Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác.
Kinh Đại Bát Niết-bàn
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phải biết nhập thắng tướng 3
Chương 1 : Tướng chính nhập
Luận nói : Như vậy đã nói phải biết thắng tướng.
Thế nào là phải biết ngộ nhập thắng tướng ?
Giải thích : Phẩm này có 10 chương : 1.Tướng chính nhập, 2.Người năng nhập, 3.Cảnh giới nhập, 4.Vị nhập, 5.Phương tiện đạo nhập, 6.Tư lương nhập, 7.Tư lưong quả nhập, 8.Hai trí dụng, 9.Hai trí y chỉ, 10.Hai trí sai biệt.
Giải thích : Tất cả pháp gọi là phải biết. Ba tính là thắng tướng các pháp. Lại nữa 3 tính gọi là phải biết. Đồng một vô tính gọi là thắng tướng. Lại nữa nói phải biết là có 2 thứ : một là tịnh phẩm, hai là bất tịnh phẩm. Tịnh phẩm là tính y tha không phân biệt. Bất tịnh phẩm là tính y th có phân biệt. Phải biết nơi tính y tha có 3 chủng tính : một là tính y tha, hai là phân biệt trong tính y tha, ba là chân như vô phân biệt trong tính y tha. Ngoài ra các nghĩa khác có nói trong Phân biệt chương, trước đã nói nghĩa này rồi. Nếu người thực hành như thế này sẽ được nhập ưng tri tướng. Nay sẽ nói nghĩa này. Câu hỏi này là chỉ hỏi nhập thể tướng, không hỏi ưng tri và thắng tướng. Lại nữa câu hỏi này là hỏi trong quán duy thức duyên pháp nào làm cảnh. Cho nên trả lời câu hỏi này.
Luận nói : Cái đa văn huân tập y chỉ
Giải thích : Trong pháp Đại thừa, cái huân tập đa văn này có thuyêt nói tức là y chỉ. Lại có thuyết khác nói y chỉ là thân thể tương tục.
Luận nói : chẳng phải gồm thâu trong thức A-lê-da.
Giải thích : Vì nói rõ đa văn huân tập này là đối trị thức A-lê-da, cho nên không phải A-lê-da gồm thâu.
Luận nói : mà như thức A-lê-da thành chủng tử.
Giải thích : Như thức A-lê-da là nhân của tất cả pháp bất tịnh phẩm cho nên thành chủng tử. Đa văn huân tập cũng vậy, là nhân sinh tất cả pháp tịnh phẩm nên như là thức A-lê-da thành chủng tử. Pháp nào lấy đa văn huân tập làm chủng tử ? Để đáp câu hỏi này nên nói
Luận nói : Cái đa văn huân tập đó thuộc chính tư duy,
Giải thích : Bốn pháp dưới đây đều lấy đa văn huân tập làm chủng tử. Nếu giác quán tư duy thì dựa vào đa văn huân tập Đại thừa sinh giác quán này, lìa tà tư duy và tư duy thiên lệch, lấy chính tư duy làm tính loại nên nói thuộc chính tư duy.
Luận nói : tương tự pháp và tương tự nghĩa hiển hiện tướng sở sinh,
Giải thích : Tự pháp là giáo lý 12 bộ Phương Đẳng, tự nghĩa tức là lý sở thuyên của giáo lý Phương Đẳng. Tâm tương tự với giáo lý này, hiển hiện giáo lý là duyên. Duyên sinh giác quán phân biệt.
Luận nói : tương tự chủng loại sở thủ,
Giải thích : Giác quán này nếu khởi, tựa như sở thủ làm thể tướng. Hai câu này đều hiển thị tướng phần của thức.
Luận nói : có kiến phần,
Giải thích : Giác quán này có thể phân biệt hiểu biết, tức là kiến phần của thức. Nghĩa này thành lập 2 pháp của thức, tức tướng phần của thức và kiến phần của thức.
Luận nói : ý ngôn phân biệt,
Giải thích : Ý thức giác quán tư duy chỉ duyên ý ngôn phân biệt, không thể duyên một nghĩa nào khác. Lại nữa phải dựa vào tên gọi mà phân biệt các pháp nên nói là ý ngông phân biệt.
có ý thức phân biệt. Đa văn huân tập y chỉ là nhân của pháp này.
Chương 2 : Người năng nhập
Luận nói : Ai là người có thể ngộ nhập thắng tướng ?
Giải thích : Câu này hỏi người tu quán hạnh gì gọi là người có thể nhập duy thức quán ? Là Bồ-tát các 4 sức quán hạnh. Bồ-tát tướng như thế nào ? Là người khéo được 2 thứ tư lương phúc đức và trí tuệ. Các tư lương này tu hành theo thứ tự nào thì được viên mãn ? Có 4 thứ năng lực : 1.năng lực của nhân, 2.năng lực của thiện tri thức, 3.năng lực của chính tư duy, 4.năng lực của y chỉ.
Luận nói : Là người Đại thừa có đa văn huân tập liên tục,
Giải thích : Rời bỏ đa văn của Tiểu thừa nên gọi Đại thừa. Không phải chỉ một đời mà trong vô cùng kiếp tâm thường tương tục đa văn huân tập, đó là năng lực của nhân.
Luận nói : đã được thừa sự vô lượng chư Phật ra đời,
Giải thích : Quá vô số lượng chư Phật Như Lai ra đời, người này hằng y theo Phật nghe thụ giáo pháp, đúng như chính pháp tu hành nên gọi là thừa sự. Trước đã thừa sự như thế nên gọi là năng lực thiện tri thức.
Luận nói : đã quyết định nhập chính vị tín lạc.
Giải thích : Nếu người này đã tin ưa Đại thừa thì các ác tri thức không thể chuyển đảo phá hoại, nên gọi là quyết định. Tin có 3 thứ : một là tin có, hai là tin có thể được, ba là tin có vô cùng công đức. Nếu đã có tin, cầu tu hành được nhân, nên gọi là lạc. Từ Thập tín đến Thập hồi hướng là chính vị tín lạc. Nay ở địa vị đang nói đây chỉ lấy Thập hồi hướng quyết định tín lạc, gọi là năng lực tư duy. Đại thừa đa văn huân tập là nhân của năng lực này.
Luận nói : Do khéo thành thục tu tập tăng trưởng thiện căn, nên khéo được hai thứ tư lương phúc đức và trí tuệ.
Giải thích : Nếu người đã quyết định tín lạc, ân cần cung kính tin vui pháp đã được, tu pháp quán hạnh, nếu tu pháp quán hạnh tăng trưởng công đức thiện căn, như thế do năng lực tư duy thành thục tốt tư lương phúc đức và trí tuệ. Theo thứ tự thành thụch, dùng phúc đức trí tuệ này làm y chỉ, được nhập sơ địa, nên gọi là năng lực y chỉ. Bốn thứ năng lực này chỉ cho người có khả năng ngộ nhập.
Chương 3 : Cảnh giới nhập
Luận nói : Chư Bồ-tát nhập Duy thức quán ở đâu ?
Giải thích : Câu hỏi này có 2 ý. Một là hỏi nơi nào là duy thức cảnh giới. Hai là hỏi nơi nào là duy thức vị.
Luận nói : Hữu kiến tương tự pháp và nghĩa làm hiển tướng mà sinh Đại thừa pháp tướng.
Giải thích : Pháp này gọi là duy thức quán trì, cũng gọi cảnh giới. Ý ngôn phân biệt tức là tâm giác quán tư duy. Tư duy này có 2 tướng : Một là hữu kiến thức làm tướng nên nói là hữu kiến. Hai là hữu tướng thức làm tướng, nghĩa là hiển hiện tựa 12 bộ Đại thừa giáo và lý sở thuyên của tựa Đại thừa giáo nên nói là hữu tướng. Nói sinh Đại thừa pháp tướng nghĩa là Đại thừa pháp là nhân nên được sinh. Trong đây hiển thị thể của cảnh giới tức là ý ngôn phân biệt, hiển thị tướng của cảnh giới gọi là hữu kiến hữu tướng, hiển hiện nhân của cảnh giới gọi là Đại thừa pháp tướng.
Chương 4 : Vị nhập
Ý ngôn phân biệt này có 4 vị. Để làm rõ 4 vị này nên
Luận nói : Nhập nơi nguyện lạc hành địa. Nghĩa là tùy theo nghe mà sinh tín lạc.
Giải thích : Ý ngôn phân biệt ở trong nguyện lạc hành địa. Bởi vì sao ? Có các Bồ-tát do chỉ nghe tất cả pháp chỉ có thức, y theo giáo lý được nghe khởi tâm tín lạc, đối với lý tất cả pháp chỉ có thức sinh ý ngôn phân biệt, do đó nguyên lạc ý ngôn phân biệt nên nói Bồ-tát đã nhập duy thức quán. Hiểu biết như vậy gọi là nhập nguyện lạc vị của duy thức.
Luận nói : Kiến đạo nghĩa là thông suốt đúng như lý.
Giải thích : Như phương tiện này Bồ-tát nhập duy thức kiến vị. Nay sẽ nói phương tiện này tức thông đạt như lý ngay. Ý ngôn phân biệt này như tướng hiển hiện thì thật không có như vậy mà chỉ có thức. Thức này phi pháp, phi nghĩa, phi năng thủ sở thủ. Hiểu được như vậy là nhập duy thức kiến vị.
Luận nói : Tu đạo nghĩa là có thể đối trị tất cả chướng.
Giải thích : Ý ngôn phân biệt hiển nhập trong tu đạo. Nay nói về phương tiện này. Ý ngôn pân biệt này là phi pháp, phi nghĩa, phi năng thủ, phi sở thủ. Quán sát như vậy thì có thể đối trị tất cả 3 chướng. Đó gọi là nhập duy thức tu vị. Tu đạo này với kiến đạo không khác nhau. Vì do trí do cảnh. Nếu vậy sao có phân biệt làm 2 là kiến đạo và tu đạo ? Xưa chưa thấy chân như, nay mới được thấy gọi là kiến đạo. Trước đã thấy chân như sau lại thường tu quán gọi là tu đạo. Lại có thể trừ các chướng chung của 3 thừa, gọi là kiến đạo. Chỉ trừ chướng của Bồ-tát, gọi là tu đạo. Lại nữa quán chưa viên mãn, không thoái xuất, gọi là kiến đạo. Quán chưa viên mãn, có thoái xuất là tu đạo. Lại chỉ quán cảnh chung là kiến đạo. Quán đủ cả cảnh chung và riêng là tu đạo. Lại sự bất thành là kiến đạo. Sự thành là tu đạo.
Luận nói : Trong cứu cánh đạo, tức là thoát ra khỏi chướng cấu, thanh tịnh cùng cực,
Giải thích : Cứu cánh đạo có 2 thứ : một là hữu học cứu cánh, hai là vô học cứu cánh. Địa vị này là nơi sinh trí tuệ tối thanh tịnh, diệt trừ hết các chướng vi tế nhất không còn sót , nên gọi cứu cánh vị. Ở các địa cho đến Như Lai địa đều có nghĩa cứu cánh này. Nếu người nhập vào 4 địa vị này thì duyên cảnh giới gì ?
Luận nói : tất cả các pháp thật chỉ có thức. Như nói tùy chỗ nghe mà tín lạc, thông suốt đúng như lý, có thể đối trị tất cả chướng, xuất ly chướng cấu được thanh tịnh cao tột.
Giải thích : Câu này nói rõ nhập vào cảnh giới của 4 địa vị. Làm sao được cảnh giới 4 địa vị ? Tất cả pháp là hữu vi vô vi, hữu lưu vô lưu, và đạo quả 3 thừa 4 cõi v.v…các pháp như thế thật chỉ có thức. Bởi vì sao ? Tất cả các pháp lấy thức làm tướng, chân như làm thể. Cho nên phương tiện đạo lấy thức làm tướng. Nếu nhập kiến đạo thì lấy chân như làm thể. Y theo cảnh giới này tùy theo chỗ nghe mà tín lạc là nhập vào tín lạc vị, thông suốt đúng như lý là được nhập kiến vị, có thể đối trị tất cả chướng là được nhập tu vị, thoát ly chướng cấu à được nhập cứu cánh vị.
Chương 5 : Nhập phương tiện đạo
Nhân phương tiện này Bồ-tát được nhập vào 4 vị. nay sẽ nói rõ nghĩa này.
Luận nói : Làm sao có thể ngộ nhập ?
Giải thích : Câu hỏi này là muốn cho thấy rõ 8 chỗ duy trì sức thiện căn là nhập phương tiện. Sức thiện căn là những gì ? Tám chỗ là những chỗ nào ? Sức thiện căn có 4 thứ : 1.sức của nhân, 2.sức của thiện tri thức, 3.sức của chính tư duy, 4.sức của y chỉ. Như trước đã nói rõ.
Luận nói : Do duy trì sức thiện căn.
Giải thích : Chưa có thì làm cho sinh ra, đã có thì làm cho tăng trưởng, nên gọi duy trì thiện căn Bồ-tát, hoặc nói là 6 Ba-la-mật, hoặc nói là 2 hạnh phúc tuệ, có thể phá trừ những chỗ ngăn chận đối trị, nên gọi là sức, tức sức duy trì thiện căn. Nên biết có 8 chỗ. Đó là những chỗ nào ?
Luận nói : Do có 3 tướng mài luyện tâm. Do diệt trừ 4 chỗ chướng. Duyên pháp và nghĩa làm cảnh. Tu tập không gián đoạn. Tu tập thành khẩn. Thiền quán không phóng túng.
Giải thích : Đây tức là 3 chỗ. Ba tướng mài luyện tâm này có thể đối trị 3 tâm chán nản muốn thoái lui. Những gì là 3 : 1.Chán nản thoái lui vì khinh tiện bản thân. Để trừ tâm này nên nói mài luyện tâm thứ nhất. Bởi vì sao ? Có các Bồ-tát nghe vô thượng Bồ-đề sâu xa rộng lớn khó tu khó chứng, ta nay làm sao có thể chứng vô thượng Bồ-đề khó chứng được này. Do chỗ chấp đó, tự mình sinh tâm thoái lui. Để trừ cái tâm thoái lui này nên phải tu mài luyện cái tâm thứ nhất.
Luận nói : Mười phương thế giới không số lượng,
Giải thích : Đây nói rõ vô thượng Bồ-đề không phải nhất định một chỗ nào mới có thể tu đắc. Tùy theo chỗ tu học đều có thể chứng đắc.
Luận nói : không thể đếm kể số người trong nhân loại chúng sinh,
Giải thích : Đây nói rõ vô thượng Bồ-đề các loại đều có thể chứng đắc, nên không thể khinh chê thân này là hèn mọn.
Luận nói : mỗi sát-na mỗi sát-na
Giải thích : Đây cho thấy việc được vô thượng Bồ-đề là không có một thời nào nhất định, không phải đợi đến lúc nào đó mới tu chứng được.
Luận nói : chứng đắc vô thượng Bồ-đề. Đó gọi là mài luyện tâm thứ nhất.
Giải thích : Đây cho thấy Bồ-đề không gì so sánh được, ắt phải dùng sự siêng năng tu hành mới chứng được. Do đó cái tâm mài luyện này đứng đầu trong các phương tiện, tâm chán nản thoái lui sẽ diệt không sinh. Hai là khinh chê cho là hèn mọn có thể sinh tâm chán nản thoái lui. Để trừ cái tâm này nên nói rõ cái tâm mài luyện thứ hai. Bởi vì sao ? Do có Bồ-tát có ý nghĩ như thế này. Bố thí v.v…là hành trang cho Bồ-đề, nếu lìa ý chí của Bồ-tát thì không thể được. Ý chí này chúng ta làm sao có được ? Cho nên bố thí v.v…các pháp đó không phải là pháp chúng ta có thể thực hành được. Do chỗ chấp đó nên sinh tâm chán nản thoái lui không thể đạt được phương tiện. Để trừ tâm này nên phải tu tập mài luyện tâm thứ hai.
Luận nói : Do ý chí chân chính này
Giải thích : Đây cho thấy phương tiện ví như thể tướng. Ba đời các Bồ-tát nếu được ý chí chân chính này thì đó là thể của phương tiện chân thật.
Luận nói : mà bố thí v.v… các Ba-la-mật ắt được sinh trưởng. Đó là tín lạc của ta
Giải thích : Đây cho thấy phương tiện ví như công năng. Có 3 thứ công năng : một là công năng bình đẳng, hai là công năng phát sinh, ba là công năng tăng trưởng. Do ý chí chân chính này nếu phát sinh và tăng trưởng các Ba-la-mật thì không công năng gì không đầy đủ, nên gọi là công năng bình đẳng. Chưa có thì làm cho có gọi là công năng phát sinh. Đã có thì làm cho viên mãn nên gọi là công năng tăng trưởng. Như ba đời các Bồ-tát, thể và công năng của phương tiện quyết định không phải là hai thứ tách biệt nhau. Chúng ta cũng phải đồng như chư vị ấy. Bởi vì sao ? Tín lạc của ta tức chính ý của các vị ấy, vì đã được thí dụ như thể của phương tiện. Cái thể này đã ổn định rồi. Bởi vì sao ? Vì không tán động hay diệt mất.
Luận nói : đã được kiên trụ.
Giải thích : Câu này giải thích nghĩa không tán động không diệt mất. Tham lam keo kiệt v.v… không phá hoại được nên gọi là kiên, tức vững vàng. Tiểu thừa, ác tri thức v.v…các tà hóa không thể làm cho thoái lui nên gọi là trụ.
Luận nói : Do ý chí chân chính này ta tu tập bố thí v.v… các Ba-la-mật, tiến đến chỗ viên mãn chẳng khó khăn. Đó là luyện mài tâm thứ hai.
Giải thích : Đây cho thấy rõ thí dụ 3 thứ công năng. Do ý chí chân chính ta tu tập bố thí v.v…các Ba-la-mật nói rõ công năng bình đẳng, tiến đến chứng đắc nói rõ công năng phát sinh, rồi được viên mãn là nói rõ công năng tăng trưởng. Ba công năng này nhất định có thể đạt được, cho nên nói là không khó. Lại nữa do ý chí chân chính này còn có nghĩa gì ? Nghĩa là tín và lạc. Tín có 3 nghĩa : một là tin thật có, hai là tin có thể đạt được, ba là tin có công đức vô cùng. Tin thật có, nghĩa là tin có tự tính trụ Phật tính. Tin có thể đạt được nghĩa là tin dẫn xuất Phật tính. Tin có công đức vô cùng nghĩa là tin đến quả Phật tính. Phát khởi 3 tin tưởng đó rồi, đối với các phương tiện có thể được như bố thí v.v… trong Ba-la-mật, cầu mong tu hành, nên gọi là lạc. Tín và lạc này là thể của chính ý. Do được tín lạc này, tu hành bố thí v.v… các Ba-la-mật sẽ không là khó, có thể đạt được cứu cánh viên mãn.. Lại nữa Bồ-tát có chính ý tức là ta có khả năng phát sinh tâm Lục độ, thoát ly khỏi các chướng tham lam keo kiệt v.v…, có thể ngăn chận các thứ chướng ngại Ba-la-mật, diệt hết không còn sót. Cho nên không nhân công dụng lớn mà Lục độ có thể viên mãn một cách dễ dàng. Do Lục độ viên mãn, vô thương Bồ-đề tự nhiên thành tựu. Ta đã được kiên trụ chính ý, nên tu hành Lục độ không cho là khó. Do cái tâm mài luyện thứ hai, trong các phương tiện nó làm cho tâm chán nản thoái lui thứ hai tiêu diệt không phát sinh. Ba là nghi ngờ nên sinh tâm chán nản thoái lui. Để trừ cái tâm này nên nói rõ cái tâm mài luyện thứ ba. Bởi vì sao ? Có các Bồ-tát suy nghĩ rằng công đức chư Phật rất sâu xa rộng lớn. Bồ-tát nghĩ như vậy. Vô thượng Bồ-đề rất khó được. Một sát-na tâm bị chướng ngại, nghĩa là tâm kim cương, tâm không có sinh tử, trừ tâm này cũng còn có thể được, nghĩa này khó lường. Do có chấp như vậy mà sinh tâm chán nản thoái lui vô thượng Bồ-đề. Dể trừ tâm này nên phải tu tập mài luyện tâm thứ ba.
Luận nói : Nếu người tương ưng cùng các thiện pháp,
Giải thích : Người nói đây tức phàm phu và Nhị thừa. Phàm phu có thí, giới tu 3 thứ thiện pháp. Các thiện pháp này hoặc thường tu thiên về một thứ, hoặc tu trọn vẹn. Nếu thường thường tu thiên về một thứ và tu trọn vẹn thí giới tu thì thành chúng thiện, vì có nhiều phẩm loại. Nhị thừa có 37 phẩm thiện pháp. Do tu không gián đoạn và tu cung kính thì thành chúng thiện, cũng vì có nhiều phẩm loại.
Luận nói : sau khi xả thân mạng, trong tất cả cõi thụ sinh, tự nhiên thành phú lạc khả ái.
Giải thích : Nếu phàm phu trước tu thí đầy đủ, sau khi xả thân mạng thì sinh vào cõi người, được quả phú lạc khả ái. Việc này không sai. Nếu trước giữ giới đầy đủ, sau khi xả thân mạng liền sinh cõi trời được quả phú lạc khả ái. Việc này không sai. Nếu tu định đầy đủ, sau khi xả thân mạng liền sinh cõi Sắc, Vô sắc được quả phú lạc khả ái. Việc này không sai. Đây là nói được quả sau khi chết. Nếu Nhị thừa tu đầy đủ 37 phẩm, sau khi xả thọ mạng phàm phu thì được thọ mạng Thánh nhân, được quả phú lạc khả ái, được 6 thần thông v.v…Việc này không sai. Đây là nói về cái quả dời đổi địa vị.
Luận nói : Người này còn được với nghĩa hữu ngại thiện. Làm sao ta được viên mãn thiện và vô ngại thiện ?
Tất cả sự như ý, phú lạc khả ái không thành thì luyện mài tâm thứ ba.
Giải thích : Ở trong 10 địa sinh trưởng tốt 2 phẩm thiện pháp là phúc đức và trí tuệ gọi là tâm viên mãn. Các chướng thô nặng khó phá trừ thì do Kim cương định phá trừ, cho nên sau Kim cương định là có thể lìa thoát tất cả chướng, khi chuyển y thì thành vô ngại thiện. Phật quả gọi là phú lạc, tự tại nên gọi là lạc, đủ các đức gọi là phú. Phú lạc này là pháp tất cả như ý khả ái. Nếu nói về Tiểu thừa thì lấy trí đoạn là như ý, ân đức là khả ái. Nếu nói về Đại thừa thì pháp thân là phú lạc, ứng thân là như ý, hóa thân là khả ái. Ba cái này gồm thâu hết vô thượng Bồ-đề nên nói là tất cả. Trước nói xả thân mạng là ví dụ cho lìa trí chướng. Trí chướng đã diệt thì sao ta lại không được như ý khả ái phú lạc ? Do tâm mài luyện thứ ba. Ở trong phương tiện thì tâm chán nản thoái lui thứ ba diệt không sinh.
Luận nói : Ở đây có bài kệ như sau :
Giải thích : Bài kệ nói rõ lại 3 nghĩa trước.
Luận nói :
Chúng sinh trong cõi người,
Mỗi niệm chứng Bồ-đề.
Nơi chốn nhiều số lượng,
Chớ sinh tâm hạ liệt.
Người thiện tâm tín lạc,
Có thể tu Lục độ.
Thắng nhân có ý chí,
Có thể tu Lục độ.
Người lành khi mạng chung,
Được phú lạc vượt trội.
Quả diệt viên tịnh thiện,
Nghĩa này sao lại không ?
Luận nói : “Chúng sinh trong cõi người,”
Giải thích : Đây nói rõ đồng loại có thể được quả cao tột cho nên không nên khinh tự thân là hèn kém.
Luận nói : “Mỗi niệm chứng Bồ-đề.”
Giải thích : Đây nói rõ không nhất định là thời nào. Tu nhân và đắc quả không nhật định là thời nào. Cho nên cần phải siêng tu, không có thời nào là không thể tu. Tu nhân như vậy thì đắc quả cũng như vậy. Cho nên không nên nói là thời có chướng ngại mà khinh tiện tự thân.
Luận nói : “Nơi chốn nhiều số lượng,”
Giải thích : Cho thấy xứ sở nơi chốn là vô định, tùy bất cứ nơi nào đều có thể lập nhân và đắc quả.
Luận nói : “Chớ sinh tâm hạ liệt.”
Giải thích : Đây là minh giải 3 nghĩa ở trước, cho nên không sinh tâm chán nản thoái lui. Nghĩa là nói rằng ta không có công năng để được vô thượng Bồ-đề. Cho nên tâm không hạ liệt.
Luận nói : “Người thiện tâm tín lạc,có thể sinh tâm bố thí v.v…tu Lục độ.”
Giải thích : Chẳng phải tâm ác và tâm vô ký có thể tín lạc. Bởi vì sao ? Có người đem tâm tản mạn vô ký mà làm bố thí v.v…Lại có các ngoại đạo đem tâm ác làm bố thí v.v…Để tách rời cái ác và vô ký này nên nói thiện tâm. Nếu không có thiện tâm là nhân thì không thành hạnh bố thí v.v… Cho nên phải có thắng nhân để sinh thắng quả. Thắng nhân tức tín lạc. Do tín lạc nên sinh bố thí v.v…các độ. Hai câu này cho thấy 3 nghĩa : một cho thấy duyên tăng thượng, hai cho thấy nhân đồng loại, ba cho thấy quả đẳng lưu.
Luận nói : “Thắng nhân có ý chí này , nên có thể tu bố thí v.v…Lục độ.”
Giải thích : Các Bồ-tát gọi là thắng nhân, tức là những kẻ hơn người. Ý này tức ý chí đúng đắn của Bồ-tát. Nghĩa là tín và lạc. Do ý chí này nên có khả năng tu bố thí v.v…Vì vậy nên ta tu bố thí v.v…không lấy gì làm khó.
Luận nói : “Người lành khi mạng chung,”
Giải thích : Có 2 hạng người lành, tức phàm phu và Nhị thừa. Phàm phu tu thí, tu giới. Nhị thừa tu đạo phẩm. Khi chết cũng có 2 loại, một loại gọi là tử đọa tức chết rồi đọa vào một cõi sinh tử, hai gọi là di vị tức tức di chuyển địa vị.
Luận nói : “Được phú lạc vượt trội.”
Giải thích : Đây cũng có 2 hạng. Phàm phu thì được phú lạc cõi nhân thiên Phạm thế. Nhị thừa được phú lạc lục thông v.v… Nếu lập nhân này nhất định sẽ được quả.
Luận nói : “Quả diệt viên tịnh thiện. Nghĩa này sao lại không ?”
Giải thích : Ta nay tu phúc tuệ và đạo phẩm vô lưu của 10 địa. Viên là nói về các địa. Tịnh là npói về đạo phẩm. Sau khi diệt Kim cương tâm gọi là diệt vị. Đây tức quả vô thượng Bồ-đề, gọi là thắng phú lạc. Ta quyết định phải được quả này, sao nói là không ?
Luận nói : Do diệt trừ 4 chỗ chướng,
Giải thích : Đây là chỗ thứ tư trong 8 chỗ. Bốn thứ chướng này Bồ-tát đều phải diệt trừ. Nay sẽ nói đến.
Luận nói : do lìa bỏ cái tư duy của Thanh Văn, Độc Giác nên tà tư duy diệt.
Giải thích : Tư duy của Nhị thừa là thường quán khổ, vô thường v.v…tội lỗi sinh tử, và thường quán công đức của Niết-bàn tịch diệt. Quán này chỉ yêu bản thân, bỏ việc lợi ích chúng sinh. Nếu rời bỏ cái quán này gọi là diệt tà tư duy.
Luận nói : Trong Đại thừa sinh tín tâm và tâm quyết định rõ ràng nên diệt tất cả tà ý và sự hoài nghi.
Giải thích : Ở trong pháp rất rộng lớn sâu xa của Đại thừa, sinh tín tâm đối với chân đế, sinh tâm quả quyết rõ ràng đối với tục đế. Đối với chân như bỏ ý bài bác, đối với 12 bộ kinh Đại thừa do Như Lai nói bỏ ý tưởng theo văn đoán nghĩa, cho nên diệt tất cả tà ý và sự hoài nghi. Lại nữa ở trong Đại thừa, dựa vào chỗ an lập pháp tướng, Như Lai nói 3 tính là tất cả pháp vô tính, tất cả pháp bất sinh bất diệt, bản lai tịch tĩnh tự tính Niết-bàn. Như vậy những phẩm loại vô hữu là dựa vào tính phân biệt mà nói. Nếu nói là việc ảo hóa, con nai khát nước, tướng chiêm bao, bóng sáng, ảnh trong gương, tiếng vang trong hang sâu, mặt trăng dưới nước, sự biến hóa, là dựa vào tính y tha mà nói. Nếu nói chân như, thật tế vô tướng, chân thật pháp giới không v.v…, là dựa vào tính chân thật mà nói. Những điều nói trong 3 tính này, không sinh bất tín hay nghi ngờ, nên nói là diệt tà ý và hoài nghi.
Luận nói : Trong các pháp được nghe và tư duy, lìa bỏ tà chấp về ngã và ngã sở. Vì vậy diệt trừ pháp chấp,
Giải thích : Cảnh giới văn tư gọi là các pháp sở văn tư. Những câu văn hiển thị nghĩa là cảnh giới của văn tuệ. Dựa theo nghĩa này, đúng lý đúng lượng suy tìm đạo lý. Đạo lý này là cảnh giới của tư tuệ. Trong đó nếu chấp pháp thể là có thì gọi là chấp ngã của pháp. Ví như chấp có Niết-bàn, nghĩa là tập đế vô sinh tịch tĩnh là thể. Nếu chấp pháp thể có dụng gọi là chấp ngã sở của pháp, nghĩa là có thể lìa 3 khổ. Những chấp như vậy gọi là tà chấp. Nếu chưa diệt các chấp này thì không thể nhập vào 4 vị duy thức được. Lại nữa xa lìa chấp pháp sở văn và sở tư, ngã và ngã sở, trong đó chỉ thể và dụng của pháp là có, thì gọi là ngã ngã sở, không chấp nhân ngã ngã sở. Bởi vì sao ? Vì cái chấp nhân ngã này, trước ở trong 10 giải đã diệt trừ rồi, chỉ có pháp ngã chưa trừ cho nên nói rõ phương tiện nhập duy thức.
Luận nói : an lập hiện tiền trụ, tất cả tướng tư duy không phân biệt, nên có thể diệt trừ phân biệt.
Giải thích : Ở trong tán loạn vị, sắc v.v… 6 trần tự được chứng biết là hiện tiền trụ. Ở trong tịch tĩnh vị, cốt tỏa tụ v.v…từ định tâm khởi làm an lập. Tất cả các tướng như vậy là cảnh giới của 2 tâm tán loạn và tịch tĩnh. Tư duy là giác quán tư duy. Quán khổ, vô thường, vô ngã v.v…Tâm này duyên nội cảnh. Do thấy cảnh là vô tướng, thấy thức là vô sinh, cho nên có thể diệt phân biệt. Do vô phân biệt làm phương tiện nên được nhập vào 4 vị. Nếu khởi phân biệt thì không nhập được. Lại nữa hiện tiền trụ và chỗ lập tất cả tướng tư duy đều không phân biệt là vì người ở trong phân biệt quán phương tiện đạo tác ý vô phân biệt. Nếu phương tiện đã thuần thục, không cần phải dụng công, tự nhiên có thể vô phân biệt.
Luận nói : Ở đây có bài kệ như sau :
Giải thích : Bài kệ này nói chỗ diệt sau cùng.
Luận nói :
Hiện trụ và an lập,
Tất cả tướng tư duy.
Người trí không phân biệt,
Nên được vô thượng giác.
Luận nói : “Hiện trụ và an lập, tất cả tướng tư duy.”
Giải thích : Tất cả tướng có 2 thứ là hiện trụ và sở lập. tán tâm duyên 6 trần là hiện trụ. Định tân duyên cốt v.v…là sở lập. Lại nữa tất cả tướng có 2 thứ một là như ngoài hiển hiện, hai là như trong hiển hiện. Như ngoài là tướng. Như trong là tư duy.
Luận nói : “Người trí không phân biệt,”
Giải thích : Bồ-tát gọi là người trí. Đã văn tư đạo lý duy thức, do văn tư này nên gọi là người trí tác ý không phân biệt cho đến công dụng không phân biệt.
Luận nói : “Nên được vô thượng giác.”
Giải thích : Do không phân biệt cho nên thành tựu trí vô phân biệt, được nhập sơ địa, tức sơ địa trở lên là vô thượng giác.
Luận nói : Duyên pháp và nghĩa làm cảnh.
Giải thích : Đây tức là chỗ nhân thứ năm trong 8 chỗ, và phương tiện có thể khiến nhập duy thức quán. Nay sẽ nói đến.
Luận nói : Do nhân gì, phương tiện gì được ngộ nhập ?
Giải thích : Câu hỏi này có 2 ý, trước hỏi nhân sau hỏi phương tiện.
Luận nói : Do các chủng loại được đa văn huân tập, nhiếp thuộc trong chính tư duy, hiển hiện tựa như pháp và nghĩa, có kiến phần của ý ngôn phân biệt.
Giải thích : Đây là trả lời câu hỏi thứ nhất. Nhân 12 bộ kinh Đại thừa sinh văn tuệ huân tập. Sự huân tập này có chủng loại. Chủng loại tức là văn tuệ. Lấy văn tuệ này làm sinh nhân. Dựa vào văn tuệ này thường phát khởi chính tư duy, tăng trưởng khiến kiên trụ nên gọi là nhiếp. Duy trì khiến kiên trụ chính tư duy làm nhân tăng trưởng. Có ức niệm nhiếp trì, hoặc tựa như chính giáo hiển hiện, hoặc tựa như nghĩa sở thuyên của chính giáo hiển hiện. Ý thức giác quán tư duy gọi là ý ngôn phân biệt. Ý ngôn phân biệt này có 2 thứ. Tức là tướng và kiến. Nay chỉ lấy kiến không lấy tướng. Bởi vì sao ? Vì quán pháp này là duyên thức khiển trừ trần.
Luận nói : Do 4 thứ tầm tư là danh nghĩa tầm tư, tự tính tầm tư, sai biệt tầm tư và giả lập tầm tư.
Giải thích : Đây là chỗ thứ sáu trong 8 chỗ. Nếu Bồ-tát trong danh chỉ thấy danh, trong nghĩa chỉ thấy nghĩa, trong danh nghĩa tự tính ngôn thuyết chỉ thấy danh nghĩa tự tính ngôn thuyết, trong danh nghĩa sai biệt ngôn thuyết chỉ thấy danh nghĩa sai biệt ngôn thuyết, trong 4 chỗ này thấy, suy lường, quyết đoán rõ chỗ nghi gọi là tầm tư. Bồ-tát thấy tướng của danh nghĩa đều khác, và kiến tương ưng dựa vào nghĩa tương ưng. Bồ-tát thấy tự tính ngôn thuyết và sai biệt. Ngôn thuyết đều thuộc nghĩa nên nói là cùng nghĩa tương ưng. Làm sao biết được danh và nghĩa cùng làm khách cho nhau ? Trước tiên nơi danh trí không sinh. Nếu danh và nghĩa đồng thể thì khi chưa nghe tên đã thành danh trí trong nghĩa. Lại nữa tên thì nhiều. Nếu tên và nghĩa đồng thể thì tên nhiều, nghĩa cũng phải nhiều. Lại tên là bất định cho nên nếu tên và nghĩa đồng thể thì tên đã không nhất định, nghĩa cũng phải như vậy. Nếu không thành một vật có pháp trái nhau thì phải là đồng thể. Lại nữa cái tên này khởi lên trong trường hợp có nghĩa hay trong trường hợp vô nghĩa ? Nếu tên khởi lên trong trường hợp đã có nghĩa hay trong trường hợp chưa có nghĩa thì không thành cái nghĩa đồng một thể. Lại nữa nếu ông nói trước đã có nghĩa, sau dùng tên làm rõ nghĩa, ví như đèn chiếu sắc. Nếu vậy thì người này trước đã chấp nghĩa, sau mới đặt tên, không phải đặt tên khi chưa chấp nghĩa. Chấp như vậy tức phải có khả năng hiểu nghĩa, cần gì sau lại phải đặt tên để hiển nghĩa. Nếu chỗ chấp này không có khả năng hiểu nghĩa thì lẽ nào hiểu được tên ? Lại nữa do tên này có những người khác không hiểu, chấp nghĩa bởi chưa rõ tên này. Nếu tên chắc chắn có thể hiểu nghĩa thì phải không có trường hợp này. Nếu tên chắc chắn có thể hiểu nghĩa thì do tên này sẽ không có người thì biết vật người khác thì không biết vật. Lại nữa nếu chấp nghĩa khác tên khác thì đối với nghĩa sẽ không có tà chấp bởi tên này. Ví như người phàm phu biết 5 ấm chỉ là sự tụ họp của các hành. Do thường huân tập nên tự tha tương tục khởi ngã chấp. Đối với nghĩa không phải là không tà chấp. Nếu nghĩa với tên là một thì không có 2 việc này. Do các nghĩa như vậy nên biết danh đối với nghĩa là khách và ngược lại cũng vậy.
Chương 6 : Nhập tư lương
Luận nói : Do 4 thứ như thật trí, tức danh nghĩa, tự tính, sai biệt và như thật là 4 thứ không thể thủ đắc,
Giải thích : Đây là chỗ thứ bảy trong 8 chỗ. Thế nào là tầm tư sở dẫn như thật trí ? Nếu Bồ-tát đối với tên gọi đã tư duy chỉ có tên, sau biết đúng như thật chỉ có cái tên. Thế gian để làm rõ nghĩa này nên ở trong nghĩa này đặt ra tên này để tưởng thấy ngôn thuyết. Nếu thế gian không đặt tên cho các sắc v.v…thì trong sắc loại không có một người nào có thể tưởng ra loại này. Sắc ấy nếu không thể tưởng thì không tăng ích. Nếu không tăng ích thì không khởi chấp trước. Nếu không chấp trước thì không thể cùng nhau dạy bảo. Nếu Bồ-tát biết tên như vậy thì gọi là trí như thật thứ nhất : Danh tầm tư sở dẫn. Nếu Bồ-tát đối với nghĩa đã tư duy chỉ có nghĩa, biết đúng như thật nghĩa, là lìa tất cả mọi ngôn thuyết, không thể dùng ngôn thuyết. Nghĩa là sắc, thụ v.v… các loại, sắc là chẳng phải sắc, không thể nói là sắc, pháp là chẳng phải pháp, không thể nói là pháp, hữu là phi hữu, không thể nói là hữu. Đó là trí như thật thứ hai : Nghĩa tầm tư sở dẫn. Thế nào là trí như thật : Tự tính tầm tư sở dẫn ? Nếu Bồ-tát trong tự tính ngôn thuyết đối với các loại sắc, danh v.v…đã tư duy chỉ có ngôn thuyết. Do tự tính ngôn thuyết, loại này không phải là tự tính đó mà hiển hiện như là tự tính đó. Bồ-tát hiểu thấu suốt loại này như là biến hóa, ảnh trong gương, tiếng vang trong hang, bóng sáng, chiêm bao, sự ảo hóa v.v…chẳng phải loại đó mà hiển hiện tựa như loại đó. Đó gọi là trí như thật thứ ba : Tự tính tầm tư sở dẫn. Lấy nghĩa thậm thâm làm cảnh giới. Thế nào là trí như thật : Sai biệt tầm tư sở dẫn. Nếu Bồ-tát trong sai biệt ngôn thuyết đã tư duy chỉ có ngôn thuyết. Trong sắc v.v…các loại Bồ-tát thấy sai biệt ngôn thuyết không có 2 nghĩa. Loại này chẳng phải có, chẳng phải chẳng có, do có thể nói nên thể không thành tựu. Chẳng phải có, chẳng phải chẳng có, do không thể nói nên thể thành tựu. Như thế chẳng phải sắc, do chân đế nên chẳng phải chẳng phải sắc. Do tục đế nên trong ngôn thuyết có sắc như có chẳng phải có và sắc chẳng phải sắc, như thế có thấy không thấyv.v..các loại sai biệt ngôn thuyết , do đạo lý này phải biết đều như vậy. Nếu Bồ-tát biết như thật sai biệt ngôn thuyết không có 2 nghĩa. Đó gọi là trí như thật thứ tư : Sai biệt tầm tư sở dẫn.
Trước đã nói danh và nghĩa, sau nói tự tính và sai biệt. Trong 4 cái này đều là ngôn thuyết giả lập là muốn hiển thị điều gì ? Là hiển thị nghĩa bất khả đắc. Do nghĩa không thể có được tên, cũng không tự tính và sai biệt, cho nên Bồ-tát tư duy cái tên này chỉ là giả lập tự tính sai biệt. Như thế suy lường hiểu rõ quyết đoán chỗ nghi v.v…gọi là tầm tư. Nhân tầm tư này Bồ-tát quán tên và nghĩa cả hai là vô sở hữu, đó gọi là trí như thật.
Luận nói : nên nếu Bồ-tát đã ngộ nhập, đã hiểu rõ các nghĩa này
Giải thích : Đã ngộ nhập nghĩa là đã được 4 thứ tầm tư. Đã hiểu rõ nghĩa là đã được 4 thứ như thật trí.
Luận nói : thì tu gia hành để nhập Duy thức quán.
Giải thích : Ở địa tiền, Luc độ và 4 thứ thiện căn thông đạt phần gọi là gia hành. Từ nguyện lạc vị cho đến cứu cánh vị gọi chung là Duy thức quán. Nếu muốn vào Duy thức quán, duyên cảnh giới nào tu gia hành ?
Luận nói : Trong pháp tu quán này ý ngôn phân biệt tựa danh tự ngôn thuyết và nghĩa hiển hiện.
Giải thích : Từ nguyện lạc vị cho đến cứu cánh vị gọi là quán trung, duyên ý ngôn phân biệt làm cảnh. Tách rời cái này không có ngoại cảnh nào khác. Bởi vì sao ? Ý ngôn phân biệt này hiển hiện tựa như văn tự, ngôn thuyết và nghĩa.
Luận nói : Trong đó là tướng của danh tự ngôn thuyết. Chỉ có ý ngôn phân biệt được sự thông suốt này.
Giải thích : Chỉ có ý ngôn phân biệt vô phân biệt là có tên. Bồ-tát hiểu được tên là vô sở hữu thì lìa bỏ tà chấp ngoại trần.
Luận nói : Nghĩa này dựa vào danh ngôn, chỉ ý ngôn phân biệt cũng thông đạt như vậy.
Giải thích : Trước đã khiển trừ tên. Dưới đây dựa vào tên khiển trừ nghĩa. Nghĩa tức là cảnh sở duyên của 6 thức. Tách rời tên không có cảnh nào khác. Vì vậy dựa vào tên để khiển trừ nghĩa. Danh ngôn đã chỉ ý ngôn phân biệt nên nghĩa cũng không có cái thể riêng khác. Bồ-tát có thể thông đạt nghĩa vô sở hữu cũng lìa bỏ tà chấp ngoại trần.
Luận nói : Danh nghĩa tự tính sai biệt này chỉ giả thuyết là lượng cũng thông đạt như vậy.
Giải thích : Trước đã khiển trừ danh nghĩa. Danh nghĩa đã không làm sao có thể lập danh nghĩa, tự tính và sai biệt ? Nếu lìa giả thuyết không có danh nghĩa tự tính và danh nghĩa sai biệt nào khác. Do chứng thấy 2 pháp này là bất khả đắc nên gọi là thông đạt.
Luận nói : Tiếp đến trong địa vị này chỉ chứng đắc là duy ý ngôn phân biệt.
Giải thích : Người tu quán hạnh này đã khiển trừ ngoại trần. Trong lúc tu quán này lại duyên cảnh gì ?. Vì quán tất cả cảnh chỉ là ý ngôn phân biệt cho nên người tu quán hạnh này duyên ý ngôn phân biệt làm cảnh. Chưa thể khiển trừ nơi cảnh này nếu chưa thể khiển trừ cảnh duy thức. Ở trong địa vị này đã khiển trừ cảnh gì ? Đã hết cả không còn sót. Địa vị này chỉ không thấy 4 cảnh. Đó là 4 cảnh gì ?
Luận nói : Đó là người tu quán hạnh không thấy danh và nghĩa, không thấy tự tính sai biệt giả thuyết. Bởi thật tướng đã không được có nghĩa tự tính sai biệt.
Giải thích : Danh nghĩa là gốc. Danh nghĩa đều có tự tính và sai biệt giả thuyết. Đã là danh không thấy tự tính sai biệt giả thuyết, tức là không thấy cái tên tự tính sai biệt. Khiển trừ hết 4 pháp vĩnh viễn không còn sót. Do tâm duyên ý ngôn phân biệt làm cảnh, quyết định kiên trụ cho nên không trở lại phân biệt cảnh nào khác. Do 4 thứ tầm tư và 4 thứ trí như thật đã hiểu rõ 4 pháp này quyết định là vô sở hữu, cho nên tâm không duyên tướng này. Vì không duyên tướng này nên không được 4 thứ phân biệt này. Nếu do 2 thứ phương tiện khiển trừ sự phân biệt ngoại trần lại có phương tiện nào khác và cảnh giới nào khác được nhập chân quán ?
Luận nói : Do 4 thứ tầm tư và 4 thứ như thật trí.
Giải thích : Trước tiên trả lời câu hỏi trước là không có phương tiện nào khác. Vì do 4 thứ tầm tư và 4 thứ trí như thật. Bốn thứ Tam-ma-đề gồm thâu làm nhập phương tiện.
Luận nói : Đối với ý ngôn phân biệt hiển hiện tựa danh và nghĩa
Giải thích : Tiếp đến trả lời câu hỏi sau là không có cảnh giới nào khác. Phàm phu từ xưa đến nay có 2 thứ ý ngôn phân biệt : một là tựa như danh, hai là tựa như nghĩa. Danh nghĩa bao gồm hết tất cả pháp. Danh nghĩa này chỉ là ý ngôn phân biệt tạo ra, tách rời nó không có pháp nào khác.
Luận nói : mà được ngộ nhập lý Duy thức quán.
Giải thích : Dựa vào phương tiện này duyên cảnh giới này mà được nhập chân quán duy thức.
Luận nói : Trong lý Duy thức quán, ngộ nhập pháp gì ? Ngộ nhập như thế nào ?
Giải thích : Dưới đây nói rõ chỗ thứ tám trong 8 chỗ. Trong đây có 2 câu hỏi : một nhập pháp, hai nhập thí.
Luận nói : Chỉ ngộ nhập duy lượng.
Giải thích : Dưới đây trước trả lời câu hỏi thứ nhất là chỉ nhập duy thức lượng. Duy thức lượng này gồm có bao nhiêu pháp ?
Luận nói : Tướng và kiến hai pháp,
Giải thích : Duy thức này không ra ngoài 2 pháp : một là tướng thức, hai là kiến thức. Lại nữa hiển hiện tựa như trần gọi là tướng, tức cảnh sở duyên, hiển hiện tựa như thức gọi là kiến, tức thức năng duyên. Hai pháp này một là nhân một là quả. Lại nữa một là sở y một là năng y.
Luận nói : các thứ tướng mạo,
Giải thích : Hai pháp này do sinh tử từ vô thủy đến nay nhiều huân tập nên nhanh chóng. Vì vậy trong một lúc có nhiều thứ tướng mạo khởi. Như vậy 3 pháp này người tu quán hạnh duy thức quán được ngộ nhập.
Luận nói : danh, nghĩa, tự tính của danh, sai biệt của danh, tự tính của nghĩa, sai biệt của nghĩa, 6 thứ tướng vô nghĩa,
Giải thích : Danh và nghĩa mỗi thứ đều có 3 thành 6. Ba của danh là một danh, hai tự tính, ba sai biệt. Ba của nghĩa cũng vậy. Sáu thứ tướng này đều vô nghĩa. Bởi vì sao ? Danh, tức tên gọi, là vốn từ nghĩa, nó là vô sở hữu nên tên gọi là vô nghĩa. Tên gọi này là tự nó có nghĩa hay vô nghĩa ? Nếu có nghĩa, nhưng vì nghĩa vô sở hữu nên tên gọi là vô nghĩa. Nếu tên gọi là vô nghĩa cũng không, vì vô sở hữu, nên nghĩa của cái tên gọi vô nghĩa cũng không có nghĩa. Tách rời thức lượng ngoài ra không có nghĩa gì khác, cho nên nghĩa cũng là vô nghĩa. Tên đã vô nghĩa thì tự tính và sai biệt của tên cũng không có nghĩa. Nghĩa đã vô nghĩa thì tự tính của nghĩa và sai biệt của nghĩa cũng không có nghĩa. Hiểu rõ 6 tướng này là vô nghĩa thì rõ pháp quán nhập duy lượng. Rõ pháp quán nhập duy lượng rồi, làm sao ngộ nhập pháp quán tướng kiến ?
Luận nói : cho nên do đó nghĩa của năng thủ sở thủ là phi hữu.
Giải thích : Đây tức là đối với cái tướng tướng kiến là chẳng phải năng thủ sở thủ. Bởi vì sao ? Hiển hiện tựa như trần nên chẳng phải năng thủ. Lìa thức chẳng có trần nào khác nên chẳng phải sở thủ. Kiến cũng chẳng phải năng thủ sở thủ. Hiển hiện tựa như thức nên chẳng phải sở thủ. Cái trần sở thủ đã là không thì thức cũng không, nên chẳng phải năng thủ. Đã không có năng thủ sở thủ, nên chẳng có nghĩa, do không thấy có cái thể của năng thủ sở thủ. Đó gọi là nhập tướng kiến quán. Đã nói rõ pháp quán ngộ nhập tướng kiến, vậy làm sao ngộ nhập pháp quán các chủng loại tướng mạo ?
Luận nói : Một khi nó hiển hiện thì tựa như có các thứ tướng mạo và có sinh khởi.
Giải thích : Nếu Bồ-tát thấy tính y tha hiển hiện thì tựa như có các thứ tướng mạo, kỳ thật là không có tướng, thấy tính y tha hiển hiện tựa như sinh, kỳ thật là không có sinh. Trong một lúc có thể quán các thứ tướng mạo là vô tướng vô sinh, gọi là quán các thứ tướng mạo. Để làm rõ việc nhập pháp quán 3 tính, nên nói thí dụ sợi dây.
Luận nói : Ví như trong tối, sợi dây hiện tựa con rắn.
Giải thích : Người trông thấy dáng sợi dây cho là con rắn. Dưới đây là trả lời câu hỏi thứ hai. Chúng sinh từ xưa đến nay không nghe nghĩa của 3 vô tính nói trong 12 bộ kinh Đại thừa, chưa được văn tuệ, bị 3 phiền não che phủ ví như bóng tối. Có người là ví cho Nhị thừa và phàm phu, dáng sợi dây ví cho tính y tha, con rắn ví cho tính phân biệt. Nhị thừa phàm phu không hiểu rõ tính y tha, chấp tính phân biệt có nhân và pháp.
Luận nói : Cũng như nơi sợi dây, con rắn là hư vọng không thật có.
Giải thích : Ở trong tính y tha, tính phân biệt là hư vọng, thật sự không có nhân không có pháp.
Luận nói : Cho nên nếu người đã biết rõ đây là sợi dây
Giải thích : Ví như Bồ-tát đã được văn tư 2 tuệ, ngộ nhập duy thức phương tiện quán.
Luận nói : thì cái biết hoảng loạn là con rắn trước đó không duyên cảnh khởi, tức thì diệt mất, chỉ còn cái trí biết đó là sợi dây.
Giải thích : Khi chưa được văn tư tuệ, ở trong địa vị phàm phu chấp có nhân có pháp. Cái chấp này vốn không có cảnh. Sau khi được văn tư tuệ, hiểu rõ tính y tha, cái chấp này liền diệt mất, chỉ còn lại cái trí của tính y tha.
Luận nói : Cái trí biết là sợi dây này, nếu phân tích thật vi tế thì cũng không phải thật cảnh.
Giải thích : Nếu người duyên tướng 4 trần, phân tích sợi dây này chỉ thấy có 4 tướng, không thấy có sợi dây nào khác, nên cái trí biết là sợi dây là hư vọng. Hư vọng nên là loạn, không thật cảnh, chấp cảnh vọng khởi.
Luận nói : Bởi vì sao ? Vì đó chỉ là tướng của sắc, thanh, hương, vị, xúc.
Giải thích : Bởi vì sao ? Sợi dây chẳng phải thật có. Vì lìa 4 trần ra chẳng có sợi dây nào cả.
Luận nói : Nếu tâm duyên cảnh này thì cái trí biết là sợi dây cũng phải diệt mất.
Giải thích : Đây nói rõ cái trí biết là sợi dây tuy khiển trừ cái chấp thô loạn, nhưng tự nó còn cái chấp tế loạn, tức loạn chấp ở mức độ vi tế, cũng cần phải trừ bỏ. Tuy ở trong phương tiện, dùng tính y tha khiển trừ chấp thô loạn của tính phân biệt, nhưng thấy có tính y tha, tức tự nó không khỏi còn loạn chấp về mặt vi tế. Sau khi nhập chân quán thì khiển trừ chấp này, nên nói là cần phải trừ bỏ.
Luận nói : Nếu thấy như vậy rồi diệt thì đè bẹp tiêu diệt 6 tướng hiển hiện, tựa danh và tựa nghĩa, ý ngôn phân biệt,
Giải thích : Tất cả các pháp chỉ có 6 tướng. Sáu tướng này chỉ là ý ngôn phân biệt. Tách rời ý ngôn phân biệt, 6 tướng này thật vô sở hữu. Do trí hiểu biết này , người tu quán hạnh ngộ nhập tính phân biệt.
Luận nói : trí biết trần cảnh không sinh, ví như cái biết là con rắn.
Giải thích : Khi đã ngộ nhập tính phân biệt thì trí biết trần cảnh không sinh. Như khi đã biết là sợi dây thì không sinh cái biết đó là con rắn. Câu nói và thí dụ này cho thấy rõ sự ngộ nhập tính phân biệt.
Luận nói : Ở trong nghĩa đè bẹp tiêu diệt 6 tướng thì cái trí duy thức cũng phải đè bẹp tiêu diệt, ví như cái trí biết là sợi dây.
Giải thích : Ở trong địa vị ngộ nhập tính phân biệt, Bồ-tát đã chứng tính vô tướng. Tính vô tướng này có khả năng dẫn khởi trí tính vô sinh. Cho nên cái trí duy thức cũng cần phải đè bẹp tiêu diệt. như khi đã hiểu rõ 4 vi tế thì cái trí biết là sợi dây không sinh.
Luận nói : Đó là vì y vào trí chân như.
Giải thích : Y vào cái trí tính vô tướng được ngộ nhập tính vô sinh. Câu nói và thí dụ này cho thấy rõ sự ngộ nhập tính y tha và tính chân thật.
Luận nói : Như vậy Bồ-tát do ngộ nhập nghĩa tương tự hiển hiện tướng ý ngôn phân biệt, nên được ngộ nhập tính phân biệt. Do ngộ nhập nghĩa duy thức, được ngộ nhập tính y tha.
Còn thế nào là ngộ nhập tính chân thật ?
Giải thích : Nếu Bồ-tát đã hiểu rõ tất cả pháp chỉ là ý ngôn phân biệt, lìa nó ra là vô sở hữu. Do dựa vào ý ngôn phân biệt hiểu rõ được tính vô tướng phân biệt. Nếu Bồ-tát không thấy ngoại trần, chỉ thấy ý ngôn phân biệt, tức hiểu rõ tính y tha. Làm sao hiểu được pháp này ? Nếu tách rời nhân duyên, tự không thể sinh căn trần. Vì nhân duyên, căn trần đã không thành thì pháp này không nhân duyên làm sao được sinh ? Cho nên Bồ-tát có thể hiểu rõ tính y tha và tính vô sinh, tức hiểu rõ tính chân thật.
Luận nói : Nếu xả bỏ ý tưởng duy thức rồi,
Giải thích : Nếu Bồ-tát dựa vào chân quán đầu tiên ngộ nhập tính y tha, do chân quán thứ hai trừ bỏ tính y tha thì trừ bỏ ý tưởng duy thức.
Luận nói : bấy giờ ý ngôn phân biệt là những chủng loại do đa văn đã huân tập trước,
Giải thích : Bấy giờ, tức là nói lúc nhập chân quán. Từ mới tu học cho đến trước khi nhập chân quán, ý thức giác quán tư duy ức trì các chính giáo xưa được nghe và rõ nghĩa chính giáo gọi là ý ngôn phân biệt. Những gì do trước được nghe pháp sinh nên nói là huân tập. Những cảnh giới sau được duy trì nhớ lại cũng như những cảnh giới lúc trước lưu xuất gọi là chủng loại.
Luận nói : Bồ-tát đã hiểu rõ và đè bẹp tiêu diệt ý tưởng trần cảnh.
Giải thích : Bồ-tát dựa vào 4 tầm tư, đã hiểu rõ 6 trần, dựa vào 4 trí như thật, đã đè bẹp tiêu diệt ý tưởng trần cảnh.
Luận nói : Tương tự nhất thiết nghĩa hiển hiện, không sinh khởi duyên nữa nên không được sinh.
Giải thích : Ý ngôn phân biệt xưa hiển hiện tựa như tất cả nghĩa đã được nghe và tư duy, cho đến tựa như chỉ có thức tưởng đều không được sinh. Bởi vì sao ? Vì không được sinh duyên. Có 2 thứ sinh duyên là tính phân biệt và tính y tha. Tính phân biệt đã diệt, tính y tha lại không được sinh. Đã không có 2 cảnh cho nên tất cả nghĩa cho đến tựa như duy thức tưởng đều không được sinh. Lại nữa bấy giờ không có một phẩm loại trần nào Bồ-tát không hiểu, cũng như được trần cảnh tương tự này khởi ý ngôn phân biệt. Ý ngôn phân biệt sinh duyên đều hết. Đã không có sinh duyên nên trong lúc bấy giờ tất cả ý ngôn phân biệt đều không được sinh.
Luận nói : Vì vậy tương tự ý ngôn phân biệt cũng không được sinh.
Giải thích : Câu này muốn nói rõ nghĩa gì ? Cái ý tưởng duy thức này nếu là tâm phân biệt cái tưởng này sẽ thành cảnh giới. Cái chấp cảnh giới này cứ muốn đè bẹp tiêu diệt cho nên đến ý tưởng duy thức còn không khởi được huống chi những ý ngôn phân biệ khác được sinh.
Luận nói : Do nghĩa này,
Giải thích : Do Bồ-tát dựa vào tính y tha trừ bỏ tính phân biệt, dựa vào tính chân thật trừ bỏ tính y tha, nếu tất cả bị trừ bỏ thì Bồ-tát trụ ở đâu và tâm Bồ-tát duyên cảnh giới nào ?
Luận nói : Bồ-tát chỉ trụ ở vô phân biệt trong tất cả nghĩa và danh.
Giải thích : Trí vô phân biệt gọi là danh. Tướng của cái danh này như thế nào ? Nghĩa là không phân biệt tất cả nghĩa. Nghĩa tức là cảnh. Trí này đối với tất cả cảnh không còn có 2 thứ phân biệt năng thủ sở thủ. Tức lập cái trí này là Bồ-tát. Lại nữa danh thì đến cứu cánh danh thông tất cả pháp, đối với tất cả pháp không có sai biệt. Cái danh này tức là pháp giới. Pháp giới này lấy sự thông tất cả pháp, không phân biệt tất cả nghĩa làm tướng, hoặc nói là cảnh vô phân biệt. Bồ-tát chỉ trụ trong pháp này. Cả hai cái này cũng đáp câu hỏi thứ nhất.
Luận nói : Do trí vô phân biệt được chứng và được trụ pháp giới chân như.
Giải thích : Không phân biệt năng thủ sở thủ và nhân pháp , cho đến sinh tính sai biệt, được trí vô phân biệt như vậy thì được chứng và trụ pháp giới chân như. Ở mỗi địa mỗi địa đều có 3 phần là nhập, trụ và xuất. Được chứng, được trụ là 2 phần trước. Chưa được khiến được là chứng. Đã được làm cho không mất là trụ. Lại nữa mới được gọi là nhập. Được rồi tiếp tục gọi là trụ. Đây tức trả lời câu hỏi thứ hai.
Luận nói : Bấy giờ Bồ-tát bình đẳng bình đẳng
Giải thích : Đó là lúc nhập chân quán, trí Bồ-tát dựa vào 10 thứ bình đẳng như Kinh Thập Địa nói. Lại dựa vào 2 thứ bình đẳng là năng duyên sở duyên. Năng duyên tức trí vô phân biệt. Vì trí không phân biệt nên gọi là bình đẳng. Sở duyên tức cảnh chân như. Cảnh cũng không phân biệt nên gọi là bình đẳng. Lại nữa cảnh trí này không trụ trong nghĩa năng thủ sở thủ, ví như hư không, nên gọi là “bình đẳng bình đẳng”. Vì là cao tột không gì sánh được trong bình đẳng nên gọi lặp 2 tiếng.
Luận nói : sinh trí vô phân biệt năng duyên sở duyên.
Giải thích : Sinh trí vô phân biệt có tướng mạo như thế nào ? Dựa vào 10 thứ bình đẳng, năng duyên sở duyên thảy đều bình đẳng nên sinh trí vô phân biệt. Lại nữa trí vô phân biệt dựa vào 2 thứ bình đẳng là trí và cảnh. Năng duyên sở duyên thảy đều bình đẳng nên sinh trí vô phân biệt. Lại nữa trí vô phân biệt dựa vào sự bình đẳng cùng cực không trụ năng duyên sở duyên nên sinh trí vô phân biệt.
Luận nói : Do nghĩa này Bồ-tát được ngộ nhập tính chân thật.
Giải thích : Như từ trước đến giờ lần lượt giải thích các nghĩa phương tiện và sau phải nói nghĩa cho nên nói “Do nghĩa này”. Hướng đến người sơ địa gọi Bồ-tát, do các nghĩa này được chứng thấy tính chân thật. Địa vị này không thể nói được. Bởi vì sao ? Vì do tự mình chứng đắc cho nên khi chứng lìa giác quán tư duy phân biệt. Trước nói Bồ-tát chỉ trụ vô phân biệt trong tất cả nghĩa, danh. Vậy danh này có bao nhiêu thứ ? Và pháp gì gọi là danh ?
Luận nói : Ở đây có bài kệ như sau :
Giải thích : Nói bài kệ để trả lời câu hỏi này.
Luận nói :
Pháp, nhân và pháp, nghĩa,
Tính, lược cùng với quảng.
Bất tịnh, tịnh, cứu cánh,
Mười tên cảnh sai biệt.
Giải thích : Danh có 10 thứ, đó là cảnh giới Bồ-tát. Những gì là 10 ? Một là pháp danh, tức sắc, thụ v.v…nhãn, nhĩ v.v…Hai là nhân danh, tức tín hành, pháp hành v.v… Ba là pháp danh, tức Tu-đa-la, Kì-dạ v.v…Bốn là nghĩa danh, tức nghĩa danh hiển thị của 12 bộ kinh. Năm là tính danh, tức những chữ vô nghĩa. Sáu là lược danh, tức những tên chung của chúng sinh v.v…Bảy là quảng danh, tức những tên riêng của chúng sinh. Tám là bất tịnh danh, tức phàm phu v.v… Chín là tịnh danh, tức Thánh nhân v.v…Mười là cứu cánh danh, tức nói chung tất cả pháp chân như thất tế v.v…
Luận nói : “Mười tên cảnh sai biệt.”
Giải thích : Đây là 10 tên khác nhau, đều là cảnh giới Bồ-tát. Sở trụ của Bồ-tát chỉ ở cảnh giới thứ 10 chung trong tên tất cả pháp. Lại nữa lược nói thì danh có 10 thứ đều là cảnh giới Bồ-tát. Pháp danh tức nhãn v.v…Nhân danh tức ta, chúng sinh v.v…Pháp danh tức 12 bộ chính giáo. Nghĩa danh tức nghĩa của 12 bộ chính giáo. Tính danh tức A a là âm đầu tiên, Kha là âm cuối cùng hợp lại 37 chữ. Lược danh tức hữu vi vô vi. Quảng danh tức sắc, thụ v.v… và không v.v…Bất tịnh danh tức phàm phu v.v…Tịnh danh tức Tu-đà-hoàn v.v…Cứu cánh danh tức duyên cảnh cực thông, sở duyên của xuất thế trí và xuất thế hậu trí, cảnh chân như của tất cả pháp.
Luận nói : Như thế Bồ-tát do ngộ nhập Duy thức quán, được ngộ nhập ưng tri thắng tướng.
Giải thích : Như thế tức là phương tiện, thứ tự, thời tiết, xả, đắc v.v…Bồ-tát do nghĩa này được ngộ nhập duy thức quán, hoặc nhập duy thức phương tiện quán, hoặc nhập duy thức chân quán. Do duy thức quán có thể thông đạt 3 vô tính nên được ngộ nhập vào ưng tri thắng tướng, tức các thắng tướng cần phải biết.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.223.241.235 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.