Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Thế Tôn
[2] đang ở tinh xá
[3] Tượng Đầu,
[4] tại thành Già-da. Lúc ấy, đức Như Lai thành Phật
[5] chưa lâu, cùng với một ngàn vị đại tỳ-kheo,
[6] trước đây trong quá khứ đều đã từng theo tiên nhân Loa Kế,
[7] sự tu tập những điều cần làm đều đã xong, buông bỏ gánh nặng, xa lìa sinh tử, dứt sạch phiền não, đạt trí tuệ bình đẳng thấu suốt lẽ không, tâm trí trụ yên nơi thiền định
[8] hết thảy đều rõ biết, đã đến bờ giải thoát, đều là những bậc A-la-hán, và vô số các vị Đại Bồ Tát
[9] cùng tụ hội.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn sau khi ngồi một mình tư duy,
[10] nhập các pháp tam-muội,
[11] quán xét khắp pháp giới, tự giác ngộ thành đạo, đầy đủ Nhất thiết trí,
[12] việc cần làm đã xong, buông bỏ các gánh nặng, vượt qua dòng sinh tử, xả bỏ tham dục, nhổ bật gai nhọn ba độc,
[13] dứt sạch khao khát ái dục, thu thập thuyền pháp lớn, đánh trống pháp lớn, thổi kèn pháp lớn,
[14] dựng phướn pháp lớn, đã dứt trừ việc sinh tử, thuyết giảng chánh pháp, đóng lại nẻo vào các cảnh giới xấu ác,
[15] mở cửa vào các cảnh giới lành,
[16] vĩnh viễn xa lìa những cõi uế nhiễm, dạo chơi trong những cõi thanh tịnh.
[Khi ấy, đức Thế Tôn tự nghĩ:] “Ta quán sát pháp ấy, ai là người tu đạo Bồ-đề? Ai là người chứng quả Bồ-đề? Ai là người sắp chứng quả Bồ-đề? Trong quá khứ, hiện tại và tương lai, [quả Bồ-đề đó] là chỗ chứng đắc của ai? Là thân chứng đắc? Hay tâm chứng đắc?
“Nếu dùng thân để chứng đắc, thì thân này vốn vô tri, như cỏ cây, như cát sỏi, như vách tường, không có sự nhận biết. Thân này do bốn đại
[17] hòa hợp, được cha mẹ sinh ra, thường cần phải tồn tại dựa vào thức ăn, nước uống, áo quần, tắm gội lau rửa, cuối cùng hư hoại, tức là pháp tiêu mất.
[18]“Còn quả Bồ-đề này vốn chỉ có tên gọi rỗng không, không có thật tướng, không âm thanh, không hình sắc, không thành tựu, không nhìn thấy, không thể nhập, không rõ biết, không đi, không đến, những pháp như vậy cũng không trói buộc. [Bồ-đề] có thể vượt qua các pháp, ra ngoài ba cõi, không thấy không nghe, không có ta cũng không có vật của ta; không có người tạo tác; không xứ sở, không nơi trú ẩn; không nắm giữ, không bám chấp; không ra, không vào; không mong ước, không dừng trụ; không tướng mạo; không bên kia, không bên này; không hiển bày, chỉ như huyễn hóa.
[Các pháp đều] do mười hai nhân duyên mà sinh khởi, không nơi chốn, không thể nhìn thấy, lìa mọi hình tướng, hiện ra như hư không, vắng lặng, không âm thanh, không tiếng vọng; không văn tự cũng không lời nói. Rõ biết như vậy gọi là Bồ-đề.
Nếu là dùng tâm để chứng đắc, thì tâm này vốn không nhất định, chỉ như huyễn hóa, hết thảy đều do nghiệp vọng tưởng trong quá khứ làm khởi sinh, không có hình tướng, không thể nắm giữ, chỉ như hư không.
[19]Bồ-đề vốn không có nơi chốn, không quá khứ, không vị lai, không hiện tại, hết thảy các pháp không; tuy có nói ra nhưng chỉ là tên gọi, không có tướng thật; là các pháp vô vi: không, vô tướng, vô tác;
[20] chẳng phải có chẳng phải không, không thể chỉ bày, không nói, không nghe.
Bồ-đề ấy không thể chứng đắc trong quá khứ, không thể chứng đắc trong tương lai, không thể chứng đắc trong hiện tại, cũng không thể lìa khỏi ba đời mà chứng đắc; không hình tướng, không tạo tác cũng chẳng phải không tạo tác. Nếu có thể rõ biết pháp của ba đời như vậy, tức là Bồ-đề.
Lúc bấy giờ, Bồ Tát
[21] Văn-thù-sư-lợi thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu không hình tướng là Bồ-đề, vậy hiện nay các thiện nam, thiện nữ phải dựa vào đâu để an trụ, để thành tựu Bồ-đề?”
Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Các Bồ Tát học đạo Bồ-đề nên an trụ như thế này.”
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: “Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát nên an trụ thế nào?”
Đức Phật dạy: “Bồ-đề là ra ngoài ba cõi, vượt qua ngôn ngữ, lời nói, lìa hết văn tự, không có chỗ trụ.
“Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Bồ Tát Ma-ha-tát trụ nơi không có chỗ trụ, đó là an trụ Bồ-đề;
“Trụ nơi không bám chấp, đó là an trụ Bồ-đề;
“Trụ nơi pháp không, đó là an trụ Bồ-đề;
“Trụ nơi tánh pháp, đó là an trụ Bồ-đề;
“Trụ nơi hết thảy các pháp không có tướng thể, đó là an trụ Bồ-đề;
“Trụ nơi niềm tin không giới hạn, đó là an trụ Bồ-đề;
“Trụ nơi không tăng không giảm, đó là an trụ Bồ-đề;
“Trụ nơi không khởi sinh ý niệm khác biệt, đó là an trụ Bồ-đề;
“Trụ [nơi quán xét tất cả các pháp đều không thật, chỉ] như hình chiếu trong gương, như tiếng vọng trong khe núi,
[22] như mặt trăng dưới đáy nước,
[23] như ảo ảnh khi trời nắng nóng.
[24] Này Văn-thù-sư-lợi! Trụ tâm theo những cách như vậy là an trụ Bồ-đề.”
Lúc bấy giờ, thiên tử
[25] Tịnh Quang Diễm thưa hỏi Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi: “Việc tu tập nên như thế nào, theo hành nghiệp gì là hạnh Bồ Tát?”
Ngài Văn-thù-sư-lợi đáp: “Này thiên tử! Đối với tất cả chúng sinh khởi tâm đại từ, đó là hạnh Bồ Tát.”
Thiên tử lại thưa hỏi: “Vậy các Bồ Tát phải tu tập như thế nào để khởi tâm đại từ?”
Ngài Văn-thù-sư-lợi đáp: “Thiên tử! Không xu nịnh lừa dối, đó là tâm đại từ của Bồ Tát.”
“Vậy phải tu tập như thế nào để được tâm không xu nịnh lừa dối?
“Thiên tử! Khởi tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh, đó là không xu nịnh lừa dối. Bồ Tát nên tu học như vậy.”
“Vậy Bồ Tát Ma-ha-tát phải tu tập như thế nào để khởi tâm bình đẳng với hết thảy chúng sinh?”
“Này thiên tử! Không thấy có bên này, bên kia, không có các quan điểm khác biệt, đó là hạnh bình đẳng; Bồ Tát nên tu học như vậy.”
“Vậy Bồ Tát Ma-ha-tát phải tu tập như thế nào để không thấy có bên này, bên kia, không có các quan điểm khác biệt, khởi tâm bình đẳng với hết thảy mọi chúng sinh?”
“Thiên tử! Phải khéo giữ niệm cung kính [với tất cả], không thấy có bên này, bên kia, không có các quan điểm khác biệt, cũng không thấy có pháp bình đẳng. Bồ Tát nên tu tập như vậy.”
Thiên tử lại thưa hỏi: “Bồ Tát Ma-ha-tát nhân đâu mà khởi tâm khéo giữ niệm cung kính với tất cả, cho đến không thấy có bên này, bên kia, không có các quan điểm khác biệt?”
Văn-thù-sư-lợi đáp: “Thiên tử! Nhân nơi phát tâm Bồ-đề
[26] mà khéo giữ được niệm cung kính với tất cả. Bồ Tát nên tu học như vậy.”
Thiên tử lại hỏi: “Vậy nhân đâu mà phát tâm Bồ-đề?”
Văn-thù-sư-lợi đáp: “Thiên tử! Tâm Bồ-đề là từ nơi sáu pháp ba-la-mật
[27] mà sinh khởi.”
“Vậy do đâu mà sinh khởi sáu pháp ba-la-mật?”
“Thiên tử! Các pháp ấy từ nơi phương tiện và trí tuệ mà sinh khởi.”
“Vậy phương tiện và trí tuệ của Bồ Tát Ma-ha-tát do đâu mà sinh khởi?”
“Thiên tử! Phương tiện và trí tuệ từ nơi tâm không buông thả
[28] mà sinh khởi.”
“Vậy tâm không buông thả đó lại do đâu mà sinh khởi?”
“Thiên tử! Tâm không buông thả đó do tu tập ba nghiệp lành
[29] mà sinh khởi.”
“Vậy nhân đâu mà sinh khởi việc tu tập ba nghiệp lành?”
“Thiên tử! Đó là nhân nơi việc tu tập mười nghiệp lành
[30] mà sinh khởi.”
“Vậy nhân đâu mà sinh khởi việc tu tập mười nghiệp lành?”
“Thiên tử! Từ nơi việc khéo nhiếp phục thân, khẩu, ý mà khởi [tu mười nghiệp lành].
“Vậy nhân đâu sinh khởi việc khéo nhiếp phục ba nghiệp [thân, khẩu, ý]?”
[31]Ngài Văn-thù-sư-lợi đáp: “Này thiên tử! Đó là từ nơi việc khéo suy xét mà sinh khởi.”
Thiên tử lại hỏi: “Việc khéo suy xét đó do đâu mà sinh khởi?”
“Thiên tử! Đó là từ việc khéo suy xét các quán hành
[32] mà sinh khởi.”
“Vậy do đâu mà sinh khởi việc khéo suy xét các quán hành?”
“Thiên tử! Đó là từ nơi việc nhớ nghĩ không quên mà sinh khởi.”
Thiên tử lại thưa hỏi: “Thưa ngài, có bao nhiêu loại tâm phát khởi từ việc nhớ nghĩ không quên? Do nhân duyên gì mà được quả báo?”
Ngài Văn-thù-sư-lợi đáp: “Thiên tử! Bồ Tát Ma-ha-tát có bốn loại phát tâm, đều từ nơi nhân tương ứng mà được quả báo. Những gì là bốn loại phát tâm? Thứ nhất là tâm ban đầu;
[33] thứ hai là nhiếp tâm tu hành; thứ ba là [đạt đến địa vị] không còn thối chuyển; thứ tư là đồng nhất với các pháp lành.
[34]“Nhân nơi việc phát tâm ban đầu mà đạt được sự nhiếp tâm tu hành; nhân nơi sự nhiếp tâm tu hành mà đạt được địa vị không còn thối chuyển; nhân nơi địa vị không còn thối chuyển mà đạt đến sự đồng nhất với các pháp lành.
“Lại nữa, này thiên tử! Phát tâm ban đầu cũng giống như gieo hạt giống lúa vào đám ruộng tốt; nhiếp tâm tu hành giống như cây lúa non mọc lên; tu hành không còn thối chuyển giống như thân, nhánh, cành, lá đều phát triển lớn lên; đồng nhất với các pháp lành giống như bông lúa trổ, kết thành hạt, chín vàng. Việc phát tâm ban đầu, nhiếp tâm tu hành, không còn thối chuyển, đạt đến sự đồng nhất với các pháp lành cũng [tuần tự] giống như vậy.
“Lại nữa, này thiên tử! Phát tâm ban đầu cũng giống như người thợ đóng xe biết rõ các loại gỗ; nhiếp tâm tu hành giống như chọn được gỗ mang về đóng xe; tu hành không còn thối chuyển giống như đóng ghép hoàn thành chiếc xe; đồng nhất với các pháp lành giống như mang xe ra sử dụng vận chuyển. Việc phát tâm ban đầu, nhiếp tâm tu hành, không còn thối chuyển, đạt đến sự đồng nhất với các pháp lành cũng [tuần tự] giống như vậy.
“Lại nữa, này thiên tử! Phát tâm ban đầu cũng giống như vầng trăng đầu tháng; nhiếp tâm tu hành giống như trăng non mồng năm cho đến mồng bảy; tu hành không còn thối chuyển giống như trăng mồng mười; đồng nhất với các pháp lành giống như trăng ngày mười bốn; trí tuệ Như Lai viên mãn trọn đủ, không còn khiếm khuyết, giống như trăng rằm. Việc phát tâm ban đầu, nhiếp tâm tu hành, không còn thối chuyển, đạt đến sự đồng nhất với các pháp lành cũng [tuần tự] giống như vậy.
“Lại nữa, này thiên tử! Người phát tâm ban đầu tu tập vượt qua địa vị Thanh văn; người phát tâm lần thứ hai tu tập vượt qua địa vị Bích-chi Phật; người phát tâm lần thứ ba tu tập vượt qua địa vị bất định; người phát tâm lần thứ tư tu tập đạt đến địa vị quyết định.
“Lại nữa, này thiên tử! Cũng như âm a ngắn (अ), âm a dài (आ) [trong Phạn ngữ] là căn bản bắt đầu của tất cả các chữ khác, việc phát tâm ban đầu cũng là căn bản bắt đầu của tất cả mọi pháp lành. Như người học chữ viết, dần dần có được đôi chút hiểu biết; người nhiếp tâm tu hành cũng vậy, dần dần có được đôi chút hiểu biết. Như vị thầy giỏi toán, tính chung vô số các số liệu, rõ biết từng phần trong đó; người đạt tâm không thối chuyển cũng vậy, rõ biết tâm không còn thối chuyển. Như người sáng suốt giảng giải kinh luận; người đồng nhất với các pháp lành, sáng suốt rõ biết tâm lành của mình cũng giống như vậy.
“Lại nữa, này thiên tử! Người phát tâm ban đầu thường nghĩ nhớ việc gieo nhân lành; người phát tâm lần thứ hai thường nghĩ nhớ tu tập trí tuệ; người phát tâm lần thứ ba thường nghĩ nhớ tu tập thiền định; người phát tâm lần thứ tư thường nghĩ nhớ quả vị giải thoát.
“Lại nữa, thiên tử! Người phát tâm ban đầu thọ trì việc gieo nhân lành; người phát tâm lần thứ hai thọ trì tu tập trí tuệ; người phát tâm lần thứ ba thọ trì tu tập thiền định; người phát tâm lần thứ tư thọ trì quả vị giải thoát.
“Lại nữa, người phát tâm ban đầu thành tựu việc gieo nhân lành; người phát tâm lần thứ hai thành tựu tu tập trí tuệ; người phát tâm lần thứ ba thành tựu tu tập thiền định; người phát tâm lần thứ tư thành tựu quả vị giải thoát.
“Lại nữa, người phát tâm ban đầu nhân nơi việc làm lành mà vào đạo; người phát tâm lần thứ hai nhân nơi học trí tuệ mà vào đạo; người phát tâm lần thứ ba nhân nơi tu thiền định mà vào đạo; người phát tâm lần thứ tư nhân nơi thành tựu quả vị giải thoát mà vào đạo.
“Lại nữa, này thiên tử! Phát tâm ban đầu cũng giống như thầy thuốc biết rõ các loại thuốc; phát tâm lần thứ hai giống như biết rõ liều lượng các loại thuốc; phát tâm lần thứ ba giống như biết tùy bệnh kê toa thuốc; phát tâm lần thứ tư giống như khiến cho người bệnh được uống thuốc khỏi bệnh.
“Lại nữa, này thiên tử! Phát tâm ban đầu là sinh vào nhà đấng Pháp vương; phát tâm lần thứ hai là học pháp của Pháp vương; phát tâm lần thứ ba là tu tập theo công hạnh của Pháp vương; phát tâm lần thứ tư là thành tựu viên mãn quả vị, trở thành Pháp vương.
“Như vậy là bốn loại phát tâm.”
Khi ấy, thiên tử Tịnh Quang Diễm thưa hỏi Văn-thù-sư-lợi: “Những pháp tu nào là đường tắt của Bồ Tát, tu hành theo đó sẽ nhanh chóng đạt đến A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề?”
[35]Ngài Văn-thù-sư-lợi đáp: “Này thiên tử! Có hai pháp tu là đường tắt, Bồ Tát đi theo hai con đường ấy sẽ nhanh chóng đạt đến A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Những pháp tu nào là hai con đường? Thứ nhất là con đường phương tiện, thứ hai là con đường trí tuệ Bát-nhã. Thọ trì phương tiện có thể quán xét hết thảy chúng sanh; thọ trì trí tuệ Bát-nhã quán xét hết thảy các pháp đều không, có thể dứt trừ sự bám chấp nghi hoặc.
“Nhờ vận dụng phương tiện nên có thể hòa hợp các pháp; nhờ vận dụng trí Bát-nhã nên các pháp không hợp lại. Phương tiện là nhân, Bát-nhã là quả.
“Nhờ vận dụng phương tiện nên rõ biết hết thảy các pháp; nhờ vận dụng trí Bát-nhã nên rõ biết các pháp đều là không.
“Nhờ vận dụng trí phương tiện nên trang nghiêm cõi Phật; nhờ vận dụng trí Bát-nhã nên rõ biết hết thảy các cõi Phật đều bình đẳng.
“Nhờ vận dụng phương tiện nên rõ biết căn tánh của chúng sanh đều sai khác; nhờ vận dụng trí Bát-nhã nên rõ biết căn tánh của chúng sanh rốt ráo đều là không.
“Nhờ vận dụng phương tiện nên đạt được pháp vị cam lộ, chứng đắc thành tựu Bồ-đề; nhờ vận dụng trí Bát-nhã nên giác ngộ pháp của chư Phật, là chánh đạo bình đẳng.
“Lại nữa, này thiên tử! Có hai công hạnh có thể giúp Bồ Tát nhanh chóng đạt đến A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Những gì là hai? Thứ nhất là hữu vi; thứ hai là vô vi. Hạnh hữu vi thâu nhiếp tất cả năm pháp ba-la-mật;
[36] hạnh vô vi thâu nhiếp pháp Bát-nhã ba-la-mật.
“Lại có hai công hạnh có thể giúp Bồ Tát nhanh chóng đạt đến A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Những gì là hai? Thứ nhất là hạnh hữu lậu; thứ hai là hạnh vô lậu. Hạnh hữu lậu là năm ba-la-mật; hạnh vô lậu là Bát-nhã ba-la-mật.
“Lại có hai công hạnh có thể giúp Bồ Tát nhanh chóng đạt đến A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Những gì là hai? Thứ nhất là hạnh có chỗ trụ; thứ hai là hạnh không chỗ. Hạnh có chỗ trụ là năm ba-la-mật; hạnh không chỗ trụ là Bát-nhã ba-la-mật.
“Lại có hai công hạnh có thể giúp Bồ Tát nhanh chóng đạt đến A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Những gì là hai? Thứ nhất là hạnh có hạn lượng; thứ hai là hạnh không hạn lượng. Hạnh có hạn lượng là năm ba-la-mật; hạnh không hạn lượng là Bát-nhã ba-la-mật. Hạnh có hạn lượng là pháp có hình tướng; hạnh không có hạn lượng là pháp không có hình tướng.
“Lại có hai công hạnh có thể giúp Bồ Tát nhanh chóng đạt đến A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Những gì là hai? Thứ nhất là hạnh trí tuệ; thứ hai là hạnh an định. Vận dụng hạnh trí tuệ nên tu tập dần dần từ sơ địa lên đến thất địa; vận dụng hạnh an định nên tu tập dần dần từ bát địa lên đến thập địa.
[37]Khi ấy, Bồ Tát Bất Khiếp Nhược Trí Tổng Trì thưa hỏi Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi: “Bồ Tát Ma-ha-tát rõ biết nghĩa như thế nào, rõ biết trí [hiểu nghĩa đó]
[38] như thế nào?”
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi đáp: “Thiện nam tử! Nghĩa vốn không có tự thể; trí cũng không có tự thể.”
Bồ Tát Bất Khiếp Nhược Trí Tổng Trì lại hỏi: “Thế nào là nghĩa không có tự thể, trí cũng không có tự thể?”
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi đáp: “Thiện nam tử! Nghĩa không có tự thể, vì vô vi, không tạo tác, không tướng mạo, không đến không đi, đó gọi là nghĩa. Trí không có tự thể, vì chẳng phải pháp xác định, cũng chẳng phải pháp bất định, đó gọi là trí. Nên thọ trì như vậy.
“Nghĩa không có tự thể nên chẳng phải có, chẳng phải không; thể của trí là không nên chẳng phải có, chẳng phải không, không nắm bắt, không buông bỏ. Nên thọ trì như vậy.
“Lại nữa, trí lấy thiền làm thể, thiền và trí bình đẳng, không có sự phân biệt. Do vận dụng phương tiện nên quán xét các ấm, nhập, giới, mười hai nhân duyên lưu chuyển trong sinh tử, các tướng thiện ác đều như huyễn hóa, chẳng phải có, chẳng phải không. Bồ Tát Ma-ha-tát nên theo cách như vậy quán xét các pháp.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát Ma-ha-tát có mười công hạnh trí tuệ. Những gì là mười? Thứ nhất là trí rõ biết nhân; thứ hai là trí rõ biết quả; thứ ba là trí rõ biết ý nghĩa; thứ tư là trí rõ biết phương tiện; thứ năm là trí Bát-nhã; thứ sáu là trí thọ trì; thứ bảy là trí ba-la-mật, thứ tám là trí đại bi, thứ chín là trí thương xót giáo hóa chúng sanh, thứ mười là trí không vướng mắc nơi hết thảy các pháp. Đó gọi là mười công hạnh trí tuệ của Bồ Tát.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát Ma-ha-tát phát khởi mười hạnh thanh tịnh. Những gì là mười? Thứ nhất là tự phát khởi hạnh thanh tịnh thân nghiệp của chính mình; thứ hai là phát khởi hạnh thanh tịnh thân nghiệp của hết thảy chúng sanh; thứ ba là tự phát khởi hạnh thanh tịnh khẩu nghiệp của chính mình; thứ tư là phát khởi hạnh thanh tịnh khẩu nghiệp của hết thảy chúng sanh; thứ năm là tự phát khởi hạnh thanh tịnh ý nghiệp của chính mình; thứ sáu là phát khởi hạnh thanh tịnh ý nghiệp của hết thảy chúng sanh; thứ bảy là phát khởi hạnh thanh tịnh bình đẳng với hết thảy chúng sanh; thứ tám là phát khởi hạnh thanh tịnh bình đẳng với hết thảy pháp ngoài chúng sanh; thứ chín là phát khởi hạnh thanh tịnh trí tuệ của chư Phật; thứ mười là phát khởi hạnh thanh tịnh cõi Phật thành tựu chúng sanh: nếu có chúng sanh đang chịu bệnh tật, liền cung cấp thuốc men, khiến cho được an vui; với người nhiều phiền não thì dùng trí tuệ vô vi giáo hóa, khiến họ xa lìa ba cõi, công đức trí tuệ đều viên mãn trọn đủ, thành tựu đạo vô vi. Đó gọi là Bồ Tát đầy đủ mười hạnh thanh tịnh.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát Ma-ha-tát có mười loại phương tiện. Những gì là mười? Thứ nhất là phương tiện giải thoát;
[39] thứ hai là phương tiện thọ trì; thứ ba là phương tiện trí tuệ; thứ tư là phương tiện vận dụng phương tiện; thứ năm là phương tiện đại bi; thứ sáu là phương tiện trí trọn đủ; thứ bảy là phương tiện tuệ trọn đủ; thứ tám là phương tiện niệm tưởng tịch tĩnh; thứ chín là phương tiện thực hành chân thật; thứ mười là phương tiện bình đẳng đối với hết thảy chúng sanh không có sự phân biệt yêu ghét. Đó gọi là mười phương tiện của Bồ Tát.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát Ma-ha-tát có mười sự phân biệt tự thân không cùng tận. Những gì là mười? Thứ nhất là tự thân phân biệt sự vật không cùng tận; thứ hai là tự thân phân biệt phiền não không cùng tận; thứ ba là tự thân phân biệt các pháp không cùng tận; thứ tư là tự thân phân biệt khao khát ái dục không cùng tận; thứ năm là tự thân phân biệt các kiến chấp không cùng tận; thứ sáu là tự thân phân biệt các việc thiện ác không cùng tận; thứ bảy là tự thân phân biệt sự tạo tác không cùng tận; thứ tám là tự thân phân biệt không bám chấp vướng mắc không cùng tận; thứ chín là tự thân phân biệt sự hòa hợp không cùng tận; thứ mười là tự thân phân biệt trí Bồ-đề viên mãn không cùng tận. Đó gọi là mười sự phân biệt tự thân không cùng tận.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát Ma-ha-tát có mười hạnh điều phục. Những gì là mười? Thứ nhất là hạnh điều phục làm các việc lành; thứ hai là hạnh điều phục tâm keo lận, buông xả bố thí như mưa xuống; thứ ba là hạnh điều phục tâm không tinh tấn; thứ tư là hạnh điều phục ba nghiệp [thân, khẩu, ý]; thứ năm là hạnh điều phục tâm ác độc khiến không còn sân hận; thứ sáu là hạnh điều phục khởi tâm từ mẫn; thứ bảy là hạnh điều phục tâm lười nhác; thứ tám là hạnh điều phục chuyên cần tu tập Phật pháp; thứ chín là hạnh điều phục tâm bất thiện, không làm các việc xấu ác; thứ mười là hạnh điều phục thiền định tự tại giải thoát.
“Lại có mười hạnh điều phục nữa. Những gì là mười? Thứ nhất là hạnh điều phục phá trừ ngu si vô trí; thứ hai là hạnh điều phục tổng trì phương tiện Bát-nhã ba-la-mật; thứ ba là hạnh điều phục phiền não; thứ tư là hạnh điều phục sanh khởi đạo; thứ năm là hạnh điều phục tổng trì niềm tin chân thật; thứ sáu là hạnh điều phục không đọa các cảnh giới xấu ác; thứ bảy là hạnh điều phục tâm bất thiện; thứ tám là hạnh điều phục hợp thời, không hợp thời đều tự tại; thứ chín là hạnh điều phục tự thân; thứ mười là hạnh điều phục quán không. Đó gọi là mười hạnh điều phục hạnh.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát Ma-ha-tát có mười việc điều phục khác. Những gì là mười? Đó là ba việc điều phục xa lìa ba nghiệp xấu ác của thân; bốn việc điều phục xa lìa bốn nghiệp xấu ác của khẩu; ba việc điều phục xa lìa ba nghiệp xấu ác của ý.
“Lại có mười pháp quán xét trong ngoài, không khởi sinh bám chấp vướng mắc. Những gì là mười? Thứ nhất là quán xét các giới trong thân, hết thảy đều là không, không khởi sinh bám chấp vướng mắc; thứ hai là quán xét các giới ngoài thân cũng đều là không,
[40] không khởi sinh bám chấp vướng mắc; thứ ba là quán xét các nội pháp và ngoại pháp,
[41] hết thảy đều là không, không khởi sinh bám chấp vướng mắc; thứ tư là đối với Nhất thiết trí
[42] không khởi sinh bám chấp vướng mắc; thứ năm là đối với con đường tu tập không khởi sinh bám chấp vướng mắc; thứ sáu là quán xét địa vị của các bậc hiền thánh
[43] không khởi sinh bám chấp vướng mắc; thứ bảy là đối với việc đã tu hành thanh tịnh lâu năm cũng không khởi sinh bám chấp vướng mắc; thứ tám là trụ yên nơi Bát-nhã ba-la-mật không khởi sinh bám chấp vướng mắc; thứ chín là đối với việc giảng luận chánh pháp giáo hóa chúng sanh không khởi sinh bám chấp vướng mắc; thứ mười là quán xét các chúng sanh, khởi phương tiện lớn lao, từ bi thương xót, không khởi sinh bám chấp vướng mắc. Đó gọi là mười pháp quán xét trong ngoài, không khởi sinh bám chấp vướng mắc.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát Ma-ha-tát nên tu tập khởi tâm kiên cố như sau đây để tu đạo Bồ-đề. Nếu không có tâm kiên cố tu đạo Bồ-đề như sau thì không gọi là Bồ Tát. Thế nào là kiên cố? Duy trì ba nghiệp của thân, khẩu, ý đều tương ưng, không trái nghịch nhau, đó gọi là kiên cố. Thế nào là không kiên cố? Ba nghiệp thân, khẩu, ý không tương ưng, thường trái nghịch nhau, đó gọi là không kiên cố.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát Ma-ha-tát có hai hạnh chân chánh làm kiên cố tâm Bồ-đề. Những gì là hai? Thứ nhất là hạnh chân chánh nhớ nghĩ đến Bồ-đề; thứ hai là hạnh tu tập thiền định, dứt trừ các phiền não. Đó gọi là hai hạnh chân chánh làm kiên cố tâm Bồ-đề.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát Ma-ha-tát lại có hai hạnh chân chánh kiên cố. Những gì là hai? Thứ nhất là hạnh tự điều phục thân mình; thứ hai là hạnh điều phục thân chúng sanh. Thiện nam tử! Đó gọi là hai hạnh chân chánh kiên cố của Bồ Tát Ma-ha-tát.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát Ma-ha-tát lại có hai hạnh chân chánh kiên cố. Những gì là hai? Thứ nhất là chuyên cần tu tập nên đạt được Nhất thiết trí; thứ hai là không tu tập mà đạt được Nhất thiết trí.
[44] Đó gọi là hai hạnh chân chánh kiên cố của Bồ Tát Ma-ha-tát.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát Ma-ha-tát lại có hai hạnh chân chánh kiên cố. Những gì là hai? Thứ nhất là hạnh chân chánh kiên cố trụ nơi địa vị phương tiện; thứ hai là hạnh chân chánh kiên cố trụ nơi địa vị bất động. Đó gọi là hai hạnh chân chánh kiên cố của Bồ Tát Ma-ha-tát.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát Ma-ha-tát lại có hai hạnh chân chánh kiên cố. Những gì là hai? Thứ nhất là hạnh chân chánh kiên cố xa lìa nơi uế nhiễm; thứ hai là hạnh chân chánh kiên cố dùng phương tiện tự thực hành viên mãn khắp mọi nơi. Đó gọi là hai hạnh chân chánh kiên cố của Bồ Tát Ma-ha-tát.
“Lại nữa, thiện nam tử! Bồ Tát Ma-ha-tát lại có hai hạnh chân chánh kiên cố. Những gì là hai? Thứ nhất là hạnh chân chánh kiên cố thị hiện đối với các quả vị Thanh văn, Duyên giác;
[45] thứ hai là hạnh chân chánh kiên cố phương tiện đối với quả Phật Bồ-đề không thối chuyển. Đó gọi là hai hạnh chân chánh kiên cố của Bồ Tát Ma-ha-tát.
“Thiện nam tử! Bồ Tát Ma-ha-tát dùng các hạnh chân chánh kiên cố như vậy, cùng vô số phương tiện, sẽ đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngợi Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi: “Lành thay, lành thay! Văn-thù-sư-lợi! Ông giảng thuyết những lời rất hay.”
Khi thuyết giảng các pháp này, ngài Văn-thù-sư-lợi cùng vô số chư thiên, người, a-tu-la, càn-thát-bà… hết thảy đại chúng nghe Phật thuyết pháp đều tin nhận, đảnh lễ, vui mừng cung kính vâng theo.
______________________________________
CHÚ THÍCH:[1] Các bản Hán dịch khác của kinh này có tên là Văn-thù-sư-lợi vấn Bồ-đề kinh (文殊師利問菩提經), do ngài Cưu-ma-la-thập (鳩摩羅什) dịch vào đời Diêu Tần (Đại Chánh tạng, Tập 14, kinh số 464); Già-da sơn đỉnh kinh (伽耶山頂經), do ngài Bồ-đề-lưu-chi (菩提留支) dịch vào đời Nguyên Ngụy (Đại Chánh tạng, Tập 14, kinh số 465); Đại thừa Già-da sơn đỉnh kinh (大乘伽耶山頂經), do ngài Bồ-đề-lưu-chí (菩提流志) dịch vào đời Đường (Đại Chánh tạng, Tập 14, kinh số 467.)
[2] Bản Hán văn là Bà-già-bà (H. 婆伽婆, S. bhagavat), cũng đọc là Bạc-già-phạm (薄伽梵), là một trong các danh hiệu tôn xưng đức Phật, nghĩa là người có công đức lớn, đấng tôn quý, tức danh xưng Thế Tôn.
[3] Nơi tu tập của chư tăng thuở xưa được gọi là tinh xá (H. 精舍, S. ārāma), với ý nghĩa là nơi tinh luyện trí đức. Ngày nay nhiều người gọi sai thành “tịnh xá”, tuy vẫn có nghĩa, nhưng không phải là ý nghĩa ban đầu trong Phật giáo.
[4] Tinh xá nằm trên núi Tượng Đầu (Gayāśiras), bên bờ sông Ni-liên-thiền (Nairañjanā), gần thành Già-da (Gayā), tức gần nơi đức Phật thành đạo. Chữ gayā trong Phạn ngữ có nghĩa là con voi, do đỉnh núi có hình dạng như đầu voi nên gọi tên là Tượng Đầu.
[5] Các danh xưng Như Lai, Thế Tôn, Phật… đều dùng để chỉ đức Phật.
[6] Kinh văn nói thành Phật chưa lâu, nhưng đại chúng ở đây đã đủ 1.000 vị tỳ-kheo, nên có thể biết là đã đến giai đoạn ba anh em ngài Ca-diếp (Kāśyapa) dẫn theo 1.000 đệ tử của họ về quy y Phật, không phải lúc đức Phật vừa mới thành đạo.
[7] Tiên nhân Loa Kế (螺髻仙人) là một trong các tiền thân thuở xưa của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, vì có búi tóc kết lại trên đỉnh đầu hình dạng xoắn ốc nên gọi là “loa kế”. Ngài thường nhập định rất lâu, nên chim đến làm tổ rồi đẻ trứng trên búi tóc ấy. Khi xuất định, ngài nhận biết nên không dám bước đi, sợ kinh động khiến chim mẹ bỏ tổ, hại chết chim non, liền nhập định trở lại, đợi khi chim non đã lớn bay đi rồi mới xuất định.
[8] Nguyên bản là “正受智心 - chánh thọ trí tâm”, chỉ việc dứt sạch mọi vọng tưởng, tà niệm, chỉ chuyên tâm trong Phật pháp, nên đồng nghĩa như trụ yên trong thiền định.
[9] Nguyên bản dùng “大菩薩摩訶薩 - Đại Bồ Tát Ma-ha-tát”, vì chữ “ma-ha” vốn mang nghĩa là “đại” nên danh xưng này cũng chỉ có nghĩa là Đại Bồ Tát.
[10] Kinh văn đoạn này kể lại việc đức Phật thành đạo dưới cội Bồ-đề ở Bồ-đề Đạo tràng, nghĩa là trước đó, không phải lúc thuyết giảng kinh này.
[11] Tam-muội (H. 三昧, S. samādhi), cũng gọi là Tam-ma-địa (三摩地), Tam-ma-đề (三摩提), chỉ chúng các pháp thiền định để nhiếp tâm, định tâm.
[12] Nhất thiết trí (H. 一切智, S. sarvajña), cũng được gọi là Nhất thiết chủng trí (一切種智), chỉ trí tuệ của một vị Phật, rõ biết như thật tất cả các pháp, rõ biết tất cả mọi việc trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
[13] Nguyên bản là “拔三毒刺 - bạt tam độc thứ”, ví ba độc là tham lam, sân hận và si mê giống như những cây gai nhọn đâm sâu vào da thịt chúng sanh. Người tu tập thành tựu là nhổ bật những cây gai nhọn này ra khỏi da thịt, không còn bị chúng làm cho đau đớn.
[14] Nguyên bản dùng “吹大法蠡 - xuy đại pháp lãi”, cũng đồng nghĩa như “吹大法螺 - xuy đại pháp loa”, chỉ việc thổi một loại kèn thời xưa làm bằng vỏ ốc lớn, khi thổi phát ra âm thanh lớn và vang đi rất xa, cũng gọi là tù và.
[15] Nguyên bản dùng “惡趣 - ác thú” chỉ những cảnh giới xấu ác, tức là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
[16] Nguyên bản dùng “善道門 - thiện đạo môn” (cửa vào các cảnh giới lành), chỉ cõi trời và cõi người. Riêng cảnh giới a-tu-la, có khi được xem như thuộc về cảnh giới lành, cũng có khi bị xem là cảnh giới xấu ác, vì loài a-tu-la tuy có thần thông nhưng tâm nhiều sân hận.
[17] Bốn đại: chỉ 4 yếu tố cấu thành tất cả vật chất theo quan niệm thời xưa, bao gồm đất (địa đại), nước (thủy đại), gió (phong đại) và lửa (hỏa đại). Tuy nhiên, các yếu tố này có ý nghĩa biểu trưng hơn là cụ thể, như địa đại là biểu trưng cho tính chất cứng chắc, thủy đại biểu trưng cho độ ẩm ướt, phong đại biểu trưng cho sự chuyển động, vận hành và hỏa đại biểu trưng cho nhiệt lượng, năng lượng.
[18] Đoạn này ý nói không thể dùng thân giả tạm này để chứng đắc Bồ-đề.
[19] Đoạn này ý nói không thể dùng tâm bất định để chứng đắc Bồ-đề.
[20] Đây là 3 pháp vô lậu, được gọi là tam giải thoát môn (H. 三解脫門, S. trīṇi vimokṣa-mukhāni), bao gồm: không môn (H. 空門, S. śūnyatā), vô tướng môn (H. 無相門, S. animitta), vô tác môn (H. 無作門, S. apraṇihita). Vô tác cũng được gọi là vô nguyện.
[21] Nguyên bản dùng đồng tử (H. 童子, S. kumāra), là một cách gọi các vị Bồ Tát. Người thế gian gọi trẻ con chưa trưởng thành là “đồng tử”; các vị Bồ Tát là con đấng Pháp Vương, cũng còn trong quá trình tu học Phật đạo, nên gọi là đồng tử. Chúng tôi chọn danh xưng Bồ Tát quen thuộc hơn.
[22] Người đứng trong khe núi, giữa các vách núi, khi cất tiếng gọi to liền nghe có tiếng vọng từ vách núi. Tiếng vọng này không tự có thật, chỉ là âm vang dội lại từ tiếng gọi ban đầu.
[23] Là hình chiếu của mặt trăng được nhìn thấy bên dưới mặt nước, vốn không thật có.
[24] Nguyên bản dùng “熱時焰 - nhiệt thời diễm” để chỉ ánh sáng lung linh nhìn thấy từ xa trên mặt đường khi trời nắng nóng; người đi đường do ảo giác nên thường thấy như đó là nơi có nước, hoặc thấy các ảnh tượng khác, nhưng khi đi đến nơi thì không thật có.
[25] Thiên tử (天子) ở đây dùng để chỉ một vị trời, sống ở cõi trời, khi gọi chung là chư thiên (các vị trời), khác với cách dùng thiên tử ở cõi người để chỉ đức vua.
[26] Phát tâm Bồ-đề: là cách nói tắt của “phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”, tức là phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Phát tâm này là phát tâm cầu quả vị Phật để cứu độ hết thảy chúng sanh, không phải vì sự giải thoát cho riêng mình. Đây là bước khởi đầu quan trọng của người tu tập theo Đại thừa.
[27] Sáu pháp ba-la-mật (H. 六波羅蜜, S. ṣaḍ-pāramitā), là sáu pháp tu tập giúp đưa đến sự giải thoát, nên cũng gọi là “lục độ” hay “đáo bỉ ngạn” (đưa đến bờ bên kia, tức là bờ giải thoát). Sáu pháp này bao gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
[28] Nguyên bản là bất phóng dật (H. 不放逸, S. apramāda), bàm ý nghĩa không buông thả, không phóng túng, không lười nhác, cũng tức là luôn tinh tấn trong sự tu tập.
[29] Ba nghiệp lành: chỉ thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Người tu tập dùng cả thân, khẩu và ý để tạo nghiệp lành nên gọi chung là ba nghiệp lành.
[30] Mười nghiệp lành: là nêu cụ thể về ba nghiệp lành của thân, khẩu và ý, bao gồm: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm (3 nghiệp lành của thân); không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời thêu dệt vô nghĩa (4 nghiệp lành của khẩu); không tham lam, không sân hận, không si mê (3 nghiệp lành của ý).
[31] Nguyên bản nói “三善業 - tam thiện nghiệp” (ba nghiệp lành) nhưng trong ngữ cảnh vấn đáp này là chỉ đến việc khéo nhiếp phục 3 nghiệp thân, khẩu, ý.
[32] Các quán hành, tức tứ chủng quán hành (四種觀行), là 4 pháp quán xét, bao gồm: 1. Quán nhân duyên: quán xét rõ biết các nhân duyên tạo thành tội nghiệp lưu chuyển trong luân hồi; 2. Quán quả báo: quán xét rõ biết các quả báo khổ não do tạo các nghiệp ác; 3. Quán tự thân: quán xét rõ biết tự thân có tánh Phật, có thể thành Phật, nhưng do vô minh phiền não che lấp, nếu không nỗ lực tu tập theo Chánh pháp thì không thể thành Phật; 4. Quán thân Như Lai: quán xét rõ biết thân Như Lai tụ hội vô lượng công đức, thường trụ bất diệt, vì phương tiện cứu độ chúng sanh nên mới thị hiện nhập Niết-bàn, nhưng thật ra Phật chưa từng diệt độ.
[33] Nguyên bản dùng “初發心 - sơ phát tâm” (phát tâm ban đầu), cũng gọi là sơ tâm. Đối với người tu tập Đại thừa thì đây chính là phát tâm Bồ-đề.
[34] Nguyên bản là “與善同生 - dữ thiện đồng sanh”, mô tả trạng thái đạt được khi mọi ý niệm, hành vi, lời nói đều tự nhiên hiền thiện, không còn phải nỗ lực hướng đến mà một cách tự nhiên đã đồng nhất với các pháp lành (thiện pháp).
[35] A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (H. 阿耨多羅三藐三菩提, S. anuttara-samyak-saṃbodhi), dịch nghĩa là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức là quả vị Phật.
[36] Khi đề cập năm ba-la-mật và không có Bát-nhã ba-la-mật thì bao gồm: bố thí ba-la-mật, trì giới ba-la-mật, nhẫn nhục ba-la-mật, tinh tấn ba-la-mật và thiền định ba-la-mật. Từ phần này trở đi, khi nói đến năm ba-la-mật thì đều có ý nghĩa như vậy.
[37] Từ sơ địa lên đến thập địa là 10 giai vị mà hàng Bồ Tát khi tu tập phải trải qua trước khi thành tựu quả Phật. Theo kinh Hoa nghiêm thì 10 giai vị này bao gồm: Hoan hỷ địa (歡喜地), Ly cấu địa (離垢地), Phát quang địa (發光地), Diệm huệ địa (焰慧地), Cực nan thắng địa (極難勝地), Hiện tiền địa (現前地), Viễn hành địa (遠行地), Bất động địa (不動地), Thiện huệ địa (善慧地) và Pháp vân địa (法雲地). Các giai vị này cũng được gọi tên đơn giản như Sơ địa, Nhị địa… lên đến Thập địa.
[38] Nguyên bản dùng “nghĩa” (義) và “trí” (智) để chỉ ý nghĩa được nhận hiểu (sở tri) và khả năng nhận hiểu (năng tri) ý nghĩa đó. Do vậy nên phần sau giải thích cả năng tri và sở tri đều không có thực thể.
[39] Nguyên bản là “彼岸方便 - bỉ ngạn phương tiện”, kinh A-hàm dùng “bỉ ngạn” để chỉ sự giải thoát chân chánh.
[40] Giới tức là thập bát giới (H. 十八界, S. aṣṭādaśa dhātavaḥ), tức 18 giới, bao gồm 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và 6 thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) nằm trong thân, 6 trần (hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm, các pháp) là cảnh duyên bên ngoài. Như vậy, 6 căn và 6 thức là 12 giới trong thân (nội giới), 6 căn là các giới bên ngoài thân (ngoại giới).
[41] Nguyên bản là “內外諸法 - nội ngoại chư pháp” (các nội pháp và ngoại pháp). Nội pháp chỉ các pháp tu tập trong Phật pháp; ngoại pháp chỉ các pháp bên ngoài Phật pháp, tức giáo pháp, luận thuyết ngoại đạo. Bồ Tát quán xét hết thảy đều là không, vì rốt cùng thì pháp Phật cũng chỉ là phương tiện để đạt đến giải thoát, nên không bám chấp vướng mắc.
[42] Nhất thiết trí (H. 一切智, S. sarvajña), trí tuệ rõ biết tất cả mọi việc, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, tức là trí tuệ của chư Phật.
[43] Địa vị của các bậc hiền thánh: tức chỉ các thánh quả sẽ đạt đến trên đường tu tập.
[44] Không tu tập mà đạt được Nhất thiết trí: tức là giai đoạn đã đạt đến bậc vô học. “Không tu tập” ở đây có nghĩa là không còn phải tu tập các pháp phương tiện, không còn phải học hỏi giáo pháp vì đã thông suốt, đã dứt sạch được các phiền não mê hoặc, chỉ còn lại tàn dư tập khí từ các đời quá khứ. Trong 4 thánh quả Tiểu thừa thì 3 quả đầu tiên là hữu học, thánh quả thứ tư là A-la-hán thuộc bậc vô học.
[45] Nguyên bản dùng “辟支佛地 - Bích-chi Phật địa”, cũng tức là địa vị Duyên giác.