[76] Hàng Nhị thừa nhân việc nghe [giáo pháp Tiểu thừa] mà biết được chút ít để thoát khổ, nhưng vĩnh viễn không biết thể nhập [rốt ráo]. Hàng Bồ Tát tuy tự biết thoát ra nhưng cũng không biết thể nhập. [Hành giả thuộc] 7 hạng phương tiện có sai lầm thì tất cả đều chẳng biết chỗ thoát ra hay thể nhập vào.
[Kệ tụng trong kinh] văn phần trước nói rằng: “Nếu chỉ khen Phật thừa, chúng sinh chìm đắm khổ.” [Đó là vì chúng sanh] không thể vận dụng giáo pháp để tự mình thông suốt. Vì muốn đề cập đến [việc chúng sanh] không có cơ duyên cho nên nói là “nhỏ hẹp”.
Về thực hành là tự thực hành nhân [tu tập] viên mãn trọn đủ, như đi trên con đường thẳng tắp rộng lớn thì không có khó khăn chướng ngại, cho nên nói là “một”. Khéo đi trên con đường của đạo Bồ Tát thì thẳng đến đạo tràng, cho nên nói là “cửa”. Công hạnh nhiệm mầu rất khó thực hành, [thi hành] phương tiện không có cơ duyên cho nên nói là “nhỏ hẹp”.
[Kinh văn nói “các con ta thơ dại chưa đủ nhận thức”.] Các nhà cựu giải cho rằng, hai cõi trời, người làm việc thiện theo Tiểu thừa nên nói là “còn thơ dại”, không có việc thiện theo Đại thừa nên nói là “chưa đủ nhận thức”. Nay giải thích rõ, [kinh văn nói] 20.000 vị Phật đều chỉ dạy [Phật] đạo Vô thượng, [chúng sanh] căn lành còn nhỏ yếu nên gọi là “còn thơ dại”, nếu nghe giáo pháp Đại thừa có thể sinh lòng hủy báng nên gọi là “chưa đủ nhận thức”.
[Kinh văn nói “đắm vui trong chỗ chơi đùa”.] Câu trước nói chỗ làm thiện [của chúng sanh] yếu ớt, câu này nói chỗ làm việc xấu ác lại mạnh mẽ. Tức là nói khi tạo nhân thì bám chấp sâu nơi kiến chấp, ái luyến, lúc nhận quả thì bám chấp sâu nơi y báo, chánh báo. [Chúng sinh] ở Dục giới thì bám chấp nơi sáu trần cảnh, ở Sắc giới thì bám chấp nơi vị của thiền, ở Vô sắc giới thì bám chấp nơi định.
Về ý thứ ba, phần kệ tụng trong kệ tụng ở trước nói rằng: “Chúng sinh căn cơ thấp; tham đắm, nhiều si mê...” là nói không thể kham nhận nghe pháp Đại thừa. [Kinh văn ở đây nói:] “E rằng chúng vùng vẫy rơi xuống, ắt phải bị lửa thiêu.” Riêng hai câu này nói việc từ bỏ [ý định dùng sức mạnh,] chuyển sang dùng phương tiện khéo léo dẫn dụ. Nói “rơi xuống” có hai ý. Thứ nhất là vì còn thơ dại, nhớ nghĩ về chỗ vui chơi lúc trước cho nên có thể bị “rơi xuống” [lúc đưa đi]. Thứ hai là vì chưa đủ nhận thức, nắm giữ không chắc chắn cho nên “rơi xuống”. [Thứ nhất] là ví như [chúng sanh] bám chấp 5 món dục lạc nên rơi vào 3 đường ác. Thứ hai là ví như [chúng sanh] tâm thiện yếu ớt, không có nhận thức, hủy báng Đại thừa nên bị rơi vào 3 đường ác.
b. Dùng pháp răn dạyKINH VĂNNay ta nên vì chúng nói ra những việc đáng kinh sợ, rằng căn nhà này đã bốc cháy, phải nhanh chóng thoát ra, đừng để cho bị lửa thiêu đốt.’ Nghĩ như vậy rồi liền y theo đó bảo với các con: ‘Hãy mau mau ra khỏi nhà này.’Tuy người cha ấy thương xót các con, dùng lời khéo léo dẫn dụ, nhưng các con ông đang vui chơi đùa giỡn, không chịu nghe theo, không chút kinh sợ, không hề có ý muốn thoát ra khỏi nhà, lại cũng không biết lửa là gì, nhà cửa là gì, sao gọi là cháy mất... chỉ cùng nhau vui đùa chạy tới chạy lui chỗ này chỗ kia rồi giương mắt nhìn cha mà thôi.Từ câu “vì chúng nói ra những việc đáng kinh sợ” trở đi là phần thứ hai, [dùng pháp răn dạy] để đối trị, cũng gồm có 3 ý. Một là nói [ông trưởng giả ban đầu] dự tính pháp đối trị là thích hợp, [hai là răn dạy] nói chỗ đáng kinh sợ, [ba là thúc đẩy các con] mau ra khỏi nhà [đang cháy].
Về tướng đối trị thì như trong Đại phẩm [Bát-nhã] có nói: “Tứ niệm [xứ]
[77] là Đại thừa, do nghĩa bất khả đắc nên khác với [tứ niệm xứ của] Tiểu thừa.” Vì [chúng sanh] bám chấp nơi chỗ vui chơi nên [Phật] thuyết dạy những việc đáng sợ để khiến cho khỏi bị ngọn lửa năm uế trược đốt cháy căn nhà năm ấm, nên buông bỏ xa lìa. Nếu ở lâu trong chỗ bám chấp ắt sẽ dứt mất căn lành, cho nên nói rằng “đừng để cho bị lửa thiêu đốt”.
Từ câu “Tuy người cha ấy thương xót các con...” trở đi là nói các con không nghe lời răn dạy, ngăn chặn. “Không chút kinh sợ” là nói không khởi sinh văn tuệ, tư tuệ, như trước đã nói; không nhận biết được rằng 8 nỗi khổ của 5 sự uế trược có thể thiêu đốt hết căn lành. “Không biết lửa là gì” là nói không biết các pháp ấm, giới, nhập là nơi tích chứa mọi khổ não. “Không biết nhà cửa là gì” là nói không biết nguyên do đánh mất pháp thân.
Không biết “sao gọi là cháy mất... chỉ cùng nhau vui đùa chạy tới chạy lui chỗ này chỗ kia rồi giương mắt nhìn cha mà thôi.” Hai câu này là nói [những người con] bỏ mặc không lưu tâm đến những lời khó nhọc răn nhắc [của cha]. [Chúng sinh] đều quay lưng về chỗ sáng, hướng đến chỗ tối tăm, giống như [những đứa trẻ] loay hoay “chỗ này chỗ kia”, cuộc sinh tử xoay vòng nhanh chóng như “chạy tới chạy lui”. Ở trong [sinh tử] khởi sinh kiến chấp, ái luyến, giống như [lũ trẻ] đùa giỡn. [Phật] tuy dùng Đại thừa nhưng suy tính thấy [chúng sanh] không nghe theo giáo pháp Đại thừa, cho nên nói “giương mắt nhìn cha mà thôi”.
KINH VĂN“Bấy giờ, ông trưởng giả liền suy nghĩ rằng: ‘Căn nhà này đang bị lửa dữ thiêu đốt, nếu ta và các con không kịp thời thoát ra bên ngoài ắt sẽ bị thiêu cháy. Nay ta phải dùng phương tiện để làm sao cho các con ta thoát khỏi tai nạn này.’“Người cha biết ý các con trước đây đều ưa thích những món đồ chơi quý lạ, ắt sẽ rất muốn có, liền bảo chúng rằng: ‘Có những món đồ chơi các con rất thích, hiếm có khó được, nay nếu các con không mau nhận lấy thì sau này sẽ phải hối tiếc. Đó là đủ các loại xe dê, xe nai, xe trâu, hiện nay đều đang ở bên ngoài cửa, có thể dùng để vui chơi. Các con từ trong căn nhà đang cháy này nên nhanh chóng chạy ra bên ngoài, cứ tùy theo ý thích mà lấy, cha sẽ cho các con tất cả.’“Bấy giờ, những đứa con nghe cha nói đến các món đồ chơi quý báu hợp với ý thích, tất cả đều hết sức nhanh chóng, thúc đẩy chen lấn, tranh nhau cùng chạy nhanh ra khỏi căn nhà đang cháy.”Từ câu “Ông trưởng giả liền suy nghĩ rằng: ‘Căn nhà này đang bị lửa dữ thiêu đốt’” trở đi là phần thứ hai, dùng thí dụ “xe đẹp”. Đây là thí dụ dẫn khởi từ phần [kệ tụng trong kinh văn] ở trước nói “Liền nhớ Phật quá khứ, từng dùng sức phương tiện...” gồm 11 khổ kệ.
[78] Kinh văn ở trước, phần này có 4 ý, phần thí dụ này cũng có 4 ý.
Thứ nhất là [ông trưởng giả] dự tính dùng 3 loại xe [để dẫn dụ] là thích hợp, tương ứng với ý nghĩa kinh văn ở trước nói “liền nhớ Phật quá khứ” cũng dùng ba thừa để giáo hóa.
Thứ hai là người cha biết rõ lòng ham muốn của các con trước đây đối với những món ưa thích, tương ứng với nghĩa kinh văn phần trước nói “khi ta nghĩ như vậy, mười phương Phật hiện ra”.
Thứ ba là [ông trưởng giả] dùng lời khen ngợi 3 loại xe đẹp, tương ứng với nghĩa kinh văn phần trước nói Phật chính thức dùng ba thừa giáo hóa, “suy nghĩ như vậy rồi, liền đến Ba-la-nại”.
Thứ tư là nói [phương tiện dẫn dụ] thích hợp với mong muốn của các con, tương ứng với nghĩa kinh văn ở trước nói [các tỳ-kheo] lãnh thọ [giáo pháp], thực hành, tỏ ngộ và thể nhập, “gọi là chuyển pháp luân”.
Giảng giải ý thứ nhấtCông phu giáo hóa Đại thừa ví như mạng sống của cha, việc tốt đẹp lợi ích lớn lao của chúng sinh ví như mạng sống của con. Nếu dứt mất sự tốt đẹp lớn lao tức là mạng sống của con cũng dứt. Mạng sống của con dứt mất ắt là công phu giáo hóa cũng bỏ đi, tức là mạng sống của cha cũng dứt mất. Phần kinh văn trước đã nói “đau đớn kinh người”, nhưng như vậy vẫn là chưa đến nỗi chết. Nay nói “ắt sẽ bị thiêu cháy” tức hàm nghĩa phải chết. Kinh văn phần trước nói “có thể xuyên qua cửa đang cháy mà thoát ra ngoài an ổn”, ở đây lại nói “nếu không kịp thời thoát ra ắt bị thiêu cháy”, ý nghĩa này là thế nào? Phần trước nói “thoát ra”, đó là nói pháp thân thoát ra. Phần này nói “nếu không kịp thời thoát ra”, tức là nói ứng [hóa] thân cũng phải đồng thời nhanh chóng thoát ra. Chúng sinh có căn lành sẽ cùng với ứng hóa thân kịp thời thoát ra; chúng sinh đã dứt mất căn lành thì không thể cùng với ứng hóa thân kịp thời thoát ra, tức là phải cùng bị thiêu cháy. Nay suy tính việc giáo hóa dẫn dụ là vì muốn cho ứng hóa thân cũng được kịp thời thoát ra.
Giảng giải ý thứ haiTừ câu “Nay ta phải dùng phương tiện...” là nói [Phật có ý định] thiết lập quyền thừa. Từ câu “biết ý các con trước đây” trở đi là ý thứ hai, nêu việc [trong chúng sinh vẫn] có cơ duyên có thể hóa độ. [Biết rằng có] những người trước đây đã từng tu tập Tiểu thừa, đó là “biết ý các con trước đây”. [Biết rằng] lòng tham muốn [của mỗi chúng sanh] không giống nhau, đó là “đều ưa thích những món đồ chơi quý lạ”. Lại biết rằng [có những] chúng sinh đã từng tu tập Đại thừa. Do tu tập Đại thừa chưa đủ thuần thục, đó là tâm Đại thừa yếu ớt. Lại vì chán sợ [các nỗi khổ] già, bệnh, chết... nên chọn theo Tiểu thừa, đó là tâm Tiểu thừa mạnh mẽ. Như ngài Xá-lợi-phất đạt đến trụ địa thứ sáu [trong Thập trụ] còn thối tâm.
[79] [Biết chúng sanh] vốn đã từng tu tập Đại thừa, đó gọi là “biết ý các con trước đây”; [biết có những chúng sanh] giữa chừng chán sợ [các nỗi khổ] già, chết..., đó gọi là “đều ưa thích những món đồ chơi quý lạ”.
Giảng giải ý thứ baTừ câu “liền bảo chúng rằng” trở đi là ý thứ ba, [ông trưởng giả] khen ngợi ba loại xe là “hiếm có khó được”, tương ứng với nghĩa chính thức chuyển pháp luân trong kinh văn phần trước. [Chuyển pháp luân] lại có ba phần, đó là khuyến [chuyển], thị [chuyển] và chứng [chuyển]. Từ câu “Có những món đồ chơi các con rất thích, hiếm có khó được” là khuyến chuyển, [thuyết dạy bằng sự khuyên bảo]. Từ câu “đủ các loại xe...” trở đi là thị chuyển, [thuyết dạy bằng sự chỉ bày]. Từ câu “Các con từ trong căn nhà đang cháy này nên nhanh chóng chạy ra bên ngoài, cứ tùy theo ý thích mà lấy, cha sẽ cho các con tất cả” là chứng chuyển, [thuyết dạy bằng sự chứng thực].
Giảng giải ý thứ tưTừ câu “Bấy giờ, những đứa con nghe cha nói...” trở đi là ý thứ tư, nói việc [dẫn dụ là] thích hợp với ý muốn của những đứa con, tương ứng với ý nghĩa kinh văn ở trước nói việc [thính chúng] thọ lãnh [giáo pháp], thực hành, tỏ ngộ và thể nhập. Kệ tụng trong kinh văn phần trước chỉ nói sơ lược, phần thí dụ ở đây nói rộng, mở rộng ra từ tu nhân cho đến thành tựu quả. Nay phân thành 6 câu để giải thích.
Thứ nhất là nghĩa “hợp với ý thích”. Giáo pháp phù hợp tương xứng với căn cơ, “nghe cha nói...” tức là văn tuệ, [sinh lòng] “hết sức nhanh chóng” tức là tư tuệ, vì tâm suy nghĩ khởi lên suy lường, đó là phương tiện của tư tuệ.
Thứ hai, “thúc đẩy chen lấn lẫn nhau”, đó là ví như “thúc đẩy” phát triển bốn chân lý, “chen lấn” xô đạp khuất phục các kiến chấp, mê hoặc. [Giai đoạn này] tà chánh chưa phân rõ nên nói là “lẫn nhau”. Đây là thể nhập tu tuệ, thuộc noãn pháp vị, đảnh pháp vị.
[80]Thứ ba, “tranh đua” có nghĩa là cố tranh giành để được lý thù thắng. Đây là nhẫn pháp vị, tranh lấy lý thù thắng. Ban đầu quán 32 đế
[81] là tranh đua hướng đến đạo chân thật, sau đó quán trực tiếp hướng đến khổ pháp nhẫn.
Thứ tư, nói “cùng” là ví với thế đệ nhất pháp vị. Cùng quán mỗi một chân đế so với bốn pháp quán khổ pháp nhẫn không có khác biệt.
Thứ năm, nói “chạy nhanh” là ví với 15 tâm vào địa vị Kiến đạo,
[82] nhanh chóng thấy được thật lý, tương ứng với ý nghĩa kệ tụng trong phần trước nói “Từ đó có Niết-bàn”, là nói trong địa vị Kiến đạo đã được một phần Niết-bàn.
Thứ sáu, nói “ra khỏi” nghĩa là suy ngẫm về đạo, tranh nhau thoát ra ngoài ba cõi, chứng thành quả vị Vô học. Dứt trừ hết mọi tư duy thì mới ra khỏi được căn nhà đang cháy, tương ứng với phần kệ tụng trong kinh văn ở trước đã nói: “Lại có A-la-hán, có Pháp bảo, Tăng bảo.”
Giải thích theo quán tâm thì chánh quán của trung đạo là quán thẳng vào thật tướng, tâm và pháp tương xứng nên gọi là “hợp với ý thích”. Cảnh là vô biên cho nên quán cũng vô biên, gọi là “hết sức”. Cảnh đi vào tâm nên tâm nhanh nhạy, gọi là “nhanh chóng”. Tâm cảnh đi vào nhau, gọi là “thúc đẩy chen lấn lẫn nhau”.
[83] [Các pháp] tâm vương, tâm sở nhanh chóng duyên theo cảnh, gọi là “tranh đua cùng chạy nhanh”, rõ biết thông suốt hết thảy các ấm, nhập, giới... đều không có tướng thật, đó gọi là thoát ra khỏi nhà đang cháy. Đại lược là như vậy.
3. Thí dụ “cho các con cùng một loại xe”KINH VĂN“Khi ấy, ông trưởng giả thấy các con đã bình an ra khỏi, đều đến ngồi nơi khoảng đất trống giữa ngã tư đường, không còn gì chướng ngại nên hết sức yên lòng, vui mừng phấn chấn. Lúc ấy, những người con đều thưa với cha rằng: ‘Trước đây cha đã hứa cho đầy đủ các món đồ chơi đẹp, như xe dê, xe nai, xe trâu, giờ xin cha hãy cho.’“Xá-lợi-phất! Khi ấy ông trưởng giả liền cho tất cả các con mỗi người một cỗ xe lớn như nhau. Xe ấy cao rộng, trang hoàng bằng các vật báu, có lan can bao quanh, bốn phía treo chuông nhỏ, bên trên lại có lọng che, cũng dùng các loại châu báu quý lạ để trang trí, có dây báu quấn quanh lọng với những vòng hoa rủ xuống, [trên xe] trải nhiều lớp thảm, có gối đỏ [tựa đầu]. Xe được kéo bằng trâu trắng lớn có màu da thuần khiết, hình thể mập mạp xinh đẹp, gân cốt bắp thịt nở nang mạnh mẽ, bước đi ngay ngắn, lướt nhanh như gió, lại có nhiều người đi theo hầu hạ, bảo vệ.“Vì sao vậy? Ông trưởng giả này giàu có vô cùng, có đủ mọi kho tàng mà tất cả đều chất chứa đầy tràn, nên ông nghĩ rằng: ‘Ta có tiền bạc của cải nhiều không kể xiết, không nên cho con ta những cỗ xe xấu nhỏ. Nay những đứa trẻ này đều là con ta, được ta thương yêu như nhau không hề thiên lệch. Ta có vô số những cỗ xe lớn bằng bảy báu như thế này, nên dùng tâm bình đẳng mà chia đều cho tất cả các con, không nên khác biệt nhau. Vì sao vậy? Nếu ta đem những cỗ xe như thế này mà tặng cho dân khắp trong một nước còn không thiếu, huống hồ chỉ cho các con ta?’ Khi ấy những người con của ông trưởng giả, mỗi người đều đi trên một cỗ xe lớn, được việc chưa từng có, hơn cả sự mong đợi.Từ câu “Khi ấy ông trưởng giả thấy các con…” trở đi là thí dụ thứ ba trong phần nêu thí dụ cụ thể, nêu việc ông trưởng giả ban cho tất cả các con mỗi người một cỗ xe lớn như nhau. Đây là ví với ý nghĩa kinh văn trong phần trước nói [đức Phật] hiển bày tướng chân thật. Phần này lại chia ra làm 4 ý.
Ý thứ nhất là người cha thấy các con thoát nạn nên vui mừng, được dẫn khởi từ phần kệ trong kinh văn ở trước: “Ta liền suy nghĩ rằng: Bậc Như Lai xuất thế…” cho đến câu “Phật hoan hỷ không ngại”, gồm 2 khổ kệ và 1 câu.
Ý thứ hai là các con xin [cha] ban cho xe [như đã hứa], ví với ý nghĩa cơ duyên Đại thừa đã đến, được dẫn khởi từ 2 khổ kệ, từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, Ta thấy những Phật tử…” đến những câu “cùng đi đến chỗ Phật… … được nghe pháp phương tiện”.
Ý thứ ba là ban cho tất cả các con cùng một loại xe lớn, ví với ý nghĩa phần kệ tụng trong kinh văn ở trước nói [đức Phật] ở giữa chư Bồ Tát chính thức buông bỏ phương tiện [quyền thừa], chỉ thuyết dạy đạo [Nhất thừa] Vô thượng, được dẫn khởi từ 3 câu kệ: “Nay giữa chúng Bồ Tát...” đến “Chỉ thuyết đạo Vô thượng.”
Ý thứ tư là các con được ban cho xe lớn đều vui mừng, ví với ý nghĩa phần kệ tụng trong kinh văn ở trước nói khi các Bồ Tát nghe [Phật thuyết] pháp này thì hết thảy lưới nghi đều được dứt trừ, được dẫn khởi từ 1 khổ kệ, từ câu “Bồ Tát nghe pháp này…” đến câu “cũng đều sẽ thành Phật.”
Giảng giải ý thứ nhất: Các con thoát nạn, trưởng giả vui mừngTrong phần thuyết pháp ở trước, đầu tiên nêu việc cơ duyên đã đến, sau mới nói việc [đại chúng] dứt trừ mọi che chướng, Phật hoan hỷ không còn lo ngại. Nay trong phần thí dụ này thì trước tiên nêu việc [các con] thoát nạn, sau mới nói việc [các con] xin được ban cho xe. Nếu luận giải thật đầy đủ thì có 4 trường hợp.
[Trường hợp thứ nhất là] trước tiên trừ hết che chướng, sau đó cơ duyên [thuyết giảng Đại thừa] mới đến. [Trường hợp này là nói như] bốn vị đại Thanh văn,
[84] [khi Phật thuyết pháp] trong thời Tam tạng vốn đã dứt trừ hết che chướng, nhưng phải đến cuối thời Bát-nhã,
[85] đầu hội Pháp hoa thì cơ duyên Đại thừa mới phát lộ.
Trường hợp thứ hai là che chướng vẫn chưa dứt trừ nhưng cơ duyên Đại thừa đã khởi phát. Đó là như trong các pháp hội Hoa nghiêm và Pháp hoa, hàng phàm phu trong đại chúng cũng thể nhập trí tuệ Phật.
Hai trường hợp còn lại là như vừa nói bên trên. Nếu cơ duyên Đại thừa đến trước, sau đó che chướng mới dứt trừ, thì là như trong phẩm Phương tiện đã nói. Nếu trước tiên dứt trừ che chướng, rồi sau cơ duyên Đại thừa mới đến, thì đó là như trong phẩm Thí dụ này nói. Cơ duyên Đại thừa và sự dứt trừ che chướng [được nêu ra trước sau] hỗ tương cho nhau để hiển bày, biểu đạt cùng một ý.
Lại nữa [phần kệ] trong phẩm Phương tiện nêu rõ “Phật hoan hỷ không ngại”, còn trong phẩm Thí dụ này nói “các con vui mừng”. Vì các con vui nên người cha cũng vui. Đây cũng là hỗ tương cho nhau để hiển bày, biểu đạt cùng một ý.
Riêng trong việc “thoát nạn vui mừng” có hai ý nghĩa. Đó là nói thoát khỏi tai nạn nên vui mừng, nếu các con chưa thoát nạn thì người cha tất nhiên lo lắng, nếu [các con] ra khỏi chỗ lửa cháy thì [người cha] trong lòng an ổn, thư thái. Cho nên việc “thoát nạn vui mừng” này được xem là [nghĩa] thí dụ [thứ nhất]. Vì các con vui mừng nên người cha cũng vui, [là nghĩa] thí dụ cho sự hoan hỷ của Phật.
[Kinh văn nói] “nơi khoảng đất trống giữa ngã tư đường”, các nhà cựu giải cho rằng [đó là ví cho] 4 che chướng uế trược
[86] đã dứt trừ, giống như 4 phía đường đi thông suốt. Cuối cùng trừ dứt được uế trược thứ năm giống như chỗ đất trống ở giữa có thể ngồi xuống. Nay [cho rằng] không phải như vậy. Năm sự uế trược là trực tiếp nêu các pháp cấu nhiễm, che chướng, chưa hề nói đến đạo pháp đối trị, không nên ví với ngã tư đường. Ngã tư đường [ở đây] chính là ví với bốn chân đế. Bốn chân đế theo cách nhìn khác gọi là ngã tư đường, vì bốn chân đế đều hội lại nơi Kiến đế, [nghĩa là] thấy được chân lý, cũng giống như [4 con đường] gặp nhau ở đầu đường. [Người tu tập] tuy dứt trừ được kiến hoặc nhưng nếu tư duy tạp niệm vẫn còn thì không thể ví như được đến ngồi nơi khoảng đất trống. Trụ nơi quả vị mà không tiến lên nên gọi là “đến ngồi”; không bị trói buộc, hạn cuộc nơi kiến hoặc và tư hoặc nên nói là an ổn thư thái. Vượt thoát sinh diệt, tâm tưởng an ổn nên nói là hoan hỷ.
Giảng giải ý thứ hai: Các con xin được ban cho xeTừ câu “Lúc ấy, những người con đều thưa với cha rằng...” là thí dụ thứ hai, các con đều thưa xin cha ban cho xe [như đã hứa]. Kinh văn nói: “Trước đây cha đã hứa cho đầy đủ các món đồ chơi đẹp, như xe dê, xe nai, xe trâu, giờ xin cha hãy cho.” Thật ra trong câu này không có chữ nào nói ý nghĩa đòi hỏi, chỉ dựa theo ý thỉnh nguyện, mong muốn nên nói là đòi hỏi. Có người nói hàng Nhị thừa có xin ban cho xe, còn Bồ Tát thì không. [Lại dựa theo ý này mà] nêu ra 10 điều vấn nạn.
Thứ nhất, hàng Nhị thừa đã ra ngoài ba cõi, đến được nơi [như Phật] hứa cho xe nên mới xin ban cho xe, tức là cầu quả vị, hàng Bồ Tát chưa đến nơi ấy thì làm sao xin ban cho xe [quả vị]?
Thứ hai, trong kinh Đại thừa không có chỗ nào nói Bồ Tát mong cầu quả Tiểu thừa, cho nên biết [hàng Bồ Tát] không có đòi xe [quả vị].
Thứ ba, các Bồ Tát được giáo hóa thì từ chỗ sơ phát tâm cho đến bậc cuối cùng là [Nhất sinh] bổ xứ hết thảy đều là phàm phu, chẳng ra ngoài ba cõi, cứ theo ý nghĩa tất nhiên không đòi hỏi. Các Bồ Tát giáo hóa thì khi còn ở 33 tâm ban đầu, kiến hoặc vừa nghiêng đổ, tư hoặc còn chưa dứt, lên đến tâm thứ 34 thì tự mình là Phật, đã là Phật thì còn đòi hỏi xe [quả vị] nơi ai?
Thứ tư, quả vị của hàng Nhị thừa là vượt ngoài phiền não kết sử,
[87] Phật quả của hàng Bồ Tát thì vượt ngoài tập khí. Hàng Nhị thừa dứt trừ hết phiền não nhưng chẳng thấy xe, [tức là quả Phật], cho nên đòi hỏi, còn hàng Bồ Tát chưa dứt trừ hết tập khí cùng với vô minh,
[88] làm sao đòi xe [quả vị]?
Thứ năm, [kinh văn] nói rõ Nhị [thừa] là phương tiện, cho nên có thể nói đòi hỏi. Trong kinh nói: “Chỉ có một sự thật, ngoài ra đều không thật.” Dựa theo đó mà suy ra thì biết chỉ có hàng Nhị thừa đòi hỏi, [Bồ Tát tu tập theo] Nhất thừa thì không đòi xe [quả vị].
Thứ sáu, từ thời Bát-nhã trở đi cho đến trước hội Pháp hoa, [Phật thuyết giảng] các nhân tố thành Phật với quả vị Phật đều chỉ là phương tiện. [Trong kinh Pháp hoa này nói việc] giao phó gia tài trân bảo cho đứa con lưu lạc nghèo cùng khốn khó,
[89] lẽ ra cũng chỉ là phương tiện. Nếu việc giao phó tài sản là chân thật thì hẳn các kinh Bát-nhã... [trước đó] đều nêu rõ Phật thừa. Đã là chân thật thì rốt lại làm sao còn đòi xe [quả vị]?
Thứ bảy, bài kệ trong phẩm Phương tiện, ở phần mở đầu trước đó đã nói Tiểu thừa là phương tiện, không nói Đại thừa là phương tiện, cho nên biết rằng Phật tử [tu tập theo] Đại thừa chẳng phải phương tiện, làm sao có việc đòi xe [quả vị]?
Thứ tám, nếu người trong ba thừa đều đòi xe [quả vị], sao không [thấy nói Bồ Tát] trình sự nhận hiểu? Đã không trình sự nhận hiểu cho nên biết là không có việc đòi xe [quả vị].
Thứ chín, [xét lẽ] phù hợp với việc ban cho xe, kinh văn nói: “Thấy chúng sinh thoát ra khỏi ba cõi khổ não, được Niết-bàn an vui, nên ban cho Đại thừa.” Hàng Bồ Tát không chứng Niết-bàn, làm sao đòi xe [quả vị]?
Thứ mười, những người con [trong thí dụ đã] ngồi yên rồi mới đòi cha [cho xe]. [Cũng vậy,] hàng Nhị thừa đã đạt quả vị [Tiểu thừa] viên mãn chẳng còn phải tu hành, cho nên [nói là] “ngồi yên”, có thể có việc đòi xe [quả vị]. Hàng Bồ Tát công hạnh tu tập không dừng nghỉ, [nên nói] không “ngồi yên”, theo nghĩa này làm sao đòi xe [quả vị]?
Nay theo ý riêng dùng cả hai nghĩa tổng quát và cụ thể để bác bỏ [những điều trên]. Đòi hỏi là cách nói khác của sự thỉnh nguyện. [Sự mong muốn] còn trong tâm ý thì gọi là ý nguyện, đã nói ra lời thì gọi là thỉnh cầu, biểu hiện nơi hành vi thì gọi là cầu xin. Như kẻ chưa hiểu biết thì mong cầu được học hỏi, như người bụng đói thỉnh cầu được ăn, như người đi lạc phải hỏi để biết lối đi. Nói chung, khi còn chưa đạt đến chỗ mình mong muốn thì đâu có lý nào lại không đòi hỏi, thỉnh cầu? Do có sự đòi hỏi nên mới có sự hứa hẹn ban cho. Có được hứa cho nên mới vui mừng. Nay trong kinh văn có nói đủ về sự thỉnh cầu với sự vui mừng hoan hỷ.
Trong vòng thuyết chánh pháp,
[90] [chúng Thanh văn] có 1.200 người, ngài Xá-lợi-phất là bậc đứng đầu đã 3 lần tha thiết thỉnh cầu, trong hàng Bồ Tát thì Bồ Tát Di-lặc là bậc đứng đầu. “Chúng từ miệng Phật sinh... số đến tám mươi ngàn... cùng chắp tay cung kính, muốn nghe đạo trọn đủ.”
Trong vòng thuyết thí dụ, ban đầu ngài Xá-lợi-phất vì hàng trung căn mà thưa thỉnh, rồi lại vì cả bốn chúng mà thưa thỉnh, bên cạnh đó cũng vì những người hạ căn mà thưa thỉnh.
Kinh văn nói: “Lành thay... Thế Tôn! Nguyện Phật vì bốn chúng thuyết dạy rõ nhân duyên.” Trong vòng thuyết chánh pháp, [đức Thế Tôn] khi chấp thuận hứa rằng: “Ông đã hết lòng thưa thỉnh ba lần, lẽ nào ta lại không nói.” Trong phần thuyết thí dụ, [đức Thế Tôn] nói: “Ta lại sẽ dùng thí dụ để làm sáng tỏ ý nghĩa ấy.” Trong phần thuyết nhân duyên, [đức Thế Tôn] nói: “Ta cùng với các ông, đời trước kết nhân duyên, nay ta sắp nói rõ...” Khi dứt phần thuyết chánh pháp, ngài Xá-lợi-phất vui mừng. Khi dứt phần thuyết thí dụ, nhóm của ngài Ca-diếp vui mừng. Khi dứt phần [thuyết nhân duyên] đời trước, ngài Phú-lâu-na vui mừng. Lại nữa, [kệ] hợp thí trong kinh văn [phần sau] nói: “Sẽ giúp cho các con, đêm ngày vô số kiếp, thường được vui rong chơi, với các vị Bồ Tát, cùng đại chúng Thanh văn, nương theo thừa báu này, liền thẳng đến Đạo trường.”
[91] Vì có sự vui mừng nên biết là đã được ban cho, vì được ban cho nên biết là đã có sự thỉnh cầu. Ba vòng thuyết giảng
[92] có ba ý nghĩa, kinh văn hết sức rõ ràng, vì sao lại lệch lạc nói rằng Nhị thừa có thỉnh cầu [quả vị] còn [Bồ Tát] thì không?
[Trước tiên] đặc biệt bác bỏ điều nạn vấn thứ nhất. [Vì theo] Tạng giáo nên đều nói Bồ Tát không dứt trừ mê hoặc [che chướng], nếu y theo kinh Pháp hoa thì có 4 trường hợp. [Trong đó nói] che chướng dứt trừ rồi cơ duyên Đại thừa mới đến, hoặc che chướng chưa dứt trừ nhưng cơ duyên Đại thừa đã đến. Cơ [duyên Đại thừa] đến nên biết là [Bồ Tát cũng] có sự thỉnh cầu, [đòi xe quả vị].
Điều nạn vấn thứ hai nói rằng, “trong các kinh Đại thừa không có chỗ nào nói Bồ Tát mong cầu quả Tiểu thừa”. Đại phẩm [Bát-nhã] nói: “Người [tu tập] trong ba thừa đều dùng đạo vượt ngoài ngôn ngữ để đoạn trừ phiền não, thể nhập Niết-bàn. [Việc] đoạn phiền não và thể nhập Niết-bàn [của hàng Bồ Tát] cũng đồng [như Nhị thừa], vì sao lại không có chuyện đòi [xe quả vị]?
Điều nạn vấn thứ ba nói rằng, [người tu tập còn] ở 33 tâm [ban đầu] gọi là Bồ Tát, [vượt lên] tâm thứ 34 là dứt trừ hết tư hoặc, tức là thành Phật. [Đã là] Phật thì còn đòi [xe quả vị] nơi ai? Điều này là dựa theo ý nghĩa của Tạng giáo. [Thật ra,] khi kiến hoặc che chướng chưa dứt trừ mà cơ duyên Đại thừa còn [có thể] đến, huống chi [Bồ Tát trụ ở] 33 tâm thì sao cơ [duyên Đại thừa] lại chẳng đến? Cơ duyên Đại thừa đến thì biết là có sự thỉnh cầu [đòi xe quả vị].
Điều nạn vấn thứ tư nói “Bồ Tát chưa dứt trừ hết tập khí, vô minh nên lẽ ra chẳng có sự thỉnh cầu [đòi xe quả vị]”. [Nếu] dứt trừ hết thì đã thành Phật. Thành Phật rồi còn thỉnh cầu với ai? Đây là [dựa theo] giáo nghĩa của ba thừa thuộc Thông giáo. [Thật ra khi] còn đủ cả triền phược che chướng nên mà cơ duyên Đại thừa còn đến, huống chi là chỉ còn chút tàn dư của tập khí, vô minh?
Điều nạn vấn thứ năm nói, “chỉ có một sự thật”, thật ấy chính là chân thật, làm sao còn có sự thỉnh cầu đòi hỏi? Đã thể hội được cái duy nhất không còn đối đãi, ngoài cái duy nhất ấy rốt lại chẳng có pháp [nào khác]. Trước đây [khi chưa thể hội thì] cái duy nhất là đối đãi với cái phân hai, [cho nên] ngoài cái duy nhất ấy rốt lại còn có pháp khác. Cái duy nhất [trước và sau] ấy, tuy tên gọi giống nhau nhưng tánh thể khác nhau. Như mê tối bám chấp, đối với những ngói sỏi, mắt cá mà cho đó là hình dạng mặt trăng hay [ngọc dạ] quang, ánh sáng tạo ra hình mặt trăng. Ngu si [như thế], lẽ nào người có trí không thương xót? Đại lược là như vậy.
Điều nạn vấn thứ sáu nói từ thời Bát-nhã trở đi cho đến trước hội Pháp hoa, [đức Phật] giao phó tài bảo Chánh pháp đồng đều [cho cả Thanh văn và Bồ Tát], nên lẽ ra [Bồ Tát] không có sự thỉnh cầu đòi hỏi. [Như vậy,] các vị chẳng nghe rằng pháp Bát-nhã [của hàng Bồ Tát] có chung cùng và chẳng chung cùng [với hàng Nhị thừa đó sao]? [Pháp] chẳng chung cùng nên không thỉnh cầu. Pháp chung cùng thì không thể không thỉnh cầu. Đại lược là như thế.
Điều nạn vấn thứ bảy nói rằng, phần đầu phẩm Phương tiện có nói Tiểu thừa là phương tiện, không mở đầu nói Đại thừa là phương tiện. Vì Đại thừa không phải là phương tiện nên không có việc thỉnh cầu, đòi [xe quả vị]. [Nói như vậy,] các vị chẳng nghe trong phẩm [Như Lai] thọ lượng đã có nói sao? [Phật dạy:] “Ta thị hiện tuổi nhỏ xuất gia, rồi sau chứng đắc quả Vô thượng Bồ-đề. Nhưng thật ra ta vốn đã thành Phật từ lâu xa về trước, từ đó cho đến nay, suốt khoảng thời gian ở giữa, hoặc thuyết Tiểu thừa, hoặc thuyết Đại thừa, hoặc nói việc của mình, hoặc nói việc của người khác, tất cả đều là phương tiện của ta.”
[93] Chư Phật cũng đều như vậy, sao lại [nói Bồ Tát là khác biệt] không có việc thỉnh cầu, [đòi xe quả vị]?
Điều nạn vấn thứ tám nói rằng, nếu Bồ Tát có thỉnh cầu, đòi xe quả vị thì lẽ ra phải có trình bày sự nhận hiểu. Vì không thấy nói việc trình bày sự nhận hiểu nên biết là không có thỉnh cầu, đòi xe quả vị. [Nói như vậy,] các vị chẳng nghe [kinh văn nói rõ rồi] sao? Vào cuối phần thuyết chánh pháp, hàng trời, rồng… bốn chúng đều trình bày sự nhận hiểu. Những hạng ấy nếu không phải Bồ Tát thì phải gọi là gì? Lại nữa, trong phẩm Pháp Sư nói: “Ba thừa đều được thụ ký.” Nếu chẳng trình bày chỗ nhận hiểu thì làm sao được thụ ký?
Điều nạn vấn thứ chín nói rằng, thoát ra khỏi khổ não trong ba cõi, được niềm vui an ổn lại nên mới có sự ban cho, có sự thỉnh cầu, đòi hỏi. Hàng Bồ Tát chưa thoát ra khỏi ba cõi, chưa chứng đắc [niềm vui an ổn], cho nên không có việc thỉnh cầu, đòi [xe quả vị]. Đây là hiểu theo nghĩa của Tạng giáo nên mới nói vậy.
Điều nạn vấn thứ mười nói rằng, [trong thí dụ nói] các con ngồi yên nên mới ban cho xe. Hàng Nhị thừa việc tu hành đã dứt nên gọi là “ngồi yên”, hàng Bồ Tát việc tu hành chưa dứt nên không phải “ngồi yên”, làm sao có việc đòi xe [quả vị]? Đây cũng chỉ là nói theo ý nghĩa ở phần trước mà thôi. [Trong sự thỉnh cầu đòi hỏi], có khi tu hành đã dứt mới thỉnh cầu, cũng có khi tu hành chưa dứt mà thỉnh cầu. Lại nữa, Bồ Tát tu hành công hạnh tức [là nương theo thừa], đã là cưỡi lên xe. Xe ấy do thỉnh cầu, đòi hỏi mới có, sao lại nói là không thỉnh cầu, đòi [xe quả vị]?
Xét những điểm sai trái như trên, nhiều lần đều dựa theo ý nghĩa trong Tạng giáo
[94] mà lập thành 10 điều nạn vấn này. Tất cả đều là những cách nhìn hạn hẹp, chỉ thấy một khía cạnh mà không thấy được tổng thể. Nay sẽ vì mọi người mà phân biệt nói rõ.
Có trường hợp không dứt trừ mê hoặc che chướng, cũng không thỉnh cầu, đòi [xe quả vị], đó là hàng Bồ Tát Tạng giáo. Có trường hợp dứt trừ mê hoặc che chướng rồi thỉnh cầu, đòi [xe quả vị], đó là hàng Bồ Tát Thông giáo. Có trường hợp dứt trừ hoặc không dứt trừ mê hoặc che chướng, cũng có thỉnh cầu hoặc không thỉnh cầu [đòi xe quả vị], đó là hàng Bồ Tát Biệt giáo. Có trường hợp không dứt trừ cũng chẳng phải không dứt trừ mê hoặc che chướng, không thỉnh cầu cũng chẳng phải không thỉnh cầu [đòi xe quả vị], đó là hàng Bồ Tát Viên giáo.
Lại nữa, xét qua [5 giai đoạn ví như] 5 vị của sữa,
[95] [trong đó hàng Thanh văn ví như] vị sữa tươi, có 2 ý. Ý thứ nhất là vừa dứt trừ lại cũng không dứt trừ [mê hoặc], vừa thỉnh cầu lại cũng không thỉnh cầu đòi hỏi [xe quả vị]. Ý thứ hai là chẳng phải dứt trừ cũng chẳng phải không dứt trừ. [Hàng Duyên giác ví như] vị sữa đặc, có một ý, không dứt trừ [mê hoặc], không thỉnh cầu đòi hỏi [xe quả vị]. [Hàng Bồ Tát Biệt giáo ví như vị] váng sữa sống, có đủ 4 ý.
[96] [Hàng Bồ Tát Viên giáo ví như vị] váng sữa chín, chỉ có 3 ý. [Chư Phật ví như vị] đề hồ, có 1 ý.
Mở rộng cương lĩnh, thâu tóm hết thảy ý nghĩa là như thế. Đối với mỗi câu nêu ra đều có 1 ý, lại mỗi ý đó đều có 4 trường hợp.
[97] Đó là dứt trừ che chướng rồi cơ duyên Đại thừa đến; che chướng chưa trừ, cơ duyên Đại thừa đã đến; che chướng đã dứt trừ hoặc chưa dứt trừ mà cơ duyên Đại thừa đã đến; [và cuối cùng là] che chướng chẳng phải dứt trừ cũng chẳng phải chưa dứt trừ mà cơ duyên Đại thừa đến. Những cách hiểu như trên
[98] là không thấy [được toàn cảnh nên] bám chấp một [ý] mà phủ nhận cả 3 ý,
[99] thật rất đáng thương xót.
Người đời cứng nhắc dựa vào số lượng xe [được nêu ra] không giống nhau, cho rằng [như vậy thì] tánh thể của xe cũng không giống nhau. Hoặc cho rằng ban đầu [Phật] nói [thí dụ] 3 loại xe, sau đó hợp thành 2 rồi quy về 1. Hoặc cho rằng ban đầu [Phật] nói [thí dụ] 3 loại xe, sau đó hợp cả 3 quy về 1. Hoặc cho rằng ban đầu [Phật] nói [thí dụ] 4 loại xe, sau đó hợp thành 3 rồi quy về 1. Cho nên khi nhận hiểu ý kinh chớ tin vào lời nói của người khác. Kinh văn này dẫn lại việc thuở xưa Phật vì hàng Thanh văn mà thuyết pháp thích hợp là Tứ đế, vì hàng Duyên giác mà thuyết pháp thích hợp là 12 nhân duyên, vì hàng Bồ Tát mà thuyết pháp thích hợp là 6 ba-la-mật. Nay Phật thuyết 3 số [khác nhau] cũng là như vậy.
Kinh Hoa nghiêm, quyển 8 nói rằng: “Vì những người thấp kém chìm đắm nên chỉ bày giáo pháp Thanh văn. Vì những người căn cơ trì độn, ưa thích nhân duyên nên thuyết giảng giáo pháp Duyên giác. Vì những người căn cơ nhanh nhạy sáng suốt và có lòng từ bi nên thuyết giảng giáo pháp Bồ Tát. [Vì những người căn cơ] vượt trội hơn hết, ưa thích việc lớn lao nên thuyết giảng Phật pháp không có hạn lượng.”
[100][Cũng trong kinh Hoa nghiêm,] quyển thứ 36 lại nói rằng: “Ba pháp giải thoát là từ Thanh văn thừa mà có; pháp Vô tranh là từ Duyên giác thừa mà có; 6 pháp ba-la-mật, 4 nhiếp pháp là từ Đại thừa mà có; pháp rõ biết tất cả là từ Phật thừa mà có.”
Lại nữa, [phần giải thích về] địa thứ chín giảng nói hình tướng của Thanh văn thừa, hình tướng của Duyên giác thừa,
[101] hình tướng của Bồ Tát thừa, hình tướng của Như Lai thừa. Thập địa kinh luận,
[102] phần giải thích về địa thứ hai nói rằng: “Quán xét thấy rõ người tích tập 10 điều xấu ác phải đọa vào 3 đường ác, tích tập 10 điều lành thì được sinh lên các cõi trời. Vượt trên 10 điều lành ấy, cộng với trí quán sát rõ biết 4 chân đế thì hợp thành bậc Thanh văn. Vượt trên 10 điều lành ấy, cộng với trí quán xét [tự] rõ biết không nghe theo người khác thì hợp thành bậc Duyên giác. Vượt trên 10 điều lành ấy, cộng với trí quán xét rõ biết thanh tịnh đầy đủ, hợp lại thành địa vị Bồ Tát. Lại nữa, vượt trên và vượt trên cả 10 điều lành, cộng với tất cả chủng loại, tất cả pháp Phật thì hợp thành [quả vị] Phật.
Kinh [Bồ Tát] Anh Lạc, quyển 13 nói rằng: “Chư Phật mười phương thuyết giảng 3 thừa, trong mỗi một thừa lại khai mở thành 3 thừa, tất cả hợp thành 9 thừa. Chín thừa đều hội nhập nơi trí tuệ bình đẳng lớn lao.”
[103]Lời bậc thánh đã dạy như vậy, sao không chịu nhận hiểu dung thông [khác biệt], còn bàn cãi đúng sai qua lại, theo pháp sai trái mà chê bai hủy báng người khác, thật không tội lỗi nào lớn hơn thế nữa!
Nay dựa theo giáo pháp mà phân biệt nói rõ. Nếu nói rằng pháp môn của 3 thừa khác biệt nhưng lý chân đế đồng như nhau, đó là theo Tạng giáo. Nếu nói pháp môn của 3 thừa đồng nhau, lý chân đế cũng đồng, đó là theo Thông giáo. Nếu nói 3 thừa, [mỗi thừa đều khai mở thành 3,] tổng cộng là 9 thừa, hoặc nói có 4 thừa, [giáo pháp] sâu cạn, thứ lớp phân chia mỗi mỗi đều chẳng đồng nhau, nhưng tất cả đều cùng thể nhập trí tuệ lớn lao bình đẳng, đó là theo Biệt giáo. Nếu nói 3 thừa, 9 thừa hay 4 thừa, hết thảy đều tương ưng với trí tuệ lớn lao bình đẳng, không phân hai, không khác biệt, đó là theo Viên giáo.
Lại xét qua [các giai đoạn ví như] 5 mùi vị của sữa để phân biệt, thì mùi vị sữa tươi là ví như Bồ Tát thừa, Phật thừa; mùi vị sữa đặc ví như 3 thừa khác biệt; mùi vị váng sữa ví như 3 thừa, 4 thừa, 9 thừa, mỗi thừa đều phân chia rõ rệt chẳng trùng lặp nhau. Riêng vị váng sữa chín (thục tô) chỉ trừ ra 3 thừa khác biệt, còn lại đều giống như mùi vị váng sữa sống (sinh tô). Trong mùi vị đề hồ thì chỉ hoàn toàn ví như Phật thừa, không còn có thừa nào khác. Nếu rõ biết được ý nghĩa này thì đối với các luận thuyết khác biệt chẳng hề có sự chướng ngại. Nếu không rõ biết thì chỉ làm tăng thêm sự tranh luận mà thôi.
Người đời nêu rõ về Phật thừa, [giải thích] thừa và thể khác nhau. Ngài Quang Trạch cho rằng rốt ráo của quả vị Phật là 2 trí: tận trí và vô sinh trí,
[104] lấy đó làm thể của xe [trong thí dụ, để ví với cảnh giới giải thoát]. [Nói xe] đi ra ngoài 500 do-tuần, đối lại với [chỗ thể hiện] hình tích là cao; bao hàm trọn đủ muôn công đức, đối với [chỗ thể hiện] hình tích là rộng. [Nói xe ấy] trang nghiêm là lấy nhân lành của hết thảy muôn công hạnh làm thể, trên cầu [đạo giải thoát Vô thượng] gọi là cao, dưới hóa độ [tất cả chúng sanh] gọi là rộng. Các nhà cựu giải không lấy [nghĩa] công đức, [cho rằng] công đức thì phàm phu cũng có, nên chỉ lấy trí tuệ làm thể. [Một số] nhà cựu giải lại lấy cả phúc đức cùng với trí tuệ làm thể.
Kinh văn nói [về 3 xe ví với Tiểu thừa] rằng, đi trên 3 xe này là dùng các pháp vô lậu, 5 căn, 5 lực, các giác đạo,
[105] thiền định, giải thoát tam-muội mà tự vui thích, [như vậy] đâu phải chỉ nói riêng đến trí tuệ?
[106] Lại có vị thầy chỉ lấy sự nhận hiểu làm thể, [cho rằng] không nhận hiểu thì không có sự vận hành thay đổi
[107] cho nên không lấy đó làm thể. [Thế nhưng 2 trí rốt ráo là] tận trí và vô sinh trí chính là có nhận hiểu.
Lại có thuyết của Tiểu thừa lấy trí tuệ thấu hiểu tánh không làm thể của xe [ví với Tiểu thừa], dẫn kinh văn [trong phẩm Tin hiểu] nói rằng: “Chúng con suốt đêm dài tu tập pháp không…”
[108]Đại thừa cũng dùng phương tiện trí tuệ chân thật làm thể của xe [trong thí dụ]. Thể của xe là ví với sự hiện hữu, có hiện hữu nên có vận hành thay đổi.
[Nay theo] ý riêng tôi cho rằng các bậc thầy giải thích về thể của Phật thừa mà tranh nhau chỉ vào đủ các pháp tu
[109] [cho đó là thể] thì có khác gì những người mù sờ voi, tranh cãi nhau về ngà voi với đuôi voi. Theo Đại sư Thiên Thai Trí Giả
[110] thì tướng thật của các pháp chính là thể của xe [trong thí dụ], hết thảy những thứ châu báu trang hoàng đẹp đẽ [trên xe] đều là trọn đủ [các tướng] trang nghiêm.
Đến như kinh văn nói việc ban cho xe cũng nên nêu ra đây. Các nhà cựu giải cho rằng, [thí dụ nói] xe nhỏ là chỉ quả vị nhỏ. Quả vị có công đức hữu vi và công đức vô vi. Chính là lấy hữu vi thí dụ như xe vận hành thay đổi, vận hành đi vào Vô dư. Trong quả hữu vi có đầy đủ cả phước đức và trí tuệ, lấy trí tuệ làm chính, phước đức thuộc về đầy đủ các pháp tu. Trí tuệ lại có 10 loại, trong đó có 8 trí gồm đủ nhân và quả, riêng tận trí và vô sinh trí chỉ thuộc về quả vị,
[111] cho nên lấy 2 trí này để ví với xe là quả vị. Do ý nghĩa đó cho nên [trong thí dụ nói] “xe ở bên ngoài cửa”. Nếu y theo Đại phẩm Bát-nhã nói thì các thừa đều từ ba cõi mà thoát ra, đạt đến và trụ nơi Nhất thiết trí. Nếu khi chưa ra khỏi [ba cõi] thì phải nương theo các thừa mà tranh nhau ra khỏi nhà đang cháy, vậy sao lại nói “xe ở bên ngoài cửa”? Nếu nói trước đó xe ở bên ngoài, vậy nương vào đâu để thoát ra? Chỉ là vì các thừa đều bao gồm cả nhân và quả, 37 phẩm [trợ đạo] dứt trừ kiến hoặc, tư hoặc đều là nhân của các thừa. Tận trí và vô sinh trí đều gọi là quả của các thừa. Chắc chắn phải dựa vào nhân của thừa mà dứt trừ hết mê hoặc che chướng thì mới được quả của thừa là tận trí và vô sinh trí. Cho nên nói rằng “xe ở bên ngoài cửa”. Chỉ vì quả là chính yếu, nhân là phụ thuộc, nên theo nơi quả mà nói là “xe ở bên ngoài cửa”. Nếu nhân bên trong dứt trừ được kết sử phiền não là có nghĩa vận hành thay đổi nên gọi là thừa, quả bên ngoài không [có nghĩa] vận hành thay đổi, làm sao gọi là thừa? Tuy nhiên, quả dù không có sự vận hành thay đổi dứt trừ mê hoặc, nhưng phải nhờ có tận trí và vô sinh trí mới thể nhập được Niết-bàn Vô dư, đó mới là sự vận hành thay đổi tốt.
Nếu nương theo nhân [của thừa] mà đạt đến quả [của thừa], vậy có ý gì lại nói đến rốt cùng mới “đòi xe”? Các nhà cựu giải cho rằng [việc “đòi xe”] có hai ý là theo cơ duyên [bên ngoài] mà đòi và theo ý nguyện [bên trong] mà đòi. Việc theo cơ duyên mà đòi thì có thể [nhìn thấy,] giải thích được. Việc theo ý nguyện bên trong mà đòi, [đó là nói] Phật thuyết giáo pháp đưa đến [chứng đắc] tận trí và vô sinh trí, bậc A-la-hán [tu tập theo đó] chứng đắc quả vị như vậy, thử dùng thiên nhãn thần thông quán sát trong tương lai, liền thấy sinh tử biến dịch vẫn còn mờ mịt xa vời [nhiều kiếp], [do đó] tự nghi ngờ chỗ chứng đắc tận trí và vô sinh trí của mình. Nếu thật là vô sinh, thì sao vẫn nhìn thấy [trong tương lai] còn hiện hữu? Như [vẫn thấy trong tương lai nhiều kiếp sinh tử] mờ mịt xa vời, [hẳn là các pháp đã tu] trước đây chẳng phải cứu cánh, liền khởi ý nguyện theo Phật thưa hỏi cầu xin [quả vị] trước đây Phật đã hứa. Đó gọi là theo ý nguyện [bên trong] mà đòi.
[Nay xét rằng] nếu tìm kiếm trong kinh văn thì không có ý nghĩa này. Nếu suy luận theo ý nghĩa “đòi xe” thì nghĩa như trên không thích hợp. Không thể dựa vào kinh văn để giải thích như vậy. Còn dựa theo suy luận thì kinh văn phần sau nói rằng: “Tự mình ở chỗ chứng đắc mà khởi sinh ý tưởng cho rằng đã được diệt độ.” Đã dùng thiên nhãn [quán sát tương lai] thấy vẫn còn sinh tử, vậy tại sao lại khởi sinh ý tưởng [mình đã] diệt độ? Những ý nghĩa này tự mâu thuẫn nhau.
Lại nữa, sau khi Phật diệt độ, các vị A-la-hán nếu không gặp được Phật khác [bên ngoài ba cõi]
[112] thì không thể liễu ngộ rốt ráo. Nếu đã tự mình dùng thiên nhãn soi thấy [nhiều kiếp] sinh tử [trong tương lai], vậy cần chi phải đợi gặp Phật mới liễu ngộ rốt ráo?
Lại nữa, thiên nhãn của bậc sơ thiền còn chẳng thấy được [cảnh giới] nhị thiền, huống chi [sinh tử] biến dịch [làm sao có thể thấy]? Điều này cũng trái ngược với Nhiếp Đại thừa [luận].
Lại nữa, [nếu như] A-la-hán đạt đến nghiệp vô lậu có thể dùng thiên nhãn thấy được biến dịch của quả báo sinh tử trong tương lai, thì lẽ ra người hiện đang tu tập giữ 5 giới, tạo 10 nghiệp lành cũng phải tự thấy được quả báo của mình trong tương lai. Nên biết rằng, quả báo bên ngoài ba cõi đâu phải là chỗ thấy được của thiên nhãn?
Nay cũng không dùng đến những ý trên để phê phán lập luận “theo ý nguyện mà đòi”. Nói “theo ý nguyện mà đòi”, đó là nói [hàng Thanh văn] ngày trước nghe theo giáo pháp nói rằng, đạt được tận trí và vô sinh trí thì thể nhập [Niết-bàn] Vô dư. Thế nhưng, trong thời Phương đẳng thấy được chỗ không thể nghĩ bàn của hàng Bồ Tát, lại nghe ngài Tịnh Danh quở trách bài xích [pháp Tiểu thừa, liền tự nghĩ rằng], nếu chỗ chứng đắc của ta là chân thật, hẳn bậc đại sĩ đã không ngăn trở bài xích; còn nếu chỗ chứng đắc của ta là không chân thật, lẽ ra Phật đã không nói đó là chân thật. [Do vậy nên] trong lòng hoang mang không biết nói sao.
Cho đến thời Bát-nhã, [các vị này] nhận hiểu được giáo pháp Đại thừa, nghe pháp thì tâm Đại thừa phát khởi nên muốn tiến tu theo Đại thừa, nhưng không thể tự biết được mình có chỗ chứng đắc hay không. Những điều như vậy đều là “theo ý nguyện mà đòi”, mong cầu hiểu được ý nghĩa Đại thừa. Cho nên ngài Xá-lợi-phất trình bày chỗ nhận hiểu có nêu lên lòng nghi ngày trước, khi thấy các Bồ Tát được thụ ký làm Phật [mà tự mình] chẳng được dự phần vào việc ấy, liền than thở tự trách, muốn đem việc ấy thưa hỏi đức Thế Tôn, rốt lại thì [tánh Phật của mình] đã mất hay không mất. Đoạn này chính là chỉ cho việc ngày trước vào thời Phương đẳng đã có “ý nguyện muốn đòi”, [muốn thưa hỏi cầu quả vị]. Nay thêm vào việc thỉnh cầu bằng lời. [Đó là] nhân nơi kệ mở đầu trong phẩm Phương tiện, thoáng nghe qua Phật nói tất cả đều là phương tiện, liền bám víu nơi nghĩa phương tiện ngày nay mà ngờ rằng pháp ngày trước chưa rốt ráo, cho nên nói rằng “nay thì không biết nghĩa ấy hướng về đâu”. Lòng nghi thuở xưa khơi dậy nên phát ra thành lời, 3 lần thưa thỉnh. [Đó là] thưa thỉnh mong cầu chỗ chân thật trong điều Phật thuyết ngày trước; lại cơ duyên Đại thừa đã đến nên theo ý nguyện mong cầu chỗ chân thật ngày trước; lại vì ý nguyện mong cầu Đại thừa nên miệng thưa hỏi về sự chân thật ngày trước.
[Như trên là nói về hàng Thanh văn, đối với hàng Bồ Tát] Thông giáo [tu tập] 6 ba-la-mật cũng giải thích như vậy.
Giảng giải ý thứ ba: Cho các con cùng một loại xeTừ câu “Xá-lợi-phất! Khi ấy ông trưởng giả liền cho tất cả các con…” trở đi là ý thứ ba, ban cho các con cùng một loại xe lớn. Phần này có 2 tiểu ý [nói nghĩa bình đẳng], 2 lần giảng rộng, 2 lần giải thích. Tiểu ý thứ nhất nói các con đều bình đẳng. Tiểu ý thứ hai nói các xe [ban cho con] đều [lớn, đẹp] như nhau.
[Theo tiểu ý thứ nhất], do tất cả các con đều bình đẳng nên tâm tánh bình đẳng, đây là ví cho tất cả chúng sinh đều có tánh Phật như nhau. Tánh Phật giống nhau nên [tất cả] đều là con [Phật].
[Theo tiểu ý thứ hai], tất cả xe [ban cho các con] đều như nhau, đó là nói do tất cả pháp đều bình đẳng nên không một pháp nào không phải pháp Phật. Đây là ví cho hết thảy các pháp đều là Đại thừa. Đều là pháp Đại thừa như nhau nên nói ban cho cùng một loại xe lớn [đẹp] như nhau.
Lại nói mỗi người đều được ban cho, đó là nói mỗi người đều tùy theo chỗ căn bản tu tập [trước đây] như 4 chân đế, 6 ba-la-mật, vô số các pháp, mỗi pháp xưa kia tu tập đều là khai mở chỉ bày lẽ chân thật. Sự tu tập không giống nhau cho nên [phân biệt] nói là “mỗi người”. [Các pháp tu ấy] đều là Đại thừa cho nên nói “đều là xe lớn đẹp”.
Từ câu “xe ấy cao rộng…” trở đi tiếp theo 2 tiểu ý nữa giảng rộng về xe. Tiểu ý thứ ba nói rộng về thể của xe, kế đến tiểu ý thứ tư giải thích nguyên do có xe.
Trong tiểu ý thứ ba nói về thể của xe thì trước tiên trình bày xe ấy là cao rộng, kế đến nói rõ [xe được kéo bằng] trâu trắng, cuối cùng mới nói đến những kẻ tùy tùng [đi theo bảo vệ].
Tạm gọi là xe, có tướng cao rộng, để ví cho tri kiến của đức Như Lai sâu rộng; là nói rộng khắp bờ cõi pháp giới, sâu suốt thấu triệt tận cội nguồn 3 đế,
[113] cho nên nói là “[xe ấy] cao rộng”. [Lại nói] “trang hoàng bằng các vật báu”, đó là ví cho muôn công hạnh tu hành, lấy đó làm đồ trang sức. “Có lan can bao quanh” là ví cho pháp tổng trì, nắm giữ được muôn điều lành, ngăn chặn được những việc ác. “Bốn phía treo chuông nhỏ” là ví cho 4 biện tài
[114] giáo hóa [chúng sanh]. “Bên trên lại có lọng che” là ví cho 4 tâm vô lượng [từ, bi, hỷ, xả; vì] trong tất cả các các phẩm đức thì từ bi là cao quý nhất, bao trùm che phủ tất cả. “Dùng các loại châu báu quý lạ để trang trí” là ví cho muôn điều lành chân thật trang nghiêm đức từ bi. Kinh Đại [Bát Niết-bàn]
[115] nói: “Đức từ nếu đầy đủ 10 lực, 10 vô úy
[116]... thì gọi là đức từ Như Lai.” Phải trụ trong đức từ ấy mà thực hành bố thí... Đại lược là như vậy.
“Dây báu quấn quanh lọng” là ví cho bốn hoằng thệ
[117] kiên cố với tâm đại từ. “Với những vòng hoa rủ xuống” là ví cho 4 nhiếp pháp, các thần thông v.v. làm cho chúng sinh động tâm vui mừng, lại cũng ví cho 7 giác chi
[118] như vòng hoa đẹp nhiệm mầu. “[Trên xe] trải nhiều lớp thảm” là ví cho việc quán chiếu rèn luyện tu tập thường xuyên tất cả các pháp thiền định hết sức thuần thục nhuần nhuyễn. “Có gối đỏ tựa đầu” là nói khi xe di chuyển nên [có gối này để] giữ đầu không ngả ra, ví cho việc ở ngay nơi chỗ dao động mà an tịnh, ở ngay nơi chỗ an tịnh mà dao động. Như trong xe có gối thì thân và đầu tựa vào nghỉ ngơi, đó là ví cho tam-muội Nhất hạnh
[119] dừng nghỉ tất cả hành [tướng] của Nhất thiết trí. Màu đỏ [của gối] là hào quang đỏ rực, ví cho pháp không phân biệt. Dùng trâu trắng kéo xe là ví cho trí Bát-nhã dứt sạch lậu hoặc, có thể dẫn dắt các duyên chân thật
[120] trải qua hết thảy mọi công hạnh, đạt đến Nhất thiết trí.
[121] Màu trắng là màu căn bản [của tất cả các màu], tức là tương ưng với bản thể thanh tịnh không lậu hoặc. Bản thể ấy gồm đủ muôn phẩm đức, ví như [trâu trắng có] “hình thể mập mạp”, phiền não chẳng thể làm nhiễm ô, ví như [trâu trắng có màu da] “thuần khiết”.
Lại nữa, 4 niệm xứ
[122] là trâu trắng [kéo xe trên đường tu tập], trong 4 chánh cần
[123] thì 2 pháp thiện thế gian trọn đủ, ví như “hình thể mập mạp”; 2 pháp ác thế gian dứt sạch, ví như “màu da thuần khiết”. Tâm thức người tu tập tương xứng với 4 như ý túc, ví như hình thể xinh đẹp. “Gân cốt bắp thịt nở nang” ví cho 5 căn
[124] trụ vững, là nghĩa thường sinh khởi [pháp lành]. “Mạnh mẽ” ví cho 5 lực
[125] hàng phục [phiền não xấu ác], là nghĩa vận dụng. “Bước đi ngay ngắn” ví cho [sự tu tập] thiền định và trí tuệ cân bằng như nhau, lại cũng ví cho bảy giác chi được điều hòa cân bằng. “Lướt nhanh như gió”, ví như [người tu tập] đi trên con đường bát chánh, hết sức nhanh chóng đạt đến Nhất thiết trí. “Nhiều người đi theo hầu hạ, bảo vệ” ví cho các phương tiện ba-la-mật thường linh hoạt tùy theo sự sai khiến của người [tu tập]. Chúng ma, ngoại đạo, hàng Nhị thừa công hạnh nhỏ nhặt, hết thảy đều tùy theo sự vận dụng của trí tuệ phương tiện. Kinh Duy-ma-cật nói rằng: “[Hết thảy chúng ma cùng các hạng ngoại đạo] đều là người hầu hạ của ta.”
[126] Lại nữa, sức thần thông khi đạt được quả vị [thành tựu] có thể tùy ý vận dụng sai khiến, đó chính là “người đi theo hầu hạ”.
Tiếp theo từ câu “Vì sao vậy? Ông trưởng giả này giàu có…” trở đi là ý nhỏ thứ tư giải thích về nguyên do có xe. Đó là do “giàu có vô cùng… …kho tàng đều chất chứa đầy tràn”, ví cho khi đạt được quả địa thành tựu thì phước đức trí tuệ đều trọn vẹn đầy đủ. Gọi là “giàu có vô cùng, kho tàng đều chất chứa đầy tràn”, đó là “kho chứa hành”, “kho chứa lý”. Hết thảy các pháp hướng đến các ba-la-mật như bố thí, trì giới, nhẫn nhục v.v. là hướng đến chỗ không lỗi lầm, tức dựa theo “hành” là Như Lai tạng, [là nghĩa “kho chứa hành”]. Hết thảy các pháp hướng đến các ấm, nhập, giới, căn, trần v.v. là hướng đến chỗ không lỗi lầm, tức dựa theo “lý” làm rõ Như Lai tạng, [là nghĩa “kho chứa lý”]. Tự mình thực hành những pháp “hành” và “lý” như vậy gọi là “đầy”, giáo hóa người khác [làm theo như vậy] gọi là “tràn”; trọn đủ trí chân thật gọi là “đầy”, vận dụng trí quyền biến gọi là “tràn”; thể nhập trung đạo gọi là “đầy”, cùng lúc soi chiếu [chân đế và tục đế] nên gọi là “tràn”. [Ông trưởng giả] chẳng những có nhiều kho tàng mà tất cả [những kho tàng ấy] đều đầy tràn. [Đó là ví] chẳng có pháp nào chẳng phải Đại thừa. Cho nên nói là Đại thừa vô lượng.
Từ câu “nên ông nghĩ rằng” trở đi là nói rộng để làm rõ tâm tánh bình đẳng. Phần kinh văn này có hai tiểu ý [tiếp theo]. Tiểu ý thứ năm là nói rộng nghĩa tâm tánh bình đẳng, tiểu ý thứ sáu là giải thích [nghĩa ấy]. Theo tiểu ý thứ năm nói rộng nghĩa tâm tánh bình đẳng, vì [ông trưởng giả] giàu có vô cùng nên đối với các con của mình không có sự thiên lệch, đó là nói tâm tánh bình đẳng. Nếu là giàu có nhưng đối với [những ai] không phải con của mình, hoặc với con mình nhưng vì nghèo khó, ắt cũng đều không [đối xử] bình đẳng được. Ở đây [ông trưởng giả có] xe lớn bằng 7 món báu số nhiều vô lượng [nên có thể đối xử bình đẳng]. Hoặc [nói về] giáo, hoặc nói về hành đều là Đại thừa, tức là tài sản nhiều, nên khi ban cho mỗi [đứa con] đều “không nên khác biệt”. Không cần thay đổi những gì vốn đã tu tập trước đây mà chỉ bày cho thấy sự chân thật. [Đó là] như ngài Xá-lợi-phất từ nơi trí tuệ [đã tu tập trước đây] mà khai mở tri kiến Phật, đầy đủ hết thảy pháp Phật; ngài Mục-kiền-liên từ nơi thiền định [đã tu tập trước đây] mà khai mở tri kiến Phật, đầy đủ hết thảy pháp Phật. Những vị [đệ tử] khác cũng đều như vậy.
Lại nữa, trong các thời thuyết pháp Phương đẳng, Bát-nhã, [các pháp như] 4 niệm xứ, 4 chánh cần, 5 căn, 5 lực, 7 giác đạo, đủ mọi [pháp tu với] tên gọi khác nhau đều là để khai mở chỉ bày thật tướng. Mở rộng ra hết thảy các pháp cũng đều như vậy. Cho nên nói là vô lượng.
Từ câu “Vì sao vậy? Nếu ta đem những cỗ xe như thế này…” trở đi giải thích 2 nghĩa bình đẳng.
Trước tiên giải thích vì tài sản rất nhiều [nên có thể ban cho bình đẳng]. [Có thể] “tặng cho dân khắp trong một nước còn không thiếu, huống hồ chỉ cho các con ta”. Đây là ví cho nhân [giác ngộ] viên mãn lớn lao bao quát khắp thảy [các phạm trù] thiện ác, huống hồ chỉ là tri kiến của Phật?
Tiếp theo giải thích về [việc ban cho] các con đều bình đẳng như nhau. [Bởi vì] ngay cả [với tất cả dân trong nước] không phải con mình mà còn có đủ [để ban cho], huống hồ là chỉ với các con của mình. Đây là ví cho [sự giáo hóa của Phật], đối với những kẻ không có duyên còn hóa độ cho được, huống hồ là với những người có duyên [giống như] con của mình. [Những điều này] đọc trong kinh văn có thể hiểu được.
Giảng giải ý thứ tư: Các con được ban cho xe lớn đều vui mừngTừ câu “Khi ấy những người con của ông trưởng giả, mỗi người đều đi trên một cỗ xe lớn…” trở đi là thí dụ thứ tư, nói về việc thỏa lòng mong muốn nên vui vẻ. Đây là ví cho [ý nghĩa trong kinh văn] phần trước nói [các tỳ-kheo] thọ nhận [giáo pháp], thực hành, tỏ ngộ và thể nhập. Trước đây vốn chỉ cầu được 3 loại xe dê, xe nai, xe trâu, [ví như chỉ] mong thoát ra khỏi [sinh tử] phần đoạn, nay được xe trâu trắng, [ví như] dứt trừ hoàn toàn [sinh tử] biến dịch, [đó là] vượt hơn chỗ mong cầu, có lẽ nào lại không vui mừng?
4. Thí dụ “ông trưởng giả không nói dối”KINH VĂN“Xá-lợi-phất! Ý ông nghĩ sao, vị trưởng giả ấy cho các con những cỗ xe lớn quý báu như nhau [thay vì xe dê, xe nai, xe trâu như đã hứa], vậy có mắc lỗi nói dối hay chăng?”Ngài Xá-lợi-phất thưa: “Không phải vậy, bạch Thế Tôn! Vị trưởng giả ấy [trước đây nói như vậy] chỉ là vì muốn cho các con thoát khỏi nạn lửa cháy, bảo toàn mạng sống, chẳng phải là nói dối. Vì sao vậy? Nếu giữ được mạng sống thì xem như đã được món đồ chơi quý báu rồi, huống chi lại là dùng phương tiện trong nhà đang cháy kia để cứu thoát [các con] ra. Bạch Thế Tôn! Ví như vị trưởng giả kia thậm chí không cho [các con] chiếc xe nào dù là nhỏ nhất thì cũng không phải là nói dối. Vì sao vậy? Vì trước tiên ông trưởng giả ấy đã có ý nghĩ rằng: ‘Ta dùng phương tiện này để khiến cho các con được thoát ra [khỏi căn nhà đang cháy].’ Vì lý do ấy, ông không mắc lỗi nói dối. Huống chi ông trưởng giả tự biết mình giàu có vô cùng, muốn làm lợi ích cho các con nên bình đẳng ban cho [mỗi người một] cỗ xe lớn.”Từ câu “Xá-lợi-phất! Ý ông nghĩ sao…” trở đi là thí dụ thứ tư, nói việc “ông trưởng giả không nói dối”, ví cho việc đấng Pháp vương không [nói điều] hư dối. [Kinh văn đoạn này có 3 phần], thứ nhất là [đức Phật] nêu câu hỏi, thứ hai là [ngài Xá-lợi-phất] trả lời và thứ ba là [đức Phật] thuật lại sự việc và ngợi khen xưng tán.
Phần [đức Phật] nêu câu hỏi thì y theo kinh văn có thể hiểu được, [không cần giảng giải].
Phần thứ hai từ câu “Ngài Xá-lợi-phất thưa: ‘Không phải vậy…’” trở đi là câu trả lời [của ngài Xá-lợi-phất], lại chia thành 2 ý.
Ý thứ nhất là [vì cứu các con] thoát khỏi tai nạn nên không phải nói dối, cũng có thể nói là vì chọn điều quan trọng mà bỏ việc tầm thường nên không phải nói dối.
Ý thứ hai là vì [hành động] không trái với ý định ban đầu
[127] nên không phải nói dối, cũng có thể nói là vì [giúp cho các con] được nhiều hơn cả sự mong cầu nên không phải nói dối.
Mỗi một ý trên lại chia làm 3 tiểu ý. Đó là: nêu vấn đề, giải thích [vấn đề] và so sánh để kết luận.
[Trong ý thứ nhất,] tiểu ý đầu tiên nêu vấn đề là nói việc [các con] thoát nạn, theo kinh văn có thể hiểu được.
Tiểu ý thứ hai từ câu “Vì sao vậy? Nếu giữ được mạng sống…” trở đi giải thích rằng, mạng sống là quan trọng, thân thể xem nhẹ hơn,
[128] [nay cứu giúp các con] toàn thân được thoát khỏi nạn lửa thiêu, đó là được món báu vật lớn lao, cứu thoát mạng sống quan trọng, lẽ nào lại là nói dối?
Tiểu ý thứ ba [so sánh để] kết luận, [cứu giúp chúng sanh] thoát khỏi ngọn lửa thiêu đốt của 8 nỗi khổ,
[129] bảo toàn được 5 phần [pháp] thân đã là báu vật lớn lao, huống chi [trước đây từng] được ở nơi 20.000 đức Phật gieo nhân viên mãn thành tựu tuệ mệnh Đại thừa, khai mở tri kiến Phật, lẽ nào lại là nói dối?
Ý thứ hai tiếp theo là từ câu “Bạch Thế Tôn! Ví như vị trưởng giả kia…” trở đi, [giải thích hành động] không trái với ý định ban đầu.
[Trong ý thứ hai,] tiểu ý đầu tiên nêu vấn đề không trái với ý định ban đầu, hàm ý khiến cho [chúng sanh] không hủy báng. Không hủy báng là vì không trái với ý định ban đầu.
[Tiểu ý thứ hai] giải thích rằng, [đức Phật] vốn biết thật không có Tiểu thừa, nhưng có ý khiến cho [chúng sanh] không hủy báng để không rơi vào đường ác. Không tạo nhân hủy báng nên không có quả đọa vào các đường ác. [Lại cũng giải thích rằng] không ban cho [các con] xe nhỏ là không trái với ý định ban đầu.
[Tiểu ý thứ ba so sánh để] kết luận rằng, “ông trưởng giả tự biết mình giàu có vô cùng, muốn làm lợi ích cho các con”, ban cho mỗi người con một cỗ xe lớn là vượt hơn cả sự mong cầu, cho nên không phải là nói dối. Phần kết trước nói “dùng phương tiện này để khiến cho các con được thoát ra khỏi căn nhà đang cháy” là ví tương tự như sức thần thông đoạn đức [của Phật]. Phần kết sau nói “giàu có vô cùng” là ví tương tự như sức biện thuyết trí đức [của Phật]. Phần trước [là nói vì] đối với các con bình đẳng như nhau nên không phải nói dối, phần sau [là nói vì] tài sản [rất nhiều có thể ban cho các con] như nhau nên không phải nói dối.
KINH VĂNĐức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Lành thay, lành thay! Đúng như ông nói. Này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai cũng giống như vậy, là đấng cha lành của hết thảy [chúng sinh trong] thế gian, đối với tất cả những sự sợ hãi, phiền não, suy yếu, tai họa, lo âu hay sự tối tăm che lấp của vô minh, ngài đều đã vĩnh viễn dứt sạch hoàn toàn, thành tựu vô số những sự thấy biết cùng [các phẩm tính như] lực, vô sở úy, có sức thần thông lớn lao cùng sức trí tuệ, đầy đủ các phương tiện trí tuệ ba-la-mật, đại từ đại bi, thường làm những việc hiền thiện lợi ích cho hết thảy chúng sinh, không hề mỏi mệt. Đức Như Lai sinh vào trong ba cõi này như căn nhà mục nát đang bốc cháy, vì cứu độ chúng sinh thoát khỏi ngọn lửa dữ của sinh, già, bệnh, chết, buồn đau, khổ não, ngu si, tối tăm hôn ám và ba món độc: tham lam, sân hận, si mê, nên ngài giáo hóa khiến cho đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.Từ câu “Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất…” trở đi là phần thứ ba, đức Phật nhắc lại [sự việc] và ngợi khen xưng tán, có hai đoạn.
[Đoạn thứ nhất Phật nói] “lành thay” là nhắc lại hai ý [giải thích việc ông trưởng giả] không nói dối [vừa nói trên].
Hỏi: Tại sao đức Phật không tự nói ra việc [ông trưởng giả] không nói dối?
Đáp: Đức Phật [trước đây] hứa khả ba thừa, nay ban cho Nhất thừa nên khó tự nói ra. Ngài Xá-lợi-phất dựa vào niềm tin nên dễ nói ra [nghĩa] không nói dối.
So sánh ý nghĩa tương hợp trước sauTừ câu “Này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai cũng giống như vậy…” trở đi là đoạn thứ hai, tổng hợp các thí dụ. Ngài Quang Trạch nêu ra 10 thí dụ, trong đó chỉ có 7 là tương hợp [với phần trước], còn lại 3 không tương hợp. Trong số 7 thí dụ tương hợp thì thật ra chỉ có 5, vì các thí dụ thứ năm và thứ tám có thể gộp vào [các thí dụ khác]. Các thí dụ không tương hợp là thí dụ [thứ nhất], thứ bảy và thứ chín. Cho nên biết rằng, nêu ra 10 thí dụ là rườm rà mà không hội được [ý nghĩa]. Nay hợp tất cả [chia ra thành] các thí dụ khái quát và thí dụ cụ thể [để so sánh sự tương hợp trước sau].
So sánh các thí dụ khái quátCó 6 thí dụ khái quát, nay so với [các thí dụ] phần trước đều tương hợp [ý nghĩa], chỉ có điều không hoàn toàn đúng theo thứ tự.
[130]Câu đầu tiên tương hợp với thí dụ [khái quát] thứ nhất ở phần trước. Phần trước nêu thí dụ “ông trưởng giả”, nói đến danh tiếng và công hạnh, địa vị và danh hiệu, cùng với đức độ và sự nghiệp. [Ý nghĩa] tương hợp với câu “Đức Như Lai cũng giống như vậy.” Trước tiên là tương hợp về địa vị và danh hiệu. Đức Như Lai có vô số đức hiệu, chỉ lược nêu ra 10 nghĩa như trên đã nói. [Nói] “hết thảy thế gian” là dùng nơi chốn xứ sở để xác định danh tiếng và công hạnh. Trong ví dụ ở trước nói “đất nước, đô thành hay thôn xóm” là tương hợp với trong câu này nói “hết thảy thế gian”, cũng đồng thời chỉ đến các cõi [phàm thánh] đồng cư, [phương tiện] hữu dư và tự thể [thật báo trang nghiêm], hết thảy đều là những cõi quả báo của tâm vi diệu nhiệm mầu hóa hiện ra hình sắc nhiệm mầu. Đức Như Lai ứng hóa biến hiện trong ba cõi ấy, tức là “hết thảy thế gian”, tương hợp với phần trên nói “đất nước, đô thành hay thôn xóm”.
Từ câu “đối với tất cả những sự sợ hãi…” trở đi tương hợp với phần trước xưng tán đức độ tự thân và phẩm đức bên ngoài [của ông trưởng giả]. Về đức độ tự thân thì [phần trước nói] “tuổi cao sức yếu”, tất nhiên [tích lũy] nhiều tri thức thông đạt, ví cho trí đức và đoạn đức
[131] của đức Như Lai. Đối với hết thảy những sự sợ hãi cũng như vô minh, [Như Lai] đều đã vĩnh viễn dứt trừ, [ý nghĩa này] phù hợp với kinh văn phần trước nói [ông trưởng giả] “sức yếu”, là hiển bày đoạn đức; [Như Lai] thành tựu vô lượng tri kiến, [ý nghĩa này] tương hợp với kinh văn phần trên nói [ông trưởng giả] “tuổi cao”, là hiển bày trí đức.
[Kinh văn đoạn này nói các phẩm tính như] lực, vô sở úy v.v. [của đức Như Lai] là tương hợp với phần trước nói về phẩm đức bên ngoài [của ông trưởng giả] là “giàu có vô cùng”. Nói “sức thần thông” là vì tu tập sâu xa pháp thiền định có thể đạt được thần thông, tương hợp với phần trước nói “sở hữu rất nhiều ruộng vườn”. Sức trí tuệ là nói trí ấy tất nhiên soi chiếu cảnh bên ngoài, chẳng hạn như cảnh giới nơi hiện thân, phù hợp với phần trước nói “sở hữu nhà cửa”. Đầy đủ các phương tiện [trí tuệ] ba-la-mật là tương hợp với phần trước nói “có nhiều tôi tớ”.
Tiếp đến câu thứ hai từ “đại từ đại bi…” trở đi, tương hợp với thí dụ khái quát thứ tư ở phần trước. Từ bi là căn bản của sự thi hành giáo hóa; “hết thảy chúng sanh” là chỉ tất cả [chúng sanh] trong 5 đường,
[132] [Đức Phật] thường dùng tâm từ bi che chở [cho tất cả], tương hợp với phần trước nói [trong nhà ông trưởng giả] “có đến 500 người”.
Câu thứ ba từ “Đức Như Lai sinh vào trong ba cõi này như căn nhà mục nát đang bốc cháy”, tương hợp với thí dụ khái quát thứ hai “căn nhà rộng lớn” ở phần trước.
Câu thứ tư “vì cứu độ chúng sanh…” tương hợp với thí dụ khái quát thứ sáu ở phần trước. Những chúng sinh có duyên gần gũi, thân cận [Như Lai] thì được hóa độ trước, tương hợp với phần trước nói “có 30 người con”.
Câu thứ năm từ “sinh, già, bệnh, chết…” trở đi phù hợp với thí dụ khái quát thứ năm ở phần trước nói “lửa bốc lên cháy nhà”.
Câu thứ sáu “giáo hóa khiến cho đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” tương hợp với thí dụ khái quát thứ ba ở phần trước. Giáo pháp có thể giảng rõ lý, tìm cầu được lý, khởi sự hành trì liền đạt được quả vị Bồ-đề. Cho nên biết rằng giáo và lý phải cùng được vận dụng. [Ý nghĩa này] tương hợp với thí dụ phần trước nói “chỉ có một cửa ra vào”.
Nếu muốn giảng thuyết cho [kinh văn] trước sau [tương hợp] có thể hiểu được thì hết thảy mọi thí dụ đều nên lưu ý việc dẫn khởi từ phẩm Phương tiện để so sánh sắp xếp. Phần sau có thể không dùng cách này.
So sánh các thí dụ cụ thểKINH VĂNĐức Như Lai nhìn thấy các chúng sinh bị thiêu đốt bởi sinh, già, bệnh, chết, buồn đau, khổ não, lại cũng vì năm món dục và tiền tài, lợi lộc mà phải chịu đủ mọi thứ khổ đau, lại vì sự tham lam bám chấp tìm cầu mà hiện tại phải chịu mọi sự khổ não, đời sau còn phải khổ vì đọa vào các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu như được sinh lên cõi trời hoặc cõi người, lại cũng phải chịu những nỗi khổ như nghèo cùng khốn khó, phải xa lìa người mình thương yêu, phải gặp gỡ người mình oán ghét... đủ mọi nỗi khổ như vậy. Chúng sinh chìm đắm trong những nỗi khổ ấy, vui mừng đùa giỡn, không hay không biết, chẳng khiếp chẳng sợ, cũng không sinh tâm chán bỏ, không cầu được giải thoát, ở trong ba cõi như căn nhà đang bốc cháy mà mãi chạy loanh quanh đó đây, dù phải gặp những nỗi khổ lớn lao nhưng không cho đó là đáng sợ.Từ câu “Đức Như Lai nhìn thấy các chúng sinh... ” trở đi là phần thứ hai, tương hợp với các thí dụ cụ thể [ở trước]. Có bốn thí dụ cụ thể. Nay câu đầu tiên tương hợp với thí dụ “ông trưởng giả thấy lửa”. Trong thí dụ có 3 ý, câu kinh văn này có 4 ý, cũng tương hợp cả 4 ý. Trong thí dụ thì ý nghĩa “hết sức kinh hãi” đặt ở trước, những đứa con “đắm vui trong chỗ chơi đùa” đặt ở sau. Trong phần kinh văn tương hợp thì ý nghĩa “không hay không biết, chẳng khiếp chẳng sợ” đặt ở trước, còn ý nghĩa “dứt trừ hết khổ, mang cho niềm vui” lại nằm ở sau. [Hai phần trước sau] hỗ tương hiển lộ, chỉ ra tính chất không nhất định.
Nay xét một chữ “thấy”. [Ý] thứ nhất tương hợp với ý thứ nhất [trong thí dụ cụ thể thứ nhất] ở phần trước, [đều nói về] mắt có thể thấy, tức là nói con mắt trí tuệ tịch nhiên soi chiếu của Như Lai có khả năng nhìn thấy.
Từ câu “các chúng sinh bị thiêu đốt bởi sinh, già, bệnh, chết…” trở đi là ý thứ hai, tương hợp với ý thứ hai [trong thí dụ cụ thể thứ nhất] ở trước nói [những gì được nhìn thấy] là “lửa bốc lên quanh bốn phía nhà”. Trong kinh văn phần này nêu rõ 8 nỗi khổ là lửa [thiêu đốt chúng sanh]. Bốn nỗi khổ [sinh, già, bệnh, chết] đã nói rõ trong kinh văn. [Tiếp theo là nói] sự tham muốn bám chấp truy cầu, cầu không được thì khổ, ngày sau chịu khổ đọa vào địa ngục. Trong hai cõi trời, người thì chịu nỗi khổ 5 ấm [phấn phát]. [Hai nỗi khổ] thương yêu phải chia lìa, oán ghét phải gặp gỡ thì y theo như kinh văn. [Cộng tất cả] là 8 nỗi khổ, từ nơi 4 sự điên đảo mà khởi sinh, tức là nói “bốc lên quanh bốn phía nhà”.
Từ câu “Chúng sinh chìm đắm trong những nỗi khổ ấy” trở đi phần là ý thứ ba, tương hợp với [đoạn] thứ tư trong thí dụ [cụ thể thứ nhất] ở phần trước nói “các con ta… …không hay không biết gì”. Vì không quán khổ đế, tập đế nên không [khởi tâm] chán ghét [xa lìa sinh tử luân hồi]. Vì không quán đạo đế, diệt đế nên không cầu giải thoát. [Chúng sinh] tuy phải chịu khổ não nặng nề nhưng không cho đó là khổ nạn, tương hợp với trong thí dụ phần trước nói là “tâm không chán sợ, không có ý cầu được thoát ra”.
KINH VĂN“Này Xá-lợi-phất! Phật nhìn thấy như vậy, liền suy nghĩ rằng: ‘Ta là đấng cha lành của chúng sinh, phải giúp trừ cho hết khổ nạn, mang đến cho chúng sinh niềm vui từ trí tuệ Phật vô lượng vô biên, khiến họ được vui thích.’“Xá-lợi-phất! Rồi Như Lai lại nghĩ: ‘Nếu ta chỉ dùng sức thần thông và sức trí tuệ, không dùng phương tiện, vì chúng sinh mà ngợi khen xưng tán tri kiến, lực, vô sở úy... của Như Lai, thì chúng sinh không thể nào nhờ đó để được cứu độ. Vì sao vậy? Vì chúng sinh chưa thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết, buồn lo, khổ não... đang bị thiêu đốt trong ba cõi như căn nhà đang cháy, dựa vào đâu để có thể hiểu được trí tuệ Phật?’[133]“Xá-lợi-phất! Cũng như ông trưởng giả kia tuy có sức mạnh nhưng không dùng đến, chỉ ân cần dùng phương tiện dẫn dụ để cứu thoát các con ra khỏi nạn nhà cháy, sau đó mới cho mỗi người một cỗ xe lớn quý báu. Đức Như Lai cũng vậy, tuy có lực, vô sở úy... nhưng không dùng đến, chỉ dùng phương tiện trí tuệ, trong căn nhà lửa ba cõi này mà cứu vớt chúng sinh, vì chúng sinh thuyết dạy ba thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa,[134] Phật thừa mà nói rằng: “Các người chớ nên vui thú trong ba cõi như căn nhà đang cháy, chớ tham muốn những hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm thô trược thấp hèn. Nếu tham muốn bám chấp thì sinh ra ái luyến, ắt sẽ bị thiêu cháy. Các người phải nhanh chóng thoát ra khỏi ba cõi, sẽ đạt được ba thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Phật thừa. Ta nay vì các người mà bảo đảm cho việc này, nhất định không hề hư dối. Các người hãy chuyên cần tinh tấn tu tập.’“Đức Như Lai dùng phương tiện dẫn dụ khuyên bảo khuyến khích chúng sinh nên lại nói rằng: ‘Các người nên biết, giáo pháp ba thừa này được các bậc thánh ngợi khen xưng tán, tự do tự tại không trói buộc, không có chỗ nương dựa mong cầu. Nương theo [giáo pháp] ba thừa này, dùng các pháp vô lậu như căn, lực, giác, đạo, thiền định, giải thoát, tam-muội v.v. để tự vui thích, liền được vô lượng an ổn, khoái lạc.’Từ câu “Phật nhìn thấy như vậy, liền suy nghĩ rằng…” là ý thứ tư, tương hợp với ý thứ ba [trong thí dụ thứ nhất] ở phần trước, nói “hết sức kinh hãi”. [Trong thí dụ nói] “Nay ta tuy có thể xuyên qua cửa đang cháy mà thoát ra ngoài an ổn”, là tương hợp với ý “phải giúp trừ cho hết khổ nạn”, tức là nói sức đại bi [của Phật]; “mang đến cho chúng sinh niềm vui”, tức là nói sức đại từ [của Phật].
Từ câu “Rồi Như Lai lại nghĩ…” trở đi là tương hợp với [thí dụ cụ thể thứ hai, nói ông trưởng giả quyết định] bỏ không dùng [cách đặt các con lên] bàn ghế [mang ra] mà [chuyển sang] dùng các cỗ xe [đẹp để dẫn dụ].
Trong thí dụ trên có hai ý “khuyên bảo khuyến khích” và “răn dạy ngăn ngừa”, nay [trong kinh văn đoạn này] chỉ tương hợp với ý khuyên bảo khuyến khích, không tương hợp với ý răn dạy ngăn ngừa.
Trong phần thuyết chánh pháp cũng chỉ nói khuyến khích việc làm lành, không nêu ý ngăn ngừa việc xấu ác, cho nên khuyên bảo khuyến khích tu tập là chính, ngăn ngừa việc xấu ác là phụ.
Lại nữa, ý nghĩa khuyến khích việc làm lành tức là ngăn ngừa việc xấu ác, ngăn ngừa việc xấu ác tức là khuyến khích việc làm lành. Nay xét thấy tương hợp với ý khuyến khích việc làm lành thì biết là cũng tương hợp với việc ngăn ngừa điều xấu ác.
Phần khuyến trong thí dụ ở trước có 3 ý: thứ nhất, dự tính là thích hợp; thứ hai, xét thấy [chúng sanh] không có căn cơ; thứ ba, thôi dừng việc giáo hóa.
[Ý thứ nhất] dự tính thích hợp là câu “thân ta mạnh, tay ta khỏe, có thể dùng vạt áo rộng bọc lấy các con, hoặc đặt chúng trên ghế”. [Kinh văn phần này nói] “nếu ta chỉ dùng sức thần thông…”, đó là tương hợp với phần trước nói “thân ta mạnh”; nói “và sức trí tuệ” là tương hợp với “tay ta khỏe”. [Lại nói] “ngợi khen xưng tán tri kiến, lực, vô sở úy của Như Lai” là tương hợp với “dùng vạt áo rộng”. Khi Phật vừa xuất thế liền có những dự định như vậy, nhưng “chúng sinh không thể nào nhờ đó được cứu độ”.
Ý thứ hai là từ câu “Vì sao vậy? Vì chúng sinh chưa thoát khỏi…” trở đi, giải thích [vì sao chúng sanh] không thể được cứu độ, tương hợp với phần trước trong thí dụ nói những người con không nghe theo lời khuyên bảo [của ông trưởng giả]. [Ý nghĩa] chính là do 5 thứ uế trược che chướng nặng nề, [chúng sanh] chưa thể thoát ra khỏi ngọn lửa sinh tử [đang thiêu đốt], nên không thể nhập được [giáo pháp] Đại thừa nhiệm mầu vi diệu, cho nên nói “dựa vào đâu để có thể hiểu được trí tuệ Phật”. Câu này tương hợp với trong thí dụ ở trước [ông trưởng giả suy nghĩ “Nhà này chỉ có một cửa, lại nhỏ hẹp…” Vì Tiểu [thừa nhỏ hẹp] nên không thể hiểu được trí tuệ [Phật]. Không hiểu được trí tuệ, là ý [nói chỉ] lấy công hạnh làm “cửa ra”.
[135]Câu “Cũng như ông trưởng giả kia, tuy có sức mạnh nhưng không dùng đến” là tương hợp với ý thứ ba [trong thí dụ thứ hai, phần “Dùng pháp khuyên bảo khuyến khích”] ở trước, [ông trưởng giả] từ bỏ sự khuyên bảo [các con, ví cho chúng sanh] không có cơ duyên [nên đức Phật] dừng việc giáo hóa. [Ông trưởng giả lại nghĩ:] “E rằng chúng vùng vẫy rơi xuống, ắt phải bị lửa thiêu.” Trong câu này không có chữ nào mang nghĩa “từ bỏ”, [nhưng trong] thí dụ và [phần kinh văn] dẫn khởi thí dụ thì ý nghĩa “dừng sự giáo hóa” rất rõ ràng. Nội dung kinh văn nói về “dừng sự giáo hóa” có 2 phần. Phần trước lặp lại tất cả có 3 thí dụ, phần sau hoàn toàn tương hợp nghĩa “dừng sự giáo hóa”.
Lặp lại một thí dụ trước tiên là chính thức thuận hợp nghĩa dừng sự giáo hóa. Lặp lại hai thí dụ tiếp theo là phụ thêm vào để thành nghĩa dừng sự giáo hóa. [Kinh văn nói] “tuy có sức mạnh nhưng không dùng đến”, đây là lặp lại thí dụ ở trước nói việc [ông trưởng giả] không thể dùng sức mạnh cứu con, tức là tương hợp với nghĩa dừng sự giáo hóa. [Kinh văn phần trước cũng nói] đức Như Lai dừng sự giáo hóa bằng Đại thừa.
Từ câu “chỉ ân cần dùng phương tiện dẫn dụ…” trở đi là lặp lại thí dụ nói nghĩa dẫn dụ hứa cho ba loại xe. Lại từ câu “sau đó mới cho mỗi người…” trở đi là lặp lại thí dụ [cụ thể] thứ ba [ở trước] nói việc “cho tất cả các con mỗi người một cỗ xe lớn như nhau”. Câu “Đức Như Lai cũng vậy, tuy có lực, vô sở úy... nhưng không dùng đến”
[136] là hoàn toàn tương hợp với ý thứ ba [trong ví dụ cụ thể thứ hai ở trước] mang nghĩa “dừng việc giáo hóa”.
Từ câu “Chỉ dùng phương tiện trí tuệ…” trở đi là tương hợp với thí dụ dùng xe [đẹp dẫn dụ] cứu được các con. Phần kinh văn ở trước có 4 ý, phần này cũng có 4 ý. Câu “chỉ dùng phương tiện trí tuệ” là tương hợp với ý thứ nhất “dự tính dùng ba xe dẫn dụ là thích hợp”. Câu “vì chúng sinh thuyết dạy ba thừa” là tương hợp với ý thứ hai ở phần trước nói rõ “biết ý các con trước đây”.
Từ câu “...mà nói rằng: Các người chớ nên…” là tương hợp với ý thứ ba trong phần thí dụ ở trước nói “[ông trưởng giả] khen ngợi ba loại xe là “hiếm có khó được”.
[Trong thí dụ thứ hai ở phần trước, ý thứ ba] có [các ý nghĩa] khuyến chuyển, thị chuyển và chứng chuyển, kinh văn phần này cũng tương hợp đầy đủ, chỉ là không theo đúng thứ tự.
Ý thứ nhất tương hợp với ý thứ hai ở phần trước, nói “các người chớ nên vui thú trong ba cõi…” là chỉ bày cho thấy chỗ vô sinh. Nói “ba cõi” là chỉ bày khổ đế; nói “chớ tham muốn… thô trược” cho đến “sinh ra ái luyến” là chỉ bày tập đế; nói “phải nhanh chóng thoát ra khỏi ba cõi” là chỉ bày diệt đế và đạo đế.
[Ý nghĩa] diệt đạo là chỉ bày cho biết ngoài ba cõi có quả vị của ba thừa đủ trí đức và đoạn đức, nên khiến cho [chúng sanh] nhanh chóng thoát ra ngoài ba cõi để được ba thừa. Ba thừa chính là lấy đạo đế và diệt đế làm thể.
Câu “Ta nay vì các người mà bảo đảm cho việc này, nhất định không hề hư dối” là ý thứ hai, tương hợp với ý thứ ba trong thí dụ phần trước, nói “chắc chắn sẽ có chỗ chứng đắc không hề hư dối”.
Từ câu “...lại nói rằng: ‘Các người nên biết…’” trở đi là ý thứ ba, tương hợp với câu thứ nhất [của ý thứ ba trong thí dụ trên], [ông trưởng giả] khen ngợi ba loại xe là “hiếm có khó được”.
[Kinh văn nói “giáo pháp ba thừa này được các bậc thánh ngợi khen xưng tán”, vì] ba thừa ấy là phương tiện của chư Phật, là phương thức thích hợp dẫn dắt chúng sinh nên tất cả các bậc thánh đều xưng tán.
[Lại nói “tự do tự tại không trói buộc”, vì] đạt được trí vô sinh là tự tại, đạt được trí đoạn tận là không còn phiền não rối loạn.
[137] [Bậc chứng ngộ tự biết] sự tái sinh đã dứt, không còn thọ nhận thân sau nên gọi là “không có chỗ nương dựa”; việc cần làm đã làm xong, hạnh thanh tịnh đã thiết lập vững chắc nên gọi là “không mong cầu”.
KINH VĂN“Xá-lợi-phất! Nếu có những chúng sinh nào trong tâm có tánh trí, theo Phật Thế Tôn nghe pháp rồi tin nhận, lưu tâm chuyên cần tinh tấn, muốn nhanh chóng thoát ra ngoài ba cõi, tự mình cầu đạt Niết-bàn, đó gọi là hàng Thanh văn thừa, cũng giống như những đứa con [của ông trưởng giả] vì muốn được xe dê mà [nhanh chóng] ra khỏi căn nhà đang cháy.“Nếu có những chúng sinh nào theo Phật Thế Tôn nghe pháp rồi tin nhận, lưu tâm chuyên cần tinh tấn, cầu đạt trí tuệ tự nhiên, vui thích sống cô độc tịch tịnh, rõ biết sâu xa nhân duyên của các pháp, đó gọi là hàng Duyên giác thừa, cũng giống như những đứa con [của ông trưởng giả] vì muốn được xe nai mà [nhanh chóng] ra khỏi căn nhà đang cháy.“Nếu có những chúng sinh nào theo Phật Thế Tôn nghe pháp rồi tin nhận, chuyên cần tinh tấn tu tập, cầu trí tuệ biết tất cả, trí tuệ tự nhiên, trí tuệ không do thầy dạy, cùng những phẩm tính của Như Lai như tri kiến, lực, vô sở úy, thường thương xót nhớ nghĩ, làm an vui vô lượng chúng sinh, làm lợi ích khắp hàng trời người, độ thoát hết thảy [chúng sanh], đó gọi là hàng Đại thừa. Bồ Tát cầu Đại thừa như vậy nên gọi là Đại [Bồ Tát], cũng giống như những đứa con [của ông trưởng giả] vì muốn được xe trâu mà [nhanh chóng] ra khỏi căn nhà đang cháy.Từ câu “Nếu có những chúng sinh nào trong tâm có tánh trí” trở đi là tương hợp với ý thứ tư trong thí dụ [cụ thể thứ hai] ở trước, là nghĩa “hợp với ý thích của các con”. Phần trước nói đến chân thật, tương tợ v.v. của 4 giai vị,
[138] phần này cũng tương hợp có 4, chỉ có điều phần trước nói bao quát còn phần này nói phân biệt cụ thể. Trong ba thừa, mỗi thừa đều có 4 [giai vị như vậy], đều có dẫn lại trong thí dụ ở trước thuận hợp [ý nghĩa].
“Trong tâm có tánh trí”, nghĩa là từ xưa đã quen với sự ham muốn niềm vui của ba thừa, tạo thành tánh trí ba thừa, cho nên đức Phật [thuận theo đó] mà thuyết dạy giáo pháp ba thừa. Từ câu “trong tâm có tánh trí” cho đến “theo Phật nghe pháp rồi tin nhận” là tương hợp với câu kinh văn trong [thí dụ] ở trước, “nghe cha nói đến các món đồ chơi quý báu hợp với ý thích”, [tức là] tương hợp với ý nghĩa “văn tuệ”; “lưu tâm chuyên cần” là tương hợp với kinh văn ở trước nói “tất cả đều hết sức nhanh chóng”, đây là tương hợp với “tư tuệ”; “tinh tấn” là tương hợp với [nghĩa] thứ hai [trong ý thứ tư] của thí dụ ở trước nói “thúc đẩy chen lấn”. “Thúc đẩy” là nói [nỗ lực] truy tìm để hiểu lý [thù thắng]; “chen lấn” nói xô đuổi, trừ bỏ điều ác. Điều ác dứt trừ nên “tinh”, hiểu lý [thù thắng] sáng tỏ nên “tấn”, đó là tương hợp với phần trước nói “tu tuệ”.
[139][Kinh văn nói] “muốn nhanh chóng thoát ra” là tương hợp với ý thứ ba [trong thí dụ thứ hai] nói “tranh đua cùng chạy nhanh ra”. [Kinh văn nói] “đó gọi là hàng Thanh văn thừa”, tương hợp với ý thứ tư [trong thí dụ] ở trước nói “tranh nhau ra khỏi căn nhà đang cháy”. [Tuy chỉ nói Thanh văn, nhưng] người tu hành trong ba thừa đều có [mục đích] như ý thứ tư này. Hàng Duyên giác thì [hướng về] tìm cầu trí tuệ tự nhiên. Người tu hành theo Duyên giác thừa là tự thực hành pháp, ít được nghe [thuyết giảng] giáo pháp từ người khác, đa phần là tự mình suy xét [quán chiếu] để thấu hiểu ý nghĩa [chân lý thù thắng], cho nên ví như [xe] hươu, vì loài hươu không [sống] nương dựa theo người.
[Trí tuệ] tự nhiên là theo cửa [quán xét] 12 nhân duyên mà thể nhập [đạo]. Cửa [12 nhân duyên] này vốn đã tự nhiên sẵn có, không phải do Phật hay trời, người… tạo ra, nên gọi là trí tuệ tự nhiên. Lại nữa, [vì không phải] do nghe từ người khác [mà có] nên gọi là trí tuệ tự nhiên. [Trí tuệ của] hàng Bồ Tát gọi là trí biết tất cả. Vượt hơn cả hai thừa mới là trí tuệ Phật. Bồ Tát hướng đến [trí tuệ Phật] như vậy mà tu tập nhân [“độ thoát hết thảy chúng sanh”], tức là ý nghĩa xe lớn có thể chuyên chở thêm [người khác].
KINH VĂN“Xá-lợi-phất! Cũng như ông trưởng giả kia nhìn thấy các con đã an toàn ra khỏi căn nhà đang cháy, đến được chỗ không còn lo sợ, tự nghĩ mình giàu có tài vật nhiều không kể xiết, liền cho tất cả các con cùng một loại xe lớn [quý báu] như nhau. Đức Như Lai cũng vậy, là đấng cha lành của hết thảy chúng sinh, ngài nhìn thấy vô số muôn ức chúng sinh nhờ các pháp môn Phật dạy mà thoát ra khỏi khổ não trong ba cõi, vượt qua đường hiểm nguy đáng sợ, đạt được niềm vui Niết-bàn.Từ câu “như ông trưởng giả kia nhìn thấy các con đã an toàn ra khỏi…” trở đi là tương hợp với thí dụ [cụ thể] thứ ba “cho tất cả các con mỗi người một cỗ xe lớn như nhau”. Thí dụ ở trước có bốn phần. Thứ nhất là [các con] thoát nạn, thứ hai là [các con] đòi xe, thứ ba là [ông trưởng giả] ban cho [các con] cùng một loại xe, thứ tư là [các con] vui mừng. Trong phần này lược bớt, không tương hợp [hoàn toàn] với phần thứ hai và thứ tư [của thí dụ], chỉ có nghĩa tương hợp với ý [các con] thoát nạn gồm luôn nghĩa [các con] đòi xe, và tương hợp với ý cho cùng một loại xe gồm luôn nghĩa [các con] vui mừng.
Kinh văn phần này lặp lại hai thí dụ “các con thoát nạn” và “cho cùng một loại xe” như ở trước và tương hợp [ý nghĩa] với hai thí dụ [còn lại]. Từ câu “như ông trưởng giả kia” trở đi là lặp lại thí dụ “các con thoát nạn”, từ câu “tự nghĩ mình giàu có” trở đi là lặp lại thí dụ “cho cùng một loại xe”. Từ câu “Đức Như Lai cũng vậy” trở đi là tương hợp với ý nghĩa “các con thoát nạn”.
“Cửa” trong thí dụ có 3 nghĩa, [do cửa mà] vào, [theo cửa mà] ra và [cửa là] riêng biệt. Như ba cõi là nhà, 5 ấm là phòng,
[140] [5 ấm gồm sắc và tâm,]
[141] do mê muội [không rõ biết] sắc tâm mà trói buộc vào sắc tâm ấy, tức là vào trong nhà [ba cõi], đó là [do] cửa sinh tử [mà vào]. Nếu nói thoát ra, tức là từ trong ba cõi mà thoát ra, đó là nương theo cửa ra là nghĩa rốt ráo của Thông giáo như Phật đã dạy. Nếu nói nghĩa Biệt giáo thì nương theo cửa ra là nghĩa rốt ráo của Biệt giáo. Nay [kinh văn đoạn này] nói “các pháp môn Phật dạy”, tức là chỉ chung cho cả Tạng giáo và Thông giáo. Hết thảy ý nghĩa giáo lý đều là cửa ra, [theo đó] thoát ra khỏi ba cõi gọi là “thoát nạn”.
KINH VĂNKhi ấy đức Như Lai liền nghĩ rằng: ‘Ta có kho tàng Chánh pháp của chư Phật gồm vô lượng vô biên trí tuệ, lực, vô sở úy... Những chúng sinh này đều là con ta, sẽ bình đẳng trao cho Đại thừa, không để chỉ riêng một người được diệt độ, đối với tất cả đều dùng sự diệt độ của Như Lai mà khiến cho được diệt độ.’[Cho nên, với] tất cả những chúng sinh đã thoát ra ngoài ba cõi, [đức Như Lai] đều trao cho đầy đủ sự an vui từ thiền định, giải thoát... của chư Phật, tất cả đều cùng một tướng thể, một chủng loại được các bậc thánh ngợi khen xưng tán, thường làm khởi sinh niềm vui nhiệm mầu thanh tịnh bậc nhất.Từ câu “Khi ấy đức Như Lai liền nghĩ rằng…” trở đi là tương hợp [với thí dụ] “cho cùng một loại xe”. [Theo kinh văn phần trước,] thí dụ này trước tiên nêu hai mục [tâm bình đẳng và xe như nhau], tiếp theo là hai ý nói rộng và thứ ba là giải thích nguyên do [có xe]. Phần này có lược bớt và tương hợp không đầy đủ, câu văn đôi chỗ không theo đúng thứ tự [như trước].
Câu thứ nhất “Khi ấy đức Như Lai liền nghĩ rằng: ‘Ta có kho tàng Chánh pháp của chư Phật gồm vô lượng vô biên trí tuệ, lực, vô úy v.v.’” tương hợp với ý nhỏ thứ tư trong thí dụ phần trước, giải thích về nguyên do có xe, nói rằng “giàu có vô cùng, có đủ mọi kho tàng mà tất cả đều chất chứa đầy tràn”.
Câu thứ hai “Những chúng sinh này đều là con ta...” tương hợp với ý nhỏ thứ năm trong thí dụ giảng rộng nghĩa tâm tánh bình đẳng, nói rằng: “Ta có tiền bạc của cải nhiều không kể xiết, không nên cho con ta những cỗ xe xấu nhỏ.” Kinh văn phần này nói: “Không để chỉ riêng một người được diệt độ, đối với tất cả đều dùng sự diệt độ của Như Lai mà khiến cho được diệt độ.” Như vậy lẽ nào không phải tương hợp với ý nghĩa tâm tánh bình đẳng hay sao?
Câu thứ ba là “tất cả những chúng sinh đã thoát ra ngoài ba cõi…” tương hợp với ý thứ nhất trong thí dụ nêu nghĩa tâm tánh bình đẳng, như phần trước nói “cho tất cả các con mỗi người một cỗ xe lớn như nhau”.
Câu thứ tư “thiền định, giải thoát... của chư Phật” tương hợp với ý thứ hai trong thí dụ phần trước nêu nghĩa [cho các con] những cỗ xe đồng như nhau.
Câu thứ năm “tất cả đều cùng một tướng thể, một chủng loại” tương hợp với ý nhỏ thứ ba nói về [cùng một loại] xe lớn cao rộng, cũng là tương hợp với cả [đoạn mô tả] từ “xe ấy cao rộng” cho đến “có nhiều người đi theo hầu hạ, bảo vệ”.
Một tướng là tướng thật, tức là pháp thân; một chủng loại tức là [nhất thiết] chủng trí, [là nói trí] Bát-nhã “thường làm khởi sinh niềm vui nhiệm mầu thanh tịnh”. Vui tức là không còn khổ, gọi là giải thoát. Ba đức [như trên]
[142] cao rộng đầy đủ trang nghiêm, bao gồm tất cả các đức gọi là Đại thừa, tương hợp với trong thí dụ phần trước nói xe lớn cao rộng.
KINH VĂN“Này Xá-lợi-phất! Như ông trưởng giả kia, ban đầu dùng ba loại xe để dẫn dụ các con [ra khỏi căn nhà đang cháy], sau đó lại chỉ cho cùng một loại xe lớn quý báu trang nghiêm, thoải mái bậc nhất, nhưng ông trưởng giả ấy không hề có lỗi nói dối. Đức Như Lai cũng vậy, không hề hư dối, tuy là ban đầu thuyết dạy ba thừa để dẫn dắt chúng sinh nhưng sau lại chỉ dùng Đại thừa để độ thoát hết thảy. Vì sao vậy? Vì đức Như Lai có kho tàng chứa vô lượng các pháp trí tuệ, lực, vô sở úy... có thể ban pháp Đại thừa cho hết thảy chúng sinh, [nhưng có những chúng sanh không nhận được] chỉ vì không phải tất cả chúng sanh đều có khả năng thọ nhận.“Xá-lợi-phất! Do nhân duyên như vậy, nên biết rằng chư Phật dùng sức phương tiện mà từ một Phật thừa phân biệt thuyết dạy thành ba thừa.”Từ câu “Như ông trưởng giả kia, ban đầu dùng ba loại xe…” trở đi là tương hợp với thí dụ thứ tư ở trước nói nghĩa “ông trưởng giả không nói dối”. Trong phần thí dụ ở trước, nội dung trả lời [của ngài Xá-lợi-phất] có hai ý [biện minh ông trưởng giả không nói dối]. Thứ nhất là vì bảo toàn thân mạng [cho các con], thứ hai là vì không trái với ý định ban đầu [chỉ muốn cứu các con]. Trong mỗi ý này đều có ba tiểu ý riêng biệt. Trong kinh văn phần này chỉ tương hợp với ý “không trái ý định ban đầu”, trong đó bao gồm cả nghĩa “bảo toàn thân mạng”. Vì sao vậy? Ý định ban đầu của đức Phật chỉ là [giúp chúng sanh] trừ bỏ 5 sự uế trược. Khi 5 sự uế trược đã trừ hết thì sự hiền thiện lớn lao tự thành tựu trọn vẹn.
Phần thí dụ ở trước nói về nghĩa “không trái ý định ban đầu” gồm ba ý. Thứ nhất là nêu vấn đề, thứ hai là giải thích vấn đề, thứ ba là so sánh [để kết luận]. Kinh văn phần này chỉ tương hợp với [hai ý sau là] giải thích và so sánh.
Trước tiên nhắc lại thí dụ dùng 3 xe để dẫn dụ, sau đó chỉ ban cho [cùng một loại] xe lớn. Điều này tương hợp với việc đức Như Lai ban đầu thuyết dạy 3 thừa để dẫn dắt, sau đó chỉ dùng [giáo pháp] Đại thừa. Đây là tương hợp với ý giải thích [ý nghĩa] “không trái ý định ban đầu”, [giống như] phần trước nói: “Trước tiên ông trưởng giả ấy đã có ý nghĩ rằng: ‘Ta dùng phương tiện này để khiến cho các con được thoát ra.’”
Từ câu “Vì sao vậy?” trở đi là tương hợp với ý thứ ba trong thí dụ ở trước, so sánh chỉ ra [ông trưởng giả] không nói dối, tức là câu: “Huống chi ông trưởng giả tự biết mình giàu có vô cùng, muốn làm lợi ích cho các con.” Cho nên dù hứa cho 3 loại xe mà [cuối cùng] chỉ cho cùng một loại xe lớn nhưng không phải là nói dối. Ý giải thích này có hơi khác biệt với trong thí dụ ở trước.
Trong thí dụ phần trước nói [ông trưởng giả] vì muốn cứu các con thoát ra [nên dẫn dụ], nhưng thật lòng không hề có ý ban cho 3 loại xe, cho nên khi các con đã được thoát ra, dù ông không ban cho gì cả cũng không phải là nói dối.
Kinh văn phần này nói, đức Như Lai xuất thế vốn chỉ muốn thuyết dạy Đại thừa, nhưng vì chúng sinh trí tuệ nhỏ hẹp tham đắm trong ba cõi, nên Phật mới dùng phương tiện dẫn dắt. Khi chúng sinh đã thoát ra ngoài [ba cõi], Phật chỉ thuyết giảng Đại thừa, tức là theo như tâm nguyện trước đây. Do vậy mà nói “ban pháp Đại thừa cho hết thảy chúng sinh, chỉ vì không phải tất cả chúng sinh đều có thể thọ nhận”. Nếu như trong thời Hoa nghiêm mà chúng sinh có thể thọ nhận thì Phật đã thuyết giảng Đại thừa, không cần phải từ một Phật thừa mà phân chia nói thành ba thừa. Vì chúng sinh không thể thọ nhận, đức Phật mới dùng sức phương tiện, từ một Phật thừa mà phân biệt thuyết giảng thành ba thừa. Ba thừa đó là do [tùy thuận] chúng sinh, không phải ý nguyện ban đầu của Phật, vì thế có thể vận dụng ý giải thích này theo nghĩa “không trái ý định ban đầu” nên không phải nói dối.
[143]KỆ TỤNGPhần kệ tiếp theo có 165 khổ kệ, chia làm 2 nhóm. Nhóm kệ thứ nhất có 100 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng ở trước. Nhóm kệ thứ hai có 65 khổ kệ, nêu rõ phương pháp lưu thông, truyền rộng kinh này.
KINH VĂN[Khi ấy,] đức Phật muốn lặp lại những ý nghĩa trên nên đọc kệ rằng:Tụng lại kinh văn trường hàngKinh văn trường hàng ở trước có 2 tổng phần: trước nêu thí dụ, sau nói ý nghĩa tương hợp với thí dụ. Trong nhóm kệ thứ nhất này cũng chia 2 tổng phần như vậy. Tổng phần thứ nhất có 65 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa nêu thí dụ. Tổng phần thứ hai có 34 khổ rưỡi kệ, tụng ý nghĩa tương hợp với thí dụ.
Tổng phần thứ nhất lại chia ra làm 2 phần. Phần đầu tiên có 33 khổ kệ, tụng lại [ý nghĩa] các thí dụ khái quát. Phần thứ hai có 32 khổ rưỡi kệ, tụng lại [ý nghĩa] các thí dụ cụ thể.
Phần đầu tiên tụng lại ý nghĩa thí dụ khái quát có 6 ý nghĩa gồm trong 4 tổng đoạn, vì có 2 ý nghĩa được gộp chung vào, như phần tụng về ruộng vườn nhà cửa [trong thí dụ] thì gồm cả ý “chỉ có một cửa”, phần tụng về [ý nghĩa] có 500 người [trong nhà ông trưởng giả] thì gồm cả ý “có 30 người con”.
KINH VĂNVí như ông trưởng giả,Có một căn nhà lớn.Nhà cũ kỹ đã lâu,Lại thêm rất xấu tệ.
Sảnh đường cao sắp đổ,Cột trụ mục rệu rã,Xà, rường đều nghiêng lệch,Nền móng lún sụp cả.
Tường vách nứt nghiêng đổ,Vôi vữa tróc rơi xuống.
Mái lợp rớt ngổn ngang.Các xà nhà lệch khớp,Đầy chướng ngại quanh co,Ô uế ngập bốn bề.Hiện có năm trăm người,Đang sống trong nhà ấy.Tổng đoạn thứ nhất chỉ có một câu đầu tiên, nói “ông trưởng giả” tức là tụng lại phần trước nói địa vị, danh hiệu, trong đó gồm cả [các ý nghĩa] về danh tiếng, công hạnh và xưng tán đức độ. [Xưng danh trưởng giả là] đã có phẩm đức của bậc trưởng thượng, nên biết là danh tiếng và công hạnh đều lan rộng, [được người] trong khắp đất nước, đô thành đều tôn sùng, cũng biết được là niên kỷ bên trong và phẩm đức bên ngoài của vị ấy đều cao. Nói “bên trong” là tương hợp với “Thế Tôn”,
[144] tức là địa vị và danh hiệu [Phật], tự biết có đầy đủ trí đức và đoạn đức, từ bi cùng muôn đức.
Tổng đoạn thứ hai từ câu “Có một căn nhà lớn” trở đi, gồm 3 khổ kệ và một câu, tụng lại thí dụ thứ hai “căn nhà rộng lớn” ở trước. Tổng đoạn này chia thành 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất là câu “có một căn nhà lớn”, tụng lại [ý nghĩa] về căn nhà rộng lớn.
Đoạn thứ hai gồm 3 khổ kệ, từ câu “Nhà cũ kỹ đã lâu” trở đi nói rộng về hình thể thực trạng căn nhà. Đoạn này nói về tướng bị thiêu đốt cho nên biết là nói về hình thể thực trạng căn nhà. Ba cõi không có thời điểm khởi đầu, đó là “đã lâu”, không phải ngày nay mới tạo ra, đó là “cũ kỹ”. Vô thường là hèn kém nên gọi là “xấu tệ”.
Cũng có người nói, [trong thân người] đầu như điện thờ, bụng như sảnh lớn, lưng là khung nhà, niệm niệm tiếp nối vô thường nên nói là như “sảnh đường cao sắp đổ”.
Lại có người nói, sắc giới là “sảnh đường”, Dục giới là “căn nhà”, [chúng sinh trong đó] không tránh được sự đọa lạc nên gọi là “sắp đổ”. [Trong căn nhà ba cõi đó,] sự duy trì mạng sống là “cột trụ”, hành nghiệp trong quá khứ [của chúng sanh] là “nền móng”.
Lại có người nói, hai chân là “cột trụ”, [thân người] chịu ba tướng
[145] biến chuyển nên gọi là “mục, rệu rã”. Ý thức là giềng mối ràng buộc nên gọi là “xà, rường”, bị các nỗi khổ làm cho hư hoại nên nói là “nghiêng lệch”.
Lại có người nói, [trong thân người] xương sống như “xà, rường”, [cả bộ khung] xương
[146] là “nền móng”, đến lúc suy yếu già nua là “lún sụp”.
Nói về “tường vách”, có người cho rằng bốn đại
[147] là “tường vách”, da bọc [ngoài thân] là “vôi vữa”, đi đứng nằm ngồi
[148] không còn ngay ngắn vững chãi, đó là “rơi ngổn ngang”. Sự nhận biết của năm giác quan không còn thông suốt, không tương ưng giữa chủ thể nhận biết với trần cảnh là “lệch khớp”.
Cũng có người nói rằng, tường vách đến lúc nghiêng đổ cũng giống như da thịt [về già] nứt nẻ nhăn nheo. Hình sắc tươi đẹp thời trai trẻ giống như vôi vữa lúc mới tô [lên tường]; hình sắc héo khô tiều tụy lúc về già như [vôi vữa] về sau “tróc rơi xuống”. Râu tóc lúc già suy ắt đều rơi rụng hết, như “mái lợp rớt ngổn ngang”. Gân cốt khi già yếu không giữ được các khớp xương, giống như “xà nhà lệch khớp”.
“Khắp nơi đầy chướng ngại.” Ấn sư
[149] nói rằng: “36 món [trong thân thể]
[150] đều chướng ngại lẫn nhau, cho nên nói là “đầy chướng ngại”. Ruột dài uốn khúc [trong khoang bụng] nên gọi là “quanh co”. Không chỉ chịu sự thay đổi biến chuyển bởi vô thường, mà còn có những khổ não nhơ nhớp, cho nên nói là “ô uế ngập bốn bề”.
Nay [không theo những cách giải thích trên mà] cho rằng, “đầy chướng ngại” là 6 thức, “quanh co” là 6 căn; 6 thức duyên theo 6 căn, [từ đó bám víu] nắm giữ cảnh trần, [tạo thành sự] ngăn trở khó khăn nên nói là “quanh co”. Sáu trần làm uế nhiễm cả 6 căn nên nói là “ô uế ngập bốn bề”. [Đó là] theo hai [ý nghĩa] nhân duyên và quán tâm mà giải thích. Đại lược là như vậy.
Tổng đoạn thứ ba gồm nửa khổ kệ, từ câu “hiện có năm trăm người”, tụng lại [ý nghĩa] trong thí dụ ở trước nói có 500 người, tức là bao quát hết căn tánh ba thừa [của chúng sanh] trong 5 đường.
[151] Ý nghĩa này cũng bao gồm luôn cả thí dụ 30 người con.
KINH VĂNCú,[152] diều hâu, kên kên,Quạ, khách, cưu,[153] bồ câu…Rắn hổ mang, bọ cạp,Rết độc, sâu do diên,[154]Tắc kè, trùng nhiều chân...[155]Vượn, chồn cáo, chuột nhắt,Với các loại trùng độc,Cùng dọc ngang ruổi chạy.
Nước tiểu, phân hôi thối,Nhơ nhớp chảy lan tràn.Giòi, bọ hung lúc nhúc,Trên những ô uế đó.
Lũ cáo, sói, chồn hoang,Liếm láp rồi giẫm đạp,Cắn xé những xác chết,Làm vung vãi xương thịt...Do vậy bầy chó hoang,Cùng xúm lại tranh nhau.
Chúng đói, gầy, sợ sệt,Khắp chốn tìm thức ăn,Cấu xé giành giật nhau,Gầm rú, sủa, tru tréo.Căn nhà ấy biến dạng,Đáng sợ đến như thế.Tổng đoạn thứ tư từ câu “kên kên, cú, diều hâu…” trở đi, gồm 29 khổ kệ, tụng lại [ý nghĩa] thí dụ thứ năm trong [các thí dụ khái quát] ở phần trước nói “lửa bốc lên cháy nhà”. Tổng đoạn này có 4 đoạn.
Đoạn thứ nhất gồm 22 khổ kệ, mô tả những việc trên mặt đất, thí dụ cho lửa bốc lên [thiêu đốt] cõi Dục.
Đoạn thứ hai có 3 khổ rưỡi kệ, mô tả những việc trong hang hốc [dưới mặt đất], thí dụ cho lửa bốc lên [thiêu đốt] cõi Sắc.
Đoạn thứ ba có 2 khổ rưỡi kệ, mô tả những việc trên không trung, thí dụ cho lửa bốc lên [thiêu đốt] cõi Vô sắc.
Đoạn thứ tư gồm 1 khổ kệ, tổng kết nêu ra việc có nhiều hiểm nạn chứ không phải chỉ có một.
Trong đoạn thứ nhất nói lửa thiêu đốt cõi Dục lại có 4 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất gồm 17 khổ rưỡi kệ, mô tả các loài bị lửa thiêu đốt, thí dụ cho [chúng sinh bị] thập sử
[156] [thiêu đốt].
Tiểu đoạn thứ hai có 1 khổ kệ,
[157] nêu ra nguyên do lửa bốc lên, thí dụ cho nguyên do khởi sinh 5 sự uế trược.
Tiểu đoạn thứ ba gồm 2 khổ kệ, mô tả sức lửa bốc lên [hừng hực], thí dụ cho 5 sự uế trược đã khởi sinh.
Tiểu đoạn thứ tư gồm 1 khổ rưỡi kệ, mô tả tướng trạng [những thứ] bị lửa thiêu đốt, thí dụ cho việc [chúng sanh] phải nhận chịu 8 nỗi khổ trong 5 sự uế trược.
Tiểu đoạn thứ nhất, trong 17 khổ rưỡi kệ lại có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất gồm 16 khổ kệ nêu rõ những thứ bị thiêu đốt. Phân đoạn thứ hai gồm 1 khổ rưỡi kệ là tổng kết.
Phân đoạn thứ nhất nói những thứ bị thiêu đốt, bao gồm 2 ý.
Ý thứ nhất gồm 6 khổ kệ, mô tả những loài cầm thú bị lửa thiêu, thí dụ cho chúng sinh bị 5 độn sử [thiêu đốt].
Ý thứ hai gồm 10 khổ kệ, mô tả quỷ thần bị lửa thiêu, thí dụ cho chúng sinh bị 5 lợi sử [thiêu đốt].
Ý thứ nhất ví 5 độn sử lại chia làm 2 tiểu ý. Tiểu ý thứ nhất gồm 5 khổ rưỡi kệ nêu rõ 5 độn sử. Tiểu ý thứ 2 có nửa khổ kệ là tóm kết.
Tiểu ý thứ nhất nói về 5 độn sử lại phân ra 5 điều.
1. Nửa khổ kệ đầu tiên thí dụ cho mạn sử (kiêu mạn). Chúng sinh tự đề cao mình mà khinh mạn, xem thường người khác, nên ví như tính chất của loài chim bay cao, nhìn xuống tất cả đều thấp [hơn mình], nên 8 loài chim thí dụ cho 8 loại kiêu mạn. Trong kinh Văn Thù vấn nêu 8 sự kiêu mạn, nay vận dụng [ý nghĩa đó] kết hợp với 8 loài chim [trong kệ tụng này].
Một là kiêu căng vì sức đang trẻ khỏe, mạnh mẽ hơn người khác (thịnh tráng kiêu) ví như chim cú mèo. Hai là kiêu căng vì dòng tộc, chủng tánh [tốt đẹp hơn người khác (tánh kiêu), ví như chim cú vọ hung bạo. Ba là kiêu căng vì giàu có hơn người (phú kiêu), ví như loài diều hâu. Bốn là kiêu căng vì có thể tự do làm theo ý mình (tự tại kiêu), ví như loài chim thứu (kên kên). Năm là kiêu căng vì tuổi thọ hơn người, được sống lâu (thọ mạng kiêu), ví như loài chim quạ. Sáu là kiêu căng vì thông minh hơn người (thông minh kiêu), ví như loài chim khách. Bảy là kiêu căng vì làm được việc tốt lành, hiền thiện (hành thiện kiêu), ví như loài chim tu hú. Tám là kiêu căng vì có sắc đẹp hơn người (sắc kiêu), ví như loài chim bồ câu.
[Lại nữa,] nhục mạ người khác là kiêu mạn, tự quý trọng mình cũng là kiêu mạn. Tự luyến ái mình là tham ái, luyến ái người khác là dâm dật. Tự ôm lòng oán hận là khuể, nổi giận với người khác là sân. Tự mê hoặc mình là ngu, làm cho người khác mê hoặc là si. [Nói về các kết sử thì] đại lược là như vậy.
2. Nửa khổ kệ tiếp theo, từ câu “rắn hổ mang, bọ cạp…” trở đi là thí dụ cho sân sử. [Thí dụ về] sân hận có 3 loại. Rắn hổ mang kịch độc, không cần tiếp xúc mà phun nọc độc, ví cho sự phi lý khởi sinh sân hận. Bọ cạp vừa chạm vào là chích ngay, ví cho sự bám chấp nơi lý lẽ mà khởi sinh sân hận. Rết độc ví cho sự khởi sinh sân hận do hý luận. Người đời nói loài rết có màu đỏ nơi vòng cổ, nếu vòng cổ không có màu đỏ thì là loài sâu do diên.
[158]3. Hai khổ kệ tiếp theo, từ câu “tắc kè, loài trăm chân” trở đi là thí dụ cho si sử (si mê). Si mê [hay vô minh] có hai loại là vô minh tự khởi riêng biệt (độc đầu vô minh) và vô minh khởi lên tương ưng [với phiền não] (tương ưng vô minh). Tắc kè, các loài nhiều chân... đều ngu ngơ khờ khạo, nên ví cho độc đầu vô minh. Vượn, chồn, cáo, chuột nhắt... ví cho tương ưng vô minh.
Từ câu “với các loại trùng độc...” trở đi là nói từ nơi si mê, hay vô minh căn bản, mà khởi sinh đầy đủ tất cả các loại kiết sử trói buộc, nêu rõ sự tương duyên giữa các sử. Hoặc duyên theo ba cõi [nên nói là] như “dọc ngang”, hoặc khởi sinh nhanh chóng [nên nói là] rồi “ruổi chạy”.
Từ câu “nước tiểu, phân hôi thối...” trở đi là một khổ kệ, nêu chỗ trần cảnh bám chấp của tâm si mê, tất cả đều là vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh. Do si mê không rõ biết, ở trong đó mà cho là thường, vui, hữu ngã, trong sạch
[159] rồi bám chấp, cho nên nói rằng: “Giòi, bọ hung lúc nhúc, trên những ô uế đó.”
4. Hai khổ kệ tiếp theo, từ câu “lũ cáo, sói, chồn hoang...” trở đi thí dụ cho tham sử. Tham có 2 loại, một là có sức mạnh, hai là chẳng có sức mạnh. Có sức mạnh là dùng uy thế để cướp lấy như cáo, sói... Không có sức mạnh là chỉ có thể đi theo người khác để van nài xin lấy những thứ xấu tệ, như loài chồn hoang...
Từ câu “liếm láp rồi giẫm đạp...” là mô tả sự tham chấp bám giữ cảnh trần, dẫn đến đưa vật [bên ngoài] vào tự thân mình, nên nói là “liếm láp”, không giữ theo đạo lý nên nói là “giẫm đạp”. Tâm tham lam chấp giữ cảnh trần, như chấp giữ một thành phố, hoặc giữ một quốc gia... đều có biên giới [rộng hẹp] nên gọi là “cắn xé”.
Lại [có người] nói rằng, tâm tham chấp giữ trần cảnh có [hai loại]: có dùng đến và không dùng đến. [Tham chấp rồi] có dùng đến là “liếm láp”, tham chấp nhưng không dùng đến là “giẫm đạp”. Lại [có người nói, tham chấp] ít là “liếm láp”, [tham chấp] nhiều là “giẫm đạp”.
“Làm vung vãi xương thịt...” là nói [chúng sanh] tích tụ mãi [sự tham muốn] 5 cảnh trần,
[160] không có chỗ biết đủ mà dừng lại.
“Do vậy bầy chó hoang, cùng xúm lại tranh giành” là nói tham lam có sức mạnh. Tranh giành mà không cần đến sức mạnh là nói lũ giặc vua quan [dùng quyền thế].
“Chúng đói, gầy, sợ sệt...”, thường không biết đủ là “đói”, mong cầu không được là “gầy”, mưu tìm đủ mọi thứ là “lang thang”. Người tham muốn quá nhiều thì tuy giàu mà nghèo, [vì luôn thấy thiếu thốn].
Tâm luyến ái mà tham muốn, đó là tham 5 cảnh trần như “thịt”. Tâm thấy biết mà tham muốn, đó là tham đạo lý như “xương”. Tìm cầu sự hiểu biết nên ngày càng nhiều kiến giải, đó là nhiều “xương”, lũ chó thèm xương liền “xúm lại tranh giành”. Kiến giải đầy trong tâm nhưng chưa có được món ăn chánh pháp nên gọi là “đói”. Chưa có khả năng hàng phục, dứt trừ các kiến chấp nên gọi là “gầy”. Cầu tìm kiến giải khắp nơi nên gọi là “sợ sệt”. Lại có người cho rằng, đây là nói người tham lam trong tâm luôn mong ngóng tìm cầu.
5. Hai câu kệ tiếp theo: “Cắn xé,
[161] giành giật nhau, gầm rú, sủa, tru tréo” là thí dụ cho nghi sử. Do dự giữa hai bên nên gọi là nghi, chưa quyết định được sự đúng sai [giữa đôi bên] nên đấu tranh giằng co. Tâm ý nghĩ rằng đúng thì “cắn”, [là cắn chặt, giữ lấy]; tâm ý cho là sai thì “xé”, [là xé nát, phá bỏ]. “Gầm rú, sủa, tru tréo” là nói việc phát ra đủ lời tranh luận để giành giật lẽ đúng sai.
Tiểu ý thứ hai gồm hai câu “Căn nhà ấy biến dạng, đáng sợ đến như thế”, tóm kết lại phần nói về 5 độn sử ở trên.
KINH VĂNNên khắp nơi đều có,Lũ yêu ma quỷ quái,Quỷ dạ-xoa ác độc,Ăn nuốt xương thịt người.
Đủ các loài trùng độc,Lũ chim, thú hung ác,Ấp trứng hoặc sinh con,Tự che giấu, bảo vệ,Bầy dạ-xoa đua nhau,Giành giật để ăn nuốt.
Ăn đã no nê rồi,Tâm hung ác càng mạnh,Chúng đánh nhau gào thét,Nghe đáng sợ vô cùng.
Loài quỷ cưu-bàn-trà,Ngồi xổm trên gò đất,Hoặc có lúc lơ lửng,Cách đất một, hai thước,Bay qua rồi bay lại,Tha hồ đùa bỡn nhau.
Nắm chặt hai chân chó,Đánh cho kêu thất thanh,Rồi đá bồi vào cổ,Chó sợ, quỷ tự vui.
Lại có nhóm quỷ khác,Thân thể rất cao lớn,Đen đúa, gầy, trần truồng,Thường ở trong nhà này,Phát tiếng lớn, hung hãn,Kêu la mong được ăn.
Lại có những con quỷ,Cổ nhỏ như kim khâu.Còn có những con quỷ,Đầu giống như đầu trâu,Hoặc ăn nuốt thịt người,Hoặc ăn cả thịt chó.
Đầu tóc như cỏ rối,Hung hiểm, ác, nguy hại,Vì đói khát bức bách,Kêu thét chạy khắp nơi.
Bọn dạ-xoa, ngạ quỷ,Loài chim, thú hung dữ,Khắp bốn phía, đói khát,Rình rập ngoài song cửa.
Những hiểm nạn như thế,Thật đáng sợ vô cùng.Nhà cũ, mục nát ấy,Thuộc sở hữu một người.
Người vừa mới ra ngoài,Chỉ trong một chốc lát,Thì từ phía sau nhà,Bỗng nhiên lửa cháy lên.
Rồi đồng loạt bốn phía,Lửa bốc cao hừng hực.Rồi xà ngang cột dọc,Nổ lớn, xé tung ra,Gãy đổ cùng rơi rụng,Tường vách nghiêng đổ xuống.
Các quỷ thần trong nhà,Đều lớn tiếng kêu la,Lũ kên kên, diều hâu...Với quỷ cưu-bàn-trà...Đều kinh hoàng, hốt hoảng,Không thể tự thoát ra.Ý thứ hai gồm 10 khổ kệ, bắt đầu từ câu “nên khắp nơi đều có...” là nêu rõ 5 lợi sử. Phần này có 2 tiểu ý.
Tiểu ý thứ nhất có nửa khổ kệ, nêu khái quát về các lợi sử. Các lợi sử duyên theo khắp cùng từ 5 ấm cho đến 4 thánh đế, cho nên nói rằng “khắp nơi đều có”. Quỷ thần thì thông suốt, có trí khôn, khác với cầm thú vốn không có, cho nên ví quỷ thần với các lợi sử; ví những loài trùng, thú với các độn sử.
Tiểu ý thứ hai gồm 9 khổ rưỡi kệ, nêu ra 5 điều cụ thể về 5 lợi sử.
[162]1. Ba khổ kệ đầu tiên nói về quỷ dạ-xoa, tức là quỷ tiệp tật,
[163] ví cho tà kiến
[164] sai trái, bác bỏ cho rằng không có nhân quả. Thân người là quả báo lành, ví cho nhân quả xuất thế, không xen tạp với phiền não, [cho nên] bác bỏ lý nhân quả này ví như ăn thịt người. Các loài trùng độc là quả báo xấu ác, ví cho nhân quả trong thế gian, vốn xen tạp với phiền não, cho nên bác bỏ lý nhân quả này ví như ăn nuốt các loài trùng độc.
“Ấp trứng hoặc sinh con” là nói các pháp trong thế gian đều tùy theo nhân của mỗi loại mà sinh ra quả cùng loại. “Tự che giấu, bảo vệ” là nghĩa trong nhân có quả, gọi là “che giấu”, [đã có] nhân tất nhiên phải thành quả, không thể mất đi nên gọi là “bảo vệ”. Lại nữa, thịt người là hiền thiện, trùng độc là xấu ác, tâm tà kiến bác bỏ cho rằng không có nhân quả thiện ác, về sự tướng cũng giống như “ăn nuốt” [các loại thịt người, trùng độc].
[Lại nữa,] “ấp trứng, sinh con” là nói chung các việc thiện ác đều có chỗ hoạt dụng của nhân quả hỗ tương sinh khởi. “Ăn đã no nê rồi” là nói kiến chấp trong tâm đã hình thành. “Tâm hung ác càng mạnh” là nói kiến chấp tăng thêm, mở rộng. “Đánh nhau gào thét” là khi trong tâm [kiến chấp] đã hình thành sẽ biểu lộ ra bên ngoài thành lời nói, dạy bảo [người khác], truyền rộng pháp không nhân không quả, có thể khiến người nghe phải đọa vào ba đường ác, cho nên nói là “đáng sợ vô cùng”.
2. Tiếp theo 2 khổ rưỡi kệ, bắt đầu từ “loài quỷ cưu-bàn-trà” trở đi là ví cho giới cấm thủ kiến.
[165] Cưu-bàn-trà là loài quỷ vượt hơn [các quỷ khác],
[166] như nghiệp thiện hữu lậu [sinh ra] cũng vượt hơn các loài sâu bọ. “Ngồi xổm trên gò đất” là nói tu tập giữ theo 10 giới lành có thể tái sinh lên sáu tầng trời [thuộc Dục giới].
[167] Sáu tầng trời là những nơi cao trong Dục giới, về sự tướng cũng giống như ngồi xổm trên gò đất cao. Lại nữa, hàng ngoại đạo giữ giới, có thể tu tập thiền định, ban sơ chứng được phép định Dục giới, hoặc sẽ được các phép định trong tương lai. Các phép định tương lai vẫn chưa thoát ra khỏi Dục giới. Lên đỉnh cao nhất của Dục giới
[168] giống như ngồi xổm trên gò đất cao. “Hoặc có lúc lơ lửng, cách đất một, hai thước”, là nói được phép định Sắc giới như “cách đất một thước”, được phép định Vô sắc giới như “cách đất hai thước”. Được sinh lên cảnh giới cao hơn là “bay qua”, sa đọa xuống cảnh giới thấp hơn là “bay lại”. Các kiến chấp sinh khởi che lấp là “tha hồ đùa bỡn nhau”.
“Nắm chặt hai chân chó”, có người giải thích, hủy báng cho rằng không có nhân khổ giống như “nắm chặt hai chân chó”, bác bỏ cho rằng không có quả khổ giống như “bẻ tréo chân lên cổ”. Do tập nhân đã tạo từ xưa [nay phải] nhận quả, ví như tiếng kêu của chó. Do kiến chấp lanh lợi mà bác bỏ lý lẽ rằng không có tập nhân [đã tạo] thì không có quả khổ, đó là “đánh cho kêu thất thanh”.
Giải thích theo quán tâm thì tu lục hành quán
[169] chế phục tâm tham. Tâm tham không hành hoạt tựa như bị chặt đứt nên “kêu không thành tiếng”. Chó ví như tham dục, hai chân [chó] ví như các tư tưởng thô và tế.
[170] Những tư tưởng ấy loanh quanh qua lại vẫn thường ở trong cảnh giới của tham. [Pháp quán] đếm hơi thở giúp tâm dừng lại là nghĩa trói buộc, vì có thể nắm giữ, kiểm soát tư tưởng. “Đánh” là nói khi những tư tưởng tham lam quá mạnh, hướng đến cảnh giới bất tịnh, [hành giả] tu pháp quán bất tịnh có thể chế phục được những tư tưởng tham lam ấy. Tư tưởng tham lam đã bị chế phục ví như con chó bị “đánh kêu không thành tiếng”.
Lại có người nói rằng, tu pháp quán bất tịnh ví như đánh con chó [tham dục]. Có thể khởi sinh thiền định ví như [chó] bị “đánh kêu không thành tiếng”. “Rồi đá bồi vào cổ” là ví như con chó tuy đã bị đánh nhưng còn cựa quậy chưa chịu nằm yên, nên cuối cùng phải “đá bồi vào cổ”. Tâm tham lam tuy đã rõ biết là bất tịnh nên dừng lại, nhưng tâm ấy chưa thật lắng sâu tịch tĩnh, nên phải dùng thêm “cú đá” là pháp quán vô thường. Khi [dùng pháp quán vô thường] “đá bồi” vào “cổ chấp thường” ắt tâm phải sinh sợ sệt, khiến cho những tư tưởng tham lam không thể khởi lên.
Lại có người nói rằng, một lần chế phục tâm ví như đánh chó nằm trên đất, thường buộc [tâm] nơi duyên ví như “đá bồi vào cổ” khiến cho không thể “đứng dậy” được. “Chó sợ, quỷ tự vui” là nói dùng pháp tu quán vô thường để giác ngộ tâm tham lam ví như làm chó sợ. Nhân nơi pháp tu ấy mà nếm được mùi vị thiền nên gọi là “tự vui”.
3. Từ câu “thân thể rất cao lớn” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, ví cho thân kiến.
[171] Về thời gian thì trong cả ba đời đều bám chấp có ngã nên gọi là “cao”, về không gian thì đối với cả 5 ấm đều chấp là ngã nên gọi là “lớn”. Chấp kể rằng tự ngã không trói buộc nên không tu các pháp lành, tức là không biết hổ thẹn
[172] cho nên nói là “trần truồng”. Muốn làm đẹp mình bằng những việc xấu ác nên nói là “đen đúa”. Không có vốn liếng công đức nên nói là “gầy”. Do chấp ngã mà không thể thoát ra ngoài ba cõi nên nói là “thường ở trong nhà này”. Từ trong tâm chấp ngã nên phát ra thành lời truyền rộng, giảng thuyết tướng trạng hữu ngã, nên nói là “phát tiếng lớn hung hãn”. Mê muội sai lầm mong nhờ thuyết hữu ngã mà chứng đắc đạo quả, nên nói là “kêu la mong được ăn”.
4. Từ câu “Lại có những con quỷ” trở đi gồm nửa khổ kệ ví cho kiến thủ kiến.
[173] Cổ họng rất nhỏ nên mạng sống lâm nguy nhưng vẫn cố giữ lấy thọ mạng, không quán tưởng vô thường mà cho là [đã được] Niết-bàn, cho nên nói là “cổ nhỏ như kim khâu”.
5. Từ câu “Lại có những con quỷ, đầu giống như đầu trâu” trở đi gồm 2 khổ kệ ví cho biên kiến.
[174] Truy tìm bản ngã, cho đó là đoạn diệt, hoặc cho đó là thường hằng, hai bên đoạn thường ví như đầu trâu có 2 sừng. Hoặc cho thân này là ngã, hoặc cho ngã là thân này, dựa vào chấp ngã đó mà khởi sinh biên kiến, ví như đầu trâu có 2 sừng.
Do lỗi chấp thường hay chấp đoạn, có thể dứt mất căn lành xuất thế ví như “hoặc ăn nuốt thịt người”, có thể dứt mất căn lành ở thế gian, ví như “hoặc ăn cả thịt chó”. Có lúc chấp thường, có lúc lại chấp đoạn, trước sau xoay chuyển nên nói là “đầu tóc như cỏ rối”. Chấp thường tức phá trừ chấp đoạn, chấp đoạn tức phá trừ chấp thường, nên nói là “hung hiểm, ác, nguy hại”. Không có món ăn thức uống là trí tuệ và định lực để tự nuôi sống nên nói là “đói khát bức bách”.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Bọn dạ-xoa, ngạ quỷ” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, nói tóm lại về hình tướng phiền não ở cõi Dục, cũng là tóm kết các tướng lanh lợi hay trì độn
[175] của chúng sinh. Hết thảy đều là những tâm hữu lậu, chẳng bao giờ có hương vị đạo pháp trong đó, cho nên nói là “đói khát bức bách”.
“Rình rập ngoài song cửa” là nói nghĩa dùng pháp quán tà vạy sai trái để quán lẽ không, khởi tâm ngưỡng mộ đạo vị. Tuy có quán sát nhưng bị trì trệ do bám chấp nơi tâm nên đa phần không thể hội được lẽ chân chánh, giống như nhìn không gian qua song cửa sổ, không thể được thông thoáng không ngăn ngại.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Nhà cũ, mục nát ấy, thuộc sở hữu một người” trở đi, gồm 1 khổ kệ,
[176] nêu nguyên do sơ hở để xảy ra lửa cháy [nhà]. Ba cõi là nơi đức Phật ứng hóa, từ khi phát tâm đến nay thệ nguyện độ thoát [chúng sinh trong đó], cho nên nói rằng “thuộc sở hữu một người”. Nếu ông trưởng giả ở nhà, có thể thận trọng giữ gìn việc củi lửa, nhưng vì sau khi ông ra khỏi nhà, các con ông không hiểu biết nên mới để xảy ra nạn lửa bốc cháy. Xét trong [Phật pháp] thì nguyên do này hoàn toàn tương hợp với việc vào thời đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng thường giáo hóa giúp chúng sinh chế phục được 5 sự uế trược. [Khi nhân duyên] chiêu cảm ứng đã dứt, đức Như Lai xả bỏ ứng thân, nên sau đó [thế gian] mới khởi lên 5 sự uế trược. Phật tùy nhân duyên mà [hóa thân] nơi quốc độ khác, chẳng phải bỏ đi vĩnh viễn, cho nên nói là “vừa mới ra ngoài chỉ trong một chốc lát”.
Lại có người nói rằng, do đã chứng đắc vô sinh rồi, không còn phải tái sinh trong ba cõi, cho nên nói là “ra ngoài”; không bao lâu hẳn sẽ quay lại, cho nên nói là “vừa mới”. Trong phẩm Thọ Lượng nói “nhiều lần thị hiện Niết-bàn”, chính là ý nói ra khỏi căn nhà [ba cõi].
Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Thì từ phía sau nhà” trở đi gồm 2 khổ kệ, nêu rõ về thế lửa bốc lên. Nói “bốn phía” là chỉ nơi chốn, [hàm ý chỉ 4 phương diện là] thân, thọ, tâm và pháp.
[177] [Cả bốn phương diện này] đều cùng lúc khởi sinh 4 điên đảo, 5 sự uế trược, 8 nỗi khổ, cho nên gọi là “đồng loạt”. [Thế lửa ấy] dần tăng không ngừng là “hừng hực”, [khi cái chết đến thì] mạng sống mất đi là “nổ lớn”, phong [đại dao động như] dao
[178] cắt xẻ nát thân thể, đó là “xé tung ra”.
Lại có người nói rằng, âm thanh [của chúng sinh khi cái chết đến phải] chịu đựng khổ não đau đớn kêu khóc rên rỉ [vang rền khắp nơi] nên gọi là “nổ lớn”, các căn bị phá nát hủy hoại gọi là “xé tung ra”, hơi thở dứt mất, xương cốt rã rời, gân mạch đứt đoạn gọi là “gãy đổ cùng rơi rụng”, bốn đại tan rã gọi là “tường vách nghiêng đổ xuống”.
Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Các quỷ thần trong nhà” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu hình tướng những gì bị lửa thiêu đốt. Có người nói rằng, người thân thuộc là quỷ thần, [khi cái chết đến] thì than khóc là “kêu la”.
Nay lấy theo nghĩa 5 lợi sử ở trước để ví cho quỷ thần. Người [bị chi phối bởi 5] lợi sử thì chấp thường hoặc chấp đoạn. Người chấp thường cho rằng các pháp nhất định là không, vì từ chỗ có rồi cuối cùng cũng trở về không, cho nên cái không ấy là thường hằng. Người chấp đoạn thì cho rằng các pháp nhất định là đoạn diệt, một khi đã chết là dứt mất không còn tiếp tục trở lại. [Cả hai hạng người này] đều lớn tiếng cho rằng thuyết nhất định [thường hay đoạn] của mình là chuyện đã rõ ràng, cho nên nói là “đều lớn tiếng kêu la”. Nếu là [người bị chi phối bởi] 5 độn sử và giới cấm thủ kiến
[179] thì vốn không chấp đoạn, nay [khi cái chết đến] thấy lẽ vô thường chỉ sinh tâm nghi sợ, không biết phương cách nào để thoát ra nên nói là “đều kinh hoàng, hốt hoảng, không thể tự thoát ra”.
KINH VĂNNhững thú dữ, trùng độc...Chui trốn vào hang hốc...Lũ quỷ tỳ-xá-xà,Cũng đang trong nhà ấy,Vì phúc đức mỏng manh,Bị sức lửa bức bách,Quay sang giết hại nhau,Rồi uống máu, ăn thịt.
Lúc ấy loài chồn hoang,Hết thảy đều chết trước.Những thú lớn hung dữ,Liền tranh nhau ăn thịt,Mùi hôi thối, khét nghẹt...Bao phủ khắp bốn bề.Đoạn thứ hai từ câu “Những thú dữ, trùng độc…” trở đi, gồm 3 khổ rưỡi kệ, nêu những việc trong hang hốc [dưới mặt đất], ví như lửa bốc lên [thiêu đốt] trong cõi Sắc. Các bộ phái giải thích rằng tâm sân hận hiện hữu trong cả ba cõi, chính là ví theo kinh văn đoạn này. Đoạn thứ hai này chia làm 4 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn đầu tiên gồm 1 khổ kệ, nêu rõ những loài bị lửa thiêu đốt. Trạng thái định của tứ thiền ví như hang trống, tuy không rộng rãi thông suốt bằng như cửa ra ngoài nhà, nhưng cũng giúp cho tránh ngọn lửa dữ, ví như khi nhập vào thiền định cũng tránh được những sự thô trược xấu ác của cõi Dục. Những chúng sinh [bị chi phối bởi] 5 lợi sử cũng đạt được thiền định, nên nói “lũ quỷ tỳ-xá-xà, cũng đang trong nhà ấy”.
Tiểu đoạn thứ hai là câu “vì phúc đức mỏng manh”, nêu nguyên do khiến lửa bốc cháy, [ví như chúng sanh] do ít phước đức nên gần việc xấu ác, thường gặp khổ não.
Tiểu đoạn thứ ba là câu “bị sức lửa bức bách” nêu thế lửa bốc lên. Tuy ở trong hang hốc không bị lửa cháy tới nhưng vẫn có sự nóng bức, [như người nhập vào các trạng thái định] tứ thiền tuy không còn những xấu ác của cõi Dục nhưng vẫn còn sự khổ não vi tế của luyến ái, cho nên nói là “bị sức lửa bức bách”.
Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Quay sang giết hại nhau” trở đi, gồm 2 khổ kệ, nêu tướng trạng những thứ bị thiêu đốt, là tướng tranh đoạt lẫn nhau giữa lợi với độn, vì những chúng sinh chưa dứt các lợi sử và độn sử tuy chứng được thiền định giống nhau nhưng chỗ bám chấp của mỗi người đều khác nhau. Vì khác nhau nên tranh nhau chuyện đúng sai, ví như “quay sang giết hại nhau”. Khi ở trong thiền mà khởi lên các kiến chấp ắt không thể khởi sinh định và tuệ vô lậu. Chỉ bám chấp nơi sự tịch lặng nên ví như “uống máu”, lại bám chấp 5 chi
[180] nên ví như “ăn thịt”. Chồn hoang là [ví với] tâm tham ở cõi Dục, do pháp định vị lai dứt trừ hết sạch nên nói “hết thảy đều chết trước”, lại cũng gọi là “ăn thịt”. Tâm tham thiền định là “thú lớn hung dữ”, có thể ăn nuốt tâm tham ở cõi Dục. [Lại nữa,] 4 điên đảo và 8 nỗi khổ trong cõi Dục như ngọn lửa cháy mạnh, 4 điên đảo với khổ ấy ở cõi Sắc như “mùi hôi thối”. Cũng có thể hiểu rằng đó là các yếu tố thân, thọ, tâm, pháp cùng 4 đại, da thịt... cho nên nói rằng “bao phủ khắp bốn bề”.
Đoạn thứ ba từ câu “Những rết độc, trùng độc…” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, nêu những việc xảy ra trong không trung, ví như lửa bốc lên [thiêu đốt] trong cõi Vô sắc. Phần này chia thành 2 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn đầu tiên gồm 1 khổ kệ nêu rõ những loài bị thiêu đốt.
Tiểu đoạn thứ hai gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu rõ tướng trạng bị thiêu đốt. [Như người] chán bỏ trạng thái định trong cõi Sắc nên ra khỏi định, hướng đến [tu tập] định trong cõi Vô sắc, chán bỏ cảnh giới hình sắc thô trược [nên tu tập] pháp quán vô sắc, ví như những loài rắn độc bị lửa đốt nóng bò ra khỏi hang. Như vậy tức là tâm sân hận hiện hữu trong cả ba cõi,
[181] nhưng khi đạt được trạng thái định trong cõi Vô sắc thì tất nhiên diệt trừ được hết các duyên [ở hai cõi] thấp hơn, cho nên nói rằng “nhân đó bắt lấy ăn”. [Tuy vậy, lên đến] cõi trời Phi tưởng [phi phi tưởng]
[182] là cõi trời cao nhất vẫn chưa tránh khỏi được những nỗi khổ vì điên đảo, nên ví như “lửa bốc cháy trên đầu”.
Cõi trời Phi tưởng [phi phi tưởng] cũng có đủ 8 nỗi khổ như lửa thiêu đốt. Trong tâm khởi sinh các niệm khác, đó là khổ vì sinh. Các niệm nối nhau tương tục không dừng, đó là khổ vì già. Tâm hành rối loạn ngăn trở việc nhập định, đó là khổ vì bệnh. Tâm an định thối thất, đó là thì khổ vì chết. Cầu định không đạt định, đó là khổ vì mong cầu không được. Cầu định không đạt định ắt là có sự chướng, đó là khổ vì không mong muốn mà phải phải gặp. Trong tâm [vẫn còn] 4 ấm,
[183] đó là khổ vì các ấm bùng phát mạnh mẽ.
Không thể tức thời dứt trừ các hạt giống [khổ đau] ở cõi trời Hữu đảnh
[184] nên nói là “lửa bốc cháy trên đầu”. Không đạt được vô lậu cho nên nói là “đói khát lại nóng bức”. Vì còn trong luân hồi như vậy nên nói là “hoảng hốt chạy khắp nơi”.
Đoạn thứ tư từ câu “Căn nhà ấy như vậy…” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu tóm kết về nhiều khổ nạn trong ba cõi, không chỉ là một nạn.
Đến đây là hết phần kệ tụng về các thí dụ khái quát.
KINH VĂNÔng trưởng giả chủ nhà,Còn đang đứng ngoài cửa,Nghe có người nói rằng:“Những đứa con của ông,Lúc trước cùng đi chơi,Vào cả trong nhà này.Chúng nhỏ dại, không biết,Ham chơi đùa trong ấy.”Ông trưởng giả nghe rồi,Hốt hoảng vào nhà cháy.Từ câu “Ông trưởng giả chủ nhà, còn đang đứng ngoài cửa…” [trở đi] là phần thứ hai, gồm 32 khổ rưỡi kệ, tụng lại về các thí dụ cụ thể. Phần về thí dụ cụ thể [trong văn trường hàng ở trước] có 4 thí dụ, nay trong kệ tụng chỉ [có 3 tổng đoạn] tụng lại 3 thí dụ.
Tổng đoạn thứ nhất gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại thí dụ “ông trưởng giả thấy lửa bốc lên”. Tổng đoạn thứ hai có 13 khổ kệ, tụng lại thí dụ [ông trưởng giả] “bỏ ý dùng sức mạnh, chuyển sang phương tiện”.
[185] Tổng đoạn thứ ba có 17 khổ kệ, tụng lại thí dụ [ông trưởng giả] “cho các con cùng một loại xe lớn”.
Tổng đoạn thứ nhất gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng việc “thấy lửa”, [trong văn trường hàng ở trước] có 3 ý: thứ nhất nói về người thấy, thứ hai nói về những gì được nhìn thấy và thứ ba nói việc khởi lên sự kinh sợ. Tổng đoạn này [chia làm 3 đoạn] tụng lại đầy đủ [3 ý đó].
Đoạn thứ nhất từ câu “Ông trưởng giả chủ nhà…” trở đi, có 3 câu, nói về người thấy. Trong văn trường hàng ở trước nói là “thấy”, nay trong kệ tụng nói là “nghe”, đó là dùng nghe để thay cho thấy. Nghe tức là [phải nghe] từ người khác. “Còn đang đứng ngoài cửa” là tụng lại ý nghĩa câu kinh ở trước: “Nay ta tuy có thể xuyên qua cửa đang cháy mà thoát ra ngoài an ổn.” Nói “đứng” là nghĩa [chư Phật] trụ nơi pháp thân vẫn thường giữ tâm đại bi, vì muốn cứu độ chúng sinh nên không ở trên tòa Niết-bàn.
[186]Các nhà cựu giải nói rằng, [những lời ông trưởng giả nghe về các con ở trong nhà đang cháy là ý nghĩa] mười phương chư Phật nói với Phật Thích-ca: “Những chúng sanh
[187] có cơ duyên với ngài đang ở trong ba cõi, sắp dứt mất căn lành.” Lại có người nói rằng, cơ duyên của chúng sinh chiêu cảm đến [tâm] Phật là nghĩa “người khác”.
Nay giải thích rằng, pháp là thầy của Phật, tức là nói pháp tam-muội. Pháp tam-muội này là thầy, tức là nghĩa “người khác”. [Đức Phật] nhập tam-muội liền có thể thấy được cơ duyên [của chúng sanh], đó là tam-muội giúp cho Phật thấy được, cho nên nói “nghe có người nói rằng”. Lại cũng giải thích rằng, tâm đại bi là nghĩa của “người khác”. Đại lược là như vậy.
Đoạn thứ hai từ câu “Những đứa con của ông” trở đi gồm 5 câu kệ, tụng lại [ý nghĩa] về ngọn lửa được nhìn thấy.
Hỏi: Những người con vốn chưa ra khỏi nhà, sao có thể nói là nhân lúc vui chơi mà vào trong nhà?
Đáp: Nếu từng phát tâm [tu tập xuất thế], đó gọi là ra khỏi ba cõi, nhưng có sự thối thất nên lại gọi là vào trong ba cõi. Giống như người bước chân muốn ra khỏi nhà, vừa đến bên cửa lại quay trở vào, đó cũng gọi là đi ra rồi lại trở vào. Lại nữa, lý tánh vốn thanh tịnh, không phải là pháp trong ba cõi, chỉ nhân nơi vô minh mà khởi lên hý luận,1 liền có sinh tử. Do vậy nên nói rằng nhân trước đó đi chơi mà vào [trong căn nhà ba cõi].
Pháp thiện Đại thừa chưa [hiểu biết] sáng tỏ nên nói là “nhỏ dại”; vì vô minh che lấp nên nói là “không biết”.
Đoạn thứ ba gồm hai câu: “Ông trưởng giả nghe rồi, hốt hoảng vào nhà cháy.” Đoạn này tụng lại ý nghĩa kinh văn phần trước nói “ông trưởng giả thấy lửa… …hết sức kinh hãi” là nghĩa [đức Phật nhân đó] mà khởi tâm đại bi.
KINH VĂNTìm cách cứu các con,Khỏi nạn lửa thiêu chết.Nói cho các con biết,Những nguy hiểm, tai nạn,Nào quỷ dữ, trùng độc...Ngọn lửa đang lan khắp...Bao nỗi khổ tuần tự,Tiếp nối nhau không dứt.
Rắn hổ mang, bọ cạp...Cùng lũ quỷ dạ-xoa,Với quỷ cưu-bàn-trà,Chồn, cáo và chó hoang,Kên kên, cú, diều hâu,Cùng những loài rết độc,Chúng đang cơn đói khát,Thật rất đáng kinh sợ.
Nơi đây đầy khổ nạn,Lại thêm lửa bốc cao.Các con chưa hiểu biết,Nên tuy nghe cha dạy,Vẫn tiếp tục ham chơi,Đùa giỡn mãi không thôi.Tổng đoạn thứ hai từ câu “Tìm cách cứu các con” trở đi có 13 khổ kệ, tụng [lại ý nghĩa ông trưởng giả] từ bỏ ý định [đặt các con lên] bàn, ghế… [để đưa ra ngoài], quay sang dùng xe [đẹp để dẫn dụ]. Tổng đoạn này chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất có 5 khổ rưỡi kệ, [từ câu “Tìm cách cứu các con” trở đi], tụng lại ý nghĩa phần trước nói [ông tưởng giả] không cứu được con. Trong kinh văn trường hàng, phần khai mở thí dụ có [2 pháp] khuyến tấn và răn dạy ngăn ngừa, nhưng phần [so sánh ý nghĩa] chỉ nói tương hợp với pháp khuyến tấn, nay trong kệ tụng ở đây chỉ có nghĩa ngăn ngừa. Trong văn trường hàng nêu nghĩa ngăn ngừa có 3 ý, trong kệ tụng ở đây cũng có đủ 3 ý [trong 3 tiểu đoạn].
Tiểu đoạn thứ nhất gồm 4 khổ rưỡi kệ, [từ câu “Tìm cách cứu các con” trở đi], tụng lại ý nghĩa phần kinh văn trường hàng ở trước, [ông trưởng giả nghĩ rằng:] “Nay ta nên vì chúng nói ra những việc đáng kinh sợ…” và cho rằng như vậy là thích hợp.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Các con chưa hiểu biết” trở đi gồm 3 câu, tụng [lại ý nghĩa các con] không nghe lời cha dạy, vẫn đùa giỡn không ngừng.
Tiểu đoạn thứ ba chỉ có một câu, [“Đùa giỡn mãi không thôi” là] tụng lại ý nghĩa [Phật muốn] dừng việc hóa độ.
[Kinh văn nói] “tìm cách” có nghĩa là [Phật] suy tính đến việc dùng Đại thừa giáo hóa là thích hợp. “Nói cho các con biết” tức là nghĩa nói rõ các khổ nạn nguy hại để dạy dỗ, ngăn ngừa. Câu cuối cùng nói “đùa giỡn mãi không thôi” là tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng nói những người con chỉ “giương mắt nhìn cha mà thôi”, tức là nghĩa bỏ mặc, không lưu tâm đến lời cha khó nhọc răn dạy.
KINH VĂNBấy giờ ông trưởng giả,Liền tự suy nghĩ rằng:“Các con ta thế này,Khiến ta thêm buồn khổ.
Nay trong căn nhà này,Chẳng có gì đáng vui.Vậy mà các con ta,Mãi đắm say vui đùa,Không nghe lời ta dạy,Nên sắp bị lửa thiêu.”
Ông liền suy nghĩ kỹ,Bày ra các phương tiện,Rồi bảo các con rằng:“Cha có đủ mọi loại,Đồ chơi rất quý báu,Như xe đẹp và quý,Gồm xe dê, xe nai,Và cả xe trâu lớn.
Nay sẵn có ngoài cửa,Các con hãy mau ra.Cha đã vì các con,Làm ra những xe này.Các con tùy sở thích,Cứ tha hồ vui chơi.”
Các con nghe cha nói,Về những loại xe ấy.Liền tức thời đua nhau,Nhanh chóng chạy ra ngoài.Đến được chỗ đất trống,Lìa xa mọi nạn khổ.Đoạn thứ hai từ câu “Bấy giờ ông trưởng giả…” trở đi gồm 7 khổ rưỡi kệ, tụng [lại ý nghĩa kinh văn trường hàng ở trước nói] về việc [ông trưởng giả] dùng [3 loại] xe [đẹp để dẫn dụ các con]. Trong kinh văn trường hàng phần này có 4 ý. Thứ nhất là [ông trưởng giả] suy tính việc dùng 3 loại xe [để dẫn dụ] là thích hợp. Thứ hai là [ông trưởng giả] biết rõ tâm ham muốn trước đây của các con. Thứ ba là [ông trưởng giả] khen ngợi ba loại xe [đẹp và] hiếm có. Thứ tư là [việc dùng xe dẫn dụ] thích hợp với mong muốn của các con. Nay trong phần kệ tụng này [gồm 3 tiểu đoạn] chỉ có 3 ý, lược bớt không có [ý thứ hai là] “biết rõ tâm ham muốn trước đây của các con”.
Tiểu đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa suy tính [dẫn dụ là] thích hợp.
Tiểu đoạn thứ hai gồm 3 khổ kệ, từ câu “Rồi bảo các con rằng” trở đi, nói việc [ông trưởng giả] khuyến khích, khen ngợi 3 loại xe là hiếm có. [Phần kinh văn trường hàng] ở trước nói rõ 3 nghĩa khuyến [chuyển] (giáo hóa bằng sự khuyên bảo), thị [chuyển] (giáo hóa bằng sự chỉ bày) và chứng [chuyển] (giáo hóa bằng sự chứng thực), nay trong kệ tụng phần này cũng đủ 3 nghĩa và lặp lại phần khuyến [chuyển] nên thành 4 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, tụng về nghĩa khuyến [chuyển].
Phân đoạn thứ hai gồm 3 câu, từ câu “Gồm xe dê, xe nai…” trở đi, tụng về nghĩa thị [chuyển].
Phân đoạn thứ ba gồm 1 câu “Các con hãy mau ra” là lặp lại nghĩa khuyến [chuyển].
Phân đoạn thứ tư gồm 1 khổ kệ, từ câu “Cha đã vì các con” trở đi, tụng về nghĩa chứng [chuyển].
Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Các con nghe cha nói” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng [lại ý nghĩa] thích hợp với mong muốn của các con. Phần này cả 6 câu đều tụng lại ý nghĩa trong văn trường hàng ở trước. “Nhanh chóng chạy ra ngoài” là tụng lại ý nghĩa thấy được 4 chân đế, “đến được chỗ đất trống” là tụng lại ý nghĩa đạt đến quả vị vô học.
KINH VĂNTrưởng giả thấy các con,Ra khỏi căn nhà cháy,An ổn ngã tư đường.Liền ngồi tòa sư tử,Tự nói lời vui mừng:
“Ta nay mừng lắm thay!Những đứa con của ta,Sinh dưỡng rất khó khăn,Vì tuổi nhỏ dại khờ,Nên vào nhà nguy hiểm,Có rất nhiều trùng độc,Cùng yêu quái đáng sợ.
Lửa dữ cháy phừng phừng,Bốn bề cùng nổi dậy.Nhưng những đứa con này,Vẫn mê mải ham chơi.
Ta đã cứu chúng ra,Thoát khỏi được tai nạn.Nên bảo cùng mọi người,Ta nay rất mừng vui.”Tổng đoạn thứ ba từ câu “Trưởng giả thấy các con, ra khỏi căn nhà cháy” trở đi, gồm 17 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa thí dụ thứ ba trong kinh văn trường hàng ở trước là “ban cho các con cùng một loại xe lớn”. Kinh văn trường hàng phần này có 4 ý. Thứ nhất là ý [các con] thoát nạn, thứ hai là [các con] xin ban cho xe, thứ ba là [ông trưởng giả] ban cho [các con] cùng một loại xe lớn, thứ tư là [các con] được xe rồi đều vui mừng. Nay trong phần kệ tụng này [chia thành 4 đoạn] cũng có 4 ý. Đoạn thứ nhất gồm 5 khổ kệ, tụng [ý nghĩa các con] thoát nạn [nên ông trưởng giả] vui mừng. Đoạn thứ hai gồm 3 khổ kệ, tụng [lại ý nghĩa] các con xin ban cho xe. Đoạn thứ ba gồm 7 khổ rưỡi kệ, tụng [lại ý nghĩa] ban cho [các con] cùng một loại xe [lớn]. Đoạn thứ tư gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng [lại ý nghĩa các con] được xe đều vui mừng.
Đoạn thứ nhất gồm 5 khổ kệ tụng ý nghĩa các con thoát nạn, chia thành 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn đầu tiên gồm 1 khổ kệ tụng về ý nghĩa thoát nạn. Tiểu đoạn thứ hai gồm 4 khổ kệ, từ câu “Tự nói lời vui mừng” trở đi, tụng về ý nghĩa [ông trưởng giả] vui mừng.
Tiểu đoạn đầu tiên, câu “Liền ngồi tòa sư tử” có 2 cách giải thích. Thứ nhất là nói những người con lên ngồi [tòa sư tử], nghĩa là được ra khỏi ba cõi nên không còn lo sợ. Thứ hai là nói ông trưởng giả lên tòa [sư tử] ngồi, nghĩa là ông trưởng giả thấy các con đã thoát nạn nên không còn lo sợ. Ban sơ ông ở ngoài cửa, trong lòng lo lắng nên nói là “đứng”, nay [các con ông] đều thoát ra ngoài cửa, không còn lo lắng nên nói là “ngồi”. Cho nên trong phẩm Phương tiện nói: “Phật hoan hỷ không ngại.” Phần nói về “các con thoát nạn” đến đây là dứt.
Tiểu đoạn thứ hai gồm 4 khổ kệ, từ câu “Tự nói lời vui mừng” trở đi, tụng ý nghĩa ông trưởng giả vui mừng [vì các con thoát nạn], y theo kinh văn có thể hiểu được [không cần giảng giải].
KINH VĂNLúc bấy giờ các con,Thấy cha đã yên ngồi,Liền kéo nhau đến đó.Thưa cùng cha thế này:
“Xin ban cho chúng con,Ba loại xe quý đẹp,Như trước đây đã hứa:‘Nếu các con ra ngoài,Cha sẽ cho ba xe,Tùy ý các con muốn.’
Nay đã đúng lúc rồi,Xin cha thương ban cho.”
Ông trưởng giả rất giàu,Có nhiều kho tàng lớn,Vàng bạc cùng lưu ly,Xa cừ và mã não.
Nên dùng các vật báu,Làm thành cỗ xe lớn.Trang hoàng thật xinh đẹp.Quanh xe có lan can,Bốn phía treo chuông nhỏ.
Dây bằng vàng quấn quanh,Kết ngọc trai thành lưới,Giăng phủ bên trên xe.Dùng hoa vàng, chuỗi ngọc,Buông rủ khắp bốn bên.
Dùng tơ lụa đủ màu,Bao bọc vòng quanh xe,Dùng lụa, bông mềm mại,Để trải làm nệm xe.
Dùng vải mịn tốt nhất,Giá trị đến nghìn muôn,Trắng đẹp, sạch, thuần khiết,Bao phủ trên mặt nệm.
Lại dùng trâu trắng lớn,Mập mạp và khỏe mạnh,Hình dáng rất xinh đẹp,Để kéo xe quý ấy.
Có nhiều người đi theo,Để hầu hạ, bảo vệ.Dùng xe tốt đẹp ấy,Ban đều cho các con.
Những người con khi ấy,Rất vui mừng phấn chấn,Ngồi trên cỗ xe quý,Dạo chơi khắp bốn phương,Cùng chơi đùa vui thích,Tự do không ngăn ngại.Đoạn thứ hai gồm 3 khổ kệ, từ câu “Lúc bấy giờ các con, thấy cha đã yên ngồi” trở đi, tụng [lại ý] thứ hai [của thí dụ thứ ba trong phần kinh văn trường hàng ở trước] về việc các con xin ban cho xe, có thể y theo kinh văn mà hiểu được, [không cần giảng giải].
Đoạn thứ ba gồm 7 khổ rưỡi kệ, từ câu “Ông trưởng giả rất giàu” trở đi, tụng lại ý thứ ba [trong kinh văn trường hàng] là “ban cho các con cùng một loại xe lớn”. Kinh văn trường hàng phần này có [6 ý, gồm] 2 ý nêu ra, 2 ý giảng rộng và 2 ý giải thích, phần so sánh theo sau chỉ tương hợp với 5 ý, nay trong kệ tụng thì đoạn này chia làm 3 tiểu đoạn, chỉ nói 4 ý, [lược bỏ] không tụng 1 ý nói rộng về tâm tánh bình đẳng và 1 ý giải thích về tâm tánh bình đẳng.
Tiểu đoạn đầu tiên gồm 1 khổ kệ [nêu ý thứ nhất], tụng vượt sang ý nghĩa của thí dụ thứ tư [trong kinh văn trường hàng] giải thích về nghĩa “xe lớn”. Nhà hưng thịnh đầy đủ gọi là “kho”, đất dồi dào phong phú gọi là “chứa”. [Hoặc cũng nói rằng] thực hành đầy đủ tất cả các pháp gọi là “chứa”; mắt, tai… 6 căn đầy đủ tất cả pháp gọi là “kho”. Đại lược là như vậy.
Tiểu đoạn thứ hai gồm 6 khổ kệ, từ câu “Nên dùng các vật báu” trở đi, [nêu ý thứ hai] tụng lại ý thứ ba [của thí dụ thứ ba] trong kinh văn trường hàng nói về các xe đều rộng lớn.
Tiểu đoạn thứ ba gồm 2 câu kệ, tụng lại 2 ý nêu vấn đề [trong kinh văn trường hàng]. Câu “Dùng xe tốt đẹp ấy” là ý thứ ba, tụng lại ý thứ hai ở trước nói về xe lớn. Câu “Ban đều cho các con” là ý thứ tư, tụng lại ý thứ nhất ở trước nói về tâm tánh bình đẳng.
Đoạn thứ tư gồm 1 khổ rưỡi kệ, từ câu “Những người con khi ấy, rất vui mừng phấn chấn” trở đi, tụng [lại ý nghĩa các con] được xe vui mừng. “Dạo chơi khắp bốn phương” là nghĩa nương theo trí tuệ trung đạo, nhất thời dạo qua 4 pháp của 4 giáo,
[188] 4 đế của 4 giáo;
[189] theo trình tự thời gian
[190] thì tuần tự vượt qua 41 giai vị, rốt ráo đạt được các phẩm đức thường, lạc, ngã, tịnh. Cho nên nói rằng: “Cùng chơi đùa vui thích, tự do không ngăn ngại.”
KINH VĂNPhật bảo Xá-lợi-phất:Ta cũng giống như vậy.Tôn quý giữa chư thánh.Cha lành khắp thế gian,Nên hết thảy chúng sinh,Đều là con Như Lai.
Mãi đắm vui thế gian,Không có tâm trí tuệ.Ba cõi không an ổn,Như căn nhà đang cháy,Ngập tràn các nỗi khổ,Thật đáng sợ vô cùng.
Thường chịu khổ sinh, già,Bệnh, chết và âu lo...Những thứ lửa như vậy,Thiêu đốt mãi không dừng.Tổng phần thứ hai gồm 34 khổ rưỡi kệ, từ câu “Phật bảo Xá-lợi-phất: Ta cũng giống như vậy” trở đi, tụng [lại ý nghĩa so sánh] tương hợp các thí dụ, chia ra làm 2 phần.
Phần thứ nhất gồm 4 khổ kệ, tụng về ý nghĩa tương hợp với các thí dụ khái quát, nhưng [chia làm 4 tổng đoạn] chỉ nêu 4 ý để bao gồm cả 6 thí dụ [trong kinh văn trường hàng].
Tổng đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, từ câu “Phật bảo Xá-lợi-phất: Ta cũng giống như vậy.” Tổng đoạn này tụng ý nghĩa tương hợp với thí dụ ông trưởng giả. Nửa khổ kệ đầu tụng ý nghĩa tương hợp về địa vị và danh hiệu. Nửa khổ kệ sau tụng ý nghĩa tương hợp về danh tiếng và công hạnh, gồm luôn ý nghĩa xưng tán phẩm đức. [Kệ nói Phật là bậc] “Tôn quý giữa chư thánh”, tức là nói giữa 7 hạng [hiền thánh] phương tiện;
[191] nói “Cha lành khắp thế gian”, tức là nói khắp cả chúng sinh trong 9 pháp giới.
[192]Tổng đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ. Hai câu “Nên hết thảy chúng sinh, đều là con Như Lai” là tụng ý nghĩa tương hợp với 5 đường, bao gồm cả ý nghĩa 30 người con [trong thí dụ ở trước]. Nói theo duyên nhân thì 30 người con ấy là con; nói theo chánh nhân thì tất cả chúng sinh là con.1
Tổng đoạn thứ ba gồm hai câu kệ “Ba cõi không an ổn, như căn nhà đang cháy” là tụng nghĩa tương hợp [với thí dụ] về nhà cửa [của ông trưởng giả], cũng bao gồm cả ý nghĩa [nhà ấy] chỉ có một cửa ra.
Tổng đoạn thứ tư gồm 1 khổ rưỡi kệ, từ câu “Ngập tràn các nỗi khổ” trở đi, tụng ý nghĩa tương hợp với [thí dụ] lửa bốc cháy [sau nhà].
Đến đây là hết phần tụng nghĩa tương hợp với các thí dụ khái quát.
KINH VĂNNhư Lai đã lìa xa,Nhà cháy là ba cõi,Sống thanh nhàn, tịch lặng,Trong rừng vắng an ổn.
Nay khắp ba cõi này,Đều thuộc về Như Lai,Nên chúng sinh trong đó,Đều là con Như Lai.
Mà nay ba cõi ấy,Đẫy dẫy các khổ nạn,Chỉ riêng đức Như Lai,Có khả năng cứu giúp.Phần thứ hai gồm 30 khổ rưỡi kệ, từ câu “Như Lai đã xa lìa, nhà cháy là ba cõi” trở đi, tụng [lại ý nghĩa tương hợp] với các thí dụ. Phần trước tụng nêu thí dụ [khái quát] không có ý “không hư dối”, phần này tụng nghĩa tương hợp thì có ý này. [Phần này chia làm 4 tổng đoạn.]
Tổng đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng ý nghĩa [đức Phật] thấy chúng sinh [đắm chìm chịu khổ trong] sinh, già, [bệnh, chết…] là tương hợp với thí dụ [ông trưởng giả] thấy lửa [bốc cháy]. Kinh văn trường hàng ở trước nói về thí dụ [ông trưởng giả] thấy lửa gồm có 3 ý, nay trong kệ tụng cũng [có 3 đoạn] tương hợp với 3 ý.
Đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ đầu tiên tụng lại [ý nghĩa trong kinh văn] phần trước nói đức Như Lai có khả năng nhìn thấy. Đó là do trụ yên nơi thanh nhàn tịch lặng nên có thể nhìn thấy các con [là chúng sanh] ở trong [cõi đời có] 5 sự uế trược, tức là tương hợp với [ý nghĩa] “nghe có người nói rằng”.
Đoạn thứ hai gồm 1 khổ rưỡi kệ, từ câu “nay khắp ba cõi này” trở đi, tụng lại [ý nghĩa trong kinh văn trường hàng] ở trước nói [đức Phật] nhìn thấy tất cả chúng sinh vì bị ngọn lửa sinh, già, bệnh, chết thiêu đốt, tức là tương hợp với thí dụ thứ hai nói về việc nhìn thấy những gì bị lửa thiêu.
Đoạn thứ ba gồm nửa khổ kệ “Chỉ riêng đức Như Lai, có khả năng cứu giúp”, tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng ở trước nói “đức Phật nhìn thấy vậy liền khởi lên ý nghĩ”, tức là tương hợp với ý nghĩa [ông trưởng giả] “hốt hoảng vào nhà cháy”.
KINH VĂNNhưng dù đã dạy bảo,Chúng sinh không tin nhận.Vì đối với các dục,Quá đắm nhiễm, tham chấp.Nên Phật dùng phương tiện,Vì họ nói ba thừa.Để giúp cho chúng sinh,Biết khổ trong ba cõi.
Mở bày và giảng giải,Con đường xuất thế gian.Những chúng sinh được nghe,Nếu có tâm quyết định,Liền đầy đủ ba minh,Cùng với sáu thần thông.Hoặc đạt quả Duyên giác,Hoặc Bồ Tát bất thối.Tổng đoạn thứ hai gồm 4 khổ kệ, từ câu “Nhưng dù đã dạy bảo” trở đi, tụng về ý nghĩa [ông trưởng giả] từ bỏ [ý định] dùng sức mạnh, quay sang dùng phương tiện xe đẹp để dẫn dụ. Tổng đoạn này chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, tụng về việc [ông trưởng giả] từ bỏ ý định dùng sức mạnh. Kinh văn phần trước nêu thí dụ này có 3 ý: [đức Phật] dự tính [dùng Đại thừa giáo hóa] là thích hợp, [đức Phật nhận thấy chúng sanh] không đủ căn cơ, [đức Phật] tạm dừng việc giáo hó [bằng Đại thừa]. Nay trong phần kệ tụng này cũng đủ 3 ý, nhưng chỉ nêu một cách tổng quát sơ lược.
Câu “nhưng dù đã dạy bảo” tụng ý nghĩa “dự tính [dùng Đại thừa] là thích hợp”, câu “chúng sinh không tin nhận”, tụng ý nghĩa “không có căn cơ”. Hai câu sau [“vì đối với các dục, quá đắm nhiễm, tham chấp”] tụng ý nghĩa “tạm dừng việc giáo hóa”.
Hoặc cũng có thể hiểu rằng 2 câu sau này tụng ý nghĩa [chúng sanh] không có căn cơ. “Quá đắm nhiễm, tham chấp” là tụng lại ý nghĩa trong kinh văn phần trước nói về [chúng sanh] vẫn chưa thoát khỏi sinh, già, bịnh, chết, sầu đau, khổ não v.v.
Đoạn thứ hai gồm 3 khổ kệ, từ câu “Nên Phật dùng phương tiện” trở đi, tụng ý nghĩa tương hợp với thí dụ dùng xe [đẹp dẫn dụ] có thể cứu được các con. Trong kinh văn trường hàng ở trước có 4 ý, nay trong kệ tụng phần này [có 3 tiểu đoạn] chỉ nói 3 ý và cũng tương hợp với 3 ý, lược bớt không tương hợp với ý “biết rõ lòng ham muốn của các con trước đây”.
Tiểu đoạn thứ nhất có một câu “nên Phật dùng phương tiện”, tụng lại ý nghĩa phần kinh văn trường hàng trước nói [Phật suy nghĩ] “nếu ta chỉ dùng sức thần thông và sức trí tuệ, không dùng phương tiện”.
Tiểu đoạn thứ hai có 5 câu, từ câu “vì họ nói ba thừa” trở đi, tụng ý nghĩa tương hợp với ý thứ ba trong kinh văn trường hàng ở trước “khen ngợi ba loại xe là hiếm có”.
Tiểu đoạn thứ ba gồm một khổ rưỡi kệ, từ câu “những chúng sinh được nghe”,
[193] tụng nghĩa tương hợp với ý thứ tư trong kinh văn trường hàng ở trước, “hợp với lòng mong muốn của các con”.
Phần trước nêu nghĩa tương hợp với ba thừa, mỗi thừa đều có 4 câu, nay ở phần này chỉ tụng nghĩa khái quát.
“Nếu có tâm quyết định” là nói các giai vị từ Khổ pháp nhẫn
[194] trở lên đều là [có tâm] quyết định chân thật. Câu kệ này tụng hàm nghĩa tổng quát về nỗ lực tu tập đạt đến các giai vị trong ba thừa.
Trong một khổ kệ tiếp theo, bắt đầu từ câu “Liền đầy đủ ba minh”, mỗi câu đều tụng về các giai vị trong ba thừa cố gắng thoát ra [ngoài ba cõi].
KINH VĂNNghe đây, Xá-lợi-phất!Ta chỉ vì chúng sinh,Mà dùng thí dụ này,Để thuyết một Phật thừa.
Các ông nếu có thể,Tin nhận những lời này,Thì tất cả đều sẽ,Được thành tựu Phật đạo.
Phật thừa này vi diệu,Vốn thanh tịnh bậc nhất,Đối với khắp thế gian,Không có gì hơn được.
Chư Phật đều hoan hỷ.Và hết thảy chúng sinh,Nên ngợi khen xưng tán,Cùng cúng dường lễ bái.
Gồm vô số muôn ngàn,Các pháp lực, giải thoát,Thiền định và trí tuệ,Cùng những pháp Phật khác.
Đạt được Phật thừa này,Sẽ giúp cho các ông,Ngày đêm vô số kiếp,Thường được vui rong chơi.
Với các vị Bồ Tát,Cùng đại chúng Thanh văn,Nương theo thừa báu này,Liền thẳng đến Đạo trường.
Vì nhân duyên như vậy,Nên tìm khắp mười phương,Không có thừa nào khác,Trừ phương tiện của Phật.Tổng đoạn thứ ba gồm 8 khổ kệ, từ “Nghe đây, Xá-lợi-phất! Ta chỉ vì chúng sanh” trở đi, tụng ý nghĩa tương hợp với thí dụ thứ ba trong kinh văn trường hàng ở phần trước nói về việc ban cho [các con] cùng một loại xe lớn. Kinh văn trường hàng ở phần tương hợp không có nghĩa [các con] “xin ban cho xe” cũng như nghĩa “[được xe] vui mừng”, nhưng trong phần tụng nêu [thí dụ thì] có đủ. Nay trong kệ tụng phần này chỉ tương hợp với nghĩa “ban cho cùng một loại xe” và nghĩa “được xe vui mừng”, không tương hợp với nghĩa “thoát nạn [vui mừng]” và nghĩa “xin ban cho xe”.
[Trong các nghĩa này] có lấy có bỏ, cuối cùng thành hai nghĩa, lại chia ra thành 2 đoạn. Đoạn thứ nhất có 5 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp với ý “ban cho cùng [một loại xe]”. Đoạn thứ hai có 3 khổ kệ, tụng [nghĩa tương hợp với ý “các con được xe] vui mừng”.
Đoạn thứ nhất, kinh văn phần trước nói nghĩa “ban cho cùng một loại xe” có 4 ý nhưng tụng tương hợp chỉ nêu 2 ý, nay trong phần kệ này cũng tụng lược bớt, [chia ra 4 tiểu đoạn tụng] tương hợp với 2 ý, [nghĩa là] chỉ tương hợp ý thứ hai nêu các nghĩa chính và ý thứ ba mô tả xe rộng lớn, đồng thời cũng tụng giải thích nguyên do có xe.
Tiểu đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, từ câu “Nghe đây, Xá-lợi-phất” trở đi, tụng nghĩa chính về “xe lớn”, [hay Đại thừa, tương ứng với] phần kinh văn trước nói về “thiền định, [giải thoát…] của chư Phật” v.v.
Tiểu đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ, từ câu “Các ông nếu có thể” trở đi, tụng ý tương hợp với nghĩa chính “tâm [chúng sanh] bình đẳng”, đó là [tương ứng với] kinh văn phần trước nói “tất cả những chúng sinh đã thoát ra ngoài ba cõi”.
Tiểu đoạn thứ ba gồm 2 khổ kệ, từ câu “Phật thừa này vi diệu” trở đi, tụng nghĩa tương hợp với [ý thứ ba ở kinh văn trường hàng phần trước] mô tả xe rộng lớn, tương ứng với kinh văn phần trước nói “tất cả đều cùng một tướng thể, một chủng loại”.
Tiểu đoạn thứ tư gồm 1 khổ kệ, từ câu “Gồm vô số muôn ngàn, các pháp lực, giải thoát...” trở đi, tụng lại ý nghĩa nguyên do có xe.
Đoạn thứ hai gồm 3 khổ kệ, từ câu “Đạt được Phật thừa này” trở đi, tụng về ý nghĩa “[các con] được xe vui mừng”, lại chia thành 2 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ, từ câu “Đạt được Phật thừa này” trở đi, nêu ý mỗi [người con] đều được ban cho xe lớn.
Tiểu đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ, từ câu “Vì nhân duyên như vậy” trở đi, kết lại ý nghĩa khuyến khích tin nhận.
Nay [giải thích tiểu đoạn thứ nhất gồm] 2 khổ kệ. Nói “ngày đêm [vô số kiếp]” là nghĩa, khi vừa được tri kiến trung đạo của Phật thì trí tuệ sáng suốt ví như giữa ban ngày sáng tỏ, lúc còn trong vô minh thì tối tăm như trong đêm đen.
[Lại cũng có thể hiểu rằng], tự mình đạt được trí tuệ trung đạo ví như sống giữa ban ngày sáng tỏ, [khởi tâm] từ bi đi vào sinh tử ví như [đi vào] đêm tối, thường thực hành cả 2 pháp ấy nên gọi là “thường được vui rong chơi”. Người trong ba thừa đều thể nhập được trí tuệ Phật, cho nên nói là “Với các vị Bồ Tát, cùng đại chúng Thanh văn”.
[Lại cũng có thể hiểu rằng], kệ này nêu ý nghĩa tự mình thực hành và giáo hóa người khác. Tự mình đạt đến [Phật] thừa này, cho nên nói “ngày đêm… … rong chơi”; dùng Phật thừa này giáo hóa người khác, cho nên nói “với các vị Bồ Tát, cùng đại chúng Thanh văn”, tức là nói có thể giáo hóa cả ba thừa cùng nương theo thừa báu [là Phật thừa].
Tiểu đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ nói rõ nhân duyên chỉ có một [Phật] thừa, [thật] không có ba thừa. Trong các cõi nước ở khắp mười phương dù hết sức tìm cầu cũng chỉ có duy nhất một thừa, không có thừa thứ hai. “Trừ phương tiện của Phật” tức là nói [riêng phương tiện của Phật] không giới hạn trong câu này.
Cũng có người hỏi: Nếu nói Bồ Tát không “xin ban cho xe” [tức không cầu quả vị] thì do đâu khi được ngồi xe lớn [Đại thừa] lại vui mừng?
KINH VĂNPhật bảo Xá-lợi-phất:“Nay tất cả các ông,Đều là con Như Lai,Phật là đấng cha lành.
Các ông qua nhiều kiếp,Bị khổ não thiêu đốt,Đều được ta cứu giúp,Đưa ra ngoài ba cõi.
Trước đây tuy Phật nói:“Các ông được diệt độ”Nhưng chỉ dứt sinh tử,Thật chưa được diệt độ.
Nay việc cần phải làm,Chỉ cầu trí tuệ Phật.Tổng đoạn thứ tư từ câu “Phật bảo Xá-lợi-phất, nay tất cả các ông” trở đi, gồm 15 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa tương hợp với thí dụ thứ tư trong kinh văn trường hàng ở trước, nói “[ông trưởng giả] không nói dối”. Kinh văn tương hợp ở trước có 2 phần, trước tiên nêu 2 thí dụ, sau đó nói nghĩa tương hợp “[ông trưởng giả] không nói dối”. Nay trong kệ tụng ở đây chỉ có phần tương hợp với nghĩa “không nói dối” và chia làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất gồm 3 khổ rưỡi kệ, tụng nghĩa tương hợp với ý chính là “không hư dối”. Đoạn thứ hai từ câu “Nếu như có Bồ Tát” trở đi, gồm 12 khổ kệ, tụng ý tương hợp và giải thích nghĩa “không hư dối”.
[Kinh văn trường hàng nêu việc] ngài Xá-lợi-phất cho rằng vì hợp với tâm nguyện ban đầu nên không phải hư dối. Người cha vốn muốn khiến cho các con được ra khỏi nhà thoát nạn nên mới bày ra nói có 3 loại xe, vậy khi các con đã được thoát nạn rồi, cho dù chẳng ban cho cỗ xe nhỏ nào thì cũng không trái với tâm nguyện trước đó, cho nên không phải là hư dối. Phật tụng kệ [so sánh với] thí dụ này là nêu rõ nghĩa [lời Phật] không hư dối. [Kệ này] nêu rõ ý Phật vốn muốn thuyết dạy Nhất thừa, chỉ vì [chúng sinh bị che chướng bởi] năm sự uế trược nên chẳng chịu tin nhận, vì vậy mới [tạm] thuyết dạy ba thừa. Khi uế trược che chướng đã trừ rồi liền thuyết dạy chỉ một Đại thừa, tức là hợp với tâm nguyện ban đầu.
Đoạn thứ nhất gồm 3 khổ rưỡi kệ nêu ý chính lại chia làm 3 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, trước tiên xác định ý nghĩa cha con, nêu rõ ý ban đầu muốn dạy cho Đại thừa, nên nói: “Đều là con Như Lai.” [Như vậy] theo đúng lý thì phải bình đẳng thuyết dạy Đại thừa cho tất cả.
Tiểu đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ, từ câu “Các ông qua nhiều kiếp” trở đi, làm rõ ý [Phật] thuyết dạy ba thừa vì để trừ bỏ uế trược che chướng. Cho nên nói rằng: “Các ông qua nhiều kiếp, bị khổ não thiêu đốt.”
Tiểu đoạn thứ ba gồm 1 khổ rưỡi kệ, từ câu “Trước đây tuy Phật dạy” trở đi, [nói nghĩa] sau khi che chướng đã dứt trừ, [Phật mới] quay lại thực hiện ý định ban đầu là thuyết giảng giáo pháp Đại thừa. Cho nên nói rằng: “Nay việc cần phải làm, chỉ cầu trí tuệ Phật.”
KINH VĂNNếu như có Bồ TátỞ giữa chúng hội này,Có thể chuyên tâm nghe,Pháp thật của chư Phật.
Là chư Phật Thế Tôn,Tuy dùng nhiều phương tiện,Chúng sinh được giáo hóa,Thảy đều là Bồ Tát.
Người trí tuệ hạn hẹp,Lại đắm sâu ái dục,Phật vì những người ấy,Trước chỉ bày Khổ đế.
Chúng sinh ấy vui mừng,Được điều chưa từng có,Thấy Phật nói Khổ đế,Đúng sự thật không khác.
Nếu có những chúng sinh,Không biết nguồn gốc khổ,Bám chấp nhân tạo khổ,Không một chút tạm dừng.
Phật vì những người ấy,Thuyết dạy đạo phương tiện,Rằng nguyên nhân các khổ,Đều ở nơi tham dục.
Nếu tham dục dứt trừ,Không còn chỗ sinh khởi,Thì các khổ dứt sạch,Đó gọi là Diệt đế.
Vì muốn đạt Diệt đế,Nên tu hành theo đạo,Lìa các khổ trói buộc,Gọi là được giải thoát.
Người ấy nhờ nơi đâu,Mà đạt được giải thoát?Chỉ xa lìa hư dối,Mà gọi là giải thoát.Đoạn thứ hai gồm 12 khổ kệ, từ câu “Nếu như có Bồ Tát” trở đi, tụng nghĩa tương hợp và giải thích, [chia ra 3 tiểu đoạn] giải thích lại 3 ý phần trước. Tiểu đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ, giải thích nghĩa [tất cả chúng sanh] đều là con [của Như Lai], nên theo lý đều bình đẳng như nhau.Tiểu đoạn thứ hai gồm 7 khổ kệ, từ câu “người trí tuệ hạn hẹp” trở đi, giải thích việc [chúng sanh] không có khả năng thọ nhận [Đại thừa] nên [Phật] mới thuyết dạy ba thừa.Tiểu đoạn thứ ba gồm 3 khổ kệ, từ câu “thật ra vẫn chưa được” trở đi, giải thích việc về sau khi chúng sinh đã đủ sức tin nhận thì [Phật] quay lại thuyết giảng Đại thừa.
Bây giờ [giải thích] 2 khổ kệ trong tiểu đoạn thứ nhất, từ câu “Nếu như có Bồ Tát” trở đi. [Đây là] nói những chúng sinh được giáo hóa bởi ba thừa phương tiện thảy đều là những Phật tử đã kết duyên từ thuở xưa, lại cũng cùng có tánh Phật chân như, cho nên nói rằng: “Thảy đều là Bồ Tát.”
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “người trí tuệ hạn hẹp” trở đi nêu nghĩa những người trí tuệ hạn hẹp, che chướng nặng nề, không thể tức thời tin nhận [Đại thừa] nên phải dùng phương tiện khai mở ba thừa để tiếp dẫn. [Phật] vì những người trí tuệ hạn hẹp mà thuyết dạy khổ đế. Trong ba thừa thì hàng Thanh văn là thấp nhất, nên cũng dùng khổ đế làm cửa ngõ ban đầu [nhập đạo]. “Chúng sinh ấy vui mừng”, vì [nghe pháp] xứng hợp với sự huân tập lâu đời của mình cho nên vui mừng. [Chúng sinh] vốn chán ghét sinh tử, tự có ý mong cầu Niết-bàn, nay nghe [pháp có thể giúp] được thoát ra khỏi sinh tử, nghĩa là tương hợp với tập khí cũ cho nên vui vẻ. Đoạn kệ này làm rõ nghĩa Tứ đế trong vòng tạo tác chỉ là xa lìa hư vọng. Vô minh vốn đã là không thật có, thông hoặc lại nương nơi vô minh mà sinh khởi cho nên nói là hư vọng. Tứ đế trong vòng tạo tác chỉ trừ được [những thông] hoặc này thì gọi là giải thoát. Tuy giải thoát khỏi sinh tử phần đoạn nhưng chưa giải thoát sinh tử biến dịch cho nên chưa được hoàn toàn tự do tự tại.
KINH VĂNThật ra vẫn chưa được,Giải thoát hết tất cả.Nên Phật nói người ấy,Chưa thật được diệt độ.
Người ấy chưa đạt được,Đạo Vô thượng Chánh giác,Nên ý Phật không muốn,Cho đó là diệt độ.
Phật là đấng Pháp vương,Tự tại với các pháp,Làm an ổn chúng sinh,Nên xuất hiện ở đời.Tiểu đoạn thứ ba gồm 3 khổ kệ, từ câu “Thật ra vẫn chưa được, giải thoát hết tất cả” trở đi, giải thích nghĩa khi che chướng [của chúng sanh] đã dứt trừ, tình thức căn cơ nhanh nhạy sắc bén [thì đức Phật liền] theo tâm nguyện ban đầu mà thuyết dạy giáo pháp Đại thừa. Đức Phật vốn muốn giúp cho [chúng sanh] được giải thoát hoàn toàn, nhưng nay [chúng trong ba thừa] chỉ mới dứt trừ sinh tử phần đoạn, chưa phải [đạt được] Đại Niết-bàn. Vì [chúng sanh] chưa đạt được [giải thoát] hoàn toàn nên rốt cùng vẫn chưa xứng hợp với tâm nguyện ban đầu [của Phật]. Do vậy mà: “Nên ý Phật không muốn, cho đó là diệt độ.” Nay Phật lại sẽ giúp cho [những chúng sinh ấy] được đạo Vô thượng, thể nhập Đại Niết-bàn. Thành tựu rốt ráo đó mới xứng hợp với tâm nguyện ban đầu của Phật. “Giải thoát tất cả” tức là Diệt đế không còn tạo tác. Đạo Vô thượng tức là Đạo đế không còn tạo tác. Dùng nhị đế
[195] để phá trừ Khổ đế và Tập đế không còn tạo tác. Trước đây [Phật] vốn muốn thuyết các pháp như vậy, thế nhưng chúng sinh [vì che chướng mà] không đủ sức thọ nhận, nay che chướng [của chúng sanh] đã dứt trừ rồi, [Phật] liền quay lại thuyết pháp [Đại thừa] như vậy. Phật là bậc Pháp Vương nên đối với các pháp quyền hay thật cũng đều tự tại không ngăn ngại, [do vậy, tuy] bày ra ba thừa [quyền biến] nhưng hiển bày một thừa chân thật, lẽ nào lại có sự hư dối hay sao?
KINH VĂNNghe đây Xá-lợi-phất!Pháp ấn này của ta,Thuyết dạy chỉ vì muốn,Làm lợi ích thế gian.
Các ông đi khắp nơi,Chớ sai lệch nói ra.
Nếu có người nghe được,Mừng vui, cung kính nhận,Nên biết rằng người ấy,Đã được trí bất thối.
Nếu có người tin nhận,Kinh điển, giáo pháp này,Đó là người đã từng,Gặp Phật trong quá khứ,Từng cung kính cúng dường,Cũng từng nghe pháp này.
Nếu như ai có thể,Tin lời ông nói ra,Đó là người thấy Phật,Cũng thấy được chính ông,Cùng chư tỳ-kheo tăng,Và chư vị Bồ Tát.
Thuyết kinh Pháp hoa này,Vì trí tuệ thâm sâu.Người trí cạn nghe qua,Nghi ngờ không hiểu được.
Hết thảy hàng Thanh văn,Cùng với Phật Bích-chi,Đối với kinh điển này,Không đủ sức theo kịp.
Đến như Xá-lợi-phất,Mà đối với kinh này,Phải nhờ tin mới nhận,Huống gì Thanh văn khác?
Hết thảy Thanh văn khác,Đều do tin lời Phật,Mà đón nhận kinh này,Không phải tự hiểu được.Từ câu “Này ông Xá-lợi-phất! Pháp ấn này của ta…” trở đi là nhóm kệ thứ hai, gồm 65 khổ kệ, [nội dung] khuyến tín và lưu thông [kinh này]. Tín là nói việc tin [chắc kinh này do] Phật thuyết hay không phải do Phật thuyết; khuyến là khuyên dạy về việc [kinh này] có thể lưu thông hay không thể lưu thông. [Nhóm kệ này] có đủ 2 nghĩa đó cho nên nói là “khuyến tín”, lại được phân chia thành 2 phần. Phần thứ nhất nêu 2 ý chính, phần thứ hai giải thích.
[Phần thứ nhất chia làm 2 tổng đoạn.]
Tổng đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, nêu nghĩa có thuyết và không thuyết. Đức Như Lai thuyết dạy pháp ấn này chỉ vì muốn “làm lợi ích thế gian”, cho nên nói có thuyết. Không thuyết nghĩa là qua hơn 40 năm vẫn chưa đúng thời để thuyết, vì 5.000 người [căn cơ thấp kém] chưa đi ra [khỏi pháp hội] nên không thuyết.
Tổng đoạn thứ hai gồm nửa khổ kệ: “Các ông đi khắp nơi, chớ sai lệch nói ra”, nêu ý chính của [các trường hợp] có thể lưu thông hay không thể lưu thông [kinh này]. “Chớ sai lệch nói ra” là đối với những kẻ xấu ác nếu gượng ép thuyết giảng [kinh này] sẽ khiến họ đọa vào cảnh giới khổ [vì không đủ sức tin nhận]; đối với người hiền thiện nếu không thuyết giảng [kinh này] là sai lầm khiến họ lỡ mất [cơ hội] được vui. [Cho nên, khởi] tâm đại bi thương xót kẻ xấu ác thì không lưu thông [kinh này], khởi tâm đại từ nghĩ đến người hiền thiện thì nên lưu thông. Đó gọi là nêu ý nghĩa chính về việc có thể lưu thông và không thể lưu thông [kinh này].
Phần thứ hai là giải thích, từ câu “Nếu có người nghe được” trở đi, lại chia làm 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất gồm 8 khổ kệ, giải thích về việc có thể thuyết giảng và hay không thể thuyết giảng [kinh này]. Tổng đoạn thứ hai gồm 55 khổ rưỡi kệ,
[196] giải thích về việc có thể lưu thông hay không thể lưu thông [kinh này].
Nay [nói về] tổng đoạn thứ nhất, có 8 khổ kệ làm rõ tướng trạng của việc đức Như Lai làm lợi ích thế gian, nói tổng quát về lợi ích [của thế gian] trong cả ba đời, luận giải cụ thể việc giúp cho hàng Nhị thừa thể nhập lòng tin. “Đã được trí bất thối” là quán xét lợi ích trong hiện tại. “Đã từng gặp Phật trong quá khứ” là quán xét [nhân] hiền thiện trong quá khứ để vì [người khác] thuyết giảng. “Tin lời ông nói ra” là quán xét sự hiền thiện trong tương lai mà vì [người khác] thuyết giảng. Kinh văn phần sau nói rằng: “Nếu tin sâu hiểu rõ liền thấy được Phật vẫn thường trụ ở núi Linh thứu”,
[197] chính là nghĩa này.
Từ câu “Thuyết kinh Pháp hoa này” trở đi 1 khổ kệ là tóm kết lại [ý nghĩa] phần trước và khai mở phần tiếp theo. Đức Như Lai quán xét rõ biết sự lợi ích trong ba đời cho nên mới vì [chúng sinh ấy] thuyết giảng, [rõ biết] những kẻ trí tuệ cạn cợt không thể nhận hiểu nổi nên không thuyết giảng. Đó là giải thích ý nghĩa chính của việc đức Như Lai thuyết giảng hay không thuyết giảng.
KINH VĂNLại nữa, Xá-lợi-phất!Gặp người kiêu mạn, lười,Bám chấp nơi tự ngã,Đừng thuyết giảng kinh này.
Kẻ phàm phu trí cạn,Đắm sâu trong năm dục,Nghe kinh không thể hiểu,Cũng đừng thuyết kinh này.
Nếu có người không tin,Chê, hủy báng kinh này,Đó là dứt hết sạch,Giống Phật của người đời.
Ai cau mày nhăn mặt,Ôm lòng hoài nghi kinh,Đều phải chịu tội báo,Nên ông hãy lắng nghe.
Khi Phật còn tại thế,Hoặc Phật đã diệt độ,Nếu có người phỉ báng,Những kinh điển thế này,Thấy người khác tụng đọc,Sao chép hoặc thọ trì,Liền khinh bỉ, ganh ghét,Rồi ôm lòng oán hận.
Tội báo của người ấy,Nay ông hãy lắng nghe.
Người ấy sau khi chết,Sinh vào ngục Vô gián,Trải qua trọn một kiếp,Lại sinh vào kiếp nữa.
Cứ vậy mà tiếp nối,Cho đến vô số kiếp.Ra khỏi địa ngục rồi,Sẽ đọa làm súc sinh.
Hoặc chó hoặc chồn hoang,Với hình thể gầy còm,Đen đủi, đầy ghẻ lở,Bị con người đánh đuổi.
Lại còn bị nhiều người,Căm ghét và khinh khi,Thường khổ vì đói khát,Nên xương thịt khô gầy.
Sống chịu nhiều độc hại,Chết vùi trong ngói đá.Vì dứt mất giống Phật,Chịu tội báo như vậy.
Hoặc làm thân lạc đà,Hoặc sinh trong giống lừa,Thân mang, kéo nặng nề,Lại còn bị đánh đập,Mong ăn cỏ uống nước,Không biết gì khác hơn.
Vì hủy báng kinh này,Chịu tội báo như vậy.
Nếu sinh làm chồn hoang,Lang thang vào xóm làng,Thân hình đầy ghẻ chốc,Lại thiếu mất một mắt,Còn bị lũ trẻ con,Theo đánh đập, ném đá.
Chịu đủ mọi đau đớn,Cho đến phải chết đi.
Và sau khi đã chết,Liền sinh làm mãng xà,Thân hình to lớn, dàiĐến năm trăm do-tuần,Ngu si, điếc, không chân,Chỉ trườn đi nhờ bụng,Bị những loài trùng nhỏ,Rúc rỉa thân ăn thịt,Nên ngày đêm chịu khổ,Không một lúc được dừng.
Vì hủy báng kinh này,Chịu tội báo như vậy.
Nếu như được làm người,Thì các căn ngu độn,Lùn, xấu xí, què quặt,Mù, điếc lại gù lưng,Khi nói ra điều gì,Người khác không tin nhận.
Mở miệng bốc mùi hôi,Bị ma quỷ khống chế,Sống nghèo khốn, hèn hạ,Bị người khác sai khiến.
Nhiều bệnh tật, gầy ốm,Lại không nơi nương tựa.Dù gần gũi cậy nhờ,Người không chút lưu tâm.
Nếu học hỏi được gì,Rồi cũng nhanh quên mất.Nếu học theo nghề thuốc,Dùng đúng phương trị bệnh,Bệnh người vẫn tăng thêm,Thậm chí đến phải chết.
Nếu tự mình có bệnh,Không ai cứu chữa được.Dù dùng phương thuốc hay,Bệnh vẫn càng thêm nặng.
Như người khác phản nghịch,Cướp bóc, trộm của người,Đủ các tội như thế,Vô cớ chịu liên lụy.
Người chịu tội như vậy,Vĩnh viễn không gặp Phật,Bậc đứng đầu chư thánh,Thường thuyết pháp giáo hóa.
Người chịu tội như vậy,Thường sinh các nan xứ.Điên cuồng, điếc, loạn tâm,Vĩnh viễn không nghe pháp.
Trong vô số kiếp sống,Nhiều như cát sông Hằng,Sinh ra đều câm điếc,Không đủ các giác quan.
Thường xuyên vào địa ngục,Như người đi dạo vườn.Cõi ngạ quỷ, súc sinh,Là nhà ở của họ.
Lạc đà, lừa, chó, lợn,Là chốn họ sinh vào.Vì hủy báng kinh này,Chịu tội báo như vậy.
Nếu như được làm người,Phải tự mang vào thân,Những nạn mù, điếc, câm,Cùng nghèo khốn, suy kiệt.
Bệnh phù thũng, khô khát,Bệnh ghẻ lở, ung thư,Đủ các bệnh như vậy,Bám theo như áo quần.
Thân thể thường hôi hám,Đầy cáu bẩn, dơ nhớp.Chấp chặt vào tự ngã,Sân hận càng tăng thêm,Tâm tham dâm cực mạnh,Đến không chừa cầm thú.
Vì hủy báng kinh này,Chịu tội báo như vậy.Phật bảo Xá-lợi-phất:“Dù nói đến trọn kiếp,Cũng chưa hết tội lỗi,Của người hủy báng kinh.Vì nhân duyên như thế,Nên ta dạy ông rằng:Gặp những người ngu si,Đừng thuyết giảng kinh này.”Tổng đoạn thứ hai từ câu “Lại nữa, Xá-lợi-phất! Gặp người kiêu mạn, lười” trở đi, [gồm 55 khổ rưỡi kệ], giải thích ý nghĩa chính trong việc người hành trì nên lưu thông hoặc không nên lưu thông [kinh này]. Phần này lại chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất gồm 36 khổ rưỡi kệ, nêu rõ nghĩa nếu vận dụng pháp môn đại bi thì không vì những người xấu ác mà thuyết giảng [kinh này]. Trước tiên kể ra những trường hợp xấu ác, tất nhiên sẽ khởi lên sự hủy báng xấu ác, [từ đó] nhận lãnh quả báo xấu ác. Cho nên, [người tu tập] tâm đại bi thì không thể vì [những người xấu ác đó mà] thuyết giảng [kinh này].
Về câu “đó là dứt hết sạch, giống Phật của người đời”, kinh Tịnh Danh nói “lấy phiền não làm hạt giống Như Lai”, đó là lấy tánh của cảnh giới [làm giống Phật]. Đại phẩm [Bát-nhã] nói dùng Nhất thiết chủng trí để học Bát-nhã, đó là lấy tánh của liễu nhân làm giống Phật. Kinh Niết-bàn nói vận dụng tâm, tánh và lý đều không dứt đoạn, đó là lấy tánh của chánh nhân làm giống Phật. Nay kinh [Pháp hoa này] nói rõ nghĩa việc thiện nhỏ [cũng có thể] thành Phật, đó là lấy tánh của duyên nhân
[198] làm giống Phật. Nếu không tin được rằng việc thiện nhỏ [cũng có thể] thành Phật thì “đó là dứt hết sạch giống Phật của người đời”.
KINH VĂNNhư gặp người nhanh nhạy,Có trí tuệ sáng suốt,Lại nghe nhiều, nhớ lâu,Phát tâm cầu Phật đạo.
Với những người như thế,Nên vì họ thuyết kinh.Như có người từng gặp,Ngàn muôn ức vị Phật,Gieo trồng các căn lành,Lòng sâu vững, kiên cố.
Với những người như thế,Nên vì họ thuyết kinh.
Như có người tinh tấn,Thường tu tập tâm từ,Không tiếc cả thân mạng,Nên vì họ thuyết kinh.
Ai một lòng cung kính,Không có ý gì khác,Lìa xa người phàm tục,Sống một mình núi vắng.Với những người như thế,Nên vì họ thuyết kinh.
Lại này, Xá-lợi-phất!Nếu gặp được những người,Từ bỏ bạn xấu ác,Thường gần gũi bạn lành.Với những người như thế,Nên vì họ thuyết kinh.
Nếu gặp những Phật tử,Giữ giới thật thuần khiết,Như minh châu trong sáng,Thường cầu kinh Đại thừa.Với những người như thế,Nên vì họ thuyết kinh.
Nếu người không sân hận,Tánh ngay thẳng, nhu hòa,Thường thương xót muôn loài,Và cung kính chư Phật.Với những người như thế,Nên vì họ thuyết kinh.
Lại có những Phật tử,Khi ở giữa đại chúng,Dùng tâm ý thanh tịnh,Với đủ mọi nhân duyên,Cùng thí dụ, ngôn từ,Thuyết pháp không ngăn ngại.Với những người như thế,Nên vì họ thuyết kinh.
Nếu có những tỳ-kheo,Muốn được Nhất thiết trí,Khắp bốn phương cầu pháp,Chắp tay cung kính nhận.Chỉ ưa thích thọ trì,Những kinh điển Đại thừa,Thậm chí không thọ nhận,Một bài kệ kinh khác.Với những người như thế,Nên vì họ thuyết kinh.
Như có người chí tâm,Cầu được xá-lợi Phật,Cầu kinh này cũng vậy,Cầu được, cung kính nhận,Người ấy tâm không cầuBất cứ kinh nào khác,Lại cũng chưa từng nghĩĐến kinh sách ngoại đạo.Với những người như thế,Nên vì họ thuyết kinh.”Đoạn thứ hai từ câu “Như gặp người nhanh nhạy, có trí tuệ sáng suốt” trở đi gồm 19 khổ kệ, giải thích việc khi truyền rộng kinh này nếu vận dụng pháp môn đại bi thì phải vì những người hiền thiện mà thuyết giảng, khiến cho họ không mất đi [cơ hội được] an vui. Nói chung, điều cần yếu trong việc hoằng truyền và lưu thông [kinh điển] là phải hài hòa 2 pháp môn [đại từ và đại bi] khiến cho chúng sinh nhận hiểu được mới là khéo léo lưu truyền. Nếu [thuyết giảng mà chúng sanh] không nhận hiểu được thì đó là “sai lệch nói ra”. Đoạn này chia ra 2 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất gồm 17 khổ kệ, có 5 cặp [ý nghĩa], bao gồm 10 hình tướng riêng lẻ của người hiền thiện, [là những trường hợp] có thể tuyên thuyết giảng giải [kinh này].
Tiểu đoạn thứ hai gồm 2 khổ kệ, tổng kết về [những trường hợp] nên và có thể thuyết giảng [kinh này].
Trong tiểu đoạn thứ nhất, cặp [ý nghĩa] thứ nhất là quá khứ và hiện tại. Căn tánh “nhanh nhạy, có trí tuệ sáng suốt” là hiện tại, “gieo trồng các căn lành” là quá khứ; “nghe nhiều, nhớ lâu” là hiện tại, “từng gặp ngàn muôn ức vị Phật” là quá khứ.
Cặp ý nghĩa thứ hai là trên, dưới. “Thường tu tập tâm từ” là thương xót [chúng sanh] bên dưới, “một lòng cung kính” là tôn trọng [chư Phật] bên trên.
Cặp ý nghĩa thứ ba là trong, ngoài. “Từ bỏ kẻ xấu ác, thường gần gũi bạn lành” là cầu từ bên ngoài, “giữ giới thật thuần khiết, như minh châu trong sáng” là giữ gìn bảo vệ từ bên trong.
Cặp ý nghĩa thứ tư là tự mình thực hành và giáo hóa người khác. “Tánh ngay thẳng, nhu hòa, thường thương xót muôn loài và cung kính chư Phật” là tự mình thực hành; “dùng tâm ý thanh tịnh, với đủ mọi nhân duyên, cùng thí dụ, ngôn từ, thuyết pháp không ngăn ngại” là giáo hóa người khác.
Cặp ý nghĩa thứ năm là khởi đầu và chung cuộc. “Khắp bốn phương cầu pháp” là khởi đầu thưa thỉnh cầu đạo; “chắp tay cung kính nhận”, chuyên tâm tu hành là chung cuộc quay về nương tựa. Đại lược là như vậy.
KINH VĂNPhật bảo Xá-lợi-phất:“Dù kể đến trọn kiếp,Cũng chưa hết tướng trạng,Những người cầu Phật đạo.
Những người ta kể trên,Ắt có thể tin hiểu.Ông nên vì họ thuyết,Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.”Tiểu đoạn thứ hai gồm 2 khổ kệ, từ câu “Phật bảo Xá-lợi-phất” trở đi là tổng kết. [Những người có] niềm tin và hiền thiện rất nhiều, [ở đây] chỉ lược nêu 10 tướng trạng để chỉ bày phương pháp lưu hành truyền rộng [kinh này], giải thích rõ 2 pháp môn đại từ và đại bi là trọng yếu nhất trong việc nên hay không nên truyền rộng [kinh này].
[199]_____________________
CHÚ THÍCH[1] Nguyên tác dùng “動樹訓風舉扇喻月 - động thọ huấn phong, cử phiến dụ nguyệt”. Ý nghĩa là vì không thể nhìn thấy gió nên phải dựa vào sự lay động của cây mà biết có gió; lúc không có mặt trăng thì xòe cây quạt ra có hình tròn tương tự để ví dụ so sánh mô tả.
[2] Thí dụ nêu ra “cha và con” là việc thường tình, thường gặp trong thế gian; trong kinh này Phật nói rõ hết thảy hàng đệ tử Thanh văn cũng đều là con Phật, là đệ tử chân thật của Phật, đều có khả năng thành Phật, đó là việc chưa từng có trước đây.
[3] Văn Cú ký giải thích rằng, người đời sinh ra trong thế gian là pháp sinh của thế gian; còn giáo pháp ba thừa do Phật quyền biến chỉ dạy là pháp sinh ra xuất thế.
[4] Văn Cú ký giải thích rằng pháp trừ diệt của thế gian là tránh được những khổ nạn trong gia đình, pháp trừ diệt xuất thế là dứt trừ được sự mê hoặc.
[5] Văn Cú ký giải thích rằng, pháp chẳng sinh chẳng diệt của thế gian là nói những cỗ xe lớn của người cha, vốn là sẵn có nên gọi là chẳng sinh, tốt đẹp không hư hoại nên gọi là bất diệt; pháp chẳng sinh chẳng diệt xuất thế là nói tánh đức [của chúng sanh] vốn sẵn có nên gọi là chẳng sinh, tu tập đạt đến quả vị thường hằng nên gọi là biết diệt.
[6] Thí dụ trích từ kinh Đại Bát Niết-bàn, phẩm Bồ Tát Sư Tử Hống, quyển 27. “二 乘之 人雖觀因緣... ...未能渡十二 因緣河猶如兔馬。”- Nhị thừa chi nhân tuy quán nhân duyên... ...vị năng độ thập nhị nhân duyên hà do như thố mã.” (ĐCT, T12, 374, tr.523c, d.27 đến tr.524a, d.1.)
[7] Thông hoặc (phiền não chung), chỉ những phiền não mà cả Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát đều dứt trừ, nên gọi là chung, bao gồm kiến hoặc và tư hoặc.
[8] Nguyên tác dùng ba-la-mật, ở đây chỉ sự rốt ráo hoàn thiện, giúp hành giả vượt thoát đến bờ giải thoát. Cho nên các pháp tu giúp hành giả đạt được sự giải thoát rốt ráo đều gọi là ba-la-mật.
[9] Biệt hoặc (phiền não riêng), chỉ các phiền não vi tế hơn chỉ hàng Bồ Tát mới dứt trừ được, nên gọi là riêng, bao gồm trần sa hoặc và vô minh hoặc.
[10] Tức là một trong ba vòng thuyết giảng đã được phân chia ở trước: thuyết chánh pháp, thuyết thí dụ và thuyết nhân duyên. Ở đây chỉ phẩm Phương tiện ở trước đã nói xong phần đầu, nên từ đầu phẩm Thí Dụ này sẽ tính là phần thứ hai.
[11] Nhận xét của Văn Cú ở đây có nghĩa là phần trình bày chỗ nhận hiểu của ngài Xá-lợi-phất và phần chư thiên nói kệ nên đưa ra trước, ở cuối phẩm Phương tiện để làm trọn vẹn ý nghĩa của 4 phần sau trong phẩm này. Và như vậy thì phẩm Thí dụ bắt đầu ở ngay trước phần nói thí dụ về căn nhà đang bốc cháy, sẽ phù hợp hơn với ý nghĩa của phẩm Thí dụ.
[12] Nguyên tác dùng “tứ trụ - 四住“ tức tứ trụ địa (四住地), bao gồm Kiến nhất thiết trụ địa (tức là hết thảy kiến hoặc trong ba cõi), Dục ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Dục giới), Sắc ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Sắc giới), Hữu ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Vô sắc giới). Bốn yếu tố này là căn bản khởi sinh của tất cả phiền não nên gọi là trụ địa.
[13] Nguyên tác dùng “tử quả - 子果”, chỉ các quả báo của phiền não. Phiền não trong quá khứ sinh ra quả trong hiện tại, phiền não hiện tại sinh quả trong tương lai. Vị A-la-hán không còn thọ sinh chịu quả báo trong tương lai nên gọi là dứt sạch quả tử, cũng tứt là dứt hết quả báo phiền não.
[14] Hai pháp quán không (nhị không quán - 二空觀), chỉ hai pháp quán: đãn không (但空) và bất đãn không (不但空). Tạng giáo và Thông giáo tuy quán không, chỉ thấy các pháp là không nhưng không thấy được chỗ “chẳng phải không”, cho nên gọi là đãn không. Biệt giáo và Viên giáo quán không thì chẳng những thấy được muôn pháp đều không, cũng đồng thời thấy được chỗ chẳng phải không, cho nên gọi là bất đãn không.
[15] Đoạn này Văn Cú giảng giải bốn chữ “合掌向佛 - hợp chưởng hướng Phật”, nhưng thật ra trong kinh văn chỉ nói “即起合掌 - tức khởi hợp chưởng” (đứng dậy chắp tay), không có hai chữ “hướng Phật”, hẳn là Văn Cú giảng theo ý nghĩa suy ra được. (Kinh văn đã dẫn, tr.10b, d.29.)
[16] Câu này lấy ý từ sách Ma-ha Chỉ quán, quyển 1: “Ví như mặt trời mọc lên, trước hết chiếu sáng trên núi cao, tiếp đến chiếu nơi hang núi, cuối cùng mới chiếu sáng đồng bằng. Đồng bằng ví như chúng sinh chưa biết đạo, hang núi ví như hàng tiệm tu, núi cao là hàng căn cơ đốn ngộ.”
[17] Kinh Tư Ích tức là Tư Ích Phạm thiên sở vấn kinh (思益梵天所問經), ĐCT, T15, 586. Kinh Tịnh Danh là tên khác của Duy-ma-cật sở thuyết kinh (維摩詰所說經), ĐCT, T14, 75. Cả hai kinh này đều được tông Thiên Thai xếp vào thời Phương đẳng.
[18] Nguyên tác dùng tam đế (三諦), chỉ không đế (空諦), giả đế (假諦) và trung đế (中諦), là trí tuệ thấu hiểu phát sinh từ ba pháp quán: quán không, quán giả và quán trung đạo.
[19] Nguyên tác là “五佛道同 - ngũ Phật đạo đồng”, ngũ Phật không phải 5 vị Phật, mà là chỉ đến (1) chư Phật trong mười phương, (2) chư Phật quá khứ, (3) chư Phật vị lai, (4) chư Phật hiện tại và (5) Phật Thích-ca Mâu-ni. Cách nói này thật ra là để nhấn mạnh tất cả chư Phật trong mọi không gian và thời gian. Tất cả chư Phật như vậy đều thuyết pháp giống nhau nên nói là “đạo đồng”.
[20] Nguyên tác là “二萬億 - nhị vạn ức”. Con số này nếu tính ra chính xác thì là 2 tỷ. Tuy nhiên, kinh văn chỉ dùng với ý nghĩa biểu tượng để nói là rất nhiều, không phải một sự tính đếm chính xác, do vậy chúng tôi không tính toán ra mà để nguyên cách diễn đạt của Nguyên tác.
[21] Luận Thập trụ Tỳ-bà-sa (十住 毘婆沙論), gồm 17 quyển, thuộc ĐCT, T26, số 1521.
[22] Ở đây chỉ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp trên thân tướng của một vị Phật.
[23] Nguyên tác nói “四無礙 - tứ vô ngại”, tức là chỉ tứ vô ngại trí (四無礙智), cũng gọi là tứ vô ngại giải (四無礙解) hay tứ vô ngại biện (四無礙辯), chỉ đến trí tuệ biện tài không ngăn ngại của một vị Phật.
[24] Nguyên tác dùng “二障 - nhị chướng”, chỉ đến phiền não chướng và sở tri chướng, hai sự che chướng khiến cho hành giả không thể đạt được sự giải thoát rốt ráo.
[25] Bảy phẩm tính vô thượng được trình bày ở đây là những phẩm tính của một vị Phật.
[26] Kinh Bồ Tát Anh Lạc (菩薩瓔珞經), gồm 14 quyển, thuộc ĐCT, T16, số 656.
[27] Trong kinh Bồ Tát Anh Lạc, phần trích dẫn này được gọi là “thập thanh tịnh pháp” (mười pháp thanh tịnh) và có thêm câu “道當精懃懈怠非道 - đạo đương tinh cần giải đãi phi đạo” (Đạo phải tinh tấn chuyên cần, lười nhác không phải đạo.) Có điểm lạ ở đây là trong kinh có thêm câu này nên thành 11 pháp, nhưng pháp thứ sáu bị lặp lại hai lần nên vẫn được đếm thành mười pháp. Chúng ta không thể biết được là ngài Trí Khải khi trích dẫn đã có sự điều chỉnh cho hợp lý hay bản kinh ngài đọc được vào thời đó có khác biệt với bản hiện nay.
[28] Từ Như Lai... đến Thế Tôn là Thập hiệu của tất cả chư Phật.
[29] Tam tụ (三聚), chỉ chánh định tụ (正定聚), tà định tụ (邪定聚) và bất định tụ (不定聚). Luận Đại trí độ, quyển 84 giải thích: Phá trừ điên đảo là chánh định, không thể phá trừ điên đảo là tà định, tùy thuộc vào nhân duyên nên có lúc phá trừ được điên đảo, có lúc không thể phá trừ, gọi là bất định. (ĐCT, T25, 1509, tr.647c, d.28 - tr.648a, d.1.)
[30] Ở đây Văn Cú chuyển sang dùng cách dịch âm là Bà-già-bà (婆伽婆), cũng phiên âm là Bạc-già-phạm (薄伽梵). Đây là phiên âm từ chữ Bhagavat, cách dịch nghĩa thông dụng nhất là Thế Tôn. Chúng tôi chọn dùng để nhất quán với 9 danh hiệu trước.
[31] Nguyên tác dùng Thiện Cát (善吉), là một tên khác của ngài Tu-bồ-đề.
[32] Văn Cú trích dẫn theo ý kinh. Đúng ra nguyên văn kinh là: “眾生病則菩薩病,眾生病愈,菩薩亦愈。 - Chúng sinh bệnh tắc Bồ Tát bệnh, chúng sinh bệnh dũ, Bồ Tát diệc dũ.” (Chúng sinh có bệnh nên Bồ Tát có bệnh. Chúng sinh khỏi bệnh thì Bồ Tát cũng khỏi bệnh.) (ĐCT, T14, 475, tr.544b, d.26 -27.)
[33] Nguyên tác dùng “tâm tự tại giả - 心自在者”, nghĩa là các vị này đều đã đạt quả vị Vô học, tức thánh quả A-la-hán. Ở đây nói 1.200 vị, còn ở phần mở đầu kinh nói là 12.000 vị A-la-hán, có lẽ đã nhầm. Tham khảo bản dịch từ Phạn ngữ của H. Kern (The Lotus Sutra - Sacred Books of the East, Vol XXI, 1884) thì ở hai vị trí này đều nói là “twelve hundred”, tức là 1.200.
[34] Câu kinh này trong bản dịch của H. Kern (sách đã dẫn) có thêm chi tiết nói đến 2.000 vị hữu học, phù hợp với thông tin ở phần mở đầu kinh.
[35] Ở đây nói theo ý đã nêu ra trong phần trước, phân chia nội dung kinh này thành ba vòng thuyết pháp. Thứ nhất là thuyết Chánh pháp, thứ hai là thuyết thí dụ và thứ ba là thuyết nhân duyên.
[36] Câu văn này hơi khó hiểu, do sự phân chia kinh văn thực tế khác với sự phân chia được Văn Cú đề cập ở đây. Theo kinh văn thì phần nội dung “bốn chúng hoan hỷ” nằm ở đầu phẩm Thí dụ này, nhưng theo Văn Cú thì phần thuyết thí dụ chỉ bắt đầu từ câu “Lúc ấy ngài Xá-lợi-phất bạch Phật...” Như vậy đoạn văn “bốn chúng hoan hỷ” được xem là còn thuộc về phần thuyết Chánh pháp ở trước. Do vậy ở đây mới nói phần thuyết thí dụ không có nội dung này. Về giải thích “hoặc văn sau nằm ở phẩm Pháp Sư” có thể là chỉ đến câu: “能令大眾喜 - năng linh đại chúng hỷ”.
[37] Ở đây đức Phật nhấn mạnh tính chất “thí dụ” nên không đưa ra một nơi chốn nhất định, mà giả định trường hợp ông trưởng giả này có thể ở bất kỳ nơi đâu, bất kỳ thành phố, xóm ấp nào.
[38] Tức là đoạn kệ: “Nay ta cũng như vậy, Vì giúp chúng an ổn, Dùng đủ mọi pháp môn, Để chỉ bày Phật đạo. Ta dùng sức trí tuệ, Biết lòng dục chúng sinh, Phương tiện giảng các pháp, Khiến cho đều hoan hỷ.”
[39] Tám nỗi khổ (八苦- bát khổ), chỉ chung tất cả những nỗi khổ mà chúng sinh phải gánh chịu, bao gồm: sinh khổ (sự khổ vì sinh ra), lão khổ (sự khổ vì già suy), bệnh khổ (sự khổ vì bệnh tật), tử khổ (sự khổ vì cái chết), ái biệt ly khổ (sự khổ vì phải xa lìa người mình thương yêu), oán tắng hội khổ (sự khổ vì phải gặp người mình oán ghét), cầu bất đắc khổ (sự khổ vì mong cầu không được như ý) và ngũ ấm xí thạnh khổ (sự khổ vì các ấm như sắc, thọ, tưởng, hành, thức bùng phát mạnh mẽ, không thể kiểm soát).
[40] Nguyên tác Văn Cú dùng “口無擇言, 身無擇行, 意無擇法 - khẩu vô trạch ngôn, thân vô trạch hành, ý vô trạch pháp”, hàm ý là khi nói ra không cần phải chọn lựa mà lời nào cũng hay cũng đúng, khi hành động không cần chọn lựa mà luôn thích hợp với hoàn cảnh, mọi ý nghĩ không cần lựa chọn mà luôn đúng đắn, bởi vì tất cả lời nói, việc làm hay ý nghĩ đều đã thành nề nếp chân chánh đúng thật, tự nhiên phát xuất không cần lựa chọn.
[41] Đây là giải thích ý kinh trong câu “若國邑聚落有大長者 – nhược quốc ấp tụ lạc hữu đại trưởng giả...” (Ví như trong đất nước, đô thành, thôn xóm có vị đại trưởng giả...) Do ý nghĩa dùng đại trưởng giả để ví như đức Như Lai nên mới có sự giải thích “quốc, ấp, tụ lạc” theo ý nghĩa này. Văn Cú dùng “三千 - tam thiên” là nói tắt của “tam thiên đại thiên thế giới”, chỉ cho một đại thiên thế giới. Một cõi bốn thiên hạ là chỉ bốn châu ở bốn phương núi Tu-di, dưới quyền thống lãnh của vị Chuyển luân Thánh vương khi vị vua ấy ra đời. Phương bắc là Câu-lô châu, hay Uất-đan-việt châu, phương nam là Thiệm-bộ châu, hay Diêm-phù-đề châu, phương tây là Ngưu-hóa châu hay Cồ-da-ni châu, phương đông là Thắng thần châu hay Phất-bà-đề châu.
[42] Vũ trụ quan của Phật giáo cho rằng một đại thiên thế giới gồm 1.000 trung thiên thế giới; một trung thiên thế giới gồm 1.000 tiểu thiên thế giới; một tiểu thiên thế giới gồm 1.000 thế giới. Do cấu trúc gồm ba lần số ngàn như vậy nên một đại thiên thế giới được gọi là “tam thiên đại thiên thế giới” nhưng thực tế chỉ cho một đại thiên thế giới. Những cách chuyển dịch thành “ba ngàn thế giới” hay “ba ngàn đại thiên thế giới” đều là nhầm lẫn, vì tam thiên (三千) ở đây không chỉ số 3.000 mà ý nói ba lần bội số của 1.000.
[43] Nguyên tác dùng “上歎 - thượng thán” (người trên ngợi khen xưng tán). Người trên ở đây chỉ đức vua đương thời, người đứng đầu đất nước.
[44] Nguyên tác Văn Cú dùng “輔弼丞相鹽梅阿衡 – phụ bật thừa tướng diêm mai a hoành”. Chữ phụ bật (輔弼) chỉ người bầy tôi giúp vua lo việc triều chính, thừa tướng (丞相) là chức quan đứng đầu triều đình, diêm mai (鹽梅) là vị mặn của muối (diêm) và vị chua của quả mơ (mai), được dùng để chỉ những người hiền tài có thể giúp điều hành đất nước, khiến cho chính sự được hài hòa, thích hợp. Chữ a (阿) có nghĩa là dựa vào, chữ hoành (衡) là cân bằng, a hoành chỉ những người mà đức vua có thể dựa vào để giữ cho việc điều hành đất nước được cân bằng. A hoành cũng là tên một chức quan lớn thời cổ, tương đương với tể tướng sau này.
[45] Nguyên tác Văn Cú dùng “不肃而成 - bất túc nhi thành”. Túc nghĩa là răn đe nghiêm khắc, khiến người khác phải sợ sệt mà nghe theo. Bất túc nghĩa là không cần đến những biện pháp nghiêm khắc như vậy. Thành là thành tựu theo ý muốn, ở đây có nghĩa là sai khiến được người khác. Hiếu kinh cũng có câu “是以其教不肃而成 - Thị dĩ kỳ giáo bất túc nhi thành” được hiểu theo nghĩa tương tự.
[46] Nguyên tác dùng “四海 - tứ hải” (bốn biển) với nghĩa chỉ người trong khắp thiên hạ. Đây là cách dùng quen thuộc của người Trung Hoa, như “tứ hải giai huynh đệ” (người trong khắp thiên hạ đều là anh em).
[47] Một tâm ba trí (一心三智 - nhất tâm tam trí), tức là cùng lúc chứng đạt cả ba loại trí tuệ, gồm Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí.
[48] Bảy hạng phương tiện ở đây chỉ bảy hạng chúng sinh đang tu tập thuộc về nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ Tát thừa của Tạng giáo, Bồ Tát thừa của Thông giáo và Bồ Tát thừa của Biệt giáo.
[49] Ba hoặc: chỉ kiến tư hoặc, trần sa hoặc và vô minh hoặc. Chữ hoặc mang nghĩa mê hoặc, không sáng suốt, không thấy biết đúng thật, cho nên các hoặc này cũng chính là phiền não của chúng sinh.
[50] Ba đế (tam đế) theo tông Thiên Thai là ba sự thật đạt đến do sự quán chiếu, bao gồm Không đế là kiếp quán chiếu tánh không của các pháp, Giả đế là kết quả quán chiếu sự giả tạm của các pháp, Trung đế là kết quả quán trung đạo.
[51] Có nghĩa là vượt trên cả nhân thừa, thiên thừa... cho đến Bồ Tát thừa của Biệt giáo.
[52] Nguyên tác là “天龍四部 - thiên long tứ bộ”. Kinh điển thường nhắc đến 8 bộ chúng thường theo bảo vệ, cúng dường người hành trì Phật pháp, với chư thiên và loài rồng là hai bộ kể ra trước tiên, bao gồm: thiên, long, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la và ma-hầu-la-già. Ở đây chỉ kể 4 bộ tức là chư thiên, loài rồng, dạ-xoa và càn-thát-bà.
[53] Chỗ này Văn Cú trích 4 câu kệ cuối quyển 5 của Kinh Pháp hoa, nhưng ghi là “佛子住是地 - Phật tử trụ thị địa”. Nguyên văn cả 4 câu này đúng ra là: “佛子住此地,則是佛受用,常在於其中,經行及坐臥。 - Phật tử trụ thử địa, tắc thị Phật thọ dụng; thường tại ư kỳ trung, kinh hành cập tọa ngọa.” Xem ĐCT, T9, số 262, trang 46b, d.12-13.
[54] Tức thập bát không môn (十八空門), chỉ 18 pháp không để đối trị dứt trừ hết thảy mọi tà kiến, bao gồm: nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhất nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thủy không, tán không, tính không, tự tướng không, chư pháp không, bất khả đắc không, vô pháp không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không.
[55] Văn Cú chép là “光宅雲 - Quang Trạch Vân”, tức là ngài Pháp Vân (法雲), trụ trì chùa Quang Trạch (光宅).
[56] Văn Cú chép là “九十 - cửu thập”, Văn Cú Ký giải thích ở đây là nói lược, nói đủ là “cửu thập lục” để chỉ 96 hạng ngoại đạo. Sách này cũng giải thích rằng 6 vị thầy ngoại đạo, mỗi người đều có 15 đệ tử, lập thành 15 luận thuyết ngoại đạo, cộng là 90 với 6 luận thuyết ban đầu là 96 luận thuyết ngoại đạo.
[57] Văn Cú dùng “五道 - ngũ đạo”, tức năm đường tái sinh của chúng sinh, gồm: cõi trời, cõi người, cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ và cõi súc sinh.
[58] Văn Cú dùng “六道 - lục đạo”, ý nghĩa cũng giống như “ngũ đạo” ở trên. Khi dùng lục đạo thì có thêm cảnh giới a-tu-la, khi dùng ngũ đạo thì xem như a-tu-la không phải một cảnh giới riêng mà tùy nghiệp thọ sinh trong các cảnh giới của chư thiên và loài người, hoặc trong cả 5 đường. Cả hai cách dùng đều là để chỉ chung tất cả các cảnh giới tái sinh của chúng sinh trong luân hồi.
[59] Văn Cú dùng “四生 - tứ sanh” để chỉ tất cả chúng sinh, vì hết thảy chúng sinh đều được sinh ra bởi một trong bốn cách sinh (tứ sanh) là thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh.
[60] Văn Cú ở đây dùng chữ “炊然 - xuy nhiên” nhưng thật ra trong kinh văn dùng chữ “歘然 - hốt nhiên”, nghĩa là bỗng nhiên, đột nhiên, bất ngờ xảy ra. Chữ hốt (歘) là cách viết khác của hốt (欻) vốn thông dụng hơn.
[61] Văn Cú dùng chữ “天性 - thiên tính”, hiểu theo nghĩa đen là tánh trời sinh, nhưng ở đây phải hiểu là khuynh hướng tâm tánh có được do đã nhiều đời tu tập Phật pháp. Và vì thế mà những chúng sinh có tu tập thì tâm tánh có sự tương quan.
[62] Mười trí (十智 - thập trí), tức mười loại trí tuệ mà chúng sinh tùy theo trình độ tu tập có thể dần dần khởi sinh, bao gồm: 1. Thế tục trí, 2. Pháp trí, 3. Loại trí, 4. Khổ trí, 5. Tập trí, 6. Diệt trí, 7. Đạo trí, 8. Tha tâm trí, 9. Tận trí, 10. Vô sinh trí. Ở đây nói “tánh của mười trí” là hàm ý có tiềm năng đạt được, nhưng phải do nơi sự tu tập.
[63] Nguyên tác Văn Cú đến đây là hết phần thượng của quyển 5, bắt đầu phần hạ.
[64] Trong nguyên tác dùng chữ “爲本 - vi bản”, nghĩa đen là lấy đó làm gốc, ở đây có nghĩa là các thí dụ này được dẫn khởi từ ý nghĩa của những phần kệ tụng được đề cập, nhằm minh họa cho rõ nghĩa hơn.
[65] Tức là 4 khổ kệ từ câu “Xá-lợi-phất nên biết” đến câu “Ta khởi tâm đại bi”, trong phẩm Phương tiện.
[66] Nguyên tác Văn Cú nói là “捨机用車 - xả kỷ dụng xa” để chỉ việc ông trưởng giả từ bỏ ý định dùng sức mạnh bọc các con trong chéo áo hoặc đặt lên bàn lớn rồi mang ra khỏi nhà, vì sợ các con vùng vẫy sẽ rơi xuống, tổn hại, chuyển sang dùng phương tiện dẫn dụ bằng các loại xe đẹp.
[67] Tức là phần 17 khổ rưỡi kệ (70 câu), từ câu “Ban sơ ngồi đạo trường” đến câu “Ta thường thuyết như vậy”, trong phẩm Phương tiện.
[68] Tức là phần 6 khổ kệ, từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, Ta thấy những Phật tử” cho đến câu “cũng đều sẽ thành Phật”, trong phẩm Phương tiện.
[69] Tức là phần 2 khổ rưỡi kệ, từ câu “Các ông chớ hoài nghi” đến câu “Bí yếu của chư Phật”, trong phẩm Phương tiện.
[70] Văn Cú chỉ kể hai yếu tố. Bốn sự điên đảo này kể đủ là: bất tịnh cho là tịnh, khổ cho là vui, vô thường cho là thường, vô ngã cho là hữu ngã.
[71] Bốn đại: tức địa đại (tánh rắn chắc), thủy đại (tánh ướt), phong đại (tánh động) và hỏa đại (tánh nóng hay nhiệt năng). Bốn yếu tố này hợp lại thành thân thể cũng như hết thảy các loại vật chất.
[72] Chỉ các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh như đã giải thích ở phần trước.
[73] Bốn kiến chấp: chấp là có, là không, là vừa có vừa không, là chẳng phải có cũng chẳng phải không.
[74] Tức là câu kinh trong quyển 2: “以貪著追求故, 現受眾苦,後受地獄, 畜生, 餓鬼之苦 - Dĩ tham trước truy cầu cố, hiện thọ chúng khổ, hậu thọ địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ chi khổ.” (ĐCT, T9, 262, tr.13a, d.20-21)
[75] Nguyên tác dùng “勸誡 - khuyến giới” để chỉ hai phương thức căn bản mà đức Phật vận dụng trong sự giáo hóa chúng sinh. Khuyến (勸) là khuyên bảo, khuyến khích những việc nên làm, tức là tất cả những việc thiện, nói chung là khuyên bảo khuyến khích. Giới (誡) là răn nhắc, ngăn cản, dạy bảo cho biết những điều không nên làm, tức là tất cả những việc xấu ác, nói chung là răn dạy ngăn ngừa.
[76] Nguyên tác dùng “出- xuất” và “入 - nhập”. Xuất là thoát ra khỏi thế tục khổ não; nhập là thể nhập tự tánh, Phật tánh, đạt đến Niết-bàn tịch diệt. Pháp quyền thừa chỉ giúp người thoát khỏi khổ đau nhưng chưa đạt đến giải thoát rốt ráo, cho nên nói phàm phu không biết chỗ thoát ra là không biết pháp quyền. Pháp chân thật hay Phật thừa là thể nhập Phật tánh, đạt đến Niết-bàn tịch diệt, cho nên nói không biết chỗ thể nhập là không biết pháp thật. Phần giải thích tiếp theo cũng vận dụng ý nghĩa “xuất, nhập” như vậy.
[77] Nguyên tác dùng “四念 - tứ niệm”, tức là tứ niệm xứ (四念處), gồm các pháp thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ và pháp niệm xứ. Cũng gọi là tứ ý chỉ (四意止) hay tứ chỉ niệm (四止念).
[78] Tức là phần kệ tụng từ câu “Liền nhớ Phật quá khứ...” đến hết câu “Ta thường thuyết như vậy”, gồm 11 khổ kệ.
[79] Nguyên tác dùng “六心中退 - lục tâm trung thối”. Văn Cú Ký giải thích rằng đây là dựa theo ý kinh Bồ Tát Anh Lạc (菩薩瓔珞經), trong đó nói ngài Xá-lợi-phất khi tu tập còn trong hàng Thập trụ, lên đến trụ địa thứ sáu thì thối tâm, vì kiến chấp ở địa vị này vẫn chưa dứt hết.
[80] Đây là 2 trong bốn giai vị : noãn vị, đảnh vị, nhẫn vị và thế đệ nhất vị, cũng gọi là noãn pháp, đảnh pháp, nhẫn pháp và thế đệ nhất pháp.
[81] Nguyên tác dùng “三十二諦 - tam thập nhị đế”, Văn Cú Ký giải thích đây là các hành tướng khi quán tứ đế, mỗi đế đều có 4 hành tướng, cả thảy là 16 hành tướng, lại có đủ trong hai bậc thượng hạ, nên tổng cộng thành 32 hành tướng, tức 32 đế.
[82] Hành giả tu tập quán xét bốn chân đế khởi sinh 16 tâm sáng suốt gọi là Thánh đế hiện quán. Trong đó 15 tâm trước thuộc về Kiến đạo, tâm cuối cùng thuộc về Tu đạo, tức là Đạo loại trí.
[83] Nguyên tác Văn Cú dùng “心境相研 – tâm cảnh tương nghiên”, Văn Cú Ký giải thích rằng: “以境研心, 以心觀境, 故名互相 - dĩ cảnh nghiên tâm, dĩ tâm quán cảnh, cố danh hỗ tương”.
[84] Tứ đại Thanh văn (四大聲聞), chỉ bốn vị đại Thanh văn, trong nhiều kinh luận khác nhau nêu tên của “tứ đại Thanh văn” rất khác nhau. Tuy nhiên, ở đây chỉ bốn vị Thanh văn trong hội Pháp hoa này, từ đầu phẩm Tin hiểu sau phẩm Thí dụ này, trình bày chỗ nhận hiểu và được Phật thụ ký sẽ thành Phật. Đó là các vị Đại Ca-diếp, Tu-bồ-đề, Mục-kiền-liên và Ca-chiên-diên.
[85] Nguyên tác dùng Đại phẩm, chỉ Đại phẩm Bát-nhã.
[86] Chỉ bốn trong số 5 sự uế trược của thế giới Ta-bà là kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược và mạng trược.
[87] Nguyên tác dùng chánh sử (正使), cũng gọi tắt là sử, chỉ phiền não, phân biệt với tập khí.
[88] Nguyên tác dùng vô tri (無知), nghĩa là “không biết”, là cách nói khác để chỉ vô minh hay si mê.
[89] Kinh văn dùng chữ “cùng tử - 窮子“ để chỉ kẻ nghèo hèn khốn khó, đến bước đường cùng.
[90] Tức là một trong ba vòng (tam chu) thuyết pháp như đã được giải thích ở trước: thuyết chánh pháp, thuyết thí dụ và thuyết nhân duyên.
[91] Ở đây chỉ phần kệ trong kinh văn ở trang 12a, d.12-14: “令諸子等,日夜劫數,常得遊戲, 與諸菩薩, 及聲聞眾,乘此寶乘,直至道場。 - Linh chư tử đẳng, nhật dạ kiếp số, thường đắc du hý, dữ chư Bồ Tát, cập Thanh văn chúng, thừa thử bảo thừa, trực chí đạo tràng.” Phần kệ này liên kết giữa thí dụ “trưởng giả cho xe” với sự tu tập theo Phật thừa (bảo thừa) nên Văn Cú gọi là kệ hợp thí.
[92] Tức là nói các vòng Phật thuyết chánh pháp, thuyết thí dụ và thuyết nhân duyên.
[93] Đoạn này thật ra Văn Cú không trích dẫn nguyên văn trong kinh mà chỉ lược ý và nói quá ngắn gọn nên chúng tôi phải căn cứ theo kinh văn để diễn giải thêm. Nguyên văn đoạn kinh này là: “諸善男子!如來見諸眾生樂於小法、德薄垢重者,為是人說:我少出家,得阿耨多羅三藐三菩提。然我實成佛已來久遠若斯,但以方便,教化眾生,令入佛道,作如是說。諸善男子!如來所演經典,皆為度脫眾生,或說己身、或說他身,或示己身、或示他身,或示己事、或示他事,諸所言說,皆實不虛。- Chư thiện nam tử! Như Lai kiến chư chúng sinh nhạo ư tiểu pháp, đức bạc cấu trọng giả, vị thị nhân thuyết: Ngã thiếu xuất gia, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Nhiên ngã thật thành Phật dĩ lai cửu viễn nhược tư, đãn dĩ phương tiện giáo hóa chúng sinh, linh nhập Phật đạo, tác như thị thuyết. Chư thiện nam tử! Như Lai sở diễn kinh điển, giai vi độ thoát chúng sinh, hoặc thuyết kỷ thân, hoặc thuyết tha thân, hoặc thị kỷ thân, hoặc thị tha thân, hoặc thị kỷ sự, hoặc thị tha sự, chư sở ngôn thuyết, giai thật bất hư.” (ĐCT, T9, 262, tr.42c, d.5 - 12.)
[94] Nguyên tác chỉ nói “Tam tạng”, tức chỉ Tạng giáo. Văn Cú Ký giải thích rằng ở đây đề cập đến cả Tạng giáo và Thông giáo và nói rõ các điều nạn vấn thứ nhất, thứ ba, thứ chín và thứ mười là dựa theo Tạng giáo, còn các điều nạn vấn thứ tư, thứ năm, thứ sáu đều dựa theo Thông giáo. Ba điều nạn vấn còn lại (thứ hai, thứ bảy và thứ tám) là dựa theo cả Tạng giáo và Thông giáo. Không thấy Văn Cú Ký nêu căn cứ cho giải thích này, có lẽ chỉ dựa theo ý nghĩa.
[95] Nguyên tác chỉ nói ngũ vị (五味), tức năm mùi vị, ở đây là ví với các mùi vị của sữa (nhũ), sữa đặc (lạc), váng sữa sống (sinh tô), váng sữa chín (thục tô) và đề hồ để chỉ đến các giai đoạn tu tiến qua các giai vị Thanh văn (nhũ), Duyên giác (lạc), Bồ Tát (sinh tô, thục tô), chư Phật (đề hồ).
[96] Bốn ý ở đây có nghĩa là bốn trường hợp có thể xảy ra, bao gồm: 1. Có dứt trừ; 2. Không dứt trừ; 3. Vừa dứt trừ vừa không dứt trừ…; 4. Vừa không dứt trừ vừa chẳng phải không dứt trừ…
[97] Nguyên tác dùng “tứ cú” để chỉ bốn trường hợp được kể ra sau đó.
[98] Nguyên tác dùng “斯宗 - tư tông” (tông phái ấy), thật ra là nói tông chỉ của những người có quan điểm sai lầm như trên, không phải chỉ tông phái.
[99] Ở đây chỉ việc các quan điểm đã nêu trên chỉ chấp nhận một ý là Tiểu thừa có thỉnh cầu, đòi hỏi quả vị, còn Bồ Tát thì không.
[100] Chúng tôi chưa tìm thấy nội dung này trong nguyên tác kinh Hoa nghiêm hiện nay, có thể đã được trích dẫn từ nguồn khác.
[101] Nguyên tác Văn Cú dùng “支佛乘 - Chi Phật thừa”, tức Bích-chi Phật thừa, tên khác của Duyên giác thừa.
[102] Nguyên tác Văn Cú dùng Địa luận, chỉ Thập địa kinh luận, tác phẩm căn bản của phái Địa luận.
[103] Nguyên tác Văn Cú dùng “瓔珞 - Anh Lạc”, có phần chắc là chỉ kinh Bồ Tát Anh Lạc (菩薩瓔珞經), có 14 quyển, nhưng chúng tôi vẫn chưa tìm thấy nội dung trích dẫn này trong nguyên tác kinh.
[104] Tận trí và vô sinh trí là 2 trí của bậc xuất thế. Tận trí là trí đã dứt trừ hết thảy phiền não, thể nhập địa vị vô học, vô lậu. Vô sinh trí là trí tuệ rõ biết không còn thối chuyển.
[105] Các giác đạo: chỉ 7 giác chi (thất giác chi) và 8 chánh đạo (bát chánh đạo). Ở đây kinh văn đang nói đến 37 phẩm trợ đạo.
[106] Văn Cú Ký giải thích rằng, các pháp vô lậu, căn, lực là thuộc trí tuệ; thiền định, giải thoát… là thuộc phúc đức. Cho nên ở đây không chỉ nói riêng về trí tuệ.
[107] Văn Cú dùng “空解無動 – không giải vô động” rất khó hiểu. Văn Cú Ký giải thích câu này là: “意謂運義不成 – ý vị vận nghĩa bất thành” (ý nói nghĩa vận động không thành được). Xét thêm ở đoạn tiếp theo có dùng chữ “vận động” thì thấy giải thích này hợp lý.
[108] Đoạn kệ này được trích từ phẩm Tin hiểu: “我等長夜, 修習空法,得脫三界,苦惱之患, 住最後身,有餘涅槃。 - Ngã đẳng trường dạ, tu tập không pháp, đắc thoát tam giới khổ não chi hoạn, trụ tối hậu thân hữu dư Niết-bàn.” (ĐCT, T9, 262, tr.18c, d.2-4)
[109] Văn Cú dùng “具度 - cụ độ”, Văn Cú Ký nói “行是具度 - hành thị cụ độ”, nên biết rằng “cụ độ” chỉ đầy đủ các pháp tu, công hạnh.
[110] Nguyên tác Văn Cú dùng “依天台智者 - y Thiên Thai Trí Giả”, dường như là một lỗi của người biên tập. Toàn bộ sách này ghi lại lời giảng của Đại sư Thiên Thai nên mặc định ngài ở ngôi thứ nhất, không thấy nêu tên ở những nơi khác. Ngay như trước đó vừa dùng “私謂 - tư vị“ (ý riêng tôi cho rằng) thì cũng là cách ghi lại lời giảng của Đại sư ở ngôi thứ nhất, không có nêu tên.
[111] Mười loại trí (十智 - Thập trí), bao gồm: 1. Thế tục trí (世俗智), 2. Pháp trí (法智), 3. Loại trí (類智), 4. Khổ trí (苦智), 5. Tập trí (集智), 6. Diệt trí (滅智), 7. Đạo trí (道智), 8. Tha tâm trí (他心智), 9. Tận trí (盡智) và 10. Vô sinh trí (無生智).
[112] Nguyên tác dùng “餘佛 - dư Phật” (Phật khác) là cách dùng đã được giải thích ở trước, chỉ đến khái niệm cho rằng ngoài ba cõi vẫn còn có Phật khác. Các vị A-la-hán đã chứng vô sinh, không còn tái sinh trong ba cõi nên không có cơ hội gặp Phật trong ba cõi nữa, nhưng có thể được gặp “dư Phật” để liễu ngộ rốt ráo, tức là thành Phật.
[113] Ba đế: theo giáo lý của tông Thiên Thai là chỉ không đế (hay chân đế), giả đế (hay tục đế) và trung đế.
[114] Nguyên tác dùng tứ biện (四辯), tức tứ vô ngại biện (四無礙辯). Văn Cú Ký giải thích rằng ở đây chỉ “法義辭說 - pháp nghĩa từ thuyết”, tức là nói pháp vô ngại biện, nghĩa vô ngại biện, từ vô ngại biện và nhạo thuyết vô ngại biện. Đây là bốn năng lực vượt qua mọi chướng ngại trong việc giáo hóa chúng sinh.
[115] Nguyên tác dùng Đại kinh (大經), ở đây chỉ kinh Đại Bát Niết-bàn.
[116] Nguyên tác dùng “十力無畏 - thập lực vô úy”, chỉ thập lực (10 trí lực) và tứ vô úy (4 pháp vô úy) của chư Phật.
[117] Nguyên tác dùng tứ hoằng thệ (四弘誓), tức tứ hoằng thệ nguyện, chỉ cho bốn lời nguyện lớn bao gồm: 1. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ; 2. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn; 3. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học; 4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
[118] Nguyên tác dùng thất giác (七覺), tức thất giác chi (七覺支), là một phần trong 37 phẩm trợ đạo. Thất giác chi bao gồm: 1. Niệm giác chi; 2. Trạch pháp giác chi; 3. Tinh tấn giác chi; 4. Hỷ giác chi; 5. Khinh an giác chi; 6. Định giác chi; 7. Xả giác chi.
[119] Tam-muội Nhất hạnh (一行三昧): pháp tam-muội đạt đến chánh định quán sát toàn pháp giới đều chỉ là một tướng bình đẳng. Từ điển Phật Quang giải thích: “入此三昧,則知一切諸佛法身與眾生身為平等無二, 無差別相, 故於行住坐臥等一切處, 能純一直心,不動道場, 直成淨土。 - Nhập thử tam-muội tắc tri nhất thiết chư Phật pháp thân dữ chúng sinh thân vi bình đẳng vô nhị, vô sai biệt tướng, cố ư hành trụ tọa ngọa đẳng nhất thiết xứ năng chuyên nhất trực tâm, bất động đạo tràng trực thành tịnh độ.” (Thể nhập pháp tam-muội này liền rõ biết pháp thân của hết thảy chư Phật cùng với thân chúng sinh đều bình đẳng không phân biệt, không sai khác, cho nên trong sự đi đứng nằm ngồi ở bất cứ nơi đâu cũng đều có thể giữ tâm chuyên nhất chánh trực, không dao động đạo tràng, ngay đó thành tịnh độ.)
[120] Nguyên tác dùng “諦緣 - đế duyên” với nghĩa chữ “đế” chỉ đến tam đế của tông Thiên Thai, liên quan đến tiến trình tu tập, bao gồm không đế (đạt đến lẽ chân thật nhờ quán không), giả đế (đạt đến lẽ chân thật nhờ quán giả)và trung đế (đạt đến lẽ chân thật nhờ quán trung đạo). Đế duyên chỉ đến các duyên tu tập như vậy.
[121] Nguyên tác dùng “薩婆若 - tát-bà-nhã”, phiên âm chữ sarvajña, Hán dịch là nhất thiết trí (一切智), nghĩa là trí tuệ biết tất cả.
[122] Bốn niệm xứ (四念處 - tứ niệm xứ), tức 4 pháp quán niệm đối với 4 đối tượng là thân, thọ, tâm và pháp. Dùng 4 pháp quán niệm này để tu tiến nên ví như dùng trâu trắng kéo xe.
[123] Bốn chánh cần (四正勤 - tứ chánh cần), tức 4 pháp tinh tấn chuyên cần chân chánh, bao gồm: 1. Đối với các điều thiện chưa sinh, nỗ lực làm cho sinh khởi; 2. Đối với các điều thiện đã sinh, nỗ lực làm cho tăng trưởng; 3. Đối với các điều ác chưa sinh, nỗ lực ngăn không cho sinh khởi; 4. Đối với các điều ác đã sinh, nỗ lực dứt trừ. Văn Cú nói “2 pháp thiện thế gian trọn đủ” (二世善滿 - nhị thế thiện mãn) là chỉ 2 pháp sinh điều thiện, nói “2 pháp ác thế gian dứt sạch” (二世惡盡 - nhị thế ác tận) là chỉ 2 pháp dứt điều ác.
[124] Năm căn (五根 - ngũ căn), ở đây chỉ 5 pháp căn bản giúp khởi sinh các pháp lành, thuộc 37 phẩm trợ đạo, bao gồm: 1. Tín căn; 2. Tinh tấn căn; 3. Niệm căn; 4. Định căn; 5. Tuệ căn.
[125] Năm lực (五力 - ngũ lực), chỉ 5 năng lực giải thoát phát sinh từ sự tu tập 5 căn, cũng thuộc 37 phẩm trợ đạo, bao gồm: 1. Tín lực; 2. Tinh tấn lực; 3. Niệm lực; 4. Định lực; 5. Tuệ lực. Năm lực này có công năng hàng phục dứt trừ phiền não nên được xem là chỗ vận dụng của 5 căn.
[126] Nguyên tác Văn Cú nói là kinh Tịnh Danh (淨名) và chỉ dẫn ngắn gọn là “皆吾侍也 - giai ngô thị dã”. Tịnh Danh là tên khác của kinh Duy-ma-cật và câu kinh được trích dẫn ở đây là: “一切眾魔及諸外道皆吾侍也。 - Nhất thiết chúng ma cập chư ngoại đạo giai ngô thị dã.” (ĐCT, T14, 475, tr.544c, d.7-8)
[127] Nguyên tác Văn Cú dùng “不乖本心 - bất quai bản tâm” (không trái với ý định ban đầu). “Bản tâm” ở đây chỉ tâm ý lúc ban đầu của ông trưởng giả, như ngài Xá-lợi-phất chỉ rõ là chỉ muốn dùng phương tiện để cứu các con chứ không hề thực sự có ý cho các con 3 loại xe kém hơn.
[128] Nguyên tác dùng “命重身輕 - mệnh trọng thân khinh” rất khó hiểu, vì ở đây cả mạng sống và thân thể đều được cứu thoát, không hề có sự so sánh nặng nhẹ. Văn Cú Ký giải thích rằng ở đây muốn nói mạng sống là chỉ cho trí tuệ chân thật của Đại thừa (大乘實慧為命 - Đại thừa thật tuệ vi mệnh), thân thể chỉ cho ngũ phần pháp thân theo Tiểu thừa gồm giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến (小乘五分為身 - Tiểu thừa ngũ phần vi thân). Do đó mới có sự so sánh.
[129] Tám nỗi khổ (bát khổ), chỉ các nỗi khổ thường xuyên của tất cả chúng sinh, gồm: sinh, già, bệnh, chết, mong cầu không được như ý, yêu thương phải xa lìa, oán ghét phải gặp mặt và năm ấm bùng phát mạnh mẽ.
[130] Kể từ đây là phân tích so sánh đoạn kinh văn này với các thí dụ đã nêu từ đầu phẩm, như được phân chia ở trên gồm 6 thí dụ tổng quát và 4 thí dụ cụ thể.
[131] Trí đức chỉ trí Bát-nhã thấu suốt chân lý, tức trí tuệ giác ngộ; đoạn đức chỉ cho phẩm tính đã dứt trừ hết thảy phiền não, tức thể nhập Niết-bàn. Chỉ có quả vị Phật mới có đủ trí đức và đoạn đức này, gọi là Như Lai trí đoạn (如來智斷).
[132] Năm đường (五道 - ngũ đạo): chỉ tất cả những cảnh giới tái sinh của chúng sinh trong luân hồi. Thường dùng sáu đường (lục đạo) để chỉ: cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la, cõi địa ngục, cõi ngạ quỹ và cõi súc sinh. Khi nói năm đường là không kể đến cõi a-tu-la vì cho rằng loài này tùy theo nghiệp lực thiện ác mà được xếp chung vào cõi trời, cõi người hoặc trong cả 5 cảnh giới.
[133] Tham khảo bản dịch của H. Kern từ Phạn ngữ, dường như diễn đạt đủ nghĩa và đi sát với thí dụ căn nhà đang cháy ở trên hơn: “If, in the conviction of my possessing the power of knowledge and magical faculties, I manifest to these beings the knowledge, forces, and absence of hesitation of the Tathâgata, without availing myself of some device, these beings will not escape. For they are attached to the pleasures of the five senses, to worldly pleasures; they will not be freed from birth, old age, disease, death, grief, wailing, pain, melancholy, despondency, by which they are burnt, tormented, vexed, distressed. Unless they are forced to leave the triple world which is like a house the shelter and roof whereof is in a blaze, hoare they to get acquainted with Buddha-knowledge?” (Nếu ta tin chắc vào trí lực và thần lực, ta hiển bày cho chúng sinh thấy những trí, lực, vô sở úy của Như Lai mà không dùng đến phương tiện thì những chúng sinh này không thể được cứu độ. Bởi vì họ còn bám víu vào 5 món dục, những thú vui thế tục, họ sẽ không thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết, buồn lo, than khóc, đau đớn, ưu sầu, chán nản và bị những thứ ấy thiêu đốt, giày vò, bực dọc, đau đớn. Nếu không bị thúc ép ra khỏi ba cõi giống như căn nhà đang bốc cháy này thì làm sao họ có thể hiểu được trí tuệ Phật?)
[134] Kinh văn dùng Bích-chi Phật (辟支佛), cũng tức là Duyên giác.
[135] Sự tu tập giải thoát cần có cả trí tuệ và công hạnh. Ở đây nói do không hiểu được trí tuệ nên người tu chỉ biết dựa vào công hạnh làm “cửa ra”, tức là phương tiện giải thoát.
[136] Nguyên tác Văn Cú nói cụ thể là 16 chữ, tức là trọn câu này: “如來亦復如是,雖有力、無所畏而不用之 - Như Lai diệc phục như thị, tuy hữu lực, vô sở úy nhi bất dụng chi.”
[137] Nguyên tác dùng “盡智為無繁 - tận trí vi vô phồn”, tận trí (kṣaya-jñāna) là trí tuệ có năng lực đoạn trừ hết tất cả phiền não lậu hoặc; vô phồn (無繁) là dứt hết mọi sự phồn tạp, rắc rối, cũng chính là phiền não gây rối loạn. Cho nên danh xưng cõi trời Vô phiền (無煩天) cũng được gọi là Vô phồn (無繁天). Câu kinh đang được giải thích là “自在無繫 - tự tại vô hệ” (tự tại, không trói buộc), cho nên phiền não tán loạn ở đây chính là giải thích về sự trói buộc.
[138] Bốn giai vị: chỉ các giai vị noãn vị, đảnh vị, nhẫn vị và thế đệ nhất pháp vị.
[139] Đoạn này đề cập đến văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ là ba loại trí tuệ có được từ văn (nghe Chánh pháp), tư (suy ngẫm Chánh pháp) và tu (tu tập theo Chánh pháp).
[140] Nguyên tác Văn Cú nói “三界為宅五陰為舍 - tam giới vi trạch, ngũ ấm vi xá”, Văn Cú Ký giải thích: “宅寬舍狹三界為宅五陰為舍 - trạch khoan xá hiệp, tam giới vi trạch, ngũ ấm vi xá”. Do vậy có thể hiểu rằng ở đây dùng chữ “xá” với ý nghĩa “nhỏ hẹp” hơn so với “trạch”. Cả hai chữ đều dùng để ví với nơi chốn trú ngụ của tất cả chúng sinh.
[141] Năm ấm bao gồm sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Trong đó chỉ riêng sắc ấm thuộc về sắc pháp, 4 ấm còn lại đều thuộc về tâm pháp. Cho nên kinh văn nói “sắc tâm” là cách nói khác để chỉ 5 ấm.
[142] Tam đức (三德), là ba phẩm đức của một vị Phật, bao gồm pháp thân, nhất thiết chủng trí và Bát-nhã trí. Ba đức này hiển lộ ở quả vị Phật, còn khi ở địa vị chúng sinh phàm phu thì đó là tánh Phật ẩn tàng, tức là tiềm năng để mọi chúng sinh đều có thể tu tập thành tựu quả Phật.
[143] Văn Cú đến đây là hết quyển 5, phần hạ, bắt đầu quyển 6, phần thượng.
[144] Văn Cú dùng chữ Bà-già-bà (婆伽婆), phiên âm từ chữ bhagavat, dịch là Thế Tôn.
[145] Văn Cú dùng “三相 - tam tướng”, chỉ các tướng hữu vi gồm sinh tướng (sinh ra, hình thành), trụ dị tướng (tồn tại và thay đổi) và diệt tướng (hủy hoại, diệt mất). Tất cả các pháp hữu vi đều biến chuyển theo ba tướng này.
[146] Văn Cú dùng chữ ? (cách), theo từ điển Khang Hy là giống như chữ “骼 - cách”, chỉ bộ xương.
[147] Bốn đại, chỉ các yếu tố hình thành thân người, bao gồm đất (địa đại), chỉ cho tính chất cứng rắn; nước (thủy đại), chỉ cho tính chất ẩm ướt; gió (phong đại), chỉ cho tính chất chuyển động, hay động năng; và lửa (hỏa đại), chỉ cho tính chất ấm nóng, hay nhiệt năng.
[148] Nguyên tác dùng “四威儀 - tứ oai nghi”, ở đây chỉ bốn tư thế chuyển động bình thường của cơ thể là đi, đứng, nằm và ngồi.
[149] Theo Văn Cú Ký thì Ấn sư là đệ tử của Long sư, Long sư là đệ tử của ngài Tuệ Viễn (334-416), ngoài ra không có thông tin nào khác.
[150] Các kinh luận liệt kê tất cả các chi tiết trong thân thể con người thành 36 món khác nhau, gồm 12 món nhìn thấy bên ngoài (ngoại tướng) như tóc, lông, móng, răng...; 12 món tạo thành khí chất (thân khí) như da, máu, thịt...; 12 món nằm trong thân (nội hàm) như gan, mật, tim, phổi...
[151] Năm đường (ngũ đạo): tức bao gồm địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi người và cõi trời. Theo cách tính này thì loài a-tu-la được xem là tùy theo nghiệp lực có thể sinh vào cõi người hoặc cõi trời. Do vậy cách hiểu này cũng tương đương như sáu đường (lục đạo), bao gồm tất cả chúng sinh trong ba cõi.
[152] Nguyên tác đề cập đến hai loại chim cú là cú mèo (鴟 - si) và cú vọ (梟 - kiêu).
[153] Chim cưu (鳩), tức là chim tu hú.
[154] Loài sâu có nhiều chân, hình dạng được mô tả là giống con rết.
[155] Nguyên tác là bá túc (百足), dịch sát nghĩa là “trăm chân”, nhưng thật ra chỉ chung những loại côn trùng rất nhiều chân, không phải chính xác là trăm chân.
[156] Thập sử (十使), tức mười yếu tố sai sử chúng sinh, thúc đẩy việc tạo nghiệp và do đó phải lưu chuyển mãi mãi trong sinh tử luân hồi. Thập sử bao gồm năm độn sử (tức là sự sai sử thô thiển) là tham (tham lam), sân (sân hận), si (si mê), mạn (kiêu mạn), nghi (nghi ngờ), và năm lợi sử (là những sự sai sử tinh tế hơn) là thân kiến (quan điểm chấp có thân), biên kiến (quan điểm thiên lệch, nghiêng về một bên), tà kiến (quan điểm sai lầm, không đúng chánh đạo), kiến thủ kiến (quan điểm sai lầm về nhận thức giác ngộ của chính mình, do đó sinh ra bám chấp) và giới cấm thủ kiến (quan điểm sai lầm về giữ giới, giữ theo những cấm giới sai lầm, không phải do Phật chế định, không có tác dụng phòng hộ thân tâm).
[157] Chỗ này Văn Cú ghi nhầm là 1 khổ rưỡi, nhưng trong phần giảng giải ở phía sau thì phân đoạn này chỉ có 1 khổ kệ. Phân đoạn thứ ba tiếp theo cũng ghi nhầm là 1 khổ rưỡi nhưng đúng ra là 2 khổ kệ. Chúng tôi đã điều chỉnh theo số đúng.
[158] Loài sâu do diên có hình dạng giống con rết, sống ở nơi ẩm thấp.
[159] Nguyên tác dùng “計淨等 - kế tịnh đẳng” là cách nói lược, chỉ nêu “tịnh” để chỉ chung “thường, lạc, ngã, tịnh” của thế gian.
[160] Ở đây chỉ sắc trần (hình sắc đẹp đẽ theo ý muốn), thanh trần (âm thanh êm dịu ngọt ngào như ý muốn), hương trần (mùi hương thơm tho như ý muốn), vị trần (vị nếm ngon ngọt như ý muốn) và xúc trần (sự xúc chạm mềm mại, khoái lạc).
[161] Văn Cú chép là “摣掣 - tra xế” (bộ thủ), trong khi kinh văn dùng chữ “䶥 - tra” (bộ xỉ), có lẽ để nhấn mạnh sự cắn xé bằng răng.
[162] Năm lợi sử (pañca-dṛṣṭayaḥ) bao gồm: tà kiến (邪見), thân kiến (身見), biên kiến (邊見), kiến thủ kiến (見取見) và giới cấm thủ kiến (戒禁取見). Do đó cũng gọi là ngũ kiến (五見).
[163] Tên quỷ dạ-xoa là phiên âm từ Phạn ngữ yakṣa, Hán dịch là tiệp tật (捷疾), nghĩa là rất nhanh nhẹn.
[164] Tà kiến (邪見): những kiến chấp tà vạy, sai trái, không đúng với lẽ chân thật. Do bám chấp vào đó mà không thể nhận biết được chân lý, sự thật.
[165] Giới cấm thủ kiến (戒禁取見): kiến chấp sai lầm về việc trì giới, như giữ theo các giới cấm mê muội, sai lầm của ngoài đạo mà cho rằng sẽ đưa đến giải thoát. Kiến chấp này cũng được hiểu như là vận dụng sai lầm các giới luật đã thọ trì, dẫn đến làm chướng ngại cho sự tu tập.
[166] Kinh Viên giác gọi tên quỷ này là cát-bàn-trà (吉槃茶) và nói là Đại lực quỷ vương, cai quản các quỷ khác. (ĐCT, T17, 842, tr.922a, d.17.)
[167] Nguyên tác Văn Cú dùng “六天 - lục thiên” tức Lục dục thiên, chỉ sáu tầng trời thuộc Dục giới, bao gồm: 1. Tứ thiên vương thiên (Cāturmahārājakāyika-deva), 2. Đao-lợi thiên hay Tam thập tam thiên (Tryastriṃśa), 3. Dạ-ma thiên (Yāma), 4. Đâu-suất thiên (Tuṣita), 5. Hóa lạc thiên (Nirmāṇarati), 6. Tha hóa tự tại thiên (Paranirmita-vaśa-vartin).
[168] Tức chỉ đến cõi trời Tha hóa tự tại, cao nhất trong Dục giới.
[169] Lục hành quán (六行觀), cũng gọi là lục hành tướng, là sáu pháp thực hành quán tưởng sáu hành tướng, bao gồm 3 hành tướng chán lìa là thô, khổ và chướng (ở hạ địa) cùng 3 hành tướng ưa thích là tĩnh, diệu và ly (ở thượng địa).
[170] Văn Cú dùng giác quán (覺觀), là cách nói khác của tầm tứ (尋伺), chỉ các niệm tưởng, tư tưởng thô và tế khởi sinh trong tâm.
[171] Thân kiến (身見): kiến chấp cho rằng thân này là thật có, cho nên cũng gọi là “hữu thân kiến”. Vì chấp thân này là thật có, khác biệt với những thứ ngoài thân, cho nên cũng chính là ngã kiến.
[172] Nguyên tác Văn Cú dùng tàm quý (慚愧), chỉ sự hổ thẹn. Tàm là tự mình nhận biết đã phạm phải điều lỗi lầm xấu ác, tự xấu hổ với chính mình. Quý là làm điều lỗi lầm xấu ác bị người khác nhận biết nên hổ thẹn với người. Do vậy, người có tâm tàm quý thì không dám phạm vào những điều lỗi lầm xấu ác. Lại cũng có cách hiểu rằng tàm là mến mộ các công đức, việc lành, mong muốn thực hiện; quý là kinh sợ các điều xấu ác, cố tránh xa không dám phạm vào.
[173] Văn Cú dùng “kiến thủ” (見取), tức chỉ kiến thủ kiến (見取見), gọi đầy đủ là kiến đẳng thủ kiến (見等取見), tức kiến chấp nắm giữ, bám víu những quan điểm sai lầm. Cụ thể là đối với những pháp xấu xa hạ liệt mà các bậc thánh dứt trừ nhưng lại bám chấp cho đó là thù thắng, tốt đẹp.
[174] Biên kiến (邊見): kiến chấp thiên lệch, nghiêng về một bên, không đúng sự thật.
[175] Văn Cú dùng chữ “thuần” (純) e là chép nhầm chữ “độn” (鈍) vì hai chữ gần giống nhau.
[176] Trong phần phân chia tổng quát ở trước, Văn Cú có sự nhầm lẫn khi nói là tiểu đoạn thứ hai gồm một khổ rưỡi kệ và tiểu đoạn thứ ba cũng gồm một khổ rưỡi kệ. Xét theo nội dung giảng giải và phân đoạn ở phần này thì tiểu đoạn thứ hai chỉ có 1 khổ kệ và tiểu đoạn thứ ba gồm 2 khổ kệ.
[177] Thân, thọ, tâm, pháp: tức bốn đối tượng của pháp quán tứ niệm xứ.
[178] Văn Cú dùng chữ “phong đao” (風刀) để chỉ trạng thái đau đớn như dao cắt xẻ thân thể thành từng mảnh khi tứ đại tan rã, do phong đại dao động mà tạo ra.
[179] Vì giới cấm thủ kiến thuộc về năm lợi sử nên ở đây nói tách riêng.
[180] Văn Cú dùng “ngũ chi” (五支) chỉ 5 chi trong 12 chi phần tức thập nhị nhân duyên, tức là các chi: thức, danh sắc, lục xứ, xúc và thọ. Trong 12 nhân duyên thì 2 chi vô minh và hành được xem là nhân quá khứ, 3 chi ái, thủ và hữu là nhân hiện tại, 5 chi vừa đề cập ở đây là quả hiện tại và 2 chi cuối cùng gồm sinh và lão tử là quả tương lai.
[181] Lập luận ở đây dựa trên ý nghĩa sự chán ghét, không ưa thích thuộc về tâm sân hận.
[182] Văn Cú dùng “phi tưởng” tức là “phi tưởng thiên” (非想天), để chỉ cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ (非想非非想處天). Đây là cõi trời cao nhất trong cõi Vô sắc nên cũng là cao nhất trong ba cõi.
[183] Cõi Vô sắc không có hình sắc, nên trong năm ấm chỉ còn lại bốn ấm là thọ, tưởng, hành và thức.
[184] Cõi trời Hữu đảnh: là tên khác của cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng.
[185] Văn Cú chép câu này là: “Xả kỷ dụng xa, tẩm đại thí tiểu” (捨几用車寢大施小), tức nói theo ý nghĩa ở phần trước, ông trưởng giả từ bỏ ý định dùng sức mạnh đặt các con lên bàn, ghế… để đưa ra ngoài, quay sang dùng phương tiện dẫn dụ các con bằng các loại xe đẹp để các con tự chạy ra khỏi nhà. “Tẩm Đại thí tiểu” là ý nghĩa liên kết thí dụ này với việc đức Phật tạm ngưng việc thuyết giảng Đại thừa, quay sang thuyết giảng các pháp phương tiện Tiểu thừa. Chúng tôi chuyển dịch câu này theo ý đã dùng ở trước để người đọc dễ theo dõi.
[186] Văn Cú dùng “đệ nhất nghĩa không” (第一義空), cũng gọi là thắng nghĩa không (勝義空) hay chân thật không (真實空), chỉ Niết-bàn của Đại thừa, vì thật tướng của các pháp là đệ nhất nghĩa cao tột hơn hết, không phải thường, không phải diệt, không phải thọ nhận, không phải bám chấp, tánh thể tự nhiên như vậy, trước vốn là không mà nay thành có, tuy có nhưng rồi rốt lại là không, cho nên gọi là đệ nhất nghĩa không.
[187] Văn Cú dùng “nhữ hữu duyên chư tử - 汝有緣諸子” (các con có nhân duyên của ngài) để chỉ các chúng sinh, dựa theo ý trong thí dụ nói về các con của ông trưởng giả.
[188] Nguyên tác Văn Cú dùng “tứ chủng tứ môn” (四種四門) để chỉ bốn pháp nhập môn của Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo, bao gồm Hữu môn, Không môn, Diệc hữu diệc không môn và Phi hữu phi không môn.
[189] Nguyên tác Văn Cú dùng “tứ chủng tứ đế” (四種四諦) để chỉ bốn chân đế được nhận hiểu và tu tập theo Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo.
[190] Nguyên tác Văn Cú dùng “hoành thụ - 橫竪” để chỉ hai cách lý giải theo thời gian. Hoành là nói sự việc xảy ra trong cùng một thời điểm (nhất thời), và thụ là nói sự việc xảy ra theo trình tự thời gian.
[191] Nguyên tác Văn Cú dùng “thất chủng phương tiện - 七種方便” để chỉ đến: 1. Thanh văn của Tạng giáo, 2. Duyên giác của Tạng giáo, 3. Thanh văn của Thông giáo, 4. Duyên giác của Thông giáo, 5. Bồ Tát của Thông giáo, 6. Bồ Tát của Biệt giáo, 7. Bồ Tát của Viên giáo. So với phàm phu thì tất cả các vị này đều là hiền thánh. Đức Phật là bậc tôn quý nhất giữa tất cả những vị này.
[192] Nguyên tác Văn Cú dùng “cửu chủng - 九種”, Văn Cú Ký giải thích rằng cửu chủng ở đây chỉ cửu giới (界), tức 9 pháp giới. Thập pháp giới bao gồm 6 cảnh giới phàm (lục phàm) và 4 cảnh giới thánh (tứ thánh). Lục phàm gồm: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a-tu-la, cõi trời và cõi người. Tứ thánh gồm: Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát và Phật. Khi nói 9 pháp giới tức là trừ ra Phật pháp giới.
[193] Nguyên tác kinh văn là “thị chư tử đẳng - 是諸子等“, hiểu sát nghĩa là “những đứa con này”. Tuy nhiên, trong ngữ cảnh này, “những đứa con” đang được dùng để ví với chúng sinh, và cụ thể hơn là những chúng sinh được nghe đức Phật thuyết dạy “con đường xuất thế gian”. Do vậy chúng tôi dịch là “những chúng sinh được nghe”. Hòa thượng Trí Quang dịch câu kệ này thành hai câu là: “Các loại chúng sinh, con của Như Lai.”
[194] Khổ pháp nhẫn: tức một trong hai pháp nhẫn là Khổ pháp nhẫn (苦法忍) và Đạo pháp nhẫn (道法忍). Khổ pháp nhẫn đạt được khi hành giả bước vào giai vị Kiến đạo, tin nhận Khổ đế trong cõi Dục. Đạo pháp nhẫn đạt được khi hành giả hiểu và tin nhận Đạo đế.
[195] Nhị đế ở đây là Diệt đế và Đạo đế, vì tu tập đạo, chứng tịch diệt thì dứt trừ khổ.
[196] Văn Cú chép là “五十行半 - ngũ thập hàng bán” (50 khổ rưỡi kệ), nhưng đúng ra phải là “五十五行半- ngũ thập ngũ hàng bán“ vì phần này là 55 khổ rưỡi kệ.
[197] Ở đây dẫn ý câu kinh ở quyển 5, phẩm Như Lai thọ lượng của kinh Pháp hoa, nguyên văn là: “深心信解則為見佛常在耆闍崛山- Thâm tâm tín giải tắc vi kiến Phật thường tại Kỳ-xà-quật sơn.” Núi Kỳ-xà-quật tức là núi Linh thứu. (Xem ĐCT, T9, số 262, trang 45b, d.17-18.)
[198] Về duyên nhân, chánh nhân và liễu nhân, kinh Niết-bàn dạy rằng đều là các nhân đưa đến quả Phật. Duyên nhân là nhân hỗ trợ từ bên ngoài, chánh nhân là nhân chân chánh, liễu nhân là nhân rốt ráo.
[199] Đến đây là hết phần giải thích phẩm Thí dụ.