Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Trị Thiền Bệnh Bí Yếu Pháp [治禪病祕要法] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Trị Thiền Bệnh Bí Yếu Pháp [治禪病祕要法] »» Bản Việt dịch quyển số 1

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.57 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.6 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Pháp Mật Yếu Trị Bệnh Thiền

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 |
Việt dịch: Thích Nguyên Xuân

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Bảy mươi hai pháp
trị bệnh loạn tâm ở nơi thanh vắng
(Những điều Tôn giả Xá-Lợi-Phất hỏi, được rút ra trong những việc ở nơi thanh vắng, thuộc kinh Tạp A-hàm)
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ đức Phật cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo ở trong vườn Kỳ-thọ Cấp-Cô-Ðộc, nước Xá-Vệ. Vào mùa Hạ ngày 15 tháng 5, năm trăm Tỳ-kheo thuộc dòng họ Thích ở dưới rừng trúc, thực hành pháp A-luyện-nhã, tu tâm thứ mười hai ở trong pháp sổ tức, nhập vào tam muội chánh định Tỳ-lưu-ly.
Lúc ấy, thái tử Tỳ Lưu Ly (con vua Ba Tư Nặc) cùng với năm trăm người con của trưởng giả cỡi voi Ðại-hương gần bên Kỳ-hoàn, đùa giỡn như Na-la, lại cho voi uống say để chúng đấu nhau. Có một con voi đen đầu đàn tên là Liên Hoa, có tiếng rống rất ghê rợn, giống như sấm sét, tiếng nhỏ ở khoảng giữa như tiếng mèo gào. Tỳ-kheo Thích tử Thiền Nan Ðề, Ưu Ba Nan Ðề... kinh sợ sởn tóc gáy ngay lúc quán phong đại nên phát tưởng cuồng si, ra khỏi thiền định, múa máy như voi say, không thể kềm chế. Tôn giả A-Nan bảo các Tỳ-kheo đóng chặt cửa phòng ốc:
- Các Thích tử (dòng họ) tôi nay đã phát cuồng, có thể gây ra tổn thương.
Các chúng Tỳ-kheo bèn đến chỗ ngài Xá Lợi Phất thưa:
- Ðại đức, đại đức! Trí tuệ hiểu biết của ngài vô ngại, như tràng phan bậc nhất của Thiên Ðế Thích, đến đâu thì không còn sợ hãi. Xin ngài thương xót cứu khổ cuồng loạn cho các Thích tử.
Khi ấy, Xá Lợi Phất liền đứng dậy kéo tay A-Nan đi thẳng đến chỗ Phật, nhiễu Phật ba vòng, làm lễ rồi quỳ, chắp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn, xin đức Thế Tôn từ bi với tất cả, vì hàng Tỳ-kheo ở (A-luyện-nhã) nơi thanh vắng đời vị lai...
Ðức Phật dạy:
- Do năm việc mà phát cuồng loạn:
Một là do tiếng ồn.
Hai là do danh xấu
Ba là do lợi dưỡng
Bốn là do gió bên ngoài.
Năm là do gió bên trong.
- Năm loại bệnh này phải trị như thế nào? Xin đức Thế Tôn vì con mà dạy rõ.
Bấy giờ đức Thế Tôn mỉm cười, có hào quang năm màu từ miệng Phật phóng ra, xoay quanh Phật bảy vòng rồi trở vào trên đảnh đầu. Phật bảo:
- Này Xá-Lợi-Phất! Hãy lắng nghe. Lắng nghe khéo suy niệm. Ta sẽ phân biệt rành rẽ cho ông. Nếu có hành giả sống nơi thanh vắng tu tập tâm thứ mười hai trong pháp sổ tức, vì tiếng ồn bên ngoài dội vào trong tim nên bốn trăm lẻ bốn mạch kéo tim đập gấp. Do một lúc loạn động, sức gió mạnh mẽ nên dẫn tới phát cuồng, mạch tim chuyển động, năm loại gió nhập vào yết hầu, trước tiên gây cấm khẩu. Nên dạy cho hành giả này uống sữa mật và ăn A-lê-lặc, buộc tâm một chỗ, trước hết tưởng ra một chiếc gương màu pha-lê, tự quán thân mình ở trong gương ấy mà làm các việc điên cuồng, thấy việc này rồi. Lại nên quán lại mà nói như vầy: “Ngươi nhìn vào gương, tự thấy thân ngươi làm các việc cuồng si, cha mẹ thân quyến đều thấy ngươi làm việc không minh bạch. Ta nay bảo ngươi lìa pháp cuồng si”.
Ông (Xá-Lợi-Phất) nên nhớ, trước dạy pháp trừ âm thanh. Pháp trừ âm thanh: uốn lưỡi lên trên nướu, tưởng hai viên châu ma-ni ở giữa hai lỗ tai, hạt châu như ý giống như giọt sữa nhỏ thẳng vào trong tai, biến thành Ðề-hồ thấm nhuần lỗ tai (nhĩ căn) để không còn ghi nhận âm thanh nữa. Giả sử như có tiếng lớn như cao dầu thấm vào cũng không lay động. Tưởng này đã thành tựu thì tiếp đến tưởng mười chín lớp lọng kim-cang hiện ra từ vua châu như ý che thân hành giả, bên dưới có hoa kim-cang, hành giả ngồi ở trên, có núi kim-cang bao quanh bốn phía hành giả ấy. Không gian ấy khép kín, yên tĩnh, dứt hẳn âm thanh bên ngoài. Ở trong mỗi núi có bảy vị Phật ngồi, thuyết tứ niệm xứ cho hành giả. Khi ấy tĩnh lặng, không nghe âm thanh bên ngoài. Y theo lời Phật dạy thì đây gọi là pháp môn trừ loạn, hay tưởng đuổi tiếng ồn.
Phật bảo Xá-Lợi-Phất:
- Hành giả các ông nên phải tu tập cẩn thận, đừng quên. (Ðó gọi là pháp trị tâm đảo loạn). Lại nữa, này Xá-Lợi-Phất, đã trừ đi âm thanh bên ngoài thì phải đuổi luôn âm thanh bên trong. Âm thanh bên trong là do âm thanh bên ngoài lay động sáu tình (6 căn) làm tim mạch đảo lộn, năm loại gió ác vào trong tim mạch, do gió động tâm nên hát, múa, làm đủ mọi thứ... Ông nên dạy quán rửa tâm.
Pháp quán tẩy tâm: trước tự quán tâm cho sáng dần, giống như hỏa châu; còn bốn trăm lẻ bốn mạch như ngọc tỳ-lưu-ly, hoặc như vàng ròng, như ba tiêu (cây chuối) thẳng đến bên tim. Hỏa châu tỏa khí không nóng, không lạnh, không thô, không tế. Dùng tưởng xông ướp vào các mạch. Một vị Phạm vương cầm gương ma-ni chiếu vào ngực hành giả. Khi ấy hành giả lại quán ngực như châu vương như ý trong sáng đẹp đẽ. Hỏa châu là tim trong lòng tay của vua trời Ðại phạm, có ấn chuyển luân (bánh xe), trong ấn chuyển luân có hoa sen trắng, trên hoa sen trắng có Thiên đồng tử tay giơ cao nước sữa từ châu vương như ý tuôn ra, tưới vào các mạch, sữa từ từ nhỏ xuống đến nơi tim. Tay đồng tử cầm hai cây kim, cây thứ nhất màu vàng ròng, cây thứ hai màu xanh, ở hai bên tim an trí hai cái hoa bằng vàng, dùng kim khoan vào. Sau bảy lần khoan, tim trở lại nhu nhuyến như trước, lại dùng sữa rửa tim một lần nữa, giọt sữa đọng lại, chảy vào trong ruột già, ruột già đã đầy, vào trong ruột non, ruột non đầy rồi chảy ra các thứ sữa, nhỏ mãi không dứt vào trong miệng tám vạn hộ trùng. Các trùng no nê ở khắp trong thân, lại chảy rót vào các xương ba trăm ba mươi sáu đốt đều biến khắp. Sau đó tưởng một ao sữa có hoa sen trắng mọc lên ở trong ao. Hành giả ngồi ở trên, dùng sữa tắm rửa, tưởng lụa mềm mại (đâu-la-miên) như hoa sen trắng xung quanh thân bảy lớp. Hành giả ở trong đó, Phạm vương tự cầm cái thân sữa cho hành giả súc miệng. Súc xong, Phạm vương cầm lọng che trên hành giả. Ở trong lọng của Phạm vương, hành giả thấy hết tất cả các cảnh giới thắng diệu, thì trở lại được bổn tâm, không còn thác loạn.
Lúc Phật nói những lời này, năm trăm Thích tử Tỳ-kheo thuận theo lời Phật, nhất nhất hành theo, tâm lần mát mẻ, quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, khổ, không, vô ngã, không tham luyến thế gian, thấu hiểu pháp không, bỗng nhiên đắc lại bổn tâm, phá tám mươi ức kiết sử thiêu đốt, thành Tu-đà-hoàn, tu học dần dần đắc A-la-hán, ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát. Khi ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành. (Ðây gọi là pháp nhu nhuyến trị nội phong của bốn đại)
Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Hành giả nào muốn tu tập thiền định thì phải khéo quán cảnh giới của bốn đại, tùy lúc tăng hay giảm. Mùa Xuân thì nên nhập hỏa đại tam muội để thân thể ấm áp, ánh lửa mạnh mẽ, thân thể tỏa nóng thì nên trị ngay, tưởng các ánh lửa thành châu như ý, từ chân lông phóng ra. Ở khoảng giữa các tia sáng tạo ra hoa sen bằng vàng, có hóa Phật ngồi trên, dạy pháp trị bệnh, dùng ba loại châu:
- Một là nguyệt tinh ma-ni.
- Hai là tinh quang ma-ni, giống như sao trời, thân màu xanh, tia sáng màu trắng.
- Ba là thủy tinh ma-ni.
Tưởng ba loại châu này, một chiếu trên đầu, một chiếu bên vai trái, một chiếu bên vai phải. Ðã thấy ba châu, tưởng ánh sáng của ba loại châu phóng ra từ chân lông trên thân, cực kỳ mát mẽ, thân tâm thư thái nhập vào hỏa tam muội, không thứ gì hoại được. (Ðây gọi là pháp trị hỏa đại tam muội)
Lại nữa, này Xá-Lợi-Phất! Mùa Thu thì nên nhập vào địa tam muội. Vào địa tam muội thấy tướng đất này có trăm ngàn núi đá, núi sắt, núi thiết vi, núi kim cương, từ đầu đến chân ba trăm ba mươi sáu đốt đều là trăm ngàn núi, thấy thần núi Nham Ngạc, khi ấy phải gấp trị ngay. Pháp tưởng trị địa đại: mỗi mỗi núi này quán cho thật kỹ giống như cây chuối, như vậy thứ tự như trong kinh Thập thí, mỗi mỗi quán kỹ. Khi ấy chỉ thấy mười phương là đất (đại địa) như bạch lưu ly có hoa trắng báu, thấy Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Ca Chiên Diên ngồi trong hang kim cương trắng, như nước phủ đất, vì hành giả nói năm pháp phá năm pháp hợp, nói đất vô thường. Hành giả thấy rồi, thân tâm thư thái, đắc lại bổn tâm. Gọi là pháp trị địa đại.
Lại nữa Xá Lợi Phất! Hành giả vào thủy đại tam muội, tự thấy thân mình như suối lớn chảy, ba trăm ba mươi sáu đốt chảy theo dòng nước, thấy đất mười phương đầy tràn nước xanh; nếu trắng hoặc đỏ thì nên trị gấp. Pháp trị thủy đại: trước nên quán thân thành châu ma-ni, bình kiết tường, hoa bằng vàng che bên trên, làm cho nước mười phương chảy vào trong bình, bình kiết tường này lại chảy vọt ra bảy đóa hoa bảy cánh rõ ràng, ở giữa mỗi cánh có bảy dòng suối, trong mỗi dòng suối có bảy hoa vàng, ở trên mỗi hoa có Phật ngồi nói bảy giác chi. (Gọi là pháp trị thủy đại)
Lại nữa, Xá Lợi Phất! Nếu hành giả nhập vào phong tam muội, tự thấy thân mình thành mười chín đầu rồng, mỗi đầu rồng có chín trăm lỗ tai, vô lượng miệng, lỗ chân lông trên thân, lỗ tai và miệng như hang khe lớn, đều phát ra gió mạnh, thì nên trị gấp. Pháp trị như vầy: nên dạy hành giả tự quán thân mình thành tòa kim cang, ở bốn phía tưởng bốn bánh xe bằng kim cang để ngăn gió này, bánh xe kim cang lại sanh bảy hoa kim cang, trên hoa có hóa Phật tay cầm vòi nước, trong vòi có mười sáu đầu rồng uốn mình hút gió. Khi đó, gió mười phương yên tĩnh bất động. Bấy giờ hành giờ hành giả lại thấy bảy vị Phật, bốn vị đại Thanh văn, lại giảng dạy bảy giác chi. Hành giả dần dần nhập vào tám phần thánh đạo. (Gọi là pháp trị phong đại) Thoa sữa quán mềm mại cho bốn đại dần dần vào cảnh giới sáng rỡ của bậc thánh.
Lại nữa, Xá Lợi Phất! Nếu có hành giả bốn đại bị thô trệ, hoặc giận, hoặc mừng, hoặc buồn, hoặc vui, hoặc lật úp, bò, hoặc phóng hạ phong... Các bệnh như vậy nên dạy trị gấp. Pháp trị thế này: trước hết dạy quán da mỏng, bắt đầu từ nửa đốt xương, thấy trong da mỏng có chín mươi chín lớp giống như bong bóng. Quán tiếp da dày chín mươi chín lớp giống như bẹ cây chuối, kế tiếp quán màng mỏng như màng mí mắt chín mươi chín lớp., tan vỡ sắp xuyên qua. Tiếp đến quán thịt cũng chín mươi chín lớp giống như lá chuối, ở giữa có trùng nhỏ như lông tơ, trùng có bốn đầu bốn miệng, chín mươi chín đuôi. Lại nên quán xương, thấy xương có tia sáng trắng giống như bạch lưu ly, chín mươi tám lớp, bốn trăm lẻ bốn mạch chạy vào giữa xương, chạy từ trên xuống dưới, giống như thân cây chuối. Tiếp đến quán tủy chín mươi tám lớp, như lưới tơ của trùng. Ðã quán các đốt xương, quán tiếp xương đầu, dưới mỗi sợi tóc có bốn trăm lẻ bốn mạch, chạy thẳng vào não. Ngoài da mỏng, da dày ra, thì xương cùng thân không khác, chỉ có màng não là mười bốn lớp. Não có bốn phần, chín mươi tám lớp, bốn trăm lẻ bốn mạch chạy vào tim, ruột già, ruột non, bao tử, thận, gan, phổi, tim, mật, cổ họng, (huyệt) phế du phát hơi nóng cho hai tạng, tám vạn hộ trùng, từng bước quán kỹ đều như thật, sáng rỡ rõ ràng, da da tiếp giáp nhau, khoảng giữa sáng trong như bạch lưu ly, mỗi nửa đốt như vậy quán kỹ, khiến cho ba trăm ba mươi sáu đốt đều rõ ràng, để tâm an trụ. Lại quán từ đầu một ngàn chín trăm chín mươi chín lần. Sau đó mới nên trụ khí một chỗ, đếm hơi thở để (điều) phục ý tưởng. Một Phạm vương tay cầm phạm binh, cùng các Phạm chúng đi đến trước hành giả, cầm dao kim cang trao cho hành giả. Ðã được dao, tự gọt đầu xương lớn như ngọc Mã-kha để trên gối trái. Ở trong phạm bình sanh ra hoa sen trắng chín đốt, chín cánh, chín lớp, có một đồng tử theo sau Phạm vương đi ra từ hoa sen đầu tiên, thân màu trắng như người bạch ngọc, tay cầm bình trắng, trong bình đựng Ðề-hồ. Trên búi tóc Phạm vương, bên trong có châu như ý hiện ra thuốc cỏ nhiều màu sắc đổ vào trong đề-hồ. Ðồng tử rót vào từ đảnh hành giả, vào trong mạch não, chảy thẳng xuống dưới, đến nửa đốt ngón cái chân bên trái, đầy nửa đốt rồi thấm nhuần cả chân, cho đến da mỏng; lại đến một đốt, lần lần như vậy đầy khắp nửa thân. Ðầy nửa thân rồi lại đầy toàn thân. Ðã đầy toàn thân bốn trăm lẻ bốn mạch, các thứ thuố chảy mãi. Quán thân ba trăm ba mươi sáu đốt đều tràn đầy. Bấy giờ hành giả nắm trở lại xương đầu để trên đầu. Ðồng tử lại lấy thuốc màu xanh rưới trên đầu hành giả, từng giọt thuốc này đi vào từ lỗ chân lông, sợ gió bên ngoài nhập. Phạm vương lại dạy làm sữa tuyết sơn cho hoàn toàn trắng sáng. Ðề-hồ tuôn chảy như vách pha-lê, lấy để thoa thân bốn mươi chín lần. Lại làm ao Ðề-hồ rộng lớn, sữa trắng làm hoa, hành giả ngồi trong hang sữa, có lọng sữa ở trên, dùng thuốc Từ của Phạm vương rải khắp không gian sữa. Quán kỹ như thế chín trăm chín mươi chín lần.
Sau đó nên tưởng đốt thứ hai trong hoa sen có một đồng tử màu hồng cầm thuốc màu đỏ rải ở trên tóc và khắp thân, tất cả lỗ chân lông hành giả, làm cho thuốc này vào da mỏng... cho đến tủy, khiến cho dưới tim sáng rực, khắp thân thể dần dần mềm mại.
Trong đốt thứ ba, hoa sen nở ra đồng tử màu vàng kim, cầm thuốc màu vàng rải khắp trên tóc, khắp thân thể và tất cả lỗ chân lông hành giả, làm cho thuốc ấy vào trong da mỏng, đi vào trong tủy, khiến cho dưới tim có màu xanh, khắp thân thể dần dần cao lớn, lại tăng thêm sự mềm mại.
Ðốt thứ tư, đồng tử có màu như tỳ-lưu-ly, cầm thuốc xanh bằng tay mặt rải lên tóc, khắp thân thể và tất cả lỗ chân lông hành giả, làm cho thuốc xanh thấm vào da mỏng, cho đến tủy, khiến cho dưới tim có màu đỏ, mỗi lỗ chân lông ở phần dưới chân đều châm một kim, phần trên châm hai kim. Trên tim tạo ra ba hoa sen, trong ba hoa sen có ba viên hỏa châu tỏa ra ánh sáng màu đỏ, ánh sáng chiếu vào tim làm tim dần dần ấm áp. Sau đó, hai lòng bàn tay áp vào các đốt, mỗi đốt đều châm ba kim, tùy theo mạch trên hay dưới, điều hòa các khí lưu thông trong bốn trăm lẻ bốn mạch, không chạm vào ruột già, mạch thận tăng trưởng. Lại dùng năm kim châm vào mạch ruột phía trái, như thế đồng tử điều hòa các kim, dùng sự huân tập không nghĩ ngợi, tu tập không nghĩ ngợi, lấy các kim ra để dưới năm móng tay, dùng tay chà xát khắp thân hành giả.
Ðốt thứ năm đồng tử màu xanh lục, tay cầm bình ngọc, rót nước thuốc màu xanh lục vào phẩn môn, chảy khắp ruột già ruột non, năm tạng, các mạch, nước này trở lại chảy ra phẩn môn, vi trùng và các nhơ nhớp chảy ra theo nước mà Ðề-hồ không hao tổn, trùng hết nước dứt lại rải thuốc khô màu xanh lục lên tóc, khắp thân thể, tất cả lỗ chân lông hành giả, làm cho thuốc khô màu xanh này vào trong da mỏng, đến tủy, khiến cho dưới tim màu trắng, khắp thân thể dần dần tăng thêm sự mềm mại.
Ðốt thứ sáu, đồng tử màu tía, cầm bình Châu-mân-côi đựng đầy nước Mân-côi tưới khắp các mạch, làm cho nước Mân-côi chảy ra các lỗ chân lông, các trùng dưới chân lông đều chảy ra theo nước. Lại dùng một thứ thuốc khô màu hổ phách rải trên tóc và khắp thân, tất cả các lỗ chân lông, cho thuốc khô màu hổ phách vào da mỏng, đến tủy, khiến cho dưới tim sáng dần như ánh sáng tuyết trắng, khắp thân tăng thêm mềm mại.
Ðốt thứ bảy, đồng tử màu vàng cầm dùi kim cang dùi dưới hai chân, hai lòng bàn tay, hai bên tim, sau đó cầm châu vương như ý chà xát lên sáu căn, các căn khai mở, cảm thọ vui của thiền vị tối thượng. Khoảng giữa các da và mạch như thoa bạch cao, tất cả đều mềm mại.
Ðốt thứ tám, đồng tử màu kim cang, tay cầm hai bình, dùng thuốc màu kim cang rưới vào trong hai lỗ tai và tất cả lỗ chân lông, như pháp Án-ma, điều chỉnh các đốt, (xương của) thân như mắc xích đi qua giữa các đốt.
Ðốt thứ chín, đồng tử màu châu ma-ni đi ra từ miệng bình đến chỗ hành giả, đưa năm ngón tay vào trong miệng hành giả, năm ngón chảy ra thuốc năm màu, hành giả uống rồi quán thân và tâm, cho đến các mạch, thanh tịnh như gương sáng, màu của pha-lê, ma-ni không thể sánh bằng. Ðồng tử cầm cành hoa sen đến cho hành giả ăn. Khi ăn như uống sữa pháp, trong mỗi giọt tuôn ra cam lồ, liền ăn hết cành này. Chỉ có chín hoa, trong mỗi một hoa có một Phạm vương mang giường Phạm vương trao cho hành giả để hành giả ngồi. Ðã ngồi trên giường, có lọng lớn bảy báu che trên hành giả. Mỗi Phạm vương đều giảng thuyết pháp Từ dạy cho hành giả. Nhờ sức Phạm vương, mười phương chư Phật hiện trước hành giả thuyết giảng từ, bi, hỷ, xả, tùy theo căn cơ mà nhận thuốc pháp, thư thái bốn đại.
Này Xá Lợi Phất! Ông khéo hành trì pháp bốn đại nhu nhuyến này, hàng phục chín mươi tám kiết sử trong và ngoài thân, tất cả các bệnh, đem pháp Phạm vương quán đảnh dùng sữa tưới thuyết giảng cho bốn chúng.
Khi ấy, Xá Lợi Phất, tôn giả A-Nan... nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Nếu Tỳ-kheo ở nơi thanh vắng dụng tâm vội vã, sổ tức quá thô, nằm ngủ thì đơn sơ, do đó phong hàn bên ngoài nhập vào các mạch của bao tử, phế quản, thận... làm các gân khởi gió, khí ngược tức ngực, từng đốt xương tiết ra nước, ứ đọng trong ngực, vì thế dẫn đến khí huyết ngưng trệ, phát sanh đau đầu, các gân co giật, nên gấp trị liệu. Pháp trị bệnh ấy: trước hết uống chất béo, vị thuốc tốt ở đời. Sau đó ngủ nằm ngửa, đếm hơi thở cho an định, quán tưởng ao A-nậu-đạt nước tràn đầy một do tuần, dưới đáy có cát vàng và bốn thứ báu, có bánh xe vàng sanh ra hoa vàng, lớn như bánh xe, trong hoa có bốn thứ báu, có thú đầu voi mũi phun nước, sư tử miệng phun ra nước, ngựa miệng phun ra nước, trâu miệng phun ra nước, đi quanh ao bảy vòng. Long vương A-nậu-đạt với cung điện bảy báu ở giữa đầu bốn thú, trên đảnh Long vương có châu như ý. Do sức của Long vương sanh ra một ngàn năm trăm hoa sen nhiều màu, năm trăm hoa sen xanh. Tôn giả Tân-đầu-lô cùng với năm trăm vị A-la-hán ngồi ở trên ấy, đêm đến hoa khép, ngày hoa nở ra, có lọng bảy báu che trên Tỳ-kheo, có bảy giường báu, ở dưới hoa sen có năm trăm hoa sen sắc vàng. Thuần Ðà Bà cùng năm trăm Sa-di đều ngồi trên hoa, đêm về thì khép, sáng ra nở, có lọng bảy báu che trên Sa-di, có giường bảy báu, ở dưới hoa sen có năm trăm hoa sen hồng. Tôn gải Ưu Ba Nan Ðà, Hòa Tu Mật Ða... những vị đại A-la-hán, hay là năm trăm quyến thuộc của đại Bồ-tát đều ngồi trên hoa, về đêm khép lại, ngày thì nở ra, có bảy bảo cái ở trên Tỳ-kheo, có giường bảy báu ở dưới hoa sen, có đài cao bằng bảy báu dài tám ngàn trượng từ phương dưới hiện lên. Lúc ấy, trước cung điện của Long vương A-nậu-đạt có năm trăm đồng tử ở trên đài ấy, thân màu vàng ròng. Ðồng tử thứ nhất tên là Xà Bà, thứ hai tên Thiện Tài... đồng tử thứ năm trăm tên là Quán Ðảnh Lực. Nếu muốn vua trị bệnh nghẹn, trước tiên nên niệm tôn giả Tân Ðầu Lô Phả La Ðọa... một ngàn năm trăm vị như đã nói ở trên, khiến cho thấy rõ ràng, rồi thì tôn giả Tân Ðầu Lô sẽ đưa đồng tử Xà Bà cầm thuốc uống Am-bà-đà (thuốc có vị ngọt như mía, giống như ngó sen, lại có vị như đường phèn), màu trắng của Long vương A-nậu-đạt. Ðã uống thuốc này thì bệnh nghẹn sẽ lành, bốn đại điều hòa, mắt liền sáng trong. Nếu người phát tâm đại thừa thì Xà Bà, Thiện Tài... năm trăm đồng tử thuyết pháp đại thừa cho. Nhờ thế mà được thấy Bạt Ðà Bà La... mười sáu hiền sĩ. Lại thấy Di-Lặc ở Hiền kiếp... một ngàn Bồ-tát. Do phát tâm Vô thượng chánh đẳng giác nên đủ sáu độ. Người phát tâm Thanh văn thì tôn giả Tân Ðầu Lô thuyết pháp Tứ niệm xứ... tám phần Thánh đạo, trải qua chín mươi ngày thì đắc đạo A-la-hán.
Phật bảo Xá Lợi Phất:
- Ông khéo gìn giữ pháp trị nghẹn này cẩn thận, chớ để quên mất.
Khi ấy Xá Lợi Phất và A-Nan... nghe Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Pháp trị hành giả bị bệnh tham dâm:
Lại nữa, Xá Lợi Phất! Nếu hành giả khi nhập thiền định, sắp khởi tham dâm, phong động bốn trăm lẻ bốn mạch từ mắt đến thân căn, một lúc giao động, các tình bế tắc, gió tim phát động làm tâm điên cuồng. Do điên cuồng nên vướng phải quỷ mị, đêm ngày nghĩ dục, như cứu lửa cháy đầu, nên gấp chữa trị. Pháp trị bệnh ấy dạy hành giả này quán tử tàng. Tử tàng ấy ở dưới sanh tàng, thục tàng ở trên, chín mươi chín lớp mô như heo chết trong bọc, bốn trăm lẻ bốn mạch trong tử tàng giống như rễ cây, phân ra các căn. Như túi đầy phẩn một ngàn chín trăm đốt, giống như lá chuối, tám vạn hộ trùng xoay vòng xung quanh. Bốn trăm lẻ bốn mạch và tử tạng giống như ruột ngựa, thẳng tới cửa sanh, giống như vòng xuyến đeo tay, đoạn lớn đoạn nhỏ, trên tròn dưới nhọn, hình trạng như răng đầy đủ, chín mươi chín lớp, giữa mỗi lớp có bốn trăm lẻ bốn trùng, mỗi trùng có mười hai đầu, mười hai miệng. Khi người uống nước, nước tinh nhập vào mạch, phân bố cho các trùng, nhập vào đảnh của trùng Tỳ-lô, thẳng đến cửa sanh, nửa tháng nửa tháng chảy ra nước bất tịnh do các trùng mửa ra, giống như mủ, chảy vào trong miệng chín mươi trùng, từ trong sáu khiếu của trùng mười hai đầu chảy ra như chất nhờn đỏ. Lại có các trùng nhỏ như mảy lông, tung tăng ở trong.
Này các nam tử! Do tội ác trước nên bốn trăm lẻ bốn mạch từ nhãn căn phân ra tứ chi, dẫn đến các ruột, tới dưới sanh tạng, trên là thục tạng, mạch phế du, mạch thận ở hai bên đều có sáu mươi bốn trùng, mỗi trùng có mười hai đầu, cũng có mười hai miệng, quấn quýt với nhau giống như hình chiếc nhẫn, đầy mủ màu xanh, giống như tinh heo rừng, rất hôi hám, đến âm tàng phân làm ba nhánh, hai nhánh ở trên giống như lá chuối, có một ngàn hai trăm mạch, ở trong mỗi mạch sanh ra trùng phong, nhỏ như lông tơ của chim Tỳ-lan-đa, trong miệng các trùng sanh trùng cân sắc (trùng này giống như gân nối nhau, giữ tử tàng, hay làm lay động các mạch, hút tinh trùng nam màu xanh trắng và trùng nữ màu hồng đỏ) bảy vạn tám ngàn con cùng nhau quấn bên trong, hình trạng như chiếc nhẫn dính nhau, giống như chim Cù-sư-la, có chín mươi tám mắt, mạch trên thân thông tới tim, chạy lên đảnh tóc.
Này các thiện nam tử! Mắt tiếp xúc với sắc (cảnh), gió động tâm căn bốn trăm lẻ bốn mạch, bị gió kích thích chuyển động không dừng, tám vạn hộ trùng đồng thời há miệng, mắt chảy ra mủ, đổ vào các mạch cho đến đảnh trùng. Các trùng trăn trối điên cuồng không còn biết, chạm trước nữ căn, tinh nam xanh trắng, là nước mắt của các trùng, tinh nữ vàng đỏ, là mủ của các trùng. Chín mươi tám sử là pháp, huân tập tám vạn hộ trùng, đất, nước, gió, lửa do tác động tạo ra.
Phật bảo Xá Lợi Phất:
- Bốn chúng nào mà mặc y tàm quý, uống thuốc tàm quý, muốn cầu giải thoát, độ cái khổ ở đời, thì nên học pháp này như uống cam lồ. Người học pháp này, trước hết tưởng tử tàng, cho đến nữ căn, thân phần của người nam, các trùng lớn nhỏ há miệng vễnh tai, mắt lộ sân hận mữa mủ, dùng tay lật ngược để trên gối trái cho ngay ngắn, đếm hơi thở khiến cho định, quán qua một ngàn chín trăm chín mươi chín lần thì thành tựu tưởng này. Ðặt (tay) trên gối phải cho ngay ngắn, quán y như trước. Lại dùng tay lật ngược che trên đỉnh đầu, làm cho các vật bất tịnh của các trùng, trước tiên nhỏ vào hai mắt, hai tai và miệng... không chỗ nào mà không đến. Thấy việc này rồi thì đối với sắc đẹp của người nữ, người nam, thậm chí thiên tử, thiên nữ mà mắt nhìn thấy họ giống như thấy người bị hủi, như trùng trong mụt ghẻ na-lợi, như địa ngục tên, như dáng quỷ thần Bán-đa-la, như lửa dữ của ngục A-tỳ, cần phải quán kỹ thân mình, thân người, thân phần của tất cả chúng sanh thuộc cõi Dục này đều bất tịnh, tất cả đều như vậy.
Phật bảo Xá Lợi Phất:
- Nay ông biết không? Thân căn chúng sanh chủng tử căn bản đều bất tịnh, không thể nói hết, chỉ nên đếm hơi thở, nhất tâm quán xét. Nếu uống thuốc này thì là bậc đại trượng phu, thầy của trời người, là bậc điều ngự, thoát khỏi bùn dục, không bị chìm nổi trong nước sông lớn ân ái. Dâm dật thì không rõ sắc là huyễn, nên bị yêu quỷ nhiễu hại, nên biết đây là người chưa ra khỏi sanh tử. Thân (hành giả) này tinh khiết thơm tho như hoa sen xanh trong loài người, hương tượng, long vương, lực sĩ, ma-hê-thủ-la... không (thể) so sánh được bậc đại lực trượng phu, trời người kính mến.
Phật bảo Xá Lợi Phất:
- Ông khéo (thọ trì), giữ gìn, thuyết giảng cho bốn chúng, cẩn thận chớ để quên mất.
Khi ấy, Xá Lợi Phất và A-Nan... nghe Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Pháp trị bệnh ghẻ lợi dưỡng:
Lại nữa, Xá Lợi Phất! Nếu có hành giả bị lửa tham thiêu đốt, gió ác thổi lay động, tên độc lợi dưỡng bắn trúng tim hành giả. Do nhân duyên tham nên tâm bị điên đảo, ngày đêm sáu thời nhớ nghĩ đủ cách tham, như mèo rình chuột, không biết đủ, như rắn thất bộ phun độc phủ thân người ấy. Người ác này đắm trước lợi dưỡng bị năm trăm rắn độc quấn lấy thân, như thế từng giây từng phút lửa độc trong tâm thiêu đốt không ngừng, đêm ngày sáu thời gió dữ phiền não thổi củi lợi dưỡng trong tâm người ấy, thiêu đốt không dừng, các rắn tranh đấu đốt cháy mầm móng thiện. Vì nhân duyên ấy, quỷ đen cuồng loạn độc dữ đốt cháy, thấy người được lợi như tên bắn trúng tim, như mũi nhọn đâm vào mắt, như đinh đóng vào tai, các tình bít lấp, năm trăm lẻ năm rắn, rồng độc bốn đại, năm giặc nhổ đao, la-sát sáu thôn đồng thời đấu tranh, do vậy phát cuồng, phải gấp chữa trị.
Pháp trị bệnh ấy: trước nên đếm hơi thở, buộc tâm cho định, tưởng tượng (Phật) một trượng sáu, thân màu vàng tía, ba mươi hai tướng, ở núi Kỳ-xà-quật, trong hang bảy báu, ngồi trên tòa sư tử, cùng với bốn chúng (thuyết) nói pháp trừ tham, bảo các pháp tử: “Ông quán người tham đắm trước ca-sa, sáu vật, các dụng cụ.... như (người) trong rừng gai nhọn, kim may, cây sanh ra kiếm, trăm ngàn đinh nhọn, các trùng mỏ sắt nhọn mổ ăn thân này. Vạc đồng sôi bốc hơi, cưa sắt, giường sắt... là chỗ ngồi của ông. Nước tiểu, phân, rắn độc, hoàn sắt, vạc nước sôi, rừng đao, kích, kiếm, trăm ức gai nhọn, nước đồng sông lửa, nước tro, máu mủ... là thức ăn nước uống của ông”.
Lúc ấy Thế Tôn nói lời ấy rồi lặng yên không nói, khiến cho hành giả tự thấy thân mình nằm trong bảy lớp thành sắt, thấy năm la-sát há miệng hai hướng, dùng tám mươi móc sắt nhổ lưỡi ra ngoài, vô lượng lưỡi cày sắt giống như cây (gắn) kiếm để cày lưỡi hành giả, lỗ trong thân trâu sắt chảy ra trùng đồng. Bầy trùng sắt ở trong thân, mủ có trăm ngàn màu, trong mủ có trùng không thể nói hết. Quán thấy việc này, tâm sợ lông dựng, xuất định nhập định, thấy sự đắm trước ca-sa như mủ phân hòa với máu, các trùng sắt mỏ nhọn, rừng đao kiếm kích để trang nghiêm, thấy vật thực giống như (thấy) giun, trăm ngàn trùng nhỏ nhờ thế tạo ra các mủ, phân, nước tiểu và các thứ máu, tám mươi trùng mỏ nhọn, trùng gió, trùng lửa, trùng nước, trùng đất, trùng địa ngục, tất cả các trùng mữa mủ, mữa chất độc đầy cả bát, hoàn sắt, kiếm, kích dùng làm rau quả.
Khi ấy Thế Tôn nói kệ:
- Sanh tử không dừng dứt
Vì tham đắm (mùi) vị
Dưỡng thân bằng vật độc
Phải chịu các khổ đau
Thân hôi như thây chết
Chín lỗ chảy đồ nhơ
Như giòi cầu thích phân
Ngu đắm thân không khác
Bậc trí nên quán thân
Không tham nhiễm thế gian
Không lụy, không đắm dục
Gọi là chơn Niết-bàn
Như chư Phật đã dạy:
Nhất tâm nhất ý hành
Sổ tức nơi thanh vắng
Gọi là hạnh Ðầu-đà.
Phật bảo Xá Lợi Phất:
- Lợi dưỡng làm tổn thương thân, phá hoại thiện căn của người, không thể nói hết. Chỉ nên đếm hơi thở, nhất tâm quán sát, nên uống thuốc này thì là đại trượng phu, thầy của trời người, là vua điều ngự, thoát khỏi bùn dục, không bị chìm nổi trong nước sông lớn ân ái. Tham lợi, không rõ cái hại của nó thiêu đốt, nên biết người này chưa ra khỏi sanh tử, thân của người uống thuốc ấy thơm tho tinh khiết như hoa sen xanh, trong loài người, hương tượng (loài voi thơm), long vương, lực sĩ ma-hê-thủ-la... không thể so sánh, bậc đại trượng phu được sự tôn kính của trời người.
Phật bảo Xá Lợi Phất:
- Ông khéo thọ trì, giảng nói cho bốn chúng, cẩn thận chớ quên mất.
Khi ấy Xá Lợi Phất và A-Nan... nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Pháp trị phạm giới:
Lại nữa, Phật bảo Xá Lợi Phất:
- Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Thức-xoa-ma ni, Sa-di, Sa-di ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào thọ cấm giới Phật mà thân tâm cuồng loạn giống như khỉ vượn, hạt gống pháp đã trồng nhưng chưa sinh trưởng mà diệt cành phá gốc. Bảy chúng cũng vậy, đối với giới cấm của Phật, giới sắc chưa sanh, phạm Ðột-kiết-la cho đến Ba-la-di, giống như voi say, không tránh tốt xấu, không biết các phương, đạp bừa tan nát tất cả các vật tốt đẹp. Bốn chúng cũng vậy, đạp phá hoa sen xanh tịnh giới trong ao, phá giới mạnh mẽ giống như chó điên, thấy người thấy cây cho đến chim thú... đuổi theo cắn lấy. Người ác phá giới thấy sự thanh tịnh của Phật, La-hán, công đức phước điền của Tỳ-kheo chạy theo mạ nhục, phỉ báng, phá hoại, tự uống thuốc độc, khắp thân hiện ra máu lửa thiêu từng đốt xương. Kẻ cuồng ngu vô trí, kiết sử của họ như gió mạnh thổi động núi rừng phiền não. Tham dâm là mắt, sân hận là tay chân, ngu si là thân thể, dẫm đạp thế gian, trồng hạt giống ác; đã tự trồng, lại dạy người khác tìm cầu. Ngục tốt trong địa ngục, la-sát, ngưu đầu, a-bàng, ác quỷ kiếp lửa, thần rừng kiếm, vua Diêm-la..., mười tám chúa ngục thường là bạn thân, là thượng thiện tri thức của ngươi, chắc chắn ngươi sẽ cùng với hạt giống địa ngục đêm ngày dong ruỗi khắp nơi. Người phá giới này, vì lợi dưỡng và danh tiếng nên các lửa dữ sẽ đến (nhập) vào tâm. Họ tự cho mình là tốt, đầy đủ oai đức, đến chỗ vị biết pháp ở nơi thanh vắng, giống như nhà ảo thuật làm mê hoặc mắt người, trò huyễn này lừa phỉnh người, nói dối là hành Ðầu-đà. Gió ác phá giới thường thổi hoa nghiệp tội trên thân tan nát, ác khẩu phỉ báng, hương tâm bất thiện dùng để ướp thân tâm. Thân tâm người này giống như hoa lan kia có trăm ngàn bọ chét. Tuy hành thiền định nhưng dối hiện đếm hơi thở, được thấy cảnh giới, ban đầu thấy Phật màu đen giống như chân voi đen, thấy như người (bằng) tro, thấy các Tỳ-kheo vỡ đầu gãy chân, thấy Tỳ-kheo ni trang điểm bằng vòng hoa, thấy các voi trời hóa thành khỉ vượn, lông dựng lửa thiêu đến quấy nhiễu rồi, hoặc thấy một con cáo hoang và một con chó khác có trăm ngàn đuôi, mỗi đuôi thẳng ra, có vô số trùng và các thứ nhơ nhớp, hoặc thấy lạc đà, heo, chó gầy ốm, quỷ hình vò... các Dạ-xoa ác, La-sát Khôi quái đều cầm các vũ khí và lửa dữ đánh đập Tỳ-kheo. Do vậy phát cuồng, hoặc ca, hoặc múa, nằm trên đất phân, phải gấp chữa trị.
Pháp trị như vầy: Hướng đến người có trí chí thành sám hối, nói lên việc tạo nghiệp ác bất thiện. Vị có trí nên dạy vị Tỳ-kheo này nhớ nghĩ Phật Thích Ca Mâu Ni, tiếp đến nhớ nghĩ bảy vị Phật. Nhớ nghĩ bảy vị Phật rồi, nhớ nghĩ ba mươi lăm Phật. Sau đó lại nên nhớ nghĩ các Bồ-tát, nhớ nghĩ tâm đại thừa, quán pháp không sâu xa, tự tàm quý, tưởng mỗi mỗi Phật cầm nước tắm cho, dùng (nước) tưới lên đầu.
Lại tự quán thân mình đọa vào địa ngục A-tỳ, mười tám địa ngục chịu các khổ não, ở trong địa ngục xưng niệm: “Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tỳ-kheo Tăng”, tu hành sáu niệm. Ở trong mộng thấy lông trắng giữa chặn mày của các Phật Như Lai phóng ánh sáng cứu khổ địa ngục. Thấy việc này rồi, như người mắc nợ, ôm lòng xấu hổ, cần phải trả vậy. Nhất tâm nhất ý khoác Tăng-già-lê, mặc An-đà-hội, đến chỗ Tăng thanh tịnh, năm vóc gieo xuống đất như núi lớn đổ, ôm lòng xấu hổ, sám hối các tội, chấp sự cho Tăng, làm các việc lao nhọc như quét nhà xí, gánh phân, trải qua tám trăm ngày, sau đó tắm rửa thân thể, lại mặc Tăng-già-lê, vào trong tháp nhất tâm chấp tay nhìn kỹ tướng lông trắng giữa chặn mày, tưởng ánh sáng đại nhơn của Như Lai một ngày đến bảy ngày, trở lại đến chỗ người trí cầu xin sám hối. Người trí nên bảo rằng: “Này Tỳ-kheo! Ông nay tự quán thân ông giống như bình vàng đựng bốn con rắn đôc, hai trên hai dưới nhổ ra chất độc đáng sợ. Lại quán một con rồng sáu đầu quấn quanh bình, rồng cũng phun độc, nhỏ vào trong miệng rắn. Cây lớn bốn phương từ bình vàng hiện ra đầy khắp ba cõi, voi đen lại đến, muốn nhổ cây này, bốn phía lửa bùng cháy”. Thấy việc này rồi thì nên đến bảo: “Tỳ-kheo nên biết! Bình này là khí của đất vậy. Rắn màu xanh từ phong đại sanh, là chất độc của phong đại, nương vào màu của rắn từ thủy đại sanh, là chất độc của thủy đại. Rắn màu trắng từ địa đại sanh, là chất độc của địa đại. Rắn màu vàng từ hỏa đại sanh, là chất độc của hỏa đại. Rồng sáu đầu là ngủ ấm và hư không trong thân ông. Như vậy, thân này độc hại không sạch, tại sao theo ác phạm giới không trị?”. Nói lời này rồi lại dạy quét, trét đất tháp, làm các việc nhọc nhằn. Lại dạy quán Phật, thấy Phật phóng hào quang màu vàng, lấy tay xoa đầu, sau đó mới nên dạy quán bất tịnh. Pháp môn bất tịnh dẹp hết không còn các chướng ngại. Sau đó có thể cùng với Tăng thuyết giới. Khi muốn nói giới nên xướng lời này: “Tỳ-kheo mổ, giáp..., hoặc Tỳ-kheo ni mổ, giáp... đã tám trăm ngày làm các việc khổ nhọc, bảy ngày quán tướng bạch hào giữa chặn mày Phật, tác quán độc xà, tưởng địa ngục. Lại quán một vị Phật nói pháp sám hối, quán pháp bất tịnh, đối cảnh không còn ngã nhơn, lại còn thông đạt trong cảnh giới. Phật dùng nước tắm rưới trên đảnh Tỳ-kheo, thiên thần hiện mộng nói đã thanh tịnh. Nay đã xấu hổ, tôi đã chứng biết, xin đại chúng hứa khả cho”. Khi ấy, Luật sư lại phải dùng luật để tra hỏi Tỳ-kheo này. Lại dạy tụng giới qua tám trăm lần. Sau đó mới cho như Tỳ-kheo thanh tịnh không có sai khác.
Phật bảo Xá Lợi Phất:
- Nếu trong bảy chúng có ai phạm giới khinh, quá hai đêm mà không sám hối, thân người này hiện tại tuy hành thiền định nhưng rồi không đắc đạo. Nếu phạm trọng giới, đọa đại địa ngục, ra khỏi địa ngục thọ thân súc sanh. Như vậy trọn đủ luôn trong ba kiếp, sau đó làm người, tuy được thân người nhưng nghèo cùng, mang bệnh hủi, bảy mươi bảy thân không thấy Phật, không thể nghe pháp, không đủ các căn. Vì thế người trí nếu phạm giới Phật, tội Ðột-kiết-la, phải sanh sợ hãi như bị đao chém, xấu hổ vô cùng, huống gì trọng giới. Nếu người nào hay uống thuốc trì giới này, nên biết đây là người trượng phu, nhẫn nhục, tàm quý tối thượng, không ai hơn được.
Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:
- Phá giới tâm bất tịnh
Như chó hoang chạy rong
Chốn chốn cầu lợi dưỡng
Giết hại vì tâm tham
Nên uống thuốc tàm quý
Nhẫn nhục làm áo mặc
Sám hối hoa trang nghiêm
Dùng hương thiện tâm ướp
Nhất tâm quán tướng Phật
Trừ khổ không sầu lo
Cũng nên niệm pháp không
Tu tâm quán bất tịnh
Ðó gọi là Như Lai
Cam lồ thuốc quán đảnh
Uống vào tâm không sầu
Ðược đến bờ Niết-bàn
Nên tu hành như pháp
Phi pháp chẳng nên tạo
Ðời nay hoặc quá khứ
Người hành pháp được độ
Thuận theo lời Phật dạy
Trì giới, hành Ðầu-đà
Thân tâm không hạnh ác
Sớm đến nơi giải thoát.
Khi ấy Thế Tôn bảo Xá Lợi Phất:
- Ông khéo thọ trì thuốc phạm giới này, cẩn thận chớ quên mất.
Bấy giờ Xá Lợi Phất và A-Nan... nghe Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Pháp Mật Yếu Trị Bệnh Thiền
Hết quyển thượng

« Kinh này có tổng cộng 2 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.191.178.145 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập