Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Kiều-phạm-ba-đề, Hán dịch là Ngưu Si, trong kinh Vô Lượng Thọ gọi là Ngưu Vương, kinh Tăng Nhất A-hàm gọi là Ngưu Tích. Thuở xưa, cách đây 500 đời ngài từng là con trâu chúa. Loài trâu sau khi ăn thì nhai lại, dư báo ấy chưa hết nên miệng ngài thường nhai [ngay cả lúc không ăn gì], người thời bấy giờ gọi là Ngưu Si.
[Lại chuyện] thuở xưa có một bầy ngỗng trời 500 con, trong đó có một con thường kiếm được hoa quả thì cung cấp cho con đầu đàn. [Con ngỗng ấy là tiền thân của ngài Kiều-phạm-ba-đề.] Khi đức Phật nhận lời cung thỉnh của vua A-kỳ-đạt trong một mùa an cư, [do vua quên hẳn việc cúng dường nên đức Phật] cùng với 500 vị tỳ-kheo phải dùng loại lúa xấu dành cho ngựa ăn. Riêng ngài Kiều-phạm-ba-đề khi ấy lại ở trên cõi trời, nơi vườn Thi-lợi-sa, thọ nhận sự cúng dường của Thiên vương.
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Vui thích ở cõi trời, không thích ở cõi người, tỳ-kheo Ngưu Tích là bậc nhất. Ưa thích ở cõi trời tức là chạy theo dục lạc, là nghĩa thế giới tất-đàn. Nhờ cung cấp [thức ăn] cho con ngỗng đầu đàn mà được phước báu ấy, là nghĩa vị nhân [tất-đàn. Lại nói lên cung trời để] tránh người cười nhạo [việc nhai lại] là nghĩa đối trị [tất-đàn]. Chư thiên không cười nhạo, là đệ nhất nghĩa tất-đàn. Đại lược là như vậy.
Lại nói rằng, con người chỉ xem hình tướng [bên ngoài], không biết được đức độ [bên trong], nếu cười nhạo một vị A-la-hán liền có tội. Vì muốn tránh cho con người sự cười nhạo [đắc tội] ấy nên Ngài thường ở trên cõi trời. Chư thiên rõ biết đức độ [của ngài] nên không cười nhạo hình tướng, do vậy nên ngài sống trên cõi trời.
Sau khi Đức Phật diệt độ, ngài Ca-diếp triệu tập 1.000 vị Đại A-la-hán [để kết tập kinh điển], liền cử tăng sứ đi tìm Kiều-phạm-ba-đề. Ngài Kiều-phạm-ba-đề hỏi [các vị tăng] về Phật và Hòa Thượng, các vị đáp rằng đều đã tịch diệt. Ngài [Kiều-phạm-ba-đề] liền nói: “Phật ra đời, ta ra đời; Phật trụ thế, ta trụ thế; nay Phật nhập diệt, ta cũng nhập diệt. Bốn dòng đạo đều chảy về chỗ ngài Ca-diếp.” Nói rồi đọc kệ:
Voi lớn đi rồi, voi con theo. Thế Tôn, Hòa Thượng đã diệt độ, Ta nay còn ở lại làm gì?
Đây là theo đệ nhất nghĩa tất-đàn.
Lược giải theo giáo nghĩa thì Tạng giáo cho rằng việc ở trong vườn trên cõi trời là thị hiện [nhân quả của] điều thiện, tướng trâu nhai lại là thị hiện [nhân quả của] việc ác.
Còn theo Thông giáo thì tuy có tướng nhai lại của trâu nhưng tự thân đắc đạo, đó là thị hiện việc xấu nhưng không phải xấu. Ở tại vườn cõi trời mà có tướng trâu nhai lại là thị hiện việc thiện mà không phải thiện.
Giải thích theo Biệt giáo là thị hiện cảnh giới trong thiện ngoài ác.
Giải thích theo Viên giáo là thị hiện tướng thật của thiện ác.
Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi bốn vô sở úy, làm bậc thánh chúa trụ yên, như đệ nhất nghĩa Ngưu Vương hiện dấu tích nơi cõi trời; tích là thị hiện Ngưu Si vui thích sống trên cõi trời.
Theo nghĩa quán tâm là quán lẽ trung đạo nơi tâm tánh, tức là quán như hình thể trâu chúa, bước đi an ổn, thân hình ngay thẳng thăng bằng, tật [xấu] chỉ như gió thoảng bên ngoài.
Ly-bà-đa
Ly-bà-đa (Revata), cũng đọc là Ly-việt-đa, Hán dịch là Tinh Tú, hoặc Thất Tú, hoặc Giả Hòa Hợp. Kinh Văn-thù vấn gọi [tên ngài] là Thường Tác Thanh.
Cha mẹ ngài cầu khẩn tinh tú có sự chiêu cảm mà sinh được ngài, nhân đó đặt tên là Tinh Tú. Tuy được xuất gia nhưng vẫn giữ theo tên tự khi còn tại gia, đó là Giả Hòa Hợp.
Có người dẫn trong Thích luận nói rằng: [“Có lần ngài] vào nghỉ tạm qua đêm trong một miếu hoang, gặp hai con quỷ đang tranh nhau một xác chết, chúng bảo ngài phân xử. Ngài nghĩ rằng dù có nói thẳng theo lý hay quanh co tránh né cũng đều không khỏi bị hại, nên cứ theo lẽ thật mà đáp. Con quỷ lớn liền bẻ hết chân tay của ngài, quỷ nhỏ lấy [chân tay] của xác chết gắn lại vào [cho ngài]. Bọn quỷ ăn xong hết [chân tay của ngài] rồi chùi miệng, bỏ đi. Ngài nhân đó sinh lo phiền, không thể biết được thân thể hiện còn là của ai, cho nên gọi là Giả Hòa Hợp.
[Về tên gọi] Thường Tác Thanh, là do nghi ngờ sự việc như thế, [thường suy nghĩ] nếu là thân của ta thì chính mắt đã thấy [quỷ] bẻ gãy [tay chân ăn mất rồi], còn nếu là thân [của xác chết] kia thì sao giờ [tay chân này] có thể theo ta cùng đi cùng đứng? Vì nghi hoặc do dự mãi như vậy nên mỗi khi gặp ai cũng đều hỏi: “Ông có nhìn thấy thân của tôi chăng?” [Thường hỏi như vậy] nên gọi là Thường Tác Thanh.
Chúng tăng [biết chuyện] nói: “Người này dễ độ.” Liền bảo ngài rằng: “Thân ông đó vốn là nhờ di thể của người khác mà có thôi, [không phải thật có.” Ngài nghe qua] liền chứng đạo. Đại lược là như vậy.
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói rằng: “Tỳ-kheo Ly-việt-đa là bậc nhất trong việc tọa thiền nhập định, tâm không đảo không loạn.”
Lược nói theo giáo nghĩa thì Tạng giáo cho rằng: “Chia chẻ phá trừ năm ấm, [thấy rõ] chẳng phải sở hữu của ta.”
Thông giáo giải thích rằng: “Thể đạt năm ấm vốn chẳng phải cái ta có.” Biệt giáo cho rằng, phân biệt mười pháp giới, trong đó năm ấm đều chẳng phải của ta.
Theo giải thích của Viên giáo thì đạt đến chỗ thấy được năm ấm không phải của ta, cũng không phải của người khác, đó là thấy được tướng thật của các ấm.
Hiểu theo bản tích thì bản vốn là đã trụ nơi Tam-muội Nhật Tinh Tú, tích là thị hiện có danh xưng như vậy.
Theo nghĩa quán tâm là quán tâm niệm Phật, thấy được chư Phật trong mười phương rất nhiều, như ban đêm thấy sao trên trời. Đại lược là như thế.
Tất-lăng-già-bà-sa
Tất-lăng-già-bà-sa (Pilindavatsa), Hán dịch là Dư Tập. Ngài vốn trải qua 500 đời sinh trong dòng bà-la-môn, tàn dư tập khí vẫn còn nên thường lộ vẻ cao ngạo. Một lần khi qua sông Hằng, ngài quát mắng [nữ thần sông Hằng]: “Con tiện tỳ, thôi đừng chảy nữa.” Nữ thần sông Hằng phải tách con sông chảy thành hai dòng [để tránh chỗ ngài đang đứng]. Sau đó, nữ thần sông Hằng đem chuyện này thưa lên Phật. Phật dạy ngài Tất-lăng-già-bà-sa phải sám hối tạ lỗi với thần sông. Ngài liền chắp tay nói với nữ thần sông Hằng: “Con tiện tỳ, thôi đừng giận nữa.” Đại chúng đều cười nhạo vì đã sám hối tạ lỗi mà hóa ra là mắng thêm lần nữa.
Đức Phật dạy: “Ông ấy thật không có tâm cao ngạo, chỉ vì tập khí gốc rễ vẫn còn nên biểu hiện ra như vậy mà thôi.”
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Tỳ-kheo Tất-lăng-già-bà-sa là bậc nhất trong việc ngồi thiền khổ nhọc dưới gốc cây, mưa gió cũng không tránh đi.”
Lược theo giáo nghĩa thì Tạng giáo nói rằng ngài đã dứt trừ sự kiêu mạn, không còn kiêu mạn. Theo Thông giáo thì nói rằng, chỗ kiêu mạn của ngài thật ra là không kiêu mạn. Biệt giáo thì giải thích rằng, ngài phân biệt được sự cao thấp trong mười pháp giới. Theo Viên giáo thì chân ngã đầy đủ tám tự tại, tức là đầy đủ Phật Pháp.
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn đã trụ nơi thường, lạc, ngã, tịnh, chân ngã bát tự tại, với Phạm âm vi diệu, tích là thị hiện tâm kiêu mạn, lời nói xấu ác.
Giải thích theo quán tâm thì quán chiếu thấy được những lời nói thô ác hay êm dịu ngọt ngào cũng đều quy về đệ nhất nghĩa (ý nghĩa chân thật rốt ráo). Đại lược là như vậy.
Bạc-câu-la
Bạc-câu-la (Bakkula), Hán dịch là Thiện Dung, hoặc Vĩ Hình, hoặc Đại Phì Thịnh, hoặc Nhu Nang, hoặc Lăng Đặng, hoặc Mại Tánh. Hình sắc diện mạo đoan chánh nên gọi tên là Thiện Dung. Suốt đời ngài không có bệnh, không chết yểu, sống đến 160 tuổi. Ngài được hưởng quả báo có năm điều bất tử, không thể chết. Người mẹ kế từng bỏ ngài vào nồi nung trên lửa, rồi nhận chìm trong nước, bị cá nuốt vào bụng, bị dao chặt, nhưng đều không chết. Do những kiếp trước ngài trì giới không sát sanh nên được như vậy, trong suốt 91 kiếp sống đều không bị chết yểu. Thuở xưa ngài từng cúng dường quả ha-lê-lặc cho một vị tăng làm thuốc trị bệnh, [nên được quả báo nhiều đời] thân thường không có bệnh.
[Về việc trì giới,] có thể giữ nghiêm một giới thì 4 giới khác đều được trang nghiêm. Kiên trì không phạm giới nên không bị lửa, nước làm hại. Những người khác tuy cũng trì năm giới nhưng hủy phạm nhiều lần [nên chẳng được kết quả như ngài]. Đại lược là như vậy.
Ngài ưa thích những nơi tịch tĩnh nên thường ở nơi vắng vẻ, không thích nơi đông người, mắt không ưa thích chạy đuổi theo các màu sắc, tai chẳng ưa nghe những âm thanh thế gian, mũi chẳng ưa thích ngửi những mùi thơm hay không thơm của thế gian, lưỡi chưa từng vì người khác mà nói ra dù chỉ một hai lời, ý thường trong thiền định, không tán loạn. Thậm chí tháp thờ xá-lợi của ngài cũng chọn nơi vắng vẻ an tịnh. Khi vua A-dục đi đảnh lễ tháp của các vị A-la-hán, đến tháp của ngài này liền nói kệ rằng:
Tự luyện trừ vô minh, Với đời ít lợi ích.
Rồi vua dâng cúng 20 đồng bạc.
Kinh Tăng Nhất A-hàm [kể lại chuyện này có khác biệt,] nói rằng: “Vua dâng cúng một đồng tiền, nhưng tiền ấy từ trong tháp bay trở ra, rơi trước chân vua. Các quan theo hầu đều kinh quái. Ngài ưa thích chỗ vắng vẻ, ít ham muốn, nên ngay cả tháp của Ngài cũng có thần lực như thế.”
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Thọ mạng hết sức lâu dài, rốt lại không hề chết yểu, thường ưa thích nơi vắng vẻ, chẳng ở chung trong chúng, xét những phẩm tính này thì ngài Bạc-câu-la là bậc nhất.”
Lược nói theo giáo nghĩa thì dứt sự huyên náo nhập vào chân thật là nghĩa tịch tĩnh của Tạng giáo; ngay nơi chỗ huyên náo cũng tức là chân thật, đó là nghĩa tịch tĩnh của Thông giáo; lìa khỏi hai bên [huyên náo và chân thật] nhập vào trung đạo là nghĩa tịch tĩnh của Biệt giáo; ngay nơi hai bên [huyên náo và chân thật] đó tức là trung đạo, đó là nghĩa tịch tĩnh của Viên giáo.
[Theo nghĩa bản tích thì] bản là vốn trụ nơi định Đại tịch diệt; sống lâu là thường, không có bệnh là lạc, không chết yểu là ngã, tịch tĩnh là tịnh. Bản là vốn sống trong bốn phẩm đức [thường, lạc, ngã, tịnh] này, tích là thị hiện ra sáu căn tịch tĩnh.
[Theo nghĩa] quán tâm thì tánh của tâm là trung đạo, ngay nơi không đó tức là giả, cũng tức là trung, đó là quán thường, lạc, ngã, tịnh.
Ma-ha-câu-hy-la
Ma-ha-câu-hy-la (Mahākauṣṭhila), [cũng gọi là Câu-hy-la,] Hán dịch là Đại Tất, là cậu của ngài Xá-lợi-phất. Thông thường mỗi khi tranh luận với chị mình thì ông đều thắng, nhưng khi người chị mang thai [ngài Xá-lợi-phất] thì ông không thắng được nữa, liền nghĩ rằng đứa trẻ còn trong thai mà [ảnh hưởng đến] biện tài [của mẹ] như vậy thì khi sinh ra [hẳn còn tài ba không biết đến dường nào? Vì sợ sau này tranh luận không thắng được người cháu này nên ông] tức thời rời khỏi nhà đi đến miền Nam Ấn Độ [để học hỏi thêm]. Khi ông [khởi sự] đọc 18 bộ kinh thì người thời bấy giờ đều cười nhạo, [nói rằng] nhiều kiếp còn khó thông suốt được [18 bộ kinh ấy, huống chi] một đời mà muốn học xong. Ông tự thấy vậy than rằng: “Khi ở nhà thì tranh luận đã phải thua chị, nay ra khỏi nhà thì bị người cười chê.” Từ đó ông thề chuyên tâm đọc sách không ngừng nghỉ, móng tay dài cũng không có thời gian rảnh để cắt, cho nên người đời gọi là Phạm chí Trường Trảo.
Sau khi học xong, ông trở về nhà hỏi về ngài Xá-lợi-phất thì mọi người nói đã theo làm đệ tử Phật. Ông liền khởi tâm kiêu mạn, nghĩ rằng: “Cháu ta khi mới 8 tuổi mà đã nổi danh khắp năm vùng Ấn Độ, sa-môn kia có đạo thuật gì mà dụ dỗ được con của chị ta?”
Ông liền đi đến chỗ Phật [nghe thuyết pháp], suy nghĩ hồi lâu nhưng trong tâm chẳng thâm nhập được bất cứ pháp nào, liền hỏi Phật: “Hết thảy các pháp đều không nhẫn. Vì nhẫn nghĩa là an ổn. [Nay Phật lại nói] rằng “hết thảy các pháp ta đều có thể phá trừ”, đó là làm cho không an ổn. Cho nên nói hết thảy các pháp đều không nhẫn.”
Đức Phật hỏi: “Ông nhìn thấy chỗ nhẫn đó hay không? [Lập luận như ông thì] hai đường đều sai. Nếu nói ‘tôi thấy chỗ nhẫn’ thì [mâu thuẫn với] trước đã nói ‘hết thảy các pháp đều không nhẫn’. Nếu nói ‘tôi thấy chỗ không nhẫn’ thì không có gì để hơn [lập luận của] Phật.”
Câu-hy-la liền cúi đầu [bái phục], ngay đó được pháp nhãn thanh tịnh. Ngài Xá-lợi-phất đứng hầu bên Phật được nghe Phật biện luận với cậu liền chứng quả A-la-hán.
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Đạt được bốn biện tài, gặp câu hỏi khó có thể trả lời, [những việc như vậy] thì Câu-hy-la là bậc nhất.”
Vị thiên vương ở phương nam là Tỳ-lưu-bặc-xoa thường hiện đến theo hầu cận ngài.
Lược nói theo giáo nghĩa thì Tạng giáo giải thích về bốn biện tài là về ngoại điển thông hiểu bốn bộ Vi-đà, về nội điển thông hiểu Tam tạng kinh điển. Theo Thông giáo thì [như trong kinh Duy-ma-cật, thiên nữ nói:] “Ta không có chỗ chứng đắc nên mới biện luận được như vậy.” Theo Biệt giáo thì biện tài là dù tên gọi hay ý nghĩa cũng đều biến khắp mười pháp giới. Theo Viên giáo thì biện tài là nương theo thật tướng trong tất cả biện luận.
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ nơi khẩu mật, khẩu luân, không thể nghĩ bàn, từ đó hóa thành đại định, đại trí tuệ, tích là thị hiện ra ngài Đại Tất, tức Câu-hy-la.
Theo nghĩa quán tâm thì quán ngay nơi tâm đó tức là không, tức là định, tức là giả, tức là tuệ, vốn đã trang nghiêm tự tâm. Đại lược là như vậy.
Nan-đà
Nan-đà, cũng gọi là Phóng Ngưu Nan-đà, Hán dịch là Thiện Hoan Hỷ, cũng dịch là Hân Lạc. Khi vua Tịnh Phạn ép buộc 100.000 người họ Thích xuất gia theo Phật thì ngài là một trong số đó. Có bậc thầy nói đây là tỳ-kheo Bạt-nan-đà được nói đến trong Luật tạng.
Lược nói theo giáo nghĩa thì Tạng giáo nói, [tên của ngài] là hoan hỷ về sự, không hoan hỷ về lý. Theo Thông giáo giải thích thì ngay nơi hoan hỷ về sự tức là hoan hỷ về lý. Theo Biệt giáo thì đó là Hoan hỷ địa. Theo Viên giáo là Hoan hỷ trụ.
Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi chân thật, chẳng phải vui cũng chẳng phải không vui, tích là thị hiện ra tên gọi Hoan Hỷ. Theo nghĩa quán tâm thì quán tâm với lý, hình tướng sẽ tự phù hợp theo, nên gọi là quán hoan hỷ.
Tôn-đà-la Nan-đà
Tôn-đà-la Nan-đà (Sundara-nanda), Hán dịch là Hảo Ái, cũng dịch là Đoan Chánh. Nan-đà thì ý nghĩa như trước đã nói. Về dòng họ thì giống như ngài A-na-luật, đã nói ở trước.
Ngài sinh vào ngày mồng 9 tháng 4. thân hình thấp hơn đức Phật bốn lóng tay, hình dung cử chỉ vượt trội hơn người, khác hẳn người thường. Mỗi khi ngài đi vào trong chúng, có người không biết lầm tưởng là đức Phật đến.
Trong bộ Luật Di-sa-tắc nói: “Ở nước Ma-kiệt-đà có một ngoại đạo lõa thể cực kỳ thông minh, người trong nước đều xưng là bậc trí tuệ, hiểu biết rộng. Ông cùng với ngài Xá-lợi-phất tranh luận, đuối lý không nói được gì nữa liền khởi sinh tâm lành, muốn xuất gia theo học Phật pháp. Lại gặp ngài [Tôn-đà-la] Nan-đà, thấy hình sắc dung mạo đẹp đẽ khác thường nên tấm tắc khen rằng: “Tỳ-kheo thấp bé [như Xá-lợi-phất] mà trí tuệ còn khó lường, huống hồ hình tướng uy nghi rực rỡ như vị này!” Ngài Nan-đà nhân đó liền độ cho xuất gia.
[Khi chưa xuất gia,] vợ ngài là cô Tôn-đà-lợi cực kỳ xinh đẹp, [hai vợ chồng] khi ăn khi nghỉ đều chẳng rời nhau. Một hôm đức Phật cùng ngài A-nan trên đường đi khất thực đến trước cửa nhà Nan-đà, gặp lúc ngài đang cùng vợ ngồi ăn trên lầu cao, liền đứng dậy đi ra trước cửa nghênh đón Phật. Người vợ nói: “Em đợi anh trở lại cùng ăn nhé!” Nan-đà ra đón, bạch Phật rằng: “Ngài là dòng tộc Chuyển Luân Vương, sao phải tự hạ mình [đi xin ăn].” Nói rồi cầm lấy bình bát của Phật đi vào lấy cơm. Ngay khi ấy đức Phật [không chờ lấy bình bát mà] quay trở lại vườn Ni-câu-loại, dặn ngài A-nan bảo Nan-đà phải mang bình bát đựng cơm đến chỗ Phật.
Ngài A-nan truyền lại lời Phật dạy, nên Nan-đà phải mang cơm đến dâng lên Phật. [Khi Nan-đà đến vườn Ni-câu-loại rồi,] Phật ra lệnh cạo tóc [cho Nan-đà]. Nan-đà cung nắm tay lại dọa người cạo tóc: “Chớ có chạm dao trên đỉnh đầu vua Diêm-phù-đề.” Đức Phật thúc giục không cho dừng lại, cuối cùng cũng cạo hết tóc.
Hôm sau, đức Phật cùng với 500 vị tỳ-kheo đi thọ thỉnh cúng dường, Nan-đà xin được ở lại tinh xá, có ý muốn nhân đó trốn về nhà. Đức Phật dạy phải đóng cửa quét đất cho sạch. Nan-đà đóng cửa phía nam thì cửa phía bắc tự nhiên mở, nên quét sạch chỗ này lại dơ chỗ kia, [quét mãi không xong], nhưng sợ [đến giờ] Phật quay về nên vội vã trốn chạy về nhà.
Giữa đường gặp Phật, ông liền trốn sau gốc cây, [đức Phật dùng thần lực làm cho] cây ấy bay lên không trung, không còn chỗ nấp. Phật nhìn thấy ông, liền bảo quay về tinh xá. Phật hỏi duyên cớ vì sao trốn về, Nan-đà đáp: “Hôm qua chia tay, vợ con vẫn còn chờ trở về để cùng ăn cơm. Nay con nhớ vợ quá nên muốn về.”
[Sau đó để hóa độ Nan-đà,] Phật đưa ông lên các cung trời và xuống các địa ngục... Đại lược là như vậy. [Do những việc trên] nên có nêu tên vợ trong tên của ngài.
Lược nói theo giáo nghĩa thì Tạng giáo cho rằng trong Tục đế còn có niềm vui đúng pháp, còn chân đế thì không có tâm vui mừng. Thông giáo nói: “Ngay nơi niềm vui thế tục đó cũng tức là niềm vui chân thật.” Theo Biệt giáo thì từ nơi pháp hỷ của Thông giáo mà có tục pháp hỷ, có trung pháp hỷ. Theo Viên giáo thì ngay nơi pháp hỷ của Thông giáo đã có đầy đủ hết thảy pháp hỷ.
Theo bản tích [thì giải thích] việc quán tâm cũng giống như phần trước. Đại lược là như vậy.
Phú-lâu-na
Phú-lâu-na (Pūrṇa), Hán dịch là Mãn Nguyện. Di-đa-la dịch là Từ, chữ ni [trong Phạn ngữ] là nữ [tính].
Cha ngài đến sông Mãn lập đàn cầu đảo với Phạm thiên để mong được sinh con, gặp ngay đúng lúc nước sông dâng đầy, lại mộng thấy vật chứa bằng bảy món báu đựng đầy châu báu bay vào lòng người mẹ. Rồi khi người mẹ mang thai ngài, bao nhiêu ý nguyện của người cha đều được thỏa mãn. Từ việc được toại nguyện như vậy nên đặt [tên con] là Mãn Nguyện.
Mẹ ngài tên là Di-đa-la-ni (Maitrāyaṇī), Hán dịch là Từ Hạnh, cũng dịch là Tri Thức. Trong bốn bộ Vệ-đà có một phẩm mang tên này, người mẹ thường tụng đọc nên lấy đó làm tên. Chữ ni [trong Phạn ngữ] để chỉ nữ tính, gọi chung những gì thuộc về nữ là “ni”, thuộc về nam là “na”. Do người mẹ tên Từ sinh ra nên gọi tên là Từ tử (con của bà Từ).
Kinh Tăng Nhất A-hàm [chép lại lời ngài nói]: “Cha tôi tên Mãn, mẹ tôi tên Từ, nên những người tu Phạm hạnh gọi tôi là Mãn Từ tử.” Đây là do cả hai duyên tên cha và tên mẹ hợp lại để thành tên, nên gọi là Mãn Từ tử.
Cha ngài thông hiểu kinh sách, cả nội điển, và ngoại điển, không có việc gì không rõ biết. Vì hiểu biết đầy đủ nên gọi tên là Mãn.
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Mãn Nguyện tử là bậc nhất trong việc khéo léo rộng thuyết phân biệt nghĩa lý.” Phần sau còn nói: “[Ngài là] bậc nhất trong những người thuyết pháp.” Bậc nhất ở đây là chỉ ngài Mãn Từ tử.
[Sau khi tu tập thành tựu, ngài] muốn trở về quê nhà để [giáo hóa] làm lợi ích [cho người dân].
Đức Phật hỏi: “[Người dân] xứ ấy tệ ác lắm, ông làm sao [giáo hóa]?”
Ngài đáp: “Con sẽ tu hạnh nhẫn nhục. Nếu họ hủy báng, nhục mạ thì con sẽ tự thấy mình may mắn vì không bị họ dùng tay đánh đấm. Nếu bị họ dùng tay đánh đấm, con sẽ thấy cũng còn may mắn vì chưa bị họ đánh bằng gậy gộc. Nếu bị họ đánh bằng gậy gộc, con sẽ thấy mình còn may mắn vì chưa bị họ dùng dao đâm chém. Nếu bị đâm chém thì con sẽ thấy mình may mắn vì lìa bỏ được [cái thân là] món đồ chứa đựng năm ấm độc hại.”
Như vậy là thực hành nhẫn nhục trọn vẹn, cho nên gọi tên ngài là Mãn.
Trong kinh Thất xa nói, ngài được Đại trí Xá-lợi-phất ngợi khen xưng tán rằng: “Những người tu Phạm hạnh thật nên gần gũi nương tựa, tôn kính lễ bái hiền giả. Được gặp hiền giả thật là lợi ích lớn lao.” Đó là xưng tán đầy đủ, cho nên gọi tên ngài là Mãn.
Lược nói theo giáo nghĩa thì Tạng giáo giải thích về “nguyện mãn” (hạnh nguyện viên mãn) là chuyên cần phân tích giáo pháp, mọi việc cần làm đều đã làm xong. Thông giáo thì cho rằng “nguyện mãn” là thấu đạt đến chỗ hết thảy các pháp đều không, ngay nơi pháp không đó được chứng đắc. Theo Biệt giáo thì “nguyện mãn” là đạt được Pháp nhãn đầy đủ. Theo Viên giáo thì “nguyện mãn” là trụ nơi tạng bí mật.
Giải thích theo bản tích thì bản nguyện vốn đã từ lâu trọn đủ, hình tích biểu hiện là thuyết pháp bậc nhất, thị hiện làm bậc tri thức của chúng sanh.
Theo nghĩa quán tâm thì như trong chỉ quán, quán người có hạnh và lý như nhau là bậc thiện tri thức.
Tu-bồ-đề
Tu-bồ-đề (Subhūti), Hán dịch là Không Sanh. Vào lúc ngài sinh ra thì trong nhà tất cả kho chứa, đồ đựng... đều tự nhiên trống rỗng không có gì. Người nhà hỏi thầy chiêm bốc thì được bảo rằng đó là điềm tốt. Nhân từ chỗ trống không mà sinh ra nên đặt tên là Không Sanh. Do nơi y báo hết thảy vật chứa đều hiện điềm lành rỗng không, nên lấy [không] gọi tên chánh báo. Y báo và chánh báo đều tốt lành, cho nên gọi là Không Sanh.
Ngài thường tu Không hạnh nên cũng gọi tên là Thiện Nghiệp. Những ai cúng dường cho ngài đều được quả báo tốt đẹp ngay trong hiện tại, nên gọi tên ngài là Thiện Cát.
Ngài thường ưa thích ở nơi rừng vắng, hang đá, những chỗ yên tĩnh vắng lặng. Chỗ tu hành của ngài lấy hạnh quán không làm căn bản, thường nhập Không định, trụ yên nơi Tam-muội Vô tránh. Ngài vui giảng thuyết pháp không, mỗi khi có chỗ tuyên thuyết biện luận đều phân biệt nghĩa không.
Ngài thường giúp đỡ, bảo hộ chúng sanh, không để khởi sinh sự ngăn ngại, như với người không ưa đi thì đứng, với người không ưa đứng thì đi, [luôn tùy thuận chúng sanh như vậy].
Khi Phật từ cung trời Đao-lợi vừa về lại cõi này, khắp nơi đông đảo mọi người đều tranh nhau đến đảnh lễ trước. Ngài ngồi yên trong hang đá, quán niệm các pháp đều không, [cho nên] hình sắc không phải Phật, [các ấm khác như thọ, tưởng, hành,] cho đến thức cũng không phải Phật; con mắt không phải Phật, [các căn khác như tai, mũi, lưỡi, thân] cho đến ý cũng không phải Phật. [Quán xét như vậy rồi liền] hốt nhiên chứng ngộ.
[Khi ấy,] đức Phật bảo Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc: “Con không phải là người đảnh lễ ta trước nhất. Con chỉ đảnh lễ được sắc thân ta, Tu-bồ-đề thì đã gặp được pháp thân của ta trước rồi.”
Lược nói theo giáo nghĩa thì tự diệt [sự bám chấp] hình sắc nên trí tuệ về tánh không sanh khởi, thấu hiểu về sắc nên trí tuệ về tánh không sanh khởi. Từ trí tuệ về hiện hữu khởi trí tuệ về tánh không. Từ trí tuệ về tánh không khởi sanh trí tuệ trong Tục đế. Từ trí tuệ Tục đế khởi sanh trí tuệ Trung đạo. Theo Viên giáo thì [nhận thức về] tánh không khởi sanh tức là có trí tuệ, là trí tuệ về tánh không khởi sanh, mà hiện nay là sự sinh khởi trí tuệ về tánh không theo nghĩa của Viên giáo. Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi tướng thật của pháp thân, tích là thị hiện thấy tất cả đều không mà sinh ra.
Theo nghĩa quán tâm thì [pháp thân] chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, chẳng phải ở giữa, cũng không tự hiện hữu. Đây là pháp thân theo nghĩa quán tâm.
A-nan
A-nan, Hán dịch là Hoan Hỷ, hoặc Vô Nhiễm. Vua Tịnh Phạn mong muốn thái tử [Tất-đạt-đa] làm bậc Kim Luân [Thánh Vương] cai trị đất nước, [nhưng thái tử] bỗng dưng từ bỏ [việc nối ngôi cai trị] đất nước, khiến cho đức vua đau buồn lo lắng khôn nguôi. [Khi ấy], ma hiện đến nói dối rằng “con của ông đã chết rồi”. Nhà vua khóc than rằng: “Lời nói của A-di không đúng, điềm lành cũng không ứng nghiệm.” Lúc đó lại có chư thiên hiện đến bảo rằng: “Con của ngài đã thành Phật.” Nhà vua trong lòng nghi ngờ chưa tin, không bao lâu lại có tin báo: “Đêm qua đất trời chấn động, thái tử đã thành Phật.” Nhà vua hết sức vui mừng. [Bấy giờ], vua Bạch Phạn tâu rằng: “Hạ thần vừa sinh đứa con trai, gặp lúc cả nước đều vui mừng.” Nhân đó liền đặt tên là Hoan Hỷ. Đây là tên do cha mẹ đặt.
Ngài A-nan hình dung tướng mạo đoan chánh, ai gặp cũng thấy vui. [Sau khi xuất gia], Phật dạy phải đắp y che vai. [Chuyện kể rằng] có một cô gái dắt theo đứa trẻ đến giếng lấy nước, thấy ngài A-nan [đi ngang qua] thì nhìn theo chăm chăm không chớp mắt, không còn biết gì chung quanh, đến nỗi quấn sợi dây [kéo nước] vào cổ đứa trẻ [thay vì vào trục kéo nước].
Kinh Trung A-hàm nói rằng: “Bốn chúng khi được nghe ngài A-nan giảng thuyết, dù đông người hay ít người, tất cả đều vui thích. Trước khi muốn nêu câu hỏi gì thì cũng đều nở nụ cười tươi, khiến cho đại chúng thảy đều hoan hỷ. Bốn chúng cũng luôn hoan hỷ khi nhìn thấy ngài, dù trong lúc im lặng hay khi đi, đứng, nằm, ngồi hoặc những lúc sai khiến, phân xử, cũng như trong mọi hành vi, cử động.
Ngài A-nan sinh ngày mồng 8 tháng 4, cùng ngày Phật thành đạo, làm thị giả Phật được 25 năm. Theo đó suy ra, lúc đức Phật 55 tuổi, ngài A-nan 25 tuổi, Phật muốn tìm người làm thị giả, 500 vị tỳ-kheo đều thỉnh ngài A-nan làm như đã nói ở phần trước. [Cuối cùng] ngài A-nan thuận theo lời khuyên của đại chúng, 500 vị tỳ-kheo đều vui mừng.
Ngài Mục-kiền-liên đề đạt [lên với Phật] ba điều thỉnh nguyện của ngài A-nan. Phật dạy: “[A-nan] phòng ngừa trước sự ganh ghét [của người khác] nên xin được không nhận y cũ [của Như Lai], không cùng đi thọ thỉnh cúng dường với Như Lai. Lại vì muốn tự mình làm lợi ích [cho bốn chúng] nên xin được vào ra [chỗ của Phật] bất kỳ lúc nào.” Phật đồng ý cho phép [cả ba điều].
Phật lại nói: “A-nan vượt trội hơn các thị giả [của chư Phật] trong quá khứ. Các thị giả trong quá khứ nghe [Phật] thuyết rồi mới hiểu, ngày nay Phật còn chưa nói ra thì A-nan đã rõ ý Như Lai. Những việc nên làm hay không nên làm, [A-nan] đều rõ biết.” Cho nên đức Như Lai hoan hỷ đem Chánh pháp giao phó cho A-nan.
Bốn vị Thiên vương mỗi vị đều dâng cúng lên Phật một bình bát [bằng đá quý]. Phật để chồng tất cả lên rồi ấn xuống liền hóa thành một bình bát duy nhất có bốn đường gờ trên mép rõ ràng, nên bình bát này rất nặng. A-nan hoan hỷ mang [bình bát này theo hầu Phật] không nề mệt nhọc.
Trung A-hàm, quyển 7 nói rằng: “A-nan làm thị giả theo hầu Phật 25 năm, nghe qua 80.000 bài kệ đều tụng lại được không sót bài nào, không phải hỏi lại [Phật] một câu nào, luôn hoan hỷ gắng sức ghi nhớ.”
A-nan theo hầu Phật, vào các cung điện của vua chúa, chư thiên, long vương, nhìn thấy các cung nữ, thiên nữ, long nữ [cực kỳ xinh đẹp] mà tâm không hề nhiễm ô bám chấp, tuy chưa dứt hết được tư hoặc nhưng vẫn có thể [giữ tâm] không nhiễm ô bám chấp, nên hết thảy chư thiên, loài người, loài rồng, thần [được gặp ngài] đều hoan hỷ.
Sau khi đức Phật diệt độ trên giường sư tử, ngài Ca-diếp và đại chúng xưng tán rằng:
Mặt như trăng tròn đẹp, Mắt như hoa sen xanh. Phật pháp như biển lớn, Chảy vào tâm A-nan.
Ngài tự thệ nguyện sẽ ngồi mà nhập Niết-bàn. [Vào lúc ngài sắp nhập Niết-bàn,] dừng lại thì sợ người Ly-xa oán hận, đi tới nữa thì sợ vua A-xà-thế oán hận, ngài liền ở giữa sông Hằng nhập Tam-muội Phong phấn tấn, [tự thiêu thân] rồi phân chia [xá-lợi] thành bốn phần, một phần cho chư thiên, một phần cho long cung, một phần cho nước Tỳ-xá-ly và một phần cho vua A-xà-thế.
Khi vua A-dục lễ tháp [thờ xá-lợi] của ngài A-nan, dâng cúng ngàn vạn lượng vàng và đọc kệ xưng tán rằng:
Pháp thân nhờ ngài được giữ gìn, Đèn pháp thắp sáng, pháp trụ thế. Ghi nhớ lời Phật như biển lớn, Nên con nay thiết lễ cúng dường. Nghe nhiều, ghi nhớ và gìn giữ, Nên miệng nói ra lời vi diệu. Thế Tôn từng ngợi khen, tán thán. Trời, người hai cõi đều kính yêu.
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói:
Biết thời điểm thích hợp, Sáng suốt hiểu sự vật, Đường tu không nghi ngại, Chỗ ghi nhớ không quên, Nghe nhiều thấu hiểu rộng, Kính vâng giữ Chánh pháp, A-nan là bậc nhất.
Lược nói theo giáo nghĩa thì Tạng giáo gọi là A-nan Hoan Hỷ, Thông giáo gọi là A-nan [Hoan Hỷ] Hiền, Biệt giáo gọi là A-nan Điển Tạng, Viên giáo gọi là A-nan [Hoan Hỷ] Hải.
Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi chỗ chẳng phải hoan hỷ, chẳng phải không hoan hỷ, Pháp thân vốn như hư không, trí tuệ như mây mưa [giữa hư không], có thể giữ gìn, có thể thọ nhận, còn tích là thị hiện ra [ngài A-nan] Hoan Hỷ.
Theo nghĩa quán tâm cũng tương tợ, ngay nơi không tức là giả, tức là Trung đạo, thảy đều tương ưng. Đó là hoan hỷ theo nghĩa quán tâm, cho đến quán chân thật cũng tương ưng.
La-hầu-la
La-hầu-la (Rāhula), Hán dịch là Phú Chướng. Do thuở xưa lấp hang chuột, lại [có nơi nói là do khi làm vua,] trong sáu ngày không thăm viếng cúng dường một [tiên nhân] bà-la-môn, [khiến vị ấy phải chịu đói khát nên chịu quả báo phải ở trong thai mẹ sáu năm]. Do duyên cớ như vậy nên gọi là Phú Chướng.
Khi thái tử [Tất-đạt-đa] xin được xuất gia, vua cha không cho phép, ngài vẫn theo nài nỉ không thôi. Vua [Tịnh Phạn] nói: “Nếu có con sẽ cho phép xuất gia. Bồ Tát [thái tử] liền chỉ vào bụng vương phi [Da-du-đà-la] và nói: “Sáu năm nữa nàng sẽ sanh một đứa con trai.” Vì ở trong thai mẹ sáu năm nên gọi là Phú Chướng.
Ngài Chân Đế Tam Tạng nói: “La-hầu vốn tên là Tu-la, [loài a-tu-la] có thể dùng tay che ánh sáng mặt trời, mặt trăng, lẽ ra nên dịch là Chướng [Nhật] Nguyệt.”
Phật nói: “Pháp của ta như mặt trăng, đứa bé này gây chướng ngại việc xuất gia của ta. Nhiều đời gây chướng ngại, ta nhiều đời đều có thể xả bỏ, nên gọi tên là Phú Chướng.”
Sau khi Phật xuất gia, [sáu năm sau mọi người mới biết] Da-du-đà-la có thai. Người trong họ Thích đều tức giận, [nghi ngờ không biết] do đâu mà có đứa con này? Kẻ muốn trừng trị, người muốn giết bỏ, tiếng xấu lan truyền khắp nơi. Người bảo nữ là Cù-tỳ-la đứng ra làm chứng nhưng cũng không thay đổi được gì. Do vậy, [mọi người] liền đốt một hầm lửa [để chuẩn bị ném Da-du-đà-la vào. Khi ấy, Da-du-đà-la] liền phát lời thệ nguyện lớn: “Nếu tôi có gì sai trái thì xin mẹ con đều chết, còn nếu như [đứa con này] đúng thật là [của thái tử để lại] thì xin trời chứng giám.” Nói rồi ôm con nhảy vào hầm lửa, hầm lửa lập tức biến thành hồ sen, có hoa sen nâng đỡ cả hai mẹ con nàng. [Khi ấy,] vua [Tịnh Phạn] và người dân trong nước mới không còn nghi ngờ.
Về sau, khi Đức Phật trở lại quê hương, Da-du-đà-la sai La-hầu-la dâng loại thuốc viên hoan hỷ lên Phật. La-hầu-la vì nhỏ tuổi chưa hiểu biết nên băng ngang trước mặt đại chúng đi thẳng đến chỗ Phật dâng lên. Da-du-đà-la nhân đó dứt sự chê bai. Bị chê bai vì có con nên mới gọi tên con là Phú Chướng.
Vua [Tịnh Phạn khi ấy] hoan hỷ, tuy mất đứa con [không nối ngôi vua] nhưng nay lại được đứa cháu này sẽ là bậc Kim Luân [Thánh vương], nên chẳng có gì buồn giận. Trong lòng vua suy nghĩ khi cháu lớn lên kỳ vọng sẽ có các món báu hiện đến.
Nhưng rồi đức Phật xin cho La-hầu-la xuất gia. Vua Tịnh Phạn không đồng ý. Da-du-đà-la vội dắt La-hầu-la [đi tránh] lên lầu cao, ngài Mục-kiền-liên bay lên hư không đón xuống. Phật liền độ La-hầu-la xuất gia và giao cho ngài Xá-lợi-phất nhận làm đệ tử. Đã xuất gia rồi thì ngôi vua cũng mất, cho nên nói là Phú Chướng.
La-hầu-la ở độ tuổi sa-di nhiều lần thích nói dối. Khi có vua chúa, đại thần, bà-la-môn, cư sĩ đến xin gặp Phật thì La-hầu-la nói dối là Phật đi vắng, khiến cho rất nhiều người không được gặp Phật. Đó là gây chướng ngại cho người khác, lại phạm tội nói dối. Đức Phật liền quở trách. [Một hôm] Phật đi về, sai La-hầu-la lấy nước rửa chân. Phật dùng chân hất chậu đựng nước úp lại rồi ngửa ra, ba lần như vậy, sau đó lại úp chậu xuống đất và bảo La-hầu-la rót nước vào. La-hầu-la thưa: “Chậu úp, rót nước vào không thể giữ lại.” Phật dạy: “Con [thường nói dối nên] cũng giống như cái chậu úp này, ở trong Phật pháp nhưng nước Pháp rót vào không thể giữ lại. Nay con phải nói lời chân thật, đừng nói dối nữa.”
Sau đó, [La-hầu-la] nỗ lực chuyên cần tu tập nhưng không chứng quả, liền thưa hỏi Phật. Phật hỏi: “Con đã vì người khác giảng thuyết về năm ấm hay chưa?” La-hầu-la đáp: “Dạ chưa.” Phật dạy: “Nên vì người khác thuyết giảng như vậy.”
[La-hầu-la theo lời dạy] thuyết pháp rồi [vẫn chưa chứng quả,] lại đến thưa hỏi. Phật dạy: “Con đã thuyết giảng về mười hai nhập hay chưa? Đã thuyết giảng về mười tám giới hay chưa? Thuyết pháp là pháp môn để chứng đắc đạo quả, nếu muốn chứng đắc đạo quả thì nên vì người khác thuyết pháp.”
Vì ngài [La-hầu-la] rộng thuyết giáo pháp rồi sau đó mới [tự mình] đắc đạo, nên gọi là Phú Chướng.
Sau khi chứng đắc đạo quả rồi liền dứt trừ hết thảy kiến phiền não và ái phiền não. Chấm dứt sự tái sanh trong ba cõi nên gọi là Phú Chướng. Do đã dứt sự tái sanh trong ba cõi, dù nguyện lực cũng không thể lôi kéo nên gọi là Phú Chướng.
Đức Phật khuyên bốn vị Đại A-la-hán không nên diệt độ sớm, hãy đợi đến khi nào Phật pháp đã dứt mất. Do vậy ngài La-hầu-la vẫn còn ở lại duy trì Chánh pháp, cho đến nay vẫn chưa vào Niết-bàn vô dư, cho nên nói là Phú Chướng. Đại lược là như vậy.
Lược nói theo giáo nghĩa thì Tạng giáo cho rằng, phân tích suy xét giáo pháp đạo đế nên ngăn trở được bốn trụ địa. Theo Thông giáo thì thể nhập, thấu hiểu giáo pháp đạo đế nên ngăn trở được bốn trụ địa. Theo Biệt giáo thì tuần tự tu tập chứng đắc ba trí nên ngăn trở được năm trụ địa. Theo Viên giáo thì “nhất tâm tam trí”, tức trong một tâm đồng thời chứng đắc cả ba trí nên ngăn trở được năm trụ địa.
Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi trung đạo ngăn lấp cả hai bên, [tích là thị hiện có mười ngăn chướng], tám loại chướng ngăn trở Niết-bàn, một loại ngăn trở [khiến phải đi vào] sanh tử, một loại không ngăn sanh tử, không ngăn Niết-bàn, mà ngăn [nhập] Vô dư [Niết-bàn].
Về ý nghĩa quán tâm thì có thể giải thích như trước. Đại lược là như vậy.
6. Kết lại
KINH VĂN
Các vị đại A-la-hán được nhiều người biết đến như vậy.
Những vị như nêu trên được tôn xưng là “chúng sở tri thức - 眾所知識”, nghĩa là mọi người đều biết đến. Hoặc có người nói “tri” cũng là “thức”, hoặc có người nói nghe danh là “tri”, được gặp gỡ, nhìn thấy gọi là “thức”, hoặc nói nhìn thấy hình thể là “tri”, rõ biết trong tâm là “thức”.
Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn đã vì chúng sanh làm bậc tri thức rốt ráo, tích [là phương tiện] thị hiện làm bậc tri thức quyền thừa. Đại lược là như vậy.
Tri thức quán hạnh thì giống như trong chỉ quán.
Phần trên đã nói về [các vị Thanh văn] được nhiều người biết đến. Tiếp theo sẽ nói về những vị được ít người biết đến.
KINH VĂN
Lại có các vị hữu học, vô học đến 2.000 người.
Những vị tỳ-kheo ít người biết đến
Kinh văn nói: “Lại có các vị hữu học và vô học, cả thảy hai ngàn người.” Ở đây chỉ nêu giai vị và nói rõ số lượng, nhưng không xưng tán đức hạnh [như trước], nên gọi những vị này là [những tỳ-kheo] ít người biết đến.
[Phàm tăng không hiểu được thánh tăng] nên thánh và phàm không lẫn lộn nhau, cũng không phân biệt nhiều người biết đến hay ít người biết đến. [Tuy nhiên,] chỉ riêng vì những kẻ ngưỡng cầu bậc đức độ cao xa nên nêu những vị nhiều người biết đến để dẫn dắt, còn đối với những người ưa chuộng lui về giấu tên ẩn đức thì nêu ra các vị ít người biết đến để dẫn dắt. Vì tùy thuận chúng sanh nên có số lượng nhiều ít, không thể vì hình tích thị hiện có nhiều hoặc ít người biết đến mà để mất đi ý nghĩa căn bản.
Giải thích về học và vô học
Trong Tạng giáo có mười tám bậc hữu học và chín bậc vô học. Năm giai vị đầu của Thông giáo đều gọi là hữu học, từ địa vị thứ sáu gọi là vô học. Lại có thể nói chín địa vị của Thông giáo đều là hữu học, Phật địa là vô học.
Trong Biệt giáo và Viên giáo thì phân biệt hữu học và vô học dựa vào yếu tố công dụng hay vô công dụng, hoặc xét theo cụ túc hay chưa cụ túc.
Kinh A-hàm kể rằng: “Ngoại đạo hỏi Phật rằng: ‘A-la-hán còn học nữa chăng?’ Phật nói: ‘A-la-hán không còn làm các việc ác, an trụ nơi các pháp lành. Học sự vô học đó nên gọi là học. Nếu người nào học được như vậy cũng gọi là vô học. Người học tức là tu tập những chỗ phải dứt trừ, nếu không còn gì để dứt trừ gọi là vô học.’”
Như trên là bốn cách phân biệt [học và vô học]. Lại theo Ngũ phương tiện thì không phải học, không phải vô học, là cách phân biệt thứ năm.
Theo trong bốn giáo nghĩa [Tạng, Thông, Biệt, Viên] thì ước lệ cũng như nhau, nên lấy 4 nhân cho 5 cách, thành 20 cách phân biệt [học và vô học].
Giải thích theo bản tích thì bản vốn đã là bậc pháp thân đại sĩ, thường ở nơi địa vị học và vô học rốt ráo, [tích là vì] chúng sanh [nên thị hiện] những người hữu học và vô học trang nghiêm nơi rừng sa-la song thụ.
Theo nghĩa [quán tâm] thì chánh quán là trung đạo, chẳng duyên theo hai bên, khoảng giữa, tức là vô học. Có thể quán như thế gọi là học.
Nếu theo pháp quán để làm rõ số thì quán sắc và tâm có đủ trong 10 pháp giới và 10 như thị. Giới và như hỗ tương qua lại, [với sắc và tâm] tức là đủ số 2.000.
Nêu hình tích tức làm rõ bản, là gốc của pháp, cho nên tích đó là bản tích.
Phần tiếp theo nói về ni chúng.
KINH VĂN
Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với quyến thuộc 6.000 người cùng đến. Mẹ của La-hầu-la là tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la cũng cùng đến với quyến thuộc.
B. Chúng tỳ-kheo ni
Theo Cựu giải thì y lệ phân chia như trước, nghĩa là chia thành hai chúng, nay không dùng cách đó. Nếu theo ước lệ như trước thì chia ra các vị được nhiều người biết đến và các vị ít người biết đến, nhưng phần này lại không có câu văn [“chúng sở tri thức” ở cuối] nên không thể dựa theo văn nghĩa để phân chia được. Do vậy chỉ nêu ra hai vị chủ trì của chúng [tỳ-kheo-ni,] đâu cần phải nhọc sức phân chia lớn nhỏ hay nhiều hoặc ít [người biết đến].
Ma-ha Ba-xà-ba-đề
[Kinh văn] trước tiên kể ra [tỳ-kheo-ni Ma-ha] Ba-xà-ba-đề (Mahāpajāpatī), Hán dịch là Đại Ái Đạo, cũng có tên là Kiều-đàm-di (Gautamī), Hán dịch là Chúng Chủ. Chữ “ni” [như trong tỳ-kheo-ni] theo Phạn ngữ là chỉ chung cho nữ tính.
[Theo bản tích thì] bản là vốn trụ nơi pháp môn Bát-nhã ba-la-mật (Trí độ), tích là [thị hiện] làm mẹ của 1.000 vị Phật, nuôi dưỡng bậc đạo sư.
Theo quán tâm giải thích [tên gọi này] thì quán trung đạo rộng khắp nên gọi là Đại, tâm từ không có điều kiện (vô duyên từ) nên gọi là Ái, lý trung đạo rỗng không thông suốt nên gọi là Đạo.
Đại là nói về công hạnh của tự thân, Ái là nói việc giáo hóa người khác. Như dùng ái mà thọ sanh, khởi lòng từ nên thiệp nhập với đạo, như vậy thông suốt ý nghĩa “tự hành hóa tha” (dùng công hạnh của chính mình để giáo hóa người khác).
[Kinh nói] 6.000 là số lượng. Theo quán môn thì quán sáu căn thanh tịnh, [mỗi căn] đầy đủ 1.000 công đức. Tuy nói riêng mắt có 800 công đức, tai có 1.200 công đức, nhưng lấy số nhiều bù vào số ít nên tính trọn tất cả thành 6.000, để nêu căn bản của pháp môn. Đây cũng là cách giải thích của quán hành.
Da-du-đà-la
“Mẹ của La-hầu-la là bà Da-du-đà-la.” Đây là nêu tên con để nói về mẹ. [Da-du-đà-la (Yaśodharā)], Hán dịch là Hoa Sắc, cũng dịch là Danh Văn, hoặc cho là không dịch được. Bà là người ôn hòa hiền thục, biết cung kính cần kiệm, đức hạnh sánh cùng thái tử. Khi còn tại gia là vợ của Bồ Tát, trời người đều biết, khi xuất gia là bậc đứng đầu Ni chúng, đạt địa vị vô học. Cho nên đâu lẽ nào nói chúng tỳ-kheo-ni này là không có danh tiếng?
Trong kinh Thập nhị du kể rằng thái tử có ba người vợ. Phu nhân thứ nhất là Cù-di, phu nhân thứ hai là Da-du và phu nhân thứ ba là Lộc-dã. Kinh Vị tằng hữu và kinh Thụy ứng đều nói La-hầu-la là con của Cù-di. Kinh Niết-bàn và kinh Pháp Hoa đều nói [La-hầu-la] là con của Da-du-đà-la. Hai nghĩa khác biệt làm sao giải thích thông suốt? Hoặc có thể những kinh [Vị tằng hữu và Thụy ứng] nói [Cù-di] là đại mẫu, còn [kinh Pháp Hoa và kinh Niết-bàn] nói [Da-du-đà-la] là nói người sinh ra.
Thích luận nói Cù-tỳ-đà là bảo nữ không mang thai, cũng chính là Cù-di, Hán dịch là Minh Nữ, cho nên biết chắc [La-hầu-la] là con của Da-du-đà-la.
Giải thích theo bản tích thì người vợ tất nhiên phải sánh bằng, lẽ đâu lại có người phàm phu làm vợ thái tử? Cho nên biết rằng bản là [Da-du-đà-la] vốn trụ nơi thiền định vắng lặng, được pháp hỷ vi diệu, tích là thị hiện làm vợ của thái tử.
Kinh Bi Hoa nói rằng: “[Da-du-đà-la] khi ở chỗ đức Phật Bảo Tạng có lời thệ nguyện làm vợ [thái tử].”
[Giải thích theo quán tâm thì] quán không, được pháp hỷ vô lậu nên nêu Lộc-dã là vợ [thái tử], quán giả, được pháp hỷ đạo chủng trí nên nêu Da-du-đà-la là vợ [thái tử], quán trung [đạo], được pháp hỷ nên nêu Cù-di làm vợ [thái tử].
Bồ Tát thị hiện Thanh văn
Phần trên đã nói rõ về [cách giải thích theo] bản tích và quán tâm, bây giờ sẽ đi vào tổng luận, nêu rõ phương tiện khéo léo quyền biến khúc chiết, làm sáng tỏ quán hành tinh vi. Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm có đủ các hình thức thị hiện, để phù hợp với từng căn tánh nên không một việc gì không làm được. Nay lấy nghĩa thô mà luận thì thác sanh vào chốn vương cung, giáng thần làm thánh hậu. Chư Bồ Tát hiện pháp thân đều là để phụ giúp việc hành hóa của Phật, do vậy mà hóa hiện khắp nơi.
Khi [đức Phật] ứng hiện đản sinh với 32 tướng tốt đoan nghiêm, các bậc đại sĩ mỗi vị cũng đều theo đó [thị hiện] xuất sinh, hoặc [hiện điềm] nhà cửa trống không, mưa xuống châu báu, biện tài thể hiện qua [người mẹ], hoặc báo tin trong giấc mộng...
Khi đấng thái tử đường đường vất bỏ ngôi vua, bỏ quyền trị nước, ra khỏi thành đi học đạo, các bậc đại sĩ tất nhiên cũng đều theo đó [thị hiện] tầm sư học đạo, thể hiện tài năng xuất chúng, mỗi vị đều trở thành người đứng đầu của giáo phái [mình theo học].
Khi [đức Phật] chuyển pháp luân lần đầu, cửa pháp cam lồ vừa mở, nghe biết các bậc đại sĩ cơ duyên giáo hóa chưa thuần thục, liền thị hiện cùng không chịu quy phục, mỗi vị đều giữ lấy đạo riêng của mình cho là chân thật. [Vào lúc ấy], người giáo hóa với kẻ được giáo hóa đều giữ nguyên phẩm tính ban đầu như sữa.
Khi nhân duyên của người được giáo hóa đã thuần thục liền giống như tơ trắng dễ nhuộm, như hoa trong hồ sớm nở, bỏ phàm thành thánh, chuyển sữa thành lạc, bậc thầy các tông phái đều trở thành đệ tử thượng thủ của đức Phật, hoặc trí tuệ, hoặc thần thông, hoặc biện tài tam-muội, mỗi môn đều có một vị đứng đầu, cùng trợ lực với đấng Pháp vương để độ người chưa được độ, giúp cho những ai đã thuần thục lại càng thuần thục hơn nữa.
Trong pháp hội Phương đẳng, được nghe những công đức không thể nghĩ bàn của hàng Bồ Tát, [các ngài lại thị hiện] hổ thẹn [với khuynh hướng] Tiểu thừa mà ngưỡng mộ Đại thừa. Hổ thẹn [với khuynh hướng] Tiểu thừa nên buồn than tự trách đã để mất đi tri kiến vô lượng của Như Lai. Ngưỡng mộ Đại thừa lại không biết phải làm sao để được trí tuệ vô thượng của Phật. [Giai đoạn thị hiện này] giống như chuyển sữa đặc (lạc) thành bơ sống (sanh tô).
Tiếp theo được nghe pháp môn Đại thừa Bát-nhã, đầu tiên học qua sắc pháp, tâm pháp, cho đến cuối cùng [học về Nhất thiết] chủng trí, bao gồm [hết thảy muôn pháp] lớn nhỏ, trong tâm ngoài cảnh, nắm giữ buông xả, hoặc chung hoặc riêng, hoặc thiên lệch hoặc tròn đầy. Tuy vâng lời Phật dạy lắng nghe rõ biết nhưng không hề mong đợi tự mình có được trí tuệ như vậy. Tuy chưa tức thời buông xả nhưng đã dần dần hiểu biết thông suốt rộng khắp. [Giai đoạn thị hiện này] giống như chuyển từ bơ sống (sanh tô) thành bơ chín (thục tô).
Tiếp đến được nghe giáo nghĩa Pháp Hoa, thể hội tự tánh thiên chân, biết chắc được rằng chư Phật như cha, Bồ Tát như con, được Phật thọ ký, giao phó giáo pháp Đại Thừa, từ bỏ phương tiện quyền thừa, thấu suốt ba thừa thành một, giống như [từ sữa đã thành sữa đặc, sinh tô, thục tô, giờ đây] bốn vị ấy chỉ còn đồng nhất một vị đề hồ. Chẳng riêng một người diệt độ mà làm cho tất cả [chúng sanh] cùng được diệt độ giống như Như Lai.
Các bậc [đại sĩ là] bề tôi trong giáo pháp của đấng Pháp Vương, vì đại sự [nhân duyên giáo hóa chúng sanh] mà ra đời, khéo dùng phương tiện. Ban đầu dùng pháp quyền thừa, phá trừ [sự bám chấp vào] 25 cõi [hiện hữu] đầy phiền nhiễu, thành tựu các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã để làm lợi ích hết thảy chúng sanh. Tiếp theo vận dụng một phần giáo pháp rốt ráo, phá trừ khuynh hướng nhỏ hẹp của Nhị thừa, chuyển thành tâm nguyện rộng lớn của hàng Bồ Tát, thành tựu các pháp thường, lạc, ngã, tịnh, làm lợi ích hàng thánh nhân. Cuối cùng mới vận dụng giáo pháp thường trụ viên mãn, phá trừ các pháp trước sau, thiên lệch hai bên, thành tạng pháp bí mật của chư Phật, chẳng phải bên này, chẳng phải bên kia, chân thật lợi ích rốt ráo.
Khi đấng Pháp vương đã hoàn tất sự giáo hóa chúng sanh, thệ nguyện lớn lao đã trọn thành, cho nên các ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên ngay sau hội Pháp Hoa liền nhập diệt. Bậc Đại Thánh cũng không còn ở đời bao lâu. Cho nên nói rằng:
Thệ nguyện xưa của ta, Nay thành tựu trọn vẹn. Như Lai chẳng bao lâu, Cũng sẽ vào Niết Bàn.
Việc đọc kệ trước khi nhập diệt là khởi đầu từ đó.
[Kinh nói] 20.000 vị Phật [đồng hiệu Nhật Nguyệt] Đăng Minh cũng như Phật Ca-diếp đều lấy kinh Pháp Hoa này làm cứu cánh. Vì hết thảy [thành tựu của] thầy trò các vị đều do nơi kinh này mà ra, nên ngày nay [cùng nhau thị hiện], bên trong ẩn giấu đạo Bồ Tát, bên ngoài hiện làm các vị Thanh Văn. [Như lời Phật nói:] “Ta thành Phật thật ra đến nay đã trải qua vô lượng ức kiếp.” Do câu này mà suy ra thì biết, các vị Đại A-la-hán [trong pháp hội này vốn] từ nơi pháp thân mà biến hiện tùy duyên như nước chảy muôn dòng, hoặc làm bậc hữu học, vô học, hoặc hiện thành kẻ nam người nữ, hoặc làm người xuất gia hay kẻ tại gia, dùng sức [đại định] Thủ-lăng-nghiêm nên không một hình tướng nào mà không thị hiện. Phương tiện khéo léo quyền xảo làm những điều như vậy. Đại lược là như thế.
Giải thích tổng quát theo quán tâm thì các bậc đại sĩ từ nơi pháp thân ứng hiện thi hành sự giáo hóa như trên, nếu không quán chiếu về [ý nghĩa] phương tiện thì [những việc ấy] đối với người tu hành không có lợi ích, chẳng khác nào người nghèo đếm châu báu [của người khác], hoặc như người mù cầm đuốc [soi đường].
Thế nhưng các tâm sở rất nhiều nên chỉ tạm lược nói những tâm sở thiện, cũng như đệ tử Phật rất đông nhưng chỉ nêu ra mười vị. Mười tâm sở thiện là: tín, tấn, niệm, định, tuệ, hỷ, xả, ỷ, giác, giới. Mười tâm sở thiện này trợ giúp tâm vương có thể tu sửa điều ác, hướng về điều thiện, chuyển phàm thành thánh. Hết thảy các pháp môn đều lấy mười tâm này làm căn bản, cũng giống như mười đại đệ tử trợ giúp đức Phật hành hóa, giáo hóa thuần thục chúng sanh, xây dựng Phật pháp.
- Tín (lòng tin): Tâm sở này ví như ngài A-na-luật với thiên nhãn bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Mắt là đứng đầu trong năm căn, cũng như phương đông là trên hết trong các phương hướng. Lòng tin là một trong những tâm sở ban đầu khi mới đến với Phật pháp.
- Tấn (tinh tấn): Tâm sở này ví như ngài Ca-diếp với hạnh đầu đà bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Hạnh đầu đà tinh tấn chuyên cần chấp nhận khổ nhọc là so với tâm sở tấn vậy.
- Niệm (ghi nhớ): Tâm sở này ví như ngài Ưu-ba-ly là vị trì luật bậc nhất [trong các đệ tử Phật], có sức ghi nhớ thật mạnh mẽ, [những điều đã học] luôn ghi nhớ không quên.
- Định (an định): Tâm sở này ví như ngài Mục-kiền-liên là vị thần thông bậc nhất [trong các đệ tử Phật].
- Tuệ (trí tuệ): Tâm sở này ví như ngài Xá-lợi-phất, là vị trí tuệ bậc nhất [trong các đệ tử Phật], [đối với hết thảy các pháp] đều có thể hiểu rõ.
- Hỷ (vui mừng, hoan hỷ): Tâm sở này ví như ngài A-nan, là vị đa văn bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Đa văn phân biệt các niềm vui, vui ấy chính là tâm sở hỷ.
- Ỷ (dựa vào, nương theo): Tâm sở này ví như ngài Ca-chiên-diên, biện luận thể nhập đến mức tận cùng nhỏ nhiệm, lý lẽ thông suốt, dùng lý luận để phá trừ tà kiến, hiển dương chánh đạo, như nương theo việc bỏ ác tu thiện, [nhân đó] lìa khổ được vui.
- Xả (buông xả): Tâm sở này ví như ngài Tu-bồ-đề, là vị thấu hiểu nghĩa không bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Khi trụ yên nơi sự bình đẳng của tánh không thì tương ưng với tâm sở xả.
- Giác (rõ biết): Tâm sở này ví như ngài Phú-lâu-na, là vị thuyết pháp bậc nhất [trong các đệ tử Phật]. Sự hiểu biết rõ ràng là căn bản của lời nói, nên khi thiết lập được căn bản rồi thì có khả năng biện thuyết không cùng tận.
- Giới (nghiêm trì giới luật): Tâm sở này là ví như ngài La-hầu-la, là vị giữ giới bậc nhất [trong các đệ tử Phật].
[Như vậy] có thể hiểu rõ, mười tâm sở thiện [nêu trên] giúp tâm vương có thể thành tựu quán hạnh, chỉ trong một niệm tưởng vào sâu pháp lành, đầy đủ Tam bảo. Tâm vương là Phật bảo, tâm sở là Tăng bảo, chỗ duyên theo trong thực tiễn không thuộc tâm vương, không thuộc tâm sở, đó là Pháp bảo. Khi thâm nhập thực tiễn thì công năng, sức mạnh của tâm vương và tâm sở sẽ được phát huy đầy đủ.
Lại nếu giải thích theo mười thông đại địa tâm sở cùng sinh khởi với tâm vương thì có thể kết hợp với bất kỳ pháp thiện hoặc pháp bất thiện, biến thông khắp cả. Các thông tâm sở đó là: tưởng, dục, xúc, tuệ, niệm, tư, giải thoát, ức, định, thọ.
- Tưởng (suy tưởng): Tâm sở này ví như ngài Phú-lâu-na. Do tưởng mà thấu đạt các danh xưng giả tạm. Ngài Phú-lâu-na khéo thấu đạt được hết thảy các danh xưng giả tạm nên có biện tài không ngăn ngại.
- Dục (mong cầu): Tâm sở này ví như ngài Ca-diếp, không có những mong cầu đối với các pháp thế gian mà chỉ mong cầu đối với các pháp vô vi.
- Xúc (xúc chạm): Tâm sở này ví như ngài Ca-chiên-diên. Xúc và nhập là hai pháp rốt cùng thiệp nhập vào nhau. Ca-chiên-diên giỏi luận nghị, ý nghĩa đưa ra rốt cùng đều có thể hỗ tương qua lại.
- Tuệ (trí tuệ): Tâm sở này ví như ngài Xá-lợi-phất, đối với hết thảy các pháp đều có thể hiểu rõ.
- Niệm (ghi nhớ): Tâm sở này ví như ngài Ưu-ba-ly, là vị đệ tử ghi nhớ giới luật hơn hết.
- Tư (tư duy): Tâm sở này ví như ngài La-hầu-la. Tư duy là thuộc về hành ấm. Ngài La-hầu-la là vị đệ tử thực hành trì giới hơn hết.
- Giải thoát (không trói buộc): Tâm sở này ví như ngài Tu-bồ-đề. Thoát có nghĩa là không bị trói buộc. Ngài Tu-bồ-đề thấu hiểu nghĩa “không” nên ở trong cảnh giới “có” mà vẫn được giải thoát, không trói buộc.
- Ức (nhớ nghĩ): Tâm sở này ví như ngài A-na-luật. Từ ký ức dao động phát ra, lưu giữ ngoại cảnh, dễ tu đạt thiên nhãn.
- Định (tam-ma-đề, chánh định): Tâm sở này ví như ngài Mục-kiền-liên, [điều này] có thể hiểu được.
- Thọ (thọ nhận): Tâm sở này ví như ngài A-nan, đa văn nghe nhiều rồi nhận lãnh ghi nhớ tất cả không hề sai lầm.
Mười vị đệ tử ấy, mỗi vị đều đầy đủ các phẩm đức, nhưng đi theo pháp môn chuyên biệt vì để tuyên thuyết, chỉ bày Phật đạo tùy theo ý muốn của chúng sanh. [Đối với những chúng sanh nào] ưa thích trí tuệ thì tôn ngài Xá-lợi-phất làm thầy, cho đến những người ưa thích đa văn là thì tôn ngài A-nan làm thầy. Các vị cùng trợ giúp đấng Pháp vương, mỗi người giữ một vai trò.
Bây giờ giải thích theo quán tâm, cũng giống như vậy. Trong mỗi một tâm đều có đủ tâm vương, tâm sở tạo thành pháp quán. Cho nên tâm vương, tâm sở cùng hỗ tương qua lại để đạt đến sự khai ngộ. Hoặc do nơi tâm sở tưởng mà nhập đạo, hoặc do nơi tâm sở dục mà nhập đạo, tùy theo chỗ thích hợp mà tâm vương và tâm sở cùng gây tác động, nắm giữ, chuyển hóa các tâm trần lao mà làm Phật sự.
Theo cách quán như vậy chưa ngộ đạo thì quán hành như sữa. Nếu phát [trí] vô lậu thì quán hành như sữa đặc (lạc). Nếu phá trừ được trần sa [phiền não] thì [quán hành] như bơ sống (sanh tô), bơ chín (thục tô). Nếu phá trừ được vô minh thì quán [hành] như đề hồ. Đến lúc được như đề hồ rồi thì tâm vương, tâm sở đều dứt hết. Tâm, tâm pháp, tâm sở không hoạt động nên gọi là thực hành Bát-nhã Ba-la-mật.
Phổ Hiền quán nói rằng: “Quán tâm không tâm, pháp chẳng trụ nơi pháp. Tâm ta tự nó vốn không, tội hay phước đều không có ai là chủ thể.” Nghĩa là, không tâm không sở, đó gọi là quán chân chánh. Những tâm sở trần lao nếu chưa dứt hết thì pháp quán chưa xong. Cho nên trong kinh nói rằng: “Chúng sanh không độ [hết] thì ta không thành Chánh giác.” Chính là ý này. Đại lược là như vậy.
II. Chúng Bồ Tát
KINH VĂN
Có 8.000 vị Đại Bồ-Tát, tất cả đều không còn thối chuyển đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, đều đạt được đà-la-ni, có tài biện luận ưa thích thuyết giảng, chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển, từng cúng dường vô số trăm nghìn đức Phật, ở nơi chư Phật gieo trồng gốc công đức, thường được chư Phật ngợi khen xưng tán, dùng tâm từ để tu thân, khéo thể nhập trí tuệ Phật, thông đạt trí tuệ lớn lao, đạt đến bờ giải thoát, danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới, thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh.
Phần thứ hai liệt kê hội chúng Bồ Tát. Thích Luận chép: “‘Bồ Tát bao gồm cả bốn chúng xuất gia và tại gia, vì sao phải liệt kê riêng?’ Đáp: ‘Có Bồ Tát nằm trong bốn chúng, nhưng có những người trong bốn chúng không phải Bồ Tát, vì họ không phát tâm cầu thành Phật. Cho nên ở đây phải liệt kê riêng những người phát tâm cầu làm Phật, gọi chung là chúng Bồ Tát.’”
Phần này chia ra sáu mục. Thứ nhất là phẩm loại, thứ hai là số lượng, thứ ba là giai vị, thứ tư là xưng tán đức, thứ năm là kể danh hiệu và thứ sáu là kết lại.
1. Phẩm loại
Về phẩm loại, nghĩa hội chúng này đều là Bồ Tát Ma-ha-tát, nói đầy đủ phải là Bồ-đề-tát-đỏa Ma-ha-tát-đỏa (Bodhisattva Mahāsattva). [Trong bốn chữ Bồ-đề-tát-đỏa], ngài La-thập thấy rườm rà nên lược bỏ hai chữ “đề, đỏa”, [còn lại là Bồ Tát].
Bồ-đề, Hán dịch là đạo; tát-đỏa dịch là tâm, ma-ha dịch là đại. Hết thảy các vị này đều [tự mình] tìm cầu Phật đạo rộng lớn, lại [nỗ lực giáo hóa] chúng sanh cho thuần thục. Đạo tâm (Bồ-đề-tát-đỏa), Đại đạo tâm (Ma-ha Bồ-đề-tát-đỏa) là [danh xưng phân biệt] phẩm loại. Trong hàng Bồ Tát lại cũng phân ra nhiều phẩm loại, như thiên, thông, biệt, viên.
Thích luận dẫn trường hợp ngài Ca-chiên-diên để làm rõ ý nghĩa lấy [sự tu tập thành tựu] sáu ba-la-mật làm giới hạn, cho là viên mãn. Đó là muốn chuyển hóa [sự xấu ác của] chúng sanh, [ví như] máu huyết, thành [các pháp lành, ví như] sữa. Còn như trong Đại phẩm nói rõ có Bồ Tát vừa mới phát tâm đã tương ưng hết thảy bình đẳng, đây là muốn chuyển hóa sữa thành sữa đặc (lạc).
Lại như trong Đại phẩm nói rõ có Bồ Tát vừa mới phát tâm đã [có năng lực] du hí thần thông, làm thanh tịnh cõi Phật. Lại như trong kinh Tịnh danh nói là [những Bồ Tát vừa mới phát tâm đã] đạt được [pháp môn] giải thoát không thể nghĩ bàn, đều có thể biến thân hình thành to lớn để ngồi lên tòa cao, lại có thể hạ mình chịu sự chê trách. Đây là muốn chuyển hóa sữa đặc (lạc) thành bơ sống (sinh tô), bơ chín (thục tô).
Lại cũng trong Đại phẩm nói rõ có Bồ Tát vừa mới phát tâm liền ngồi dưới gốc Bồ-đề chứng thành Chánh giác, chuyển Pháp luân, hóa độ chúng sanh. Đây là ví như chuyển hóa sinh tô, thục tô thành đề hồ.
Cho nên, [kinh văn] sau đó [trong kệ tụng] nói rằng: “Bồ Tát nghe pháp này, nghi ngờ đều dứt sạch.” Lại [một đoạn khác] nói rằng nếu Bồ Tát chưa nghe kinh Pháp Hoa thì chưa phải khéo thực hành đạo Bồ Tát. Nếu nghe kinh này rồi tức là khéo thực hành Bồ Tát đạo.
Lại nữa, kinh Niết-bàn nói rằng: “Bồ Tát không nghe đến Niết-bàn thì thường có hy vọng. Nếu nghe đến Niết-bàn rồi thì mọi hy vọng đều dứt.”
[Theo nghĩa trên] nên lược nói có bốn hàng Bồ Tát [thiên, thông, biệt, viên] như trên.
Theo nghĩa bản tích thì bản là các giai vị của Bồ Tát khó có thể suy lường, hoặc ở bậc Đẳng Giác, hoặc ngang bậc Pháp Vương, như [đồng tử] Thiện Tài vào pháp giới thấy Bồ Tát Văn Thù sắc tượng vô biên, pháp môn sâu xa. Bản là gần gũi chư Phật, tích là trợ giúp đức Thích-ca nên thị hiện làm Bồ Tát, hiện sắc thân mọi nơi, dùng sức tam-muội biến hình rộng khắp, dùng lời thuyết pháp rộng khắp, tùy chỗ thích nghi [của chúng sanh] để giáo hóa không thể nghĩ bàn, chỉ có thể dùng tâm ý để biết, không thể dùng lời nói hết. Cho nên tích là [thị hiện] dẫn dắt có bốn vị [nhũ, lạc, sinh tô, thục tô], nhưng tất cả đều quy về chỉ một vị đề hồ chân thật, ví như búa và đe hợp nhau rèn các chất liệu thô thành khí cụ. Thành vị đề hồ rồi thì một kỳ hóa độ cũng dừng. Nhưng giai vị từ xưa vốn đã thành tựu rốt ráo, đâu phải ngày nay mới bắt đầu bước vào Đại thừa, cũng chẳng phải có tịch diệt nơi đạo tràng hay lợi căn đốn ngộ, vì dù đốn hay tiệm tất cả cũng đều là hình tích thị hiện.
Giải thích theo quán thì quán tâm Trung đạo cùng lúc quán chiếu cả Không và Giả (Nhị đế) gọi là Đại, thông suốt đến quả Bồ-đề gọi là Đạo, phá trừ năm trụ trần lao gọi là chúng sanh. Đại lược là như vậy.
2. Số lượng
Nói 80.000 người là số lượng [Bồ Tát]. Những kinh khác chúng hội rất nhiều, ở kinh này vì sao lại ít? Hoặc nói rằng chỉ nêu số lượng những vị lớn, hoặc ví như khi đức vua bàn việc cơ mật, không thể đưa ra bàn rộng khắp nước. Đại lược là như vậy.
Lược nói theo quán tâm thì quán một tâm lành đầy đủ mười pháp giới. Mười pháp giới hỗ tương qua lại thành trăm pháp giới, ngàn tánh tướng. [Cho nên], mười điều lành tức là muôn pháp.
Lược nói theo giáo nghĩa thì Bát chánh đạo là tám vạn pháp môn. Đại lược là như vậy.
3. Giai vị
[Kinh nói:] “Tất cả đều không còn thối chuyển đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.” Đây là nói rõ về giai vị [của chư Bồ Tát].
A-nậu, Hán dịch là Vô thượng đạo, như trong phần cảnh diệu có nói.
Về giai vị thì như trong phần vị diệu có nói.
“Không còn thối chuyển”, lược nói có ba loại không thối chuyển là giai vị, công hạnh và niệm lực, nên phân biệt theo bốn loại [tất-đàn]. Như không còn sinh vào ba đường ác, đó là giai vị không còn thối chuyển. Không bị sinh vào những nơi biên địa, đầy đủ các giác quan, không sinh làm thân nữ, đó là công hạnh không còn thối chuyển. Thường nhớ biết về những đời trước, tức là niệm lực không còn thối chuyển. Đầy đủ [ba loại không thối chuyển] như vậy gọi là địa vị A-bệ-bạt-trí (Avaivartika), [Hán dịch là Bất thối chuyển]. Đó là giải thích theo Tạng giáo.
[Theo Thông giáo thì] tâm thứ sáu [ở Nhẫn pháp vị] trở về trước còn là hàng Bồ Tát dễ dao động, gốc rễ niềm tin chưa xác lập, nên vẫn còn có thể thối chuyển. Kể từ tâm thứ bảy [ở Thế đệ nhất pháp vị] trở lên, từ Sơ địa đến Lục địa [là Ly dục địa] thì không còn trở lại làm phàm phu hoặc nhị thừa, gọi là giai vị không còn thối chuyển. Tuy chánh sử [phiền não] đã dứt nhưng chưa rộng tu muôn hạnh, công hạnh vẫn còn có thể thối chuyển. Lên đến Thất địa [là Dĩ biện địa] thì gọi là công hạnh không còn thối chuyển, nhưng vì còn khởi niệm nhị thừa nên vẫn có niệm thối chuyển. Lên đến Bát địa [là Bích-chi Phật địa] thì sự giáo hóa và công phu tu tập đều song song thành tựu, thể nhập vào dòng nước pháp mà trôi chảy không ngừng, gọi là niệm lực không còn thối chuyển, tức là A-bệ-bạt-trí. Ý nghĩa này thông cả Tam thừa, Thập địa.
Các luận sư phái Địa luận nói rằng, [hàng] Thập trụ là chỗ chứng đắc không còn thối chuyển, Thập hạnh là giai vị không còn thối chuyển, Thập hồi hướng là công hạnh không còn thối chuyển, Thập địa là niệm lực không còn thối chuyển. Đây là ý nghĩa theo Biệt giáo, không phù hợp với ý nghĩa trong kinh này nên không vận dụng.
Kinh Anh lạc nói: “Đạt đến Sơ địa thì ba pháp quán cùng lúc hiện tiền, tâm thường vắng lặng, tự nhiên nhập vào dòng chảy.” Đây là ý nghĩa không thối chuyển theo Biệt giáo, cũng không vận dụng ở đây.
Còn như trong kinh Hoa Nghiêm nói rõ, Bồ Tát Sơ trụ đạt được một thân cho đến vô lượng thân Như Lai đều đầy đủ ba loại không thối chuyển. Đây là ý nghĩa không thối chuyển theo Viên giáo, là lẽ hợp nhất chân thật về sự, nay vận dụng để phân biệt xác định các giai vị.
Theo nghĩa bản tích thì bản là các giai vị vốn đều vắng lặng dứt sạch, đến Thập địa còn không có huống chi là Sơ trụ, lại chẳng có không thối chuyển ở Sơ trụ, huống chi lại có [các nghĩa của] Biệt giáo hay Thông giáo. Các giai vị theo Biệt giáo và Thông giáo là phù hợp để giải thích về sự liệt kê chúng hội ở các kinh khác, riêng các giai vị của Viên giáo chính là ở trong kinh này. Các bậc thầy luận giải những kinh khác đã không có sự hiểu biết về tích, làm sao biết được về bản? Chỗ xưng tán của họ đã sai lầm, hỏng mất ngay trong nội dung, nên hóa ra lại hủy báng theo hai cách nói tăng thêm hoặc giảm bớt, làm sao có thể gọi là xưng tán điều tốt đẹp?
Giải thích theo quán tâm thì ba pháp quán [Không, Giả và Trung đạo] là ba điều không thối chuyển. Lại nữa, một tâm đồng thời tu ba pháp quán tức là một tâm đồng thời có ba điều không thối chuyển. Đại lược là như vậy.
4. Xưng tán đức
Theo các nhà luận giải xưa thì kể từ câu “đều đạt được đà-la-ni” là bắt đầu phần xưng tán đức. Nay lấy từ câu “không còn thối chuyển” đã có đủ cả hai ý [nói về giai vị và xưng tán đức], cho nên thuộc phần trước là nói về giai vị, còn mở đầu phần sau là xưng tán đức.
Cũng theo các nhà luận giải xưa thì phần xưng tán đức có 12 câu, phân làm bốn ý [chính]. Ba câu đầu tiên xưng tán đức độ trong hiện tại. Ba câu tiếp theo xưng tán đức hạnh trong quá khứ. Bốn câu tiếp theo xưng tán tánh thể trong tự thân của các vị và hai câu sau cùng xưng tán danh xưng bên ngoài.
Bốn ý trên tuy khác biệt nhưng điểm chính đều nói về đức độ [của các vị] nên gọi là xưng tán đức.
Phần xưng tán đức độ trong hiện tại lại có hai ý. Câu đầu tiên là xưng tán công hạnh của tự thân các vị, [đều đạt được đà-la-ni]. Hai câu tiếp theo là xưng tán việc giáo hóa chúng sanh, [có tài biện luận, ưa thích thuyết giảng, chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển].
Phần xưng tán đức hạnh [trong quá khứ] cũng có ba ý. Câu đầu tiên xưng tán căn bản của đức hạnh, [cúng dường vô số trăm nghìn đức Phật], vốn từ nơi chư Phật mà được trí tuệ Bát-nhã. Câu tiếp theo xưng tán công hạnh vốn có, [ở nơi chư Phật gieo trồng gốc công đức], là công hạnh gieo trồng phước đức. Nhờ có phước đức nên có thể giúp thêm [cho việc tu tập] trí tuệ. Câu thứ ba nói việc được chư Phật khen ngợi, [thường được chư Phật ngợi khen xưng tán].
Phần xưng tán tánh thể tự thân cũng có ba ý. Câu đầu tiên nêu lòng từ bi [dùng tâm từ để tu thân], để xưng tán Ứng [hóa] thân. Hai câu giữa, [khéo thể nhập trí tuệ Phật, thông đạt trí tuệ lớn lao], là xưng tán Báo thân của tâm trí tuệ. Câu sau cùng, [đến bờ giải thoát] là xưng tán Pháp thân.
Phần xưng tán danh xưng cũng có hai ý. Câu đầu tiên, [danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới] là xưng tán danh xưng [các ngài] được nghe biết rộng khắp. Câu thứ hai, [thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh] là xưng tán việc [các ngài] thường cứu độ chúng sanh.
Cách phân chia câu văn như trên [của các nhà luận giải xưa] có hình thức rất rõ ràng, nhưng khảo luận về tông thể thì hoàn toàn không có tôn chỉ thú hướng.
Nếu là xưng tán theo Thông giáo, thì Thông giáo không có Ba thân, cũng không nhập trí tuệ Phật, danh xưng cũng không rộng khắp, hết thảy các nghĩa đều không thành tựu.
Nếu nói xưng tán theo Biệt giáo, thì Sơ địa của Biệt giáo đã vượt hơn hàng nhị thừa, vì sao nói đến Thất địa còn khởi niệm Thanh văn, Bích-chi Phật?
Nếu nói là xưng tán theo Viên giáo, thì lẽ ra chẳng nên nói rằng từ Thất địa trở xuống không có đức không thối chuyển.
[Xét kỹ] tới lui đều không phù hợp, vậy rốt cùng biết tán thán ai? Do vậy nên [những nghĩa như trên] ở đây không vận dụng. Nay sẽ lấy [trong phần này] 13 câu, phân tích theo hai cách để hiểu nghĩa văn kinh. Thứ nhất là theo trình tự tu tiến thì lược nói ý nghĩa [mười giai vị của] Thập địa. Thứ hai là theo cách mở rộng một nghĩa thì lược nói ý nghĩa [một giai vị] Sơ trụ.
[Như vậy], câu kinh “không còn thối chuyển” là vừa kết lại phần trước, tức là nói rõ giai vị, vừa mở đầu phần sau, tức là xưng tán đức, được dùng để xưng tán [Bồ Tát] Sơ địa. Sơ địa có tên là Hoan hỷ [địa], hoan hỷ vì không còn thối chuyển rơi vào [phân biệt] hai bên, thể nhập Trung đạo, được ba sự không thối chuyển. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán thán Sơ địa, tức Hoan hỷ địa.
Câu “đều đạt được đà-la-ni” là xưng tán thán Nhị địa. Nhị địa có tên là Ly cấu [địa], cũng có tên là Ly đạt [địa]. Ly là lìa bỏ và ngăn chặn được tất cả những điều ác; đạt là đạt được và duy trì tất cả những việc lành. Đó là ý nghĩa của đà-la-ni. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán Ly cấu địa.
Câu “có tài biện luận, ưa thích thuyết giảng” là xưng tán Tam địa. Tam địa có tên là Minh địa. Bên trong trí tuệ sáng suốt, bên ngoài mới có tài biện luận giảng thuyết. Muốn biết về trí tuệ [bên trong] thì chính là ở nơi sự giảng thuyết [bên ngoài]. Thuyết giảng có nhiều cách khác nhau, trong đó ưa thích thuyết giảng là hơn hết. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán giai vị thứ ba [của Thập địa] là Minh địa.
Câu “chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển” là xưng tán Tứ địa. Tứ địa có tên là Diệm địa. Diệm [là ngọn lửa,] có công năng phá trừ bóng tối, cũng có công năng thiêu đốt. Chuyển pháp luân là tự làm tiêu tan lậu hoặc của chính mình, giống như thiêu đốt, lại phá trừ sự si mê của người khác, giống như phá trừ sự tối tăm. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán giai vị thứ tư [trong Thập địa] là Diệm địa.
Câu “cúng dường vô số trăm ngàn đức Phật” là xưng tán Ngũ địa. Ngũ địa có tên là Nan thắng địa. Địa vị này đã đạt được thiền định thâm sâu, sử dụng sức thần thông khó [có ai] sánh kịp, khó [có ai] vượt thắng được, chỉ trong khoảng thời gian một niệm ngắn ngủi có thể biến hiện đến khắp mười phương để cúng dường chư Phật. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán thán Ngũ địa.
Câu “ở nơi chư Phật gieo trồng gốc công đức” là xưng tán Lục địa. Lục địa có tên là Hiện tiền địa. Do đạt được thiền định nên thường cúng dường chư Phật, nhờ phước đức đó giúp phát triển hạt giống trí tuệ, hạt giống trí tuệ phát triển hiện tiền. Trí tuệ là gốc công đức, như mang cây trồng xuống đất. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán Lục địa.
Câu “thường được chư Phật ngợi khen xưng tán” là xưng tán giai vị thứ bảy, Viễn hành địa. Địa vị này thành tựu hai trí, phương tiện khéo léo vượt hơn tất cả, rộng tu các pháp lợi ích, tương xứng, thể hội với tâm Phật. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán Thất địa.
Câu “dùng tâm từ để tu thân” là xưng tán Bát địa, tức là Bất động địa. [Địa vị này] trí tuệ chân chánh không còn dao động, không ra ngoài ba cõi, thường dùng tâm từ để tu sửa thân, hiện vào trong năm đường [cứu khổ], tu sửa miệng thuyết pháp [để giáo hóa chúng sanh], tu sửa tâm thiết lập phương tiện [để hóa độ chúng sanh]. Kinh Pháp Hoa chân chánh trọn đủ tu sửa ba nghiệp. Cho nên biết rằng [câu này] xưng tán Bát địa.
Câu “khéo thể nhập trí tuệ Phật” là xưng tán Cửu địa. Cửu địa có tên là Thiện tuệ địa. [Địa vị này quán chiếu] vào sâu được thực tiễn, khéo thấu triệt căn nguyên nguồn gốc. Danh xưng này hết sức phù hợp với ý nghĩa [câu này], cho nên biết đây là xưng tán Cửu địa.
Câu “thông đạt trí tuệ lớn lao” là xưng tán Thập địa. Thập địa có tên là Pháp vân địa. Pháp thân như hư không, thiền định như đám mây lớn, trí huệ như cơn mưa lớn. Khéo thể nhập pháp Phật gọi là tuệ, khéo vận dụng pháp Phật gọi là trí. Do [tính chất] hỗ tương mà nêu [câu này để xưng tán Thập địa].
Câu “đạt đến bờ giải thoát” là xưng tán phẩm đức bên trong của [hàng Bồ Tát] Thập địa, đạt đến bờ Tam đế bên kia, trong nhân nói được quả, lại đạt đến chỗ ấy rồi cũng chẳng trụ lại lâu. [Do ý nghĩa đó nên biết câu này xưng tán phẩm đức bên trong của Bồ Tát Thập địa.]
Câu “danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới” là xưng tán phẩm đức bên ngoài của [hàng Bồ Tát] Thập địa. Do phẩm đức bên trong sâu rộng rãi nên danh tiếng được nghe biết đến ở khắp mọi nơi, đó là [phẩm đức] bên trong và bên ngoài tương xứng nhau.
Nếu mở rộng đến giai vị Đẳng giác thì hai câu này cũng có thể được hiểu giống như vậy.
Câu “thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh” [là xưng tán chung hết thảy Thập địa]. Các địa vị khác tuy cứu độ chúng sanh nhưng chỉ từ một pháp giới cho đến chín pháp giới, không gọi là “thường cứu độ”. [Bồ Tát] Thập Địa vượt hơn nên gọi là “thường cứu độ”. Những địa vị khác cũng đều có đầy đủ các công đức nhưng nay không đưa ra giải thích, vì lòng người thích sự khác lạ, y theo danh xưng của Thập địa là thuận tiện. Hơn nữa, ý nghĩa theo trình tự tu tiến thì dễ giải thích, nên mới đưa ra cách phân tích văn kinh như thế này.
Tiếp theo giải thích sự xưng tán thán theo cách mở rộng, chỉ lược nói về Sơ trụ, các giai vị khác đều dựa theo đây có thể giải thích được.
Sơ [trụ có tên là] Phát tâm trụ, một [tâm] phát khởi thì hết thảy [tâm] đều phát khởi, vượt ra khỏi hai bên phân biệt, chuyển phàm lên thánh, nhập vào Trung đạo, trong tâm vắng lặng dứt bặt, mỗi niệm đều lưu nhập biển tuệ nhất thiết trí, cho nên nói là “không còn thối chuyển”.
Sơ trụ [là địa vị đã] ngăn chặn, lìa bỏ các tướng bám chấp cùng các che chướng vô tri, vô minh..., đạt được và duy trì các phẩm đức Bát-nhã, giải thoát, pháp thân..., cho nên nói là “đều đạt được đà-la-ni”.
[Hàng Bồ Tát] Thập tín với hiểu biết tương tự mà còn có thể dùng âm thanh vi diệu vang khắp đại thiên thế giới, huống chi là [Bồ Tát] chân thật đạt được công đức khẩu mật, cho nên nói là “có tài biện luận, ưa thích thuyết giảng”.
[Bồ Tát] Sơ trụ có thể phân thân hiện làm Phật ở trăm thế giới để làm Phật, nếu luận đến chỗ thật sự [hóa hiện] thì vô lượng vô biên. Vì có thể hiện thân làm Phật thuyết pháp giáo hóa, cho nên nói là “chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển”.
[Bồ Tát] Sơ trụ đạt được thần lực không thể nghĩ bàn, có thể phụng sự chư Phật ở khắp các pháp giới, cho nên nói là “cúng dường vô số trăm ngàn đức Phật”.
[Bồ Tát] Sơ trụ đạt được căn bản của thật tướng, thường gieo trồng đủ các phước đức, [nên nói “ở nơi chư Phật gieo trồng gốc công đức”.
[Bồ Tát] Sơ trụ khai mở tri kiến Phật, [khai mở] tri kiến rồi thì [nhận hiểu] pháp tương đồng với chư Phật, cho nên nói “thường được chư Phật ngợi khen xưng tán”.
[Bồ Tát] Sơ trụ dùng đức từ vô duyên hóa hiện sắc thân khắp mọi nơi, tương ứng các pháp giới, cho nên nói “dùng tâm từ để tu thân”.
[Bồ Tát] Sơ trụ nhập được vào kho tàng [giáo pháp] bí mật cho nên nói là “khéo thể nhập trí tuệ Phật”.
[Bồ Tát] Sơ trụ trong một tâm đạt được ba trí, không còn gì có thể gây chướng ngại, cho nên nói là “thông đạt trí tuệ lớn lao”.
[Bồ Tát] Sơ trụ đối với các phần sự lý đều đã rốt ráo, cho nên nói rằng “đến bờ giải thoát”.
[Bồ Tát] Sơ trụ công đức tròn đầy chân thật tương xứng với danh xưng, cho nên nói “danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới”.
[Bồ Tát] Sơ trụ thường làm chỗ nương tựa, noi theo cho [chúng sanh] trong mười pháp giới, cứu giúp làm cho an ổn, cho nên nói là “thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh”.
[Bồ Tát] Sơ trụ còn có vô lượng vô biên đủ loại công đức không thể nghĩ bàn, ở đây chỉ lược nói qua 13 câu như vậy. Từ giai vị Nhị trụ [là Trị địa trụ] cho đến bậc Đẳng giác cũng đều [đầy đủ công đức] như vậy. Cho nên Đại phẩm nói rằng: “Từ chữ a ban đầu có đủ 41 phẩm tính của chữ, đến chữ trà ở sau cuối lại cũng đầy đủ các phẩm tính của chữ như vậy. [Những chữ] ở khoảng giữa cũng đều như vậy. Chữ như nhau, câu như nhau, phẩm tính cũng đều như nhau.”
● Hỏi: “Phần này xưng tán phẩm đức đoạn hoặc. Tạng giáo không đoạn hoặc, nên có thể không xưng tán. Nhưng Thanh văn còn được xưng tán [việc thị hiện hình] tích, đến như Thông giáo, Biệt giáo vì sao chẳng xưng tán đức?”
● Đáp: “Thông giáo xưng tán chỗ [hình] tích nên mới có nghĩa này. Nhưng nay kinh [Pháp Hoa] này chính là nêu rõ chỗ rốt ráo nên không xưng tán phương tiện.”
● Hỏi: “Vì sao những câu nói về công đức đều chỉ xưng tán [hàng Bồ Tát] Sơ trụ?”
● Đáp: “Các giai vị khác cũng đều như thế, đâu chỉ là riêng Sơ trụ.”
● [Hỏi:] “Các nhà luận giải xưa nói rằng Bát địa có nhiều công đức, điều đó không có gì để nghi. [Nhưng] nay Viên giáo xưng tán Sơ trụ không thiếu một công đức nào. Sơ trụ còn như vậy, huống chi các giai vị sau đó?”
● [Đáp:] Luận Pháp Hoa nói: Pháp môn phân chia trên dưới [chẳng qua chỉ là] tướng chung (tổng tướng) và tướng riêng (biệt tướng) mà thôi. Nên biết, câu mở đầu “không còn thối chuyển” là tướng chung. [Tướng chung] “không còn thối chuyển” này có mười cách thị hiện.
1. Nghe pháp không còn thối chuyển, tức là “đều đạt được đà-la-ni”.
2. Ưa thích thuyết giảng không còn thối chuyển, tức là “có tài biện luận, ưa thích thuyết giảng”.
3. Thuyết giảng không còn thối chuyển, tức là “chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển”.
4. Nương theo thiện tri thức không còn thối chuyển, tức là “cúng dường vô số trăm ngàn đức Phật”, [cũng là] “ở nơi chư Phật gieo trồng gốc công đức”.
5. Dứt trừ lòng nghi không còn thối chuyển, tức là “thường được chư Phật ngợi khen xưng tán”.
6. Thể nhập không còn thối chuyển về sự, tức là “dùng tâm từ để tu thân”.
7. Thể nhập cảnh giới như thật của trí tuệ rõ biết tất cả không còn thối chuyển, tức là “khéo thể nhập trí tuệ Phật”.
8. Nương theo [chỗ thấy biết] không có tự ngã, hết thảy các pháp tự thể đều là không nên không còn thối chuyển, tức là “thông đạt trí tuệ lớn lao”.
9. Thể nhập cảnh giới như thật không còn thối chuyển, tức là “đến bờ giải thoát”.
10. Làm được những việc nên làm không còn thối chuyển, tức là “thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh”.
Cho nên, câu mở đầu [“không còn thối chuyển”] đó là tướng chung, thuộc về pháp trên. Tiếp theo những câu còn lại là tướng riêng, thuộc về pháp dưới. Trong phần giảng giải theo cách mở rộng xưng tán các công đức của [hàng Bồ Tát] Sơ trụ cũng là tương đồng với ý này.
Luận [Pháp Hoa] lại nói: “Thứ hai là pháp môn thâu nhiếp mọi sự việc. [Đây là nói việc] chư Bồ Tát [tùy theo trường hợp mà lựa chọn] an trụ ở những địa vị thanh tịnh nào, vận dụng những phương tiện nào, ở những cảnh giới nào, nên làm những việc gì.”
Nếu theo nghĩa này thì việc xưng tán công đức chư Bồ Tát theo trình tự tu tiến từ thấp lên cao cũng không có gì trở ngại.
Theo quán tâm giải thích về sự xưng tán đức thì ý nghĩa “không còn thối chuyển” cũng giống như đã nói.
Về ý nghĩa đà-la-ni thì quán không là Toàn Đà-la-ni, quán giả là Bá thiên [vạn ức] Toàn Đà-la-ni, quán trung [đạo] là Pháp âm phương tiện Đà-la-ni.
Lại nữa, theo pháp quán không để quán tâm thì thấy [tâm] chỉ là tên gọi, đó là Văn trì Đà-la-ni. Theo pháp quán giả để quán tâm thì trong vô lượng tâm, hết thảy các pháp tâm vương, tâm sở đều là pháp môn, đó là Hành trì Đà La Ni. Theo pháp quán trung [đạo] để quán tâm thì tâm tức là thật tướng, đó là Nghĩa trì Đà-la-ni.
[Về ý nghĩa “có tài biện luận, ưa thích thuyết giảng”, thì] theo pháp quán giả để quán tâm thì [tâm] có đủ các pháp trong mười pháp giới, tức là Pháp vô ngại biện. Theo pháp quán trung để quán tâm thì mười pháp giới đều thể nhập thật tướng, tức là Nghĩa vô ngại biện. Theo pháp quán không để quán tâm thì mười pháp giới chỉ là tên gọi, lời nói, tức là Từ vô ngại biện.
[Lại nữa,] quán một tâm tức là ba tâm, ba tâm tức là một tâm, một cảnh giới là hết thảy cảnh giới, xoay chuyển không ngăn ngại, đó là Nhạo thuyết vô ngại biện.
[Về ý nghĩa “chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển” thì] quán không là chuyển bánh xe pháp không thối chuyển về giai vị, quán giả là chuyển bánh xe pháp không thối chuyển về công hạnh, quán trung là chuyển bánh xe pháp không thối chuyển về niệm lực.
[Về ý nghĩa “cúng dường vô số trăm ngàn đức Phật” thì] cúng dường Phật là thị hiện tùy thuận lời Phật dạy. Ngày nay [chúng ta] theo lời Phật dạy tu ba pháp quán tâm, đó là cúng dường Phật. Phá năm trụ địa nên được giải thoát, đó là cúng dường Pháp. Dung hòa lẽ Tam đế tức là cúng dường Tăng.
Lại nữa, các tâm công hạnh giúp [phát triển] tâm quán chiếu với trí tuệ, tức là cúng dường Phật. Tâm quán với trí tuệ khai mở cảnh giới, tức là cúng dường Pháp. Dung hòa được cảnh, trí và tâm, tức là cúng dường Tăng.
[Về ý nghĩa “ở nơi chư Phật gieo trồng gốc công đức” thì] tâm thật tướng là gốc của tâm quán với trí tuệ, tâm quán với trí tuệ là gốc của các tâm công hạnh. Nắm chắc được gốc rồi thì sẽ trồng cây lên được, cho nên nói là “gieo trồng gốc công đức”.
[Về ý nghĩa “được chư phật ngợi khen xưng tán” thì] tâm quán chiếu với trí ngấm ngầm dò sâu nơi cảnh giới, cảnh giới ghi lại dấu ấn nơi trí quán chiếu. Trí có sự quán chiếu thường [rõ biết] hợp với cảnh giới, đó là “thường được chư Phật ngợi khen xưng tán”.
[Về ý nghĩa “dùng tâm từ tu thân” thì tu tập] quán không là sự huân tập của tâm từ pháp duyên, quán giả là sự huân tập của tâm từ chúng sanh duyên, quán trung là sự huân tập của tâm từ vô duyên.
[Về ý nghĩa “khéo thể nhập trí tuệ Phật” thì tu tập] quán không nhập vào trí tuệ Phật theo Thông giáo, quán giả nhập vào trí tuệ Phật theo Biệt giáo, quán trung nhập vào trí tuệ Phật theo Viên giáo.
[Về ý nghĩa “đến bờ giải thoát” thì tu tập] quán không đến bờ giải thoát Nhất thiết trí, quán giả đến bờ giải thoát Đạo chủng trí, quán trung đến bờ giải thoát Nhất thiết chủng trí.
[Về ý nghĩa “danh xưng được nghe biết khắp” thì tu tập] quán không nghe nơi Chân đế, quán giả nghe nơi Tục đế, quán trung nghe được khắp đệ nhất nghĩa đế của Trung đạo, lại cũng nghe khắp cả Tam đế.
[Về ý nghĩa “thường cứu độ trăm ngàn chúng sanh” thì tu tập] quán không quán cứu độ trăm ngàn chúng sanh khỏi bốn trụ địa phiền não, quán giả cứu độ trăm ngàn chúng sanh khỏi trần sa phiền não, quán trung cứu độ trăm ngàn chúng sanh khỏi vô minh.
[Tu tập đạt được] trong một tâm đủ ba pháp quán có vô lượng công đức, xưng tán không thể cùng tận, chỉ lược nói qua như vậy.
KINH VĂN
Danh hiệu của các vị là: Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Đắc Đại Thế, Bồ Tát Thường Tinh Tấn, Bồ Tát Bất Hưu Tức, Bồ Tát Bảo Chưởng, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dũng Thí, Bồ Tát Bảo Nguyệt, Bồ Tát Nguyệt Quang, Bồ Tát Mãn Nguyệt, Bồ Tát Đại Lực, Bồ Tát Vô Lượng Lực, Bồ Tát Việt Tam Giới, Bồ Tát Bạt-đà-bà-la, Bồ Tát Di-lặc, Bồ Tát Bảo Tích, Bồ Tát Đạo Sư, các vị Đại Bồ Tát như vậy, cả thảy 80.000 vị cùng tham dự pháp hội.
5. Danh hiệu
Danh hiệu lớn lao của các bậc đại sĩ, hoặc dựa theo pháp môn tu tập, hoặc dựa theo công hạnh đức độ, hoặc dựa theo bản nguyện [của mỗi vị]. Tuy là một tên gọi nhưng có đủ vô lượng nghĩa. Nay dựa theo kinh điển, dựa theo sự quán xét để phân tích ý nghĩa danh hiệu của 18 vị Bồ Tát.
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi
Văn-thù-sư-lợi, Hán dịch là Diệu Đức. Trong kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “Thấy rõ ràng tánh Phật, như Bồ Tát Diệu Đức.” Kinh Vô hành gọi là Mãn-thù-thi-sư-lợi. Kinh Phổ Siêu gọi là Nhu thủ. Kinh Tư ích nói: “Tuy giảng thuyết các pháp mà chẳng khởi tướng pháp, chẳng khởi tướng không phải pháp. Cho nên gọi là Diệu Đức.”
Kinh Bi Hoa chép [lời nguyện của Bồ Tát trước đức Phật Bảo Tạng] rằng: “‘Nguyện khi con thực hành đạo Bồ Tát, những chúng sanh được con giáo hóa trong khắp mười phương được thành Chánh giác trước con, nguyện cho con có thể dùng thiên nhãn nhìn thấy tất cả. Quốc độ của con khi ấy chỉ toàn là các Bồ Tát nhất sanh [bổ xứ], đều là những người do con khuyên bảo mà phát tâm đạo. Con thực hành đạo Bồ Tát không có hạn kỳ.’ Phật Bảo Tạng nói: ‘Ông tạo công đức hết sức sâu xa, lại phát nguyện sẽ được quốc độ nhiệm mầu, nên nay ta đặt tên cho ông là Văn-thù-sư-lợi. Ông sẽ thành Phật tại thế giới Hoan Hỷ ở phương bắc, hiệu là Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật.’” Cho đến hiện nay [chúng sanh] được nghe danh hiệu liền dứt trừ bốn tội nặng. Ngài thị hiện làm Bồ Tát để góp phần [trong việc hoằng hóa của] đức Phật Thích-ca.
Giải thích theo quán tâm thì về tánh và lý, cả ba công đức bí mật [của thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp] đều chẳng đồng chẳng khác, không trước không sau, nên gọi là Diệu Đức.
Bồ Tát Quán Thế Âm
Quán Thế Âm, tên Phạn ngữ [phiên âm] là Bà-lũ-cát-để-thuế (Avalokiteśvara). Kinh Tư ích nói: “Nếu chúng sanh nào được gặp [Bồ Tát] thì tức thời quyết định sẽ đạt được giác ngộ. Những chúng sanh nào xưng niệm danh hiệu ngài đều được thoát khỏi những sự khổ nạn, nên có tên là Quán Âm.”
Kinh Bi Hoa chép [lời nguyện của Bồ Tát trước đức Phật Bảo Tạng rằng: “Nếu có chúng sanh nào khi chịu các sự khổ não, xưng danh hiệu con, nhớ nghĩ đến con, được con dùng thiên nhĩ để nghe, thiên nhãn để thấy rồi, không được thoát khổ thì con không thành Chánh giác.” Đức Phật Bảo Tạng Phật nói: “Ông quán sát hết thảy chúng sanh, khởi sinh tâm đại bi, nay đặt tên cho ông là Quán Thế Âm.” Phần tiếp theo tự giải thích được ý nghĩa danh hiệu [Quán Thế Âm]: Giải thích theo quán tâm thì Tam trí là “quán”, Tam đế là “thế”, Tam quán là gốc của ngôn ngữ nên gọi là “âm”.
Bồ Tát Đắc Đại Thế
[Về Bồ Tát] Đắc Đại Thế, kinh Tư ích nói: “Khi ta đặt chân đến nơi nào thì chấn động đại thiên thế giới cùng những cung điện của ma. Cho nên có tên là Đại Thế Chí.”
Kinh Bi Hoa [chép lời nguyện của Bồ Tát Đắc Đại Thế trước đức Phật Bảo Tạng rằng]: “Nguyện cho thế giới của con cũng giống như của Bồ Tát Quán Thế Âm, chẳng có gì khác.” Đức Phật Bảo Tạng nói: “Do ông phát nguyện được cõi thế giới lớn lao, nên đặt tên cho ông là Đại Thế Chí.”
Giải thích theo quán tâm thì Tam chỉ là chân, đặt vào đất Tam đế thì chấn động mười pháp giới, hết thảy nơi nào có kiến ái phiền não đều phải nghiêng ngả rúng động. Đại lược là như vậy.
Bồ Tát Bất Hưu Tức
[Về Bồ Tát Bất Hưu Tức,] kinh Tư ích nói: “Nếu lấy số kiếp nhiều như cát sông Hằng làm một ngày đêm, rồi 30 ngày như vậy là một tháng, 12 tháng là một năm, trải qua trăm ngàn ức ức kiếp như thế mới được gặp một vị Phật, [lại trải qua thời gian dài] cho đến gặp được chư Phật nhiều như số cát sông Hằng, thường tu hành các hạnh thanh tịnh, tu tập các công đức, sau đó mới được thọ ký. [Trong suốt thời gian đó] tâm chẳng dừng nghỉ, nên có tên là Bất Hưu Tức.”
Giải thích theo quán tâm thì quán không chẳng trụ nơi không, ra khỏi [cảnh] giả chẳng trụ nơi giả mà thể nhập trung đạo cũng chẳng trụ nơi trung đạo, cùng lúc quán chiếu nhị đế, đó gọi là Bất Hưu Tức.
Bồ Tát Bảo Chưởng
Kinh Phổ siêu nói: “Mặc áo giáp đức hạnh cho đến khi đạt trí tuệ Phật, không gì có thể cản trở phá hoại làm cho từ bỏ Đại thừa, dù trong giấc mộng cũng không hướng theo Nhị thừa. Thường dùng tâm chân thật và các tâm thông tuệ để vì người khác mà tuyên thuyết, giảng nói. Đối với trân bảo tâm không tham tiếc. Cho nên có tên là Bảo Chưởng.”
Giải thích theo quán tâm thì Tam đế không thể nghĩ bàn gọi là Bảo, trong một tâm có đủ ba quán gọi là Chưởng. Dùng Chưởng của quán như vậy để nắm giữ Bảo của đế như vậy, lợi mình lợi người, cho nên gọi là Bảo Chưởng.
Bồ Tát Dược Vương
Kinh Bi Hoa [kể chuyện người đệ tử nhỏ nhất của Phạm-chí Bảo Hải tên là Trì Lực Tiệp Tật phát nguyện trước Phật Bảo Tạng] rằng: “Nguyện trong Hiền kiếp có 1004 vị Phật, con đều xin cúng dường ngay từ khi mỗi đức Phật vừa thành đạo. Khi chư Phật ấy nhập diệt, con đều xây tháp phụng thờ mỗi vị. Vào lúc Kiếp tận, [chúng sanh chịu] khổ não con đều sẽ cứu giúp. Khi có nạn đao binh dịch bệnh, con sẽ làm Đại y vương [chữa trị cho chúng sanh], rồi sau đó mới thành Phật.” Khi ấy, đức Phật Bảo Tạng nói: “[Theo đại nguyện của ông] nên nay đặt tên cho ông là Hỏa Tịnh Dược Vương. Sau này thành Phật hiệu là Lâu Chí Như Lai.” Theo quán tâm giải thích thì đại lược là như vậy.
Từ đây, phần giải thích có lược bớt 7 vị Bồ Tát.
Bồ Tát Bạt-đà-la
Bồ Tát Bạt-đà-bà-la (Bhadrapāla), Hán dịch là Thiện Thủ, cũng còn gọi là Hiền Thủ.
Kinh Tư ích nói: “Nếu chúng sanh nào được nghe danh hiệu [Bồ Tát này], nhất định đều sẽ thành Chánh giác, cho nên có danh hiệu là Thiện Thủ.”
Theo quán tâm thì giải thích rằng: “Phép quán Trung đạo chân chánh là đứng đầu trong các việc lành, cho nên gọi là Thiện Thủ.”
Bồ Tát Di-lặc
Bồ Tát Di-lặc (Maitreya), Hán dịch là Từ Thị. Kinh Tư ích nói: “Nếu chúng sanh nào gặp [Bồ Tát] liền được pháp Tam-muội Từ tâm, cho nên gọi là Từ Thị.”
Kinh Hiền ngu nói: “Đức vua nhìn thấy người dạy voi liền khởi sanh tâm từ, từ đó có tên là Từ Thị.”
Kinh Bi Hoa nói: “Phát nguyện trong kiếp đao binh hỏa tai cứu hộ chúng sanh.”
Nay giải thích theo quán tâm,quán Trung đạo chân chánh là vô duyên đại từ. Sức mạnh căn lành của tâm từ làm cho các tâm sở đều nhập vào đồng thể đại từ, trong các pháp lìa khỏi mọi điều bất thiện, cho nên gọi là Từ Thị.
Lại nói rằng Từ là họ [của Bồ Tát], còn tên là A-dật-đa, Hán dịch là Vô Thắng. Phần tiếp theo đại lược là như vậy.
Chỗ này lược bớt không giải thích về [danh xưng Bồ Tát] Bảo Tích.
Bồ Tát Đạo Sư
Bồ Tát Đạo Sư, trong kinh Tư ích nói rằng: “Đối với những chúng sanh sa đọa vào đường tà, [Bồ Tát] sanh tâm đại bi cứu giúp đưa vào chánh đạo, chẳng cầu sự báo ân, nên có tên là Đạo Sư.”
Giải thích theo quán tâm thì trí tuệ nhiệm mầu của ba pháp quán [không, giả, trung] dẫn dắt hết thảy mọi hành vi, không rơi vào [phân biệt] hai bên, đều nhập vào chánh quán, cho nên gọi là Đạo Sư.
Đối với [một số danh xưng của] các vị trong phần này chưa giải thích, đợi đến phần sau sẽ quay lại giải thích.
6. Kết lại
Từ chữ “như thị” trở đi là câu văn kết lại phần này.
III. Tạp chúng
KINH VĂN
Lúc bấy giờ có Thích-đề-hoàn-nhân và quyến thuộc 20.000 vị thiên tử cùng đến. Lại có Thiên tử Danh Nguyệt, Thiên tử Phổ Hương, Thiên tử Bảo Quang, Tứ đại Thiên vương và quyến thuộc 10.000 vị thiên tử cùng đến. Thiên tử Tự Tại, Thiên tử Đại Tự Tại và quyến thuộc 30.000 vị thiên tử cùng đến. Phạm Thiên vương chủ Thế giới Ta-bà, Đại Phạm Thi-khí, Đại Phạm Quang Minh... và quyến thuộc 12.000 vị thiên tử cùng đến.
Phần thứ ba nói về tạp chúng. Các nhà cựu giải gọi là chúng phàm phu, nhưng trong số này có cả các bậc thánh, lại gọi là tục chúng, nhưng trong số này có cả chúng xuất gia, lại gọi là chúng trời người, nhưng trong số này có cả loài rồng, quỷ, nên những cách gọi ấy không thích hợp. Nay gọi là tạp chúng thì ý nghĩa bao gồm được tất cả. Đó là nói [gồm đủ chúng sanh] trong năm đường, hai cõi, tám bộ chúng nên gọi là tạp.
[Trong kinh này có năm đường, hai cõi, nhưng] kinh Phương đẳng lại có thêm [chúng sanh] địa ngục [là đủ sáu đường], kinh Trung ấm lại giáo hóa cả cõi Vô sắc [là ba cõi], những điều ấy đều tùy theo cơ duyên mà thể hiện, không thể có một quy tắc cố định chung, cũng không theo một trật tự cố định nào.
Các nhà cựu giải nói rằng loài người là chủ ở cõi này, nên nhường cho những loài khác là khách được kể ra trước. So với kinh Vô lượng nghĩa thì [cách sắp xếp] cũng giống như kinh này, lại nêu rõ quốc vương, quốc thần, quốc sĩ, quốc nữ, không bàn đến thứ tự chủ khách nhường nhau. Khuynh hướng của các vị kết tập kinh được thể hiện trong văn kinh, hoặc còn có ý khác chưa biết.
Nay quán xét trong đoạn kinh văn này có tám bộ chúng. Trước tiên nói về Đế thích rồi đến Tứ thiên vương. Sau đó kể đến loài rồng, cuối cùng là loài chim kim sí [tức ca-lâu-la], ở khoảng giữa nhiều lần kể đến các loài quỷ thần [như khẩn-na-la, càn-thát-bà, a-tu-la]. Vì nghĩa đó nên gọi là tạp chúng.
Không thể nói rõ trật tự trước sau, đó cũng gọi là tạp chúng. Lại trong chúng này có hạng đã chứng đạo, có hạng chưa chứng đạo, quả báo không giống nhau, hình thể cũng không giống nhau, cho nên gọi là tạp.
Trong chúng này lại có hàng chứng đạo Nhị thừa, có trí tuệ vô lậu lẫn lộn với vô minh phiền não, cho nên gọi là tạp.
Trong chúng này lại có hàng chứng đạo Bồ Tát hòa lẫn với đại chúng, cơ duyên lẫn lộn cho nên gọi là tạp.
Trong chúng này có cả hàng chứng đắc Phật đạo, ngay trong một pháp có đủ hết thảy các pháp, cho nên gọi là tạp.
Ý nghĩa tạp là như vậy, không thể dùng hình thể phàm phu thế tục để phân chia, cũng không thể dựa theo năm đường như loài người, chư thiên v.v... để phân chia, cho nên gọi là tạp. Đây là theo giáo nghĩa mà giải thích. Đại lược là như thế.
Thích-đề-hoàn-nhân Nhân-đà-la (Śakra Devānāmindra), cũng đọc là Chiên-đề-la, Hán dịch là Năng Tác, là vị Thiên chủ ở cõi trời Đao-lợi.
Đao-lợi (Trāyastriṃśa), Hán dịch là Tam thập tam thiên (Cõi trời Ba mươi ba). Cõi trời này, về bốn hướng đều có mỗi hướng 8 thành, hợp với thành Hỷ kiến ở giữa là 33 thành, tất cả cùng ở trên đỉnh núi Tu-di.
Tu-di (Sumeru), Hán dịch là An Minh, do 4 món báu hợp thành, cao và rộng mỗi chiều đều 336 vạn dặm.
Vì [Thích-đề-hoàn-nhân] là vị Thiên chủ cõi trời thuộc Dục giới nên kể ra trước.
Trong kinh Tạp A-hàm, quyển 40, nói rằng: “Có một vị tỳ-kheo thưa hỏi Phật, vì sao có tên là Thích-đề-hoàn-nhân? Đức Phật đáp rằng: “[Vị ấy] vốn xưa kia khi làm người thường bố thí một cách cung kính nhiệt thành, có khả năng làm như vậy nên gọi là Thích-đề-hoàn-nhân. [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Phú-lan-đà-la? Phật dạy: “Vì khi làm người rất nhiều lần bố thí.” [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Ma-già-bà? Phật dạy: “Vì đó là tên cũ từ lúc còn làm người.” [Lại thưa hỏi,] Vì sao có tên là Sa-bà-la? Phật dạy: “Vì khi còn làm người hay bố thí loại y có tên đó.” [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Kiều-thi-ca? Phật dạy: “Vì đó là tên họ cũ khi còn làm người.” [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Xá-chi-bát-đê? Phật dạy: “Vì Xá-chỉ là tên người vợ [của Đế-thích] nên gọi theo như vậy.” [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Thiên Nhãn? Phật dạy: “Vì khi [Đế-thích] còn làm người rất thông minh, trong một lúc ngồi yên có thể đồng thời suy nghĩ đến cả ngàn nghĩa lý, quán sát, cân nhắc, suy lường được hết thảy nên gọi là Thiên Nhãn. [Lại thưa hỏi,] vì sao gọi là Nhân-đề-lợi? Phật dạy: “Vì là Thiên đế của cả 32 vị thiên chủ.”
Kinh Anh lạc, quyển 3 nói: “Thiên Đế-thích có tên là Câu-dực.” Đó là nói theo giáo môn. Trong kinh A-hàm, Đế Thích là A-na-hàm. Kinh Bát-nhã nói rõ việc [vị này] thưa hỏi khắp mười phương về nghĩa Bát-nhã, đều gọi tên là Thích-đề-hoàn-nhân.
Biệt giáo và Viên giáo đều nói rõ Thích-đề-hoàn-nhân đạt được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, nhưng nói về chỗ nội chứng thì khác nhau. Vị này trải qua Hiền kiếp 2024 kiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Trước Thế Tôn. Đại lược là như vậy.
Giải thích theo bản tích thì Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng là ba mươi [tầng trời], Thập địa là ba mươi mốt, Đẳng giác là ba mươi hai, Diệu giác [thứ ba mươi ba] là [Thiên] chủ, cùng cư trú nơi cõi trời Đệ nhất nghĩa, cùng uống nước cam lộ thật tướng, tức là nghĩa bản. Hiện ra hình tích là [các tầng trời] trên đỉnh núi Tu-di.
Theo quán tâm thì giải thích rằng: Tự mình hành Thập thiện, khuyên người khác [hành Thập thiện], và tùy hỷ [với người hành Thập thiện]. Ba mươi điều thiện như vậy, tất cả đều là không, đều là giả, đều là trung đạo. Đó là ba mươi ba pháp quán.
Ba vị thiên tử Danh Nguyệt, [Phổ Hương và Bảo Quang] là các vị nội thần [của Thiên đế], cũng giống như hàng khanh tướng [của vua]. Hoặc cũng nói đây là Tam quang Thiên tử, trong đó thiên tử Danh Nguyệt là Bảo Kiết Tường Nguyệt thiên tử, do Bồ Tát Đại Thế Chí ứng hiện, thiên tử Phổ Hương là Minh Tinh thiên tử, do Bồ Tát Hư Không Tạng ứng hiện, thiên tử Bảo Quang là Bảo Ý Nhật thiên tử, do Bồ Tát Quán Thế Âm ứng hiện. Đây là giải thích theo bản tích.
Giải thích theo quán tâm thì ba pháp quán tức là hai trí, ba trí tức là tam quang. Từ Tam đế sinh ra Tam trí, Cho nên “đế” là thiên, “trí” là tử. Đại lược là như vậy.
Tứ đại Thiên vương là những vị ngoại thần của Đế thích, giống như các võ tướng. Các vị này cư ngụ trên bốn ngọn núi báu, cao bằng một nửa núi Tu-di, rộng 24 vạn dặm.
Phương đông là [Thiên vương] Đề-đầu-lại-trá (Dhṛitarāṣṭra) Hán dịch là Trì Quốc [Thiên vương], cũng còn gọi là An Dân, cư trú trên ngọn núi vàng ròng, thống lãnh hai loài quỷ là càn-thát-bà và phú-đan-na.
Phương nam là [Thiên vương] Tỳ-lưu-lặc-xoa (Virūḍhaka), Hán dịch là Tăng Trưởng [Thiên vương], cũng còn gọi là Miễn Ly, cư trú trên ngọn núi lưu ly, thống lãnh hai loài quỷ là bệ-lệ-đa và cưu-bàn-trà.
Phương tây là [Thiên vương] Tỳ-lưu-bác-xoa, Hán dịch là Phi Hảo Báo [Thiên vương], cũng gọi là Ác Nhãn, cũng gọi là Tạp Ngữ, cư trú trên ngọn núi bạch bạc trắng, thống lãnh hai loài quỷ là độc long và tỳ-xá-xà.
Phương bắc là [Thiên vương] Tỳ-sa-môn, Hán dịch là Chủng Chủng Văn [Thiên vương], cũng gọi là Đa Văn, cư trú trên ngọn núi thủy tinh, thống lãnh hai loài quỷ Gồm là la-sát và dạ-xoa.
Mỗi vị thiên vương như trên đều thống lãnh hai loài quỷ, không để cho gây não hại người, cho nên gọi các vị là Thiên vương Hộ Thế.
Giải thích theo bản tích thì bản là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, tức bốn vị Thiên vương hộ trì Phật pháp, không để cho người ngoài lấy đi cành lá hay đốn, chặt phá hoại [cây Phật pháp]. Thường Thiên vương bảo vệ phương đông, có hai cây thường và vô thường. Lạc Thiên vương bảo vệ phương nam, có hai cây lạc và vô lạc. Ngã Thiên vương bảo vệ phương tây, có hai cây ngã và vô ngã. Tịnh Thiên vương bảo vệ phương bắc, có hai cây tịnh và bất tịnh. Cành nhánh là ví như thường, hoa ví như ngã, quả ví như lạc và lá xanh tốt ví như tịnh. Bảo vệ những hoa quả này là vì thường làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Về hình tích hiển lộ là bốn vị Thiên vương bảo vệ giúp đỡ thế gian.
Giải thích theo quán tâm thì trí tuệ quán chiếu tứ đế tức là Tứ thiên vương, Mỗi đế trừ bỏ hai sự mê muội ái kiến, tức là [bốn đế] giúp trừ bỏ tám sự mê muội ái kiến.
Tiếp theo, phía trên cõi trời Đao-lợi có cõi trời Diệm-ma (Yama), Hán dịch là Thiện Thời, trong Đại [Trí độ] luận gọi là cõi trời Diệu Thiện, nằm cách cõi trời Đao-lợi 336 vạn dặm.
Phía trên cõi trời Thiện Thời còn có cõi trời Đâu-suất-đà (Tuṣita), Hán dịch là Diệu Túc, cách xa cõi trời Diệm-ma chỉ như khoảng cách trên mặt đất, nhưng không kể ra mà lược bỏ. Vì sao vậy? Vì cõi trời phía dưới [của Đâu-suất-đà] căn tánh ngu độn, cõi trời phía trên thì đắm say dục lạc mà [cả hai] còn biết đến dự [pháp hội này], huống chi [cõi Đâu-suất-đà] này không ngu độn, không đắm say dục lạc, lẽ nào lại không đến dự. [Cho nên không cần phải kể ra.]
Tự Tại thiên tử là [vị thiên chủ ở] tầng trời thứ năm [của Dục giới], Đại Tự Tại thiên tử là [vị thiên chủ ở] tầng trời thứ sáu. [Hai cõi trời này, một cõi] tự biến hóa ra năm món dục và cõi kia [có thể thỏa mãn với] năm món dục do người khác biến hóa ra. Đại lược là như vậy.
Có người cho rằng Đại Tự Tại ở đây là nói [vị thiên chủ của] tầng trời cao nhất thuộc Sắc giới, nhưng theo ý nghĩa ở đây không thể lên đến tận cõi trời ấy.
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ trong pháp Tam-muội Tự tại và Tam-muội Tự tại vương, còn hình tích biểu hiện là hai cõi trời [Hóa lạc và Tha hóa tự tại].
Giải thích theo quán tâm thì thể nhập vào không là pháp quán Tự Tại, thể nhập vào Trung đạo là pháp quán Đại Tự Tại. Đại lược là như thế.
Tiếp đến nói về cõi trời Sắc giới, [cao nhất trong thế giới Ta-bà].
Thế giới Ta-bà, Hán dịch là Nhẫn [độ]. Chúng sanh trong thế giới này chấp nhận sống yên trong 10 điều ác, chẳng chịu thoát ra khỏi. Theo [tính chất] con người [như vậy] mà đặt tên nên gọi là Nhẫn [độ].
Kinh Bi Hoa nói: “Vì sao gọi là Ta-bà? Chúng sanh ở đây nhẫn chịu ba món độc và các phiền não, cho nên gọi là Nhẫn độ.”
Cũng gọi là nơi chung sống hỗn tạp của chín đường chúng sanh.
Chữ Phạm [trong Phạm Thiên vương], Hán dịch là “ly dục”, [nghĩa là lìa bỏ dục lạc]. Trừ bỏ những trói buộc ở cõi đất bên dưới để vượt lên Sắc giới trên cao, cho nên nói là ly dục. Lại cũng xưng là Cao Tịnh, [nghĩa là cao quý thanh tịnh].
[Danh xưng] Thi-khí, Hán dịch là Đảnh Kế, [nghĩa là búi tóc trên đỉnh đầu]. Lại nữa, trong tiếng Phạn gọi lửa là thọ-đề thi-khí. Vị thiên vương này vốn trước đây tu tập phép định Hỏa quang, phá trừ được những mê hoặc ở Dục giới. Theo phẩm đức ấy mà đặt tên [nên gọi là Thi-khí]. Trong kinh văn [chỗ này] nêu tên Phạm vương, rồi lại nói đến Thi-khí [Đại phạm], có vẻ như là hai vị [khác nhau], nhưng dựa vào Thích luận thì biết Thi-khí chính là Phạm vương, chỉ là kinh văn nêu địa vị trước rồi nói tên sau, e rằng đó chỉ là một người thôi.
[Người tu tập] trụ nơi thiền định ở khoảng giữa, bên trong có giác quán, bên ngoài có ngôn thuyết, đạt đến chỗ then chốt chủ yếu được làm Thiên vương. Nếu chỉ có riêng việc tu thiền thì làm dân, tức là chư thiên, có tu tập thêm bốn tâm vô lượng thì làm thiên vương.
Ở cõi trời Sơ thiền có Phạm chúng, Phạm phụ và Đại Phạm, nay chỉ nêu [Thi-khí Đại phạm là] vị vua [đứng đầu] để bao hàm tất cả.
Quang Minh tức là các cõi trời Nhị thiền, gồm có Thiểu Quang thiên, Vô Lượng Quang thiên và Quang Âm thiên.
Cõi Tam thiền có Thiểu Tịnh thiên, Vô Lượng Tịnh thiên và Biến Tịnh thiên.
Cõi Tứ thiền có Mật thân thiên, cũng gọi là Vô quái ngại thiên, Vô lượng mật thiên, cũng gọi là Thọ phúc thiên, Mật quả thiên, cũng gọi là Quảng quả vô tưởng mật thiên, lại cũng gọi là Vô tưởng thiên. Lại có Ngũ Na-hàm thiên gồm Bất phiền thiên, Bất nhiệt thiên, Thiện hiện thiên, Thiện kiến thiên, Sắc cứu cánh thiên, cũng gọi là Đại Tự Tại thiên, tức là Ma-hê-thủ-la thiên. Kinh văn lược nói, không nêu ra đầy đủ, chỉ nói thêm “như vậy” tức là còn nhiều chư thiên như vậy, vì là thông lệ nên dù giải thích theo giáo môn, bản tích hay quán tâm đều có thể tự suy xét biết được.
KINH VĂN
Có 8 vị long vương: Long vương Nan-đà, Long vương Bạt-nan-đà, Long vương Sa-già-la, Long vương Hòa-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca, Long vương A-na-bà-đạt-đa, Long vương Ma-na-tư, Long vương Ưu-bát-la, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội.
Tiếp theo nói đến tám vị Long vương.
[Long vương] Nan-đà, nghĩa là hoan hỷ, chữ Bạt [trong Bạt-nan-đà] có nghĩa là thiện. [Hai vị long vương này là] anh em, thường bảo vệ, giúp đỡ nước Ma-kiệt-đề, mưa nắng phải thời, trong nước không năm nào bị đói thiếu, vua Bình Sa nhân đó mỗi năm mở hội một lần, nhân dân trăm họ nghe đến đều hoan hỷ, do vậy mà có tên Hoan Hỷ, chính là hai con rồng sống trong biển mà trước đây ngài Mục-kiền-liên đã hàng phục.
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ ở Hoan hỷ địa, còn hình tích hiển lộ là [Long vương sống] trong biển.
Theo quán tâm giải thích thì ba pháp quán tức là Trung đạo sanh pháp hỷ.
[Long vương] Sa-già-la là gọi tên theo vùng biển mà vị này cư trú, cũng là tên gọi được dùng trong kinh Hoa nghiêm. Các vị Cựu giải nói là gọi theo tên nước.
[Giải thích theo bản tích thì] bản là trụ trong biển lớn trí tuệ ba-la-mật, còn hình tích hiển lộ là sống trong biển xanh.
[Long vương] Hòa-tu-kiết, Hán dịch là Đa Đầu, nghĩa là có nhiều đầu, lại cũng gọi là Bảo Xưng, sống ở trong nước.
[Giải thích theo bản tích thì] bản là trụ trong Tam-muội Phổ Hiện Sắc Thân, còn hình tích là thị hiện ra [thân rồng] nhiều đầu.
Giải thích theo quán tâm thì nhập vào pháp quán giả nên phân biệt được vô lượng pháp môn. Đại lược là như vậy.
[Long vương] Đức-xoa-ca, Hán dịch là Hiện Độc, cũng gọi là Đa Thiệt (nhiều lưỡi) hoặc Lưỡng Thiệt (hai lưỡi).
[Giải thích theo bản tích thì] bản là trụ trong pháp môn Nhạo thuyết vô ngại biện, còn hình tích là thị hiện ra [thân rồng] nhiều lưỡi.
[Long vương] A-na-bà-đạt-đa là gọi theo tên hồ nước mà vị này cư ngụ, Hán dịch là Vô Nhiệt, tức là hồ Vô Nhiệt.
Kinh Trường A-hàm, quyển 18, nói rằng: “Trên đỉnh Tuyết sơn có hồ nước tên là A-nậu-đạt, trong hồ có một cung điện năm cột trụ. Dựa theo tên hồ mà gọi tên vị Long vương sống trong đó.”
Loài rồng ở trong cõi Diêm-phù-đề có ba mối lo. Một là bị gió nóng thổi cát nóng trúng vào thân, thiêu đốt da thịt cho đến xương tủy, đó là khổ não. Hai là bị gió ác thổi mạnh vào cung điện làm mất đi áo quý che thân, khiến thân rồng tự hiển lộ ra, đó là khổ não. Ba là khi loài rồng đang tụ tập vui chơi thì chim kim sí vào cung, bắt rồng con mới sinh ăn thịt mất, khiến phải sợ hãi, lo lắng phiền muộn. Hồ nước này không có ba mối lo đó. Nếu chim [kim sí] vừa khởi lên ý nghĩ muốn đến hồ này liền lập tức bỏ mạng. Cho nên gọi tên là hồ Vô Nhiệt Não.
[Giải thích theo bản tích thì] bản là vốn trụ nơi trong trẻo mát mẻ của thường, lạc, ngã, tịnh, còn hình tích hiện ra là sống trong hồ nước mát.
Giải thích theo quán tâm thì ba pháp quán [không, giả, trung] là trí tuệ nhiệm mầu, làm lắng sạch năm trụ địa phiền não, tránh khỏi cát nóng của hai sự chết.
[Long vương] Ma-na-tư, Hán dịch là Đại Thân, hoặc là Đại Ý, Đại Lực... [Khi đánh nhau với Đế-thích, vua] A-tu-la dùng nước biển làm ngập thành Hỷ Kiến, vị Long vương này hiện thân [to lớn] quấn vòng quanh thành ngăn được nước biển [để giúp Đế-thích].
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ trong pháp môn Vô biên thân, còn hình tích biểu hiện là thân thể to lớn.
Giải thích theo quán tâm thì tánh của pháp quán Trung đạo chân chánh là rộng khắp. Đại lược là như vậy.
[Long vương] Ưu-bát-la, Hán dịch là hồ sen Đại Sắc. Vị này cư trú trong hồ nên gọi theo tên của hồ.
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ nơi Tam-muội Pháp Hoa, còn hình tích biểu hiện là [thân rồng] cư trú trong hồ này.
Giải thích theo quán tâm thì [tu tập] ba pháp quán [không, giả, trung] tức là tu tạo nhân, nhân ở đây là hoa sen.
Kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Loài rồng bảo vệ bờ cõi cho chư thiên. Khi a-tu-la khởi binh [đánh nhau với chư thiên] thì trước tiên phải đánh nhau với rồng. Cho nên biết rằng, loài rồng thuộc sự cai quản của chư Thiên.”
KINH VĂN
Có bốn vị vua khẩn-na-la: Vua Khẩn-na-la Pháp, Vua Khẩn-na-la Diệu Pháp, Vua Khẩn-na-la Đại Pháp, Vua Khẩn-na-la Trì Pháp, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội.
Tiếp theo kể đến bốn vị [vua] Khẩn-na-la (Kiṃnara), cũng đọc là Chân-đà-la, Hán dịch là Nghi Thần, hình dạng giống như loài người nhưng có một cái sừng, cho nên gọi là “nhân phi nhân” (người chẳng phải người). Đây là thần phụ trách Pháp nhạc của Thiên đế, cư trú ở ngọn núi bằng mười món báu, thân thể hình tướng dị thường, chuyên lo việc tấu nhạc. Khi Đức Phật thuyết pháp [các vị này theo] chư thiên đàn ca xưng tán, trong đại hội Vu-già [các vị này] tán tụng các pháp môn.
Các nhà cựu giải nói: “[Vua] Khẩn-na-la Pháp tấu xưng pháp Tứ đế, [Vua] Khẩn-na-la Diệu Pháp tấu xưng pháp Thập nhị nhân duyên, [Vua] Khẩn-na-la Đại Pháp tấu xưng pháp Lục Độ, [Vua] Khẩn-na-la Trì Pháp tấu xưng tổng quát cả ba pháp vừa kể.” Ngày nay thì nói các pháp tấu xưng đó là pháp môn Tứ giáo.
[Giải thích theo bản tích thì] bản là vốn trụ nơi không thể nghĩ bàn, không ra khỏi Diệt [tận] định, yên ổn trong thiền định mà chắp tay, dùng muôn ngàn lời kệ xưng tán các bậc Pháp Vương, còn hình tích hiển lộ là nhờ vào đàn sáo ca hát để tán vịnh Thập lực.
Giải thích theo quán tâm thì quán hết thảy âm thanh tức là không, tức là giả, tức là trung đạo, tùy thuận theo ba đế tức là xưng tán Phật.
KINH VĂN
Có bốn vị vua càn-thát-bà: Vua Càn-thát-bà Nhạc, Vua Càn-thát-bà Nhạc Âm, Vua Càn-thát-bà Mỹ, Vua Càn-thát-bà Mỹ Âm, mỗi vị đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.
[Tiếp theo nói đến bốn vị vua Càn-thát-bà.] Càn-thát-bà (Gandharva), Hán dịch là Khứu hương (ngửi mùi hương), [loài này] dùng mùi hương làm thức ăn, cũng gọi là Hương ấm, từ thân thể tỏa ra mùi hương. Các vị này là thần chuyên trách Tục nhạc của Thiên đế.
Nhạc Càn-thát-bà chuyên về âm nhạc múa cờ. Nhạc Âm Càn-thát-bà chuyên các loại trống phách đàn sáo. Mỹ Càn-thát-bà cũng chuyên về nhạc múa cờ nhưng vượt trội hơn. Mỹ Âm Càn-thát-bà cũng chuyên các loại trống phách đàn sáo nhưng vượt trội hơn.
KINH VĂN
Có bốn vị vua a-tu-la: Vua A-tu-la Bà-trĩ, Vua A-tu-la Khư-la-kiển-đà, Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la, Vua A-tu-la La-hầu, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.
[Tiếp theo nói đến bốn vị vua A-tu-la.] A-tu-la (Asura), Hán dịch là Vô tửu. [Loài này trước đây] đi hái hoa trong khắp bốn cõi thiên hạ, mang về ủ rượu trong biển lớn, nhưng do nghiệp lực của các loài cá, rồng nên [ủ mãi] không thành mùi vị rượu. Do việc này mà sân hận nổi lên, thề không bao giờ uống rượu nữa, cho nên gọi là thần Vô tửu.
[A-tu-la] lại cũng dịch là Bất Đoan. Ngài Đạo An nói rằng: “[A-tu-la] dịch là Chất Lượng, nghĩa là ‘thành thật chất phác’, vị thần này dua nịnh chẳng thật thà, không tương xứng với danh xưng đó.”
[A-tu-la] có hai loại. Một loại sống ở ven biển lớn, thuộc loài quỷ, một loại sống dưới đáy biển lớn, thuộc loài súc sanh.
[Vua A-tu-la] Bà-trĩ, Hán dịch là Bị Phược, nghĩa là chịu trói buộc, hoặc gọi là Ngũ Xứ Bị Phược, hoặc cũng gọi là Ngũ Ác. Có vật buộc vào cổ không thể cởi ra được cho nên gọi là Bị Phược. Lại cũng nói là Hữu Phược, vì [từng] bị Đế Thích trói buộc.
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn có khả năng dùng năm trói buộc để trói ma ngoại đạo, còn tích là hiện ra hình tượng [a-tu-la] như vậy.
Kinh Chánh Pháp Hoa nói pháp quán thù thắng nhất là dùng trí tuệ Tam quán để buộc chặt năm trụ phiền não, thể nhập thực tế.
[Vua A-tu-la] Khư-la-kiển-đà, Hán dịch là Quảng Kiên Giáp (vai rộng), cũng gọi là Ác Âm, từ trong nước biển vọt lên.
Kinh Chánh Pháp Hoa gọi tên vị này là Bảo Cẩm.
Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ nơi quyền trí và thật trí, lòng từ gánh vác chúng sanh, tích là hiện tướng vai rộng.
Giải thích theo quán tâm đây thì ba pháp quán [không, giả, trung] có thể mở rộng che trùm năm trụ địa phiền não trong biển lớn sanh tử.
[Vua A-tu-la] Tỳ-ma-chất-đa, Hán dịch là Tịnh Tâm, cũng dịch là Chủng Chủng Nghi. Từ trong sóng biển phát ra âm thanh nên gọi là Tỳ-ma-chất-đa, tức là cha của [nữ a-tu-la] Xá-chi, [là vợ của Đế-thích].
Kinh Quán Phật Tam-muội nói rằng: “Chư thiên cõi trời Quang Âm bay ngang đất này, do đất khiến cho lòng dục khởi lên, liền xuống biển tắm để rửa sạch chất bất tịnh. [Chất bất tịnh trôi trong nước] chìm xuống bùn, biến thành quả trứng. Qua 8.000 năm trứng ấy nở ra một người con gái, có 999 cái đầu và 24 cánh tay. Người con gái này vui đùa trong nước, tinh của nước nhập vào thân [liền có thai,] qua 8.000 năm sanh một đứa con trai, có 24 đầu và 999 cánh tay, từ trong sóng biển phát ra âm thanh gọi tên là Tỳ-ma-chất-đa. [Tỳ-ma-chất-đa] cưới người con gái càn-thát-bà, sinh ra nữ a-tu-la Xá-chi. Đế-thích [đến xin cầu hôn, theo yêu cầu của Tỳ-ma-chất-đa liền biến hóa,] do thiện nghiệp [của Đế-thích] liền hiện ra cung điện bằng bảy báu để cha [của nàng Xá-chi] cư ngụ, nhờ đó cưới được Xá-chi về làm vợ. Về sau [do Xá-chỉ nói xấu chồng với cha nên Tỳ-ma-chất-đa tức giận liền] khởi binh [đánh Đế-thích], chân đạp nước biển, [999 cánh] tay cùng lúc vươn tới công phá thành Hỷ Kiến. Đế-thích nhờ uy lực của chú Bát-nhã nên không bị hại.
Kinh Chánh Pháp Hoa gọi tên vị này là Yến Cư.
Giải thích theo bản tích thì bản là hình sắc, tâm ý vốn tự thanh tịnh, còn hình tích là thị hiện có tên [Tịnh Tâm].
Giải thích theo quán tâm thì pháp quán Trung đạo chân chánh tức là “tịnh tâm”, là tâm thanh tịnh.
[Vua A-tu-la] La-hầu (Rāhuasura), Hán dịch là Chướng Trì, [nghĩa là che chướng, nắm giữ], vì loài này nắm giữ, che chướng mặt trời, mặt trăng. La-hầu thuộc loài súc sanh, thân dài 84.000 do-tuần, miệng rộng 1.000 do-tuần, dùng châu báu trang sức trên thân hình, thường ngắm các thiên nữ trong vườn rừng của chư thiên.
Nếu loài người trong bốn cõi thiên hạ biết hiếu dưỡng cha mẹ, cúng dường các bậc sa-môn thì chư thiên có uy lực, [có thể làm] mưa đao trong không trung. Nếu không được như vậy thì chư thiên phải vào ở trong cung chẳng ra bên ngoài.
Lại nói rằng mặt trời chiếu sáng khiến mắt của La-hầu chẳng thể nhìn thấy, liền đưa bàn tay lên che. Người đời đều nói là nhật thực (mặt trời bị ăn), cho là quái lạ hung hiểm, đặt ra đủ loại tà thuyết. [La-hầu] che mặt trăng cũng giống như vậy.
Hoặc khi [La-hầu] phát ra âm thanh rất lớn, người đời nói là tiếng thú trời rống, cho là hung hiểm hỗn loạn, là điềm vương triều suy yếu, đặt ra đủ loại tà thuyết.
Vào lúc La-hầu muốn gây hại cho mặt trời mặt trăng thì hiện thân lớn lên gấp nhiều lần, rồi hà hơi thổi vào mặt trời, mặt trăng. Mặt trời, mặt trăng bị mất ánh sáng liền đến thưa với Phật. Phật dạy La-hầu không được nuốt mặt trời, mặt trăng. La-hầu [nghe lời Phật dạy thì] toàn thân rúng động, toát mồ hôi đầm đìa, liền buông mặt trời, mặt trăng ra. [Đó là do] sức của mặt trời mặt trăng, sức của chúng sanh và oai lực của Phật, đủ các nhân duyên như vậy nên [La-hầu] không thể gây hại.
Xưa có một vị bà-la-môn thông minh, thường bố thí rộng rãi, dùng cả 4.000 chiếc xe chở lương thực ra giữa đồng trống để bố thí [rộng khắp]. [Khi ấy] có một tháp thờ Phật bị kẻ xấu đốt cháy, vị này tức thời dùng cả 4.000 chiếc xe chở nước đến dập lửa, cứu được tháp khỏi cháy. [Nhân làm việc công đức ấy lại] hoan hỷ phát nguyện, rằng sau này sẽ được có thân hình to lớn nhất trong Dục giới. Người ấy hoan hỷ làm việc bố thí nhưng đã không có niềm tin chân chánh, lại ưa thích sự đối chọi, đấu tranh, nên tái sanh vào thành Quang Minh, chính là La-hầu, vua A-tu-la.
Kinh Chánh Pháp Hoa gọi [tên vị này] là Hấp Khí.
Bản tích, quán tâm, [đại lược cũng đều như vậy]...
KINH VĂN
Có bốn vị vua ca-lâu-la : Vua Ca-lâu-la Đại Uy Đức, Vua Ca-lâu-la Đại Thân, Vua Ca-lâu-la Đại Mãn, Vua Ca-lâu-la Như Ý, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.
Tiếp theo nói đến bốn vị vua Ca-lâu-la. Ca-lâu-la (garuḍa), Hán dịch là kim sí (cánh vàng). Loài chim này có cánh màu vàng, sống trên những cây đại thụ trong khắp bốn cõi thiên hạ. Hai cánh chim nối lại dài đến 336 vạn dặm. Có người nói, [loài chim này] Trang Tử gọi là chim bằng. Chim bằng mỗi khi đi đâu thì các loài chim khác vây quanh hộ vệ, cũng gọi là chim phượng hoàng. Nhưng chỉ nói riêng việc chim phượng hoàng khi đi không giẫm đạp trên cỏ tươi, chỉ ăn bông trúc, đậu trên cây nhũ đồng, trong khi chim kim sí thì ăn thịt loài rồng, làm sao có thể đồng loại với nhau.
[Vua Ca-lâu-la] Đại Uy Đức, nghĩa là có uy đức vượt trội hơn trong đồng loại, lại cũng có nghĩa là uy lực nhiếp phục loài rồng.
Kinh Chánh Pháp Hoa gọi tên vị này là Cụ Túc.
[Vua Ca-lâu-la] Đại Thân, nghĩa là thân lớn, đó là nói thân lớn hơn hết trong đồng loại.
[Vua Ca-lâu-la] Đại Mãn, hàm ý là tự mình thường có đủ số rồng để ăn.
[Vua Ca-lâu-la] Như Ý, là do vị này trên cổ có đeo hạt châu như ý [nên gọi tên như vậy].
Kinh Chánh Pháp Hoa gọi tên vị này là Bất Khả Động.
Loài chim ca-lâu-la có thần lực, chim trống biến hóa thành thiên tử, chim mái biến hóa thành thiên nữ, lại biến hóa nơi ở của mình có cung điện xây bằng các món báu, đầy đủ trăm món ăn ngon, nhưng do nghiệp báo nên vẫn ăn thịt loài rồng. [Chim ca-lâu-la] sinh ra từ thai mẹ thì ăn thịt được loài rồng cũng sinh ra từ thai, không thể ăn thịt ba loài rồng sinh ra từ trứng, từ ẩm thấp và từ sự biến hóa. [Chim ca-lâu-la] sinh ra từ trứng thì ăn thịt được hai loài rồng sinh ra từ thai và từ trứng. [Chim ca-lâu-la] sinh ra từ sự ẩm thấp thì ăn thịt được ba loài rồng sinh ra từ thai, từ trứng và từ sự ẩm thấp. [Chim ca-lâu-la] sinh ra từ sự biến hóa thì có thể ăn cả bốn loài rồng.
Kinh Quán Phật Tam-muội nói: [Tên chim này] đọc đúng theo Phạn ngữ là ca-lâu, trong một ngày ăn hết một con rồng chúa và 500 rồng con ở phía đông của núi. Ở ba phía tây, nam, bắc cũng ăn hết số rồng như vậy. Xoay quanh hết một vòng thì quay lại từ đầu, cứ như vậy mà sống đến 8.000 năm. Khi lâm chung thế lực không còn, muốn ăn rồng con nhưng bị rồng mẹ hà hơi bảo vệ, không thể ăn được liền nổi cơn sân hận từ núi Kim Cang lao thấu xuống biển, xuyên qua tầng địa luân, nhưng không thể xuyên qua tầng phong luân, bị sức gió bật ngược lại nên từ đó bay vọt trở lên đến núi Kim Cang. Cứ lao xuống vọt lên như vậy đến bảy lần, về lại trên đỉnh núi thì chết, da thịt rách ra tự nhiên hóa lửa dữ, sắp thiêu cháy cả ngọn núi báu. [Long vương] Nan-đà làm mưa dập tắt lửa. Khi ấy da thịt đều đã bị lửa thiêu chín nhừ, chỉ còn lại trái tim bay xuyên xuống đến tầng phong luân, lại bị dội ngược về, cũng qua bảy lần như thế rồi mới rơi xuống trên núi, hóa thành viên ngọc như ý. Con rồng nào có được viên ngọc này thì thành Long vương. Vua chúa cõi người cũng rung động đối với viên ngọc quý này.
KINH VĂN
Vua A-xà-thế con bà Vi-đề-hi cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc, hết thảy đều đảnh lễ sát chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên.
Tiếp đến nói về [hội chúng cõi] người. Vi-đề-hy (Vaidehī) [là nhắc tên người mẹ của vua A-xà-thế], Hán dịch là Tư Duy. Tần-bà-sa-la (Bimbisāra), Hán dịch là Mô Thật, là [nhắc đến tên] cha của vua A-xà-thế. [Hai người này không có trong chúng hội.]
A-xà-thế (Ajātaśatru) có nghĩa là Vị Sanh Oán (oán thù từ lúc chưa sinh ra), hoặc cũng có tên là Bà-lưu-chi (Balaruci), Hán dịch là Vô Chỉ (không có ngón tay). Những người thân quen gần gũi thì gọi là Thiện Kiến.
[Xét theo bản tích thì] tên gọi Thiện Kiến bản, còn gọi tên Vô Chỉ là biểu hiện hình tích. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “A-xà gọi là chẳng sanh, Thế gọi là oán. Vì tánh Phật không sanh, ắt phiền não oán sanh. Vì phiền não oán sanh, nên không thấy tánh Phật. Phiền não không sanh ắt thấy tánh Phật.”
Lại nữa, A-xà gọi là chẳng sanh, thế là pháp thế gian. Vì tám pháp của thế gian không làm ô nhiễm được nên gọi là A-xà-thế. Đây là nghĩa bản [theo bản tích].
Kinh Phổ Siêu nói: “A-xà-thế sám hối với Bồ Tát Văn-thù nên được pháp nhẫn nhu thuận. Sau khi chết rơi vào địa ngục Tân-trá-la, vừa vào liền ra khỏi ngay, tái sanh lên cõi Phật phương trên, chứng đắc Vô sanh nhẫn. Khi đức Phật Di Lặc ra đời sẽ quay lại thế giới này, hiệu là Bồ Tát Bất Động, về sau sẽ thành Phật, hiệu là Như Lai Tịnh Giới. Hình tích hiển lộ mà còn như thế, há có thể suy lường được căn nguyên bản môn? Khi [đức Phật] thuyết kinh Pháp Hoa, [vua A-xà-thế] dự vào chúng thanh tịnh. Đến lúc [đức Phật] thuyết kinh Niết-bàn lại nêu ra tội nghịch, không khác với việc ngài Ca-diếp trong hội Pháp Hoa được thọ ký mà đến khi thuyết kinh Niết-bàn không được nhận sự phó chúc. Cho nên không thể mê muội nơi hình tích mà nghi hoặc chỗ căn nguyên bản môn.
Giải thích theo quán tâm thì tham ái là mẹ, vô minh là cha, hại diệt cha mẹ ấy nên gọi là nghịch. Nghịch như vậy tức là thuận. [Kinh Duy-ma-cật nói:] “Làm việc trái đạo là thông đạt Phật đạo.”
● Hỏi: Phật thuyết pháp ở cõi người, sao nói số người trong chúng hội ít như thế?
● Đáp: Văn kinh lược nói không ghi ra đầy đủ, nhưng số người như thế thật không phải ít. Kinh nói “cùng với các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương v.v...” [Ở đây cũng tương đương như] trong kinh Vô lượng nghĩa kể ra bốn vị luân vương, quốc vương, đại thần, quốc dân, kẻ nam người nữ... Chúng hội như vậy tất nhiên rất nhiều.
● Hỏi: Tất cả trời, người, quỷ, thần đều đến gặp Phật nghe pháp, nhưng cõi địa ngục và Vô sắc giới không thấy kể ra là có hàm ý gì?
● Đáp: Nay sẽ giải thích rõ ý nghĩa này. Thông thường, lên hay xuống trong sáu đường là do việc trì giới hay phạm giới; gặp Phật hay không gặp Phật là do theo pháp tu tập nhanh gấp hay trì trệ. Nhưng việc trì giới có thô thiển, có tinh tế, cho nên quả báo có hơn kém nhau. Theo pháp tu tập thì có Tiểu thừa, Đại thừa, nên việc gặp Phật cũng có [ý nghĩa] quyền biến hay chân thật.
[Sau đây] có thể tạm phân chia sơ lược việc trì giới và tu tập theo các thừa thành ba bậc [thượng, trung, hạ]. Dựa theo kinh Niết-bàn [lại dùng cách] một câu mở rộng thành 4 câu để giải thích ý nghĩa này thì sẽ rõ ràng.
- Thứ nhất là việc trì giới nghiêm ngặt và sự tu tập theo các thừa tinh tấn gấp rút. (Thừa giới câu cấp.)
- Thứ hai là việc trì giới thiếu nghiêm ngặt nhưng sự tu tập theo các thừa thì tinh tấn. (Thừa cấp giới hoãn.)
- Thứ ba là việc trì giới nghiêm ngặt nhưng sự tu tập theo các thừa thì trì trệ. (Thừa hoãn giới cấp.)
- Thứ tư là việc trì giới thiếu nghiêm ngặt và sự tu tập theo các thừa thì trì trệ. (Thừa giới câu hoãn.)
Nếu luận về trì giới và pháp tu tập hay các thừa theo Thông giáo thì hết thảy pháp lành, hết thảy các pháp quán trí tuệ đều được gọi là giới, cũng đều xem là thừa, là pháp để tu theo. Cõi người, cõi trời [được xếp chung với Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát thành] Ngũ thừa chính là ý nghĩa này. Đạo chung cùng, giới bình đẳng, tất cả đều là ý nghĩa theo Thông giáo.
[Nhưng] nay sẽ phân chia theo Biệt giáo [để giải thích].
Ba quy y, năm giới, mười điều lành, tám trai giới, các luật nghi của người xuất gia, cho đến giữ tâm ý an định cùng với việc thường ngăn phòng thân, miệng, đều ngăn được việc rơi vào đường ác và sẽ được quả báo sinh trong hai cõi trời, người. Những điều như vậy gọi là giới.
Nếu nghe kinh hiểu nghĩa, rồi quán xét bằng trí tuệ, suy xét các pháp tứ đế, thập nhị nhân duyên, lục độ, sanh diệt, vô sanh diệt v.v... [Nhờ đó] trí tuệ có thể phá trừ phiền não, dần dần ra khỏi ba cõi. Những điều như vậy gọi là tu tập theo các thừa.
Cho nên, Đại phẩm nói: “Việc thiện có hình tướng thì không động, không xuất; việc thiện không hình tướng thì thường động, thường xuất.” Tức là ý nghĩa như vậy.
[Thứ nhất], nếu việc trì giới nghiêm ngặt và sự tu tập theo các thừa tinh tấn gấp rút, [lại có ba trường hợp].
1. Nếu trì giới nghiêm ngặt ở bậc hạ thì được quả báo trong cõi người. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Tiểu thừa thì trong khi được thân người ấy lại được gặp lúc thuyết giảng ba tạng giáo pháp, được gặp Phật nghe Pháp. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Trung thừa thì trong khi được thân người ấy gặp được lúc thuyết giảng Đại thừa Thông giáo cho đến các kinh phương tiện Đại Thừa, được gặp Phật nghe Pháp. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Thượng thừa thì trong khi được thân người ấy gặp được các giáo pháp Hoa Nghiêm, Pháp Hoa v.v... cũng như các giáo pháp Trung đạo của Viên giáo, được gặp Phật nghe Pháp, được dự vào thính chúng cùng nghe thuyết pháp.
2. Nếu trì giới nghiêm ngặt ở bậc trung thì quả báo sinh làm chư thiên ở các cõi trời Dục giới. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Tiểu thừa thì trong khi được thân chư thiên Dục giới đó lại gặp được lúc thuyết giảng ba tạng giáo pháp, được gặp Phật nghe Pháp, ngoài ra như trên đã nói. Đối với việc tu tập theo Trung thừa, Thượng thừa cũng đều giống như trên đã nói.
3. Nếu trì giới nghiêm ngặt ở bậc thượng, cộng thêm tu thiền định thì quả báo được sinh làm chư thiên ở các cõi trời Sắc giới và Vô sắc giới. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Tiểu thừa thì trong khi được thân chư thiên ở cõi trời Sắc giới, Vô sắc giới đó lại gặp được lúc thuyết giảng ba tạng giáo pháp, được gặp Phật nghe Pháp. Đối với việc tu tập theo Trung thừa, Thượng thừa cũng đều giống như trên đã nói.
Đến đây giải thích xong điều thứ nhất.
[Thứ hai], việc trì giới thiếu nghiêm ngặt nhưng sự tu tập theo các thừa thì gấp rút. Nếu việc trì giới ở cả ba bậc hạ, trung và thượng đều thiếu nghiêm ngặt thì quả báo là rơi vào ba đường ác: [địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sinh]. Khi ấy nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Tiểu thừa thì trong lúc thọ thân trong ba đường ác được gặp lúc thuyết giảng ba tạng giáo pháp, được gặp Phật nghe Pháp. Đối với việc tu tập theo Trung thừa, Thượng thừa cũng đều giống như trên đã nói.
Đến đây giải thích xong điều thứ hai.
[Thứ ba], việc trì giới nghiêm ngặt nhưng sự tu tập theo các thừa thì trì trệ. Nếu việc trì giới nghiêm ngặt ở cả ba bậc thượng, trung và hạ thì [có thể] thọ thân trong hai cõi trời, người thuộc Dục giới cũng như chư thiên Sắc giới và Vô sắc giới. Do sự tu tập theo cả ba thừa đều trì trệ nên tuy gặp lúc Phật ra đời thuyết giảng giáo pháp ba thừa, nhưng vì tham ái đắm chấp nơi quả báo hoan lạc, đam mê năm món dục mà không được thấy Phật, nghe pháp. [Vào thời Phật] ở ngay trong nước Xá-vệ có ba trăm ngàn gia đình không được gặp Phật, nghe pháp, cũng giống như chư thiên tham đắm dục lạc trong ba cõi.
Đến đây giải thích xong điều thứ ba.
[Thứ tư], nếu việc trì giới thiếu nghiêm ngặt và sự tu tập theo các thừa đều đều trì trệ thì thọ quả báo trong ba đường ác, không gặp Phật, không được nghe pháp.
Đến đây giải thích xong điều thứ tư.
Trong kinh này không nêu ra chúng sanh địa ngục là vì ngăn cách bởi việc trì giới không nghiêm ngặt phải chịu quả báo khổ não nặng nề, lại tu tập theo Thượng thừa trì trệ nên không thể được gặp Phật, nghe Pháp trong hội Pháp Hoa. Những kinh khác có kể đến chúng sanh địa ngục, đó là những chúng sanh biết tu tập tinh tấn gấp rút theo Tiểu thừa, Trung thừa.
Trong kinh này lại cũng không đề cập đến chư thiên cõi Vô sắc là vì họ trì giới nghiêm ngặt ở bậc thượng nên được thân chư thiên nhưng đắm say mùi vị thiền định, tu tập theo Thượng thừa trì trệ nên không thể được gặp Phật, nghe pháp trong hội Pháp Hoa. Những kinh khác có nói đến chư thiên Vô sắc giới, đó là những vị biết tu tập tinh tấn gấp rút theo Tiểu thừa, Trung thừa.
Nếu hiểu rõ được ý nghĩa như trên thì đem áp dụng vào hết thảy tám bộ chúng như trời, rồng... đều sẽ rõ biết được nhân duyên trước đây đã [trì giới và tu tập] nghiêm ngặt hay không nghiêm ngặt, tinh tấn hay trì trệ. Từ đó có thể hiểu được ý nghĩa vì sao có những loài nào đến hoặc không đến [pháp hội này]. Giảng rộng ra thì như trong sớ giải Tịnh danh.
Lại nữa, rõ biết ý nghĩa quyền biến mới dẫn đến nghĩa chân thật. Ý nghĩa bản tích trở nên sáng tỏ. Đem ý nghĩa này mà xét các quán hạnh đã qua thì nhân quả ba đời đều sáng tỏ có thể rõ biết.
“Hết thảy đều đảnh lễ sát chân Phật [rồi lui lại ngồi sang một bên].” Câu cuối cùng này tổng kết lại phần hội chúng vân tập.
Giải thích phần Biệt tự
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn có bốn chúng đi nhiễu quanh, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, vì các vị Bồ Tát giảng thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Phật thuyết kinh ấy xong, ngồi kết già nhập Tam-muội Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm chẳng động.
Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn...” cho đến hết Phẩm Tựa này gọi là Biệt tự (Tựa riêng). Phần Biệt tự này trình bày năm ý nghĩa. Thứ nhất là đại chúng vân tập, thứ hai là hiện điềm lành, thứ ba là có niệm nghi ngờ, thứ tư là thưa hỏi và thứ năm là giải đáp.
Theo ngài Quang Trạch thì sự sinh khởi có hai chiều thuận, nghịch. [Chẳng hạn như nói] do đại chúng vân tập cho nên hiện điềm lành, cho đến do thưa hỏi nên có sự giải đáp. [Lại nói nghịch chiều] rằng sự giải đáp là vì thưa hỏi, cho đến hiện điềm lành là do đại chúng vân tập. Đó là xem xét ý nghĩa duyên khởi theo nhiều chiều hướng, [mọi sự việc đều] liên quan gắn bó chặt chẽ với nhau. [Nhưng như vậy thì] ý chính của bài tựa tự nó vẫn chưa được làm rõ. Nói thẳng vào nhân duyên, một cách giải thích mà tự nó còn không rõ, huống nữa là hai, ba, bốn cách, nên rốt cùng không có chủ ý khuynh hướng nào cả.
Nay làm rõ bốn điểm [quan trọng] nhất trong năm ý nghĩa ở phần biệt tự này. Trong ý nghĩa đại chúng vân tập thì quan trọng nhất là chúng hội cõi người. Trong ý nghĩa hiện điềm lành thì quan trọng nhất là lý. Trong ý nghĩa có niệm nghi thì quan trọng nhất là hành. Trong hai ý nghĩa thưa hỏi và giải đáp thì quan trọng nhất là giáo pháp. Đây là giải thích theo nhân duyên.
Giải thích theo ước giáo thì phần biệt tự này là chính, không riêng thuộc về Tạng giáo, không phải Thông giáo cũng chẳng phải Biệt giáo, do vậy có thể xem là thuộc Viên giáo. Lược nói theo bản tích, phần biệt tự này nếu lấy bốn nghĩa chính theo chỗ nhân địa bản lai trong phẩm [Như Lai] Thọ Lượng thì có thể tự hiểu, không cần ghi chép ra đây. Theo quán tâm cũng có thể giải thích được. Đại lược là như vậy.
Phần đại chúng vân tập lại có hai phần phụ. Trước là hiển lộ uy nghi của đại chúng, thứ đến là việc đại chúng cúng dường. Luận Pháp Hoa ở mục này cho rằng uy nghi nghĩa là an trụ đúng như pháp.
“Bốn chúng đi nhiễu quanh”
Về nghĩa bốn chúng, các nhà cựu giải nói là gồm xuất gia hai chúng và tại gia hai chúng, hợp lại thành bốn chúng. Như vậy là [chỉ nêu được] ý nghĩa một phần, không bao quát hết.
Nay lấy mỗi một chúng mở rộng thành bốn chúng, đó là chúng phát khởi, chúng đương cơ, chúng ảnh hưởng và chúng kết duyên.
Chúng phát khởi là những vị có trí tuệ soi xét rõ biết, quyền biến khéo léo, biết căn cơ thích hợp, biết thời điểm thích hợp, có thể khua trống dựng cờ, phát động [Phật sự], thành tựu lợi ích đầy đủ [cho chúng sanh], giống như voi mẹ quỵ hai chân xuống cho voi con được [bú] no. Nói phát khởi nghĩa là làm cho đại chúng vân tập lại để phát khởi điềm lành, cho đến phát khởi sự thưa hỏi, giải đáp. Những vị làm được như vậy đều gọi là chúng phát khởi.
Chúng đương cơ là những vị đã từng gieo trồng cội gốc phúc đức, nay hội đủ nhân duyên, đến thời điểm thành thục, ví như ung nhọt đã chín mùi sắp vỡ, nên ngồi yên không đứng dậy mà vừa nghe pháp liền chứng đạo. Những vị như vậy gọi là chúng đương cơ.
Chúng ảnh hưởng là những vị Bồ Tát pháp thân từng tu tập trước chư Phật quá khứ xa xưa, nay tự giấu kín chỗ viên mãn cùng cực của mình để theo trợ giúp [sự giáo hóa của] đấng Pháp vương, giống như các vì tinh tú vây quanh mặt trăng. Tuy không làm gì nhưng [tự nhiên tạo ra] lợi ích cực kỳ lớn lao. Những vị như vậy gọi là chúng ảnh hưởng.
Chúng kết duyên là những vị không có sức dẫn dắt, cũng chẳng thể tác động đến ai. Nói về đức độ thì cũng không có công năng khuất phục người khác hay gìn giữ sự uy nghiêm. Hơn nữa, những người này trong quá khứ căn cơ cạn cợt, phiền não uế tạp che lấp, ba trí tuệ không thể khởi sanh. Cho nên đời này tuy có được gặp Phật nghe pháp nhưng chẳng được sự lợi ích nào, xét theo cả bốn nghĩa tất-đàn, nhưng chỉ [nhờ việc gặp Phật nghe pháp mà] tạo ra nhân duyên sẽ được hóa độ trong tương lai. Những người như vậy gọi là chúng kết duyên.
[Nay phân chia trong] chúng tỳ-kheo [thành bốn chúng] như vậy, đối với các chúng [tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di] cũng đều [phân ra] như thế. Cộng chung tất cả là 16 chúng.
Giống như vào thời Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, vương tử giảng lại [lời Phật cho đại chúng], đó là chúng phát khởi vào lúc ấy. Những người nghe pháp chứng đạo tức là chúng đương cơ vào lúc ấy. Những người được nghe pháp nhưng chưa được độ thoát, sau đó còn đời đời [tái sinh] gặp nhau, cho đến nay có vị ở trong hàng Thanh văn, tức là chúng kết duyên vào thời ấy. Đức Phật [Đại Thông Trí Thắng] vào thuở ấy đã có đủ 16 chúng, Nay cũng cùng là đạo Phật, lẽ nào lại không có đủ như vậy? Đó là nói 16 chúng theo Viên giáo. Đối với Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo cũng xét theo như vậy thì có thể rõ biết, [ý nghĩa] theo bản tích cũng có thể hiểu được.
Theo quán tâm thì xét kỹ nơi cảnh mà thành quán. Bước vào trong danh tự Quán hành vị tức thành chúng kết duyên, thể nhập Tương tợ vị tức thành chúng đương cơ, thể nhập Phần chân vị tức thành chúng phát khởi, chúng ảnh hưởng. Đại lược là như vậy.
Về ý nghĩa đi nhiễu quanh đức Phật, khi Đức Phật mới ra đời, người đời chưa biết đến giáo pháp, chư thiên cõi trời Tịnh Cư liền giáng hạ, hóa hình giống như loài người, đến [chỗ Phật] rồi liền đi nhiễu quanh về bên phải [để bày tỏ] sự kính lễ. Kính lễ rồi liền ngồi xuống nghe thuyết pháp. Nhân nơi chư thiên kính lễ [theo cách đó] nên loài người cũng lấy đó làm khuôn mẫu noi theo. Đó là giải thích theo nhân duyên.
Đi nhiễu quanh, đó là oai nghi đi vòng quanh [lễ Phật], biểu thị bốn cửa vào đạo tùy cơ duyên linh hoạt đều thấy được chân lý viên mãn. Lấy chỗ viên mãn so với thiên lệch mà có bốn nghĩa, đây là giải thích theo giáo môn. Lại nữa, thân Phật bao quanh đều là tướng hảo trang nghiêm, khi đi vòng quanh chiêm ngưỡng thì tăng thêm sức định niệm Phật, đây tức là giải thích theo quán tâm.
Giải thích theo bản tích thì quán sắc thân của Phật liền thấy được pháp thân.
“Cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán”
Về ý nghĩa cúng dường, [nói chung thì] thông qua ba nghiệp [thân, khẩu, ý] đều gọi là cúng dường. Nói riêng thì cúi mọp lễ lạy gọi là cung kính, chí thành niệm tưởng gọi là tôn trọng, dùng lời tốt đẹp ngợi khen xưng tán gọi là tán thán, mang những gì thuộc y báo của mình mà hiến tặng gọi là cúng dường. Ở đây kinh văn chỉ nói sơ lược, nếu đầy đủ thì phải nói rộng ra như trong kinh Vô lượng nghĩa, dùng thức ăn từ cõi trời, hương thơm cõi trời, bình bát cõi trời để dâng lên gọi là cúng dường. [Trong kinh Vô lượng nghĩa nói rằng], Bồ Tát Đại Trang Nghiêm cùng với tám vạn Đại Bồ Tát cùng nhau chắp tay, tức là cung kính, một lòng chiêm ngưỡng, tức là tôn trọng, đọc bài kệ theo thể thất ngôn, đó gọi là tán thán.
Nay nói về việc đại chúng vân tập là chỉ đến kinh văn trong kinh Vô lượng nghĩa. Trong kinh Vô lượng nghĩa nói việc đại chúng vân tập nghe thuyết pháp xong vẫn nghiêm trang ngồi lại mà không xưng tán Phật, vì cũng tại pháp hội này tiếp tục giảng thuyết kinh Pháp Hoa. Cho nên biết rằng ý nghĩa cúng dường thông qua ba nghiệp [thân, khẩu, ý] không có gì sai khác, nên dùng kinh văn Vô lượng nghĩa để giải thích rộng chỗ nói lược ở kinh này không có gì sai.
“Vì các vị Bồ Tát giảng thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa”
Từ câu “vì các vị Bồ Tát giảng thuyết kinh Đại Thừa” cho đến hết phần “dùng xá-lợi Phật dựng tháp bảy báu [phụng thờ]” đều là những tướng thị hiện trong phần tựa này. Ngài Pháp Dao giải rõ có 7 điềm lành, tại cõi này mở ra sáu [điềm], nơi cõi khác hợp lại một [điềm]. Ngài Quang Trạch thì cho rằng cõi này và cõi khác, mỗi nơi đều hiện đủ sáu điềm lành. Sáu điềm lành ở cõi này, tướng động là thuyết pháp độ người, tướng tịnh là nhập định quán lý, động với tịnh là một cặp theo nhau. Từ trên trời mưa xuống bốn loại hoa quý, dưới đất có sáu loại chấn động, trên với dưới là một cặp theo nhau. Trong tâm đại chúng hoan hỷ, bên ngoài Như Lai phóng hào quang chiếu sáng, trong với ngoài là một cặp theo nhau. Nay cứu xét kinh văn làm có thể tận cùng ý nghĩa như ngài Quang Trạch. Nếu nắm giữ nơi danh tự thì ý nghĩa dễ cứu xét, nhưng hàm ý biểu thị [của điềm lành] thì tự mình hoàn toàn chưa sáng tỏ. [Cho nên] nay sẽ giảng rõ thành ba cặp theo nhau gồm trí với định, nhân với quả, cảm với ứng.
Trí là chỉ nơi một [nghĩa] mà nói thành nhiều [nghĩa], định thì xét kỹ nơi ý nghĩa của duyên. Nhân là mưa hoa trời [tán thán] bốn giai vị, quả là cõi đất chấn động sáu nơi. Cảm là sự phát khởi căn cơ Đại thừa, ứng là nơi tướng bạch hào [của Phật] liền phóng quang soi chiếu đến. Sáu điều ấy đều gọi là điềm lành.
Kinh văn nói: “Tướng ngày nay giống điềm lành thuở xưa.” Điềm lành tức là tướng. Do lòng người phân biệt nên đối với những điềm báo ẩn mật cho là điềm lành, đối với sự hiển lộ khác lạ [nhìn thấy được] cho là tướng. Vậy tướng ấy biểu lộ cho biết những gì? Chân lý nhiệm mầu sâu xa uẩn áo, giảng thuyết ra là điều cực kỳ khó khăn, mà lòng người thì phân tán dao động, không thể khởi tâm tôn kính trân trọng [giáo pháp]. Do vậy, trước tiên hiện tướng khác lạ để khiến cho lòng người kính sợ mà thay đổi. Lòng người đã thay đổi rồi mới có thể sinh tâm kính ngưỡng khao khát [Chánh pháp]. Cho nên dùng nghĩa khác lạ để giải thích hiện tướng, dùng nghĩa biểu lộ cho biết để giải thích điềm lành.
[Tiếp theo] lược nói về sáu điềm lành biểu lộ báo trước mười điều vi diệu, hay Thập diệu. Trong cảm ứng diệu đã nói, nay lại nói thêm.
1. Điềm lành thuyết pháp là biểu lộ báo trước về thuyết pháp diệu và trí diệu [trong pháp hội này].
2. Điềm lành [Phật] nhập định là biểu lộ báo trước về hành diệu.
3. Điềm lành mưa hoa [trời] là biểu lộ báo trước về vị diệu.
4. Điềm lành cõi đất chấn động là biểu lộ báo trước cảnh giới diệu và thừa diệu.
5. Điềm lành đại chúng hoan hỷ là biểu lộ báo của trước về quyến thuộc diệu và lợi ích diệu.
6. Điềm lành [đức Phật] phóng hào quang là biểu lộ báo trước về cảm ứng diệu và thần thông diệu.
Cho nên sáu loại điềm lành như vậy đều được gọi là tướng biểu hiện của phần tựa này.
[Đức Phật] giảng thuyết kinh Đại thừa, theo kinh Thiện Giới, [kinh điển Đại thừa] có 7 điều lớn lao nên được gọi là đại.
Thứ nhất là pháp lớn lao, nghĩa là lớn lao nhất trong 12 bộ kinh nên được xưng là phương quảng (vaipulya, tỳ-phật-lược), [nghĩa là rộng lớn].
Thứ hai là tâm lượng lớn lao, là nói việc [phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác] cầu quả vị Bồ-đề [rất lớn lao].
Thứ ba là sự giảng giải lớn lao, là nói việc giảng giải rõ [kinh Phương quảng trong] Bồ Tát tạng.
Thứ tư là thanh tịnh lớn lao, là nói Bồ Tát phát tâm rồi luôn giữ tâm thanh tịnh [mãi cho đến khi chứng đạo Bồ-đề, cho nên gọi là thanh tịnh lớn lao].
Thứ năm là trang nghiêm lớn lao, là nói Bồ Tát có đầy đủ công đức trang nghiêm và trí tuệ trang nghiêm nên gọi là lớn lao.
Thứ sáu là thời gian lớn lao, là nói Bồ Tát vì cầu đạo Bồ-đề mà khó nhọc tu hành trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp, cho nên gọi là thời gian lớn lao].
Thứ bảy là sự đầy đủ lớn lao, là nói Bồ Tát có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp để tự trang nghiêm, chứng quả Bồ-đề, [cho nên gọi là sự đầy đủ lớn lao].
Sáu điều lớn lao kể trước là nhân lớn lao, điều thứ bảy là quả lớn lao. Nhân lớn lao và quả lớn lao hợp thành kinh điển Đại Thừa [lớn lao].
Nay đem ý nghĩa của thập diệu để giản lược nghĩa kinh thì có thể hiểu được. Ngài Đạo Sinh nói: “Giáo lý về Không và Vô tướng là căn bản của Đại thừa. [Như Lai] giảng nói giáo pháp ba thừa là để chờ đợi, nếu đưa ra ngay giáo pháp Đại thừa chúng sanh không thể tin nhận. Cho nên nói vô tướng là tựa của Pháp Hoa.” Ngài Tuệ Quán cũng đồng ý như vậy.
Nhưng nếu như vậy thì lẽ ra các kinh Bát-nhã, Tịnh Danh (Duy-ma-cật) cũng đều có tựa giống như vậy, sao chỉ riêng một kinh Vô lượng nghĩa?
Ngài Đạo Sinh giải thích rằng: “Do 5 thời thuyết giáo nên sau cùng mới đưa ra giáo nghĩa này.”
Lại hỏi: “Nếu là như vậy thì kinh Vô lượng nghĩa với các kinh khác đều thông suốt, cùng nhau sinh ra, đâu chỉ giới hạn nơi phần biệt tự này?”
Cơ sư nói: “Lẽ không vốn không hình tướng cho nên nói là vô lượng.” Ý của lời tựa cũng đồng như trước, chỗ chất vấn lại cũng như vậy.
Ấn sư nói: “Điều lành không hình tướng có nghĩa thành Phật, cho nên nói là vô lượng.” Lại cũng nói rằng: “Kinh Vô lượng nghĩa không nói có ba thừa hoặc không có ba thừa, nên có sự khác biệt.”
Đại phẩm [Bát-nhã] không phải tông chỉ của Pháp Hoa. Tông chỉ [Vô lượng nghĩa khi ấy] chưa vào đất nhà Tần. Nay xét rằng kinh này là vào đời [Lưu] Tống, niên hiệu Nguyên Gia năm thứ ba (426), Tỳ-kheo Tuệ Biểu gặp ngài Đàm-ma-da-xá ở chùa Triều Đình thuộc quận Nam Hải mà nhận được, mang về núi Võ Đang. Đến [đời Nam Tề], niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ ba (485) mới bắt đầu lưu truyền. Kinh đã đến đây rồi, đâu có lẽ nào mang trở lại Thiên Trúc?
Ngài Quang Trạch nói: “Kinh Vô lượng nghĩa lấy việc hợp nhất muôn điều lành có thể thành tựu Phật đạo. Kinh Pháp Hoa giảng rõ nghĩa không có hai thừa, không có ba thừa, phá ba thừa để dạy một thừa [duy nhất là Phật thừa], đó là chỗ khác. Cho nên lấy đây làm phần tự.”
Nếu nói muôn điều lành hợp nhất thì hai [thừa], ba [thừa] sao chẳng hợp nhất? Còn nếu hai [thừa], ba [thừa] đều hợp nhất tựa thì chính này không khác. Nếu nói nghĩa phá hai [thừa], phá ba [thừa], vậy sao không phá cả muôn [điều lành]? Phá hai [thừa], ba [thừa] thì không còn hai [thừa], ba [thừa], nếu phá cả muôn điều lành ắt không có lời tựa này. Dùng [nghĩa] kinh để chứng minh ý khác biệt lại thành ra không khác. Ý khác chẳng thể làm rõ lời tựa được. Nghĩa ấy lại chẳng thành.
Lưu Cầu chú giải rằng: “Vô tướng là gốc. Một pháp vô tướng bao hàm ý nghĩa không suy lường. Nếu hàm nghĩa không suy lường tức là hữu tướng, sao nói là vô tướng?”
Tìm hiểu qua các bậc thầy thì mỗi vị thiên về một cách khác nhau. Nếu nói điều thiện có hình tướng có nghĩa thành Phật thì đó là giải thích theo Tạng giáo. Nếu nói điều thiện không hình tướng có nghĩa thành Phật thì là theo Thông giáo. Nếu nói pháp hàm nghĩa không lường thì là nghĩa của Biệt giáo. Hết thảy đều là làm rõ ý các kinh khác, chẳng phải ý của lời tựa Pháp Hoa.
Như trong luận Pháp Hoa kể ra 17 tên gọi, đều là những tên khác của kinh Pháp Hoa. Vô Lượng Nghĩa là một tên khác của Pháp Hoa. Nay luận theo ý Phật trực tiếp nói ra tên kinh này, lại nhập định cũng gọi theo tên này, cho nên được xem là phần tự.
Lại như các kinh Đại Phẩm [Bát-nhã], Kim Quang Minh, Niết Bàn, tất cả đều nêu tên trước, đối với phần tựa này không ngăn ngại gì. Nay trong kinh này Ngài Văn-thù dẫn việc các đức Phật xưa kia cũng gọi tên Vô Lượng Nghĩa, sau đó cũng nói sẽ thuyết kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa. Đây cũng lại là nêu tên kinh trong lời tựa, phù hợp với ý nghĩa trong luận [Pháp Hoa].
Nay căn cứ theo [nội dung] kinh Vô lượng nghĩa để giải thích. [Kinh văn nói:] “Vô lượng nghĩa ấy là từ một pháp sinh ra. Một pháp đó là nói vô tướng. Vô tướng, không có tướng nên gọi là thật tướng.” Từ nơi thật tướng đó sinh ra vô lượng pháp, đó là nói hai pháp, tam đạo, tứ quả.
Bây giờ sẽ giải thích đoạn kinh văn này.
Vô tướng là nói không có tướng sống chết. Bất tướng là nói không có tướng Niết-bàn. Niết-bàn lại cũng là không, cho nên nói không có tướng vô tướng, chỉ Trung đạo là thật tướng.
Hai pháp tức là đốn và tiệm. Đốn là nói hết thảy các pháp đốn trong Hoa Nghiêm, còn tiệm là nói hết thảy các pháp trong ba tạng [giáo điển] gồm các kinh Phương đẳng, Bát-nhã. Tam đạo là nói Tam thừa, [Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát]. Tứ quả là nói A-la-hán, Phật Bích-chi, Bồ Tát và Phật. Hết thảy những pháp ấy gọi là vô lượng.
Thật tướng là nghĩa xứ, từ một nghĩa xứ này tạo ra vô lượng pháp, đem vô lượng pháp nhập vào một nghĩa xứ để làm [nghĩa của] lời tựa này. Ví như người giỏi toán, từ một phép tính phân chia thành nhiều phép tính, lại loại trừ nhiều phép tính [để gộp lại] thành một phép tính. Có phân chia nên có loại trừ [để gộp lại], thành [nghĩa của] lời tựa. Từ một phân thành nhiều, từ nhiều thâu về một, mở ra rồi hợp lại, [ý nghĩa] phần tự này cũng là như vậy.
Nêu lên như vậy để giải thích, không trái với luận giải kinh Vô lượng nghĩa mà cũng phù hợp với kinh này. Đại lược là như vậy.
Lại nữa, bài kệ tán Phật trong kinh Vô lượng nghĩa nêu rõ pháp thân Phật lìa xa hết thảy mọi hình tướng, động tĩnh, sáng tỏ rõ ràng mà ứng hiện ra thân một trượng sáu thước sáng rực màu vàng tía.
Kinh Quán Phổ Hiền giảng rõ bốn trụ xứ của các ba-la-mật là thường, lạc, ngã, tịnh. Trước sau dẫn hai [bản kinh] đều nói là thường, đâu có lý nào ở khoảng giữa nói thọ lượng [của Như Lai] lại không phải thường?
Lại có người chất vấn: “Phần tự đã nói lẽ thường, vậy chánh [văn kinh] còn nói gì nữa?”
Nay xin hỏi ngược lại: “Trong kinh Niết-bàn, phẩm Thuần-đà là phần tự. [Phẩm này] đã khai mở lẽ thường, vậy [hãy xét xem] kinh văn còn nói gì?”
Người kia lại nêu ví dụ, phần tự của kinh Tịnh Danh nêu rõ [pháp thân] kim cang [thường trụ] vô vi vô số, nhưng trong phần kinh văn không nói lẽ thường. Kinh Pháp Hoa này lẽ ra cũng là như vậy.
Nay xin hỏi ngược lại: “Phần tự là phẩm Thuần-đà đã nói lẽ thường, [nếu hiểu như trên thì] phần kinh văn Niết-bàn lẽ ra không nói lẽ thường. Nay lập luận rằng phần tự nói lẽ thường, kinh văn cũng nói lẽ thường thì đâu có gì để nghi ngờ.”
“Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm”
Nói về pháp giáo hóa hàng Bồ Tát, vô lượng các nghĩa xứ đều dùng để giáo hóa các Bồ Tát. Nghĩa xứ tức [thật tướng], là lẽ chân thật rốt ráo. Phần sau có nói: “Khiến cho hết thảy chúng sanh đều đạt được đạo này.” Lại nói: “Nếu tôi gặp bất cứ chúng sinh nào, đều giáo hóa cho hết thảy trọn thành Phật đạo.” Đều là cùng một ý nghĩa như vậy.
Nói “Phật sở hộ niệm” nghĩa là vô lượng các nghĩa xứ ấy đức Phật đều đã tự mình chứng đắc, cho nên đều là chỗ Như Lai hộ niệm.
Phần sau lại nói: “Đức Phật tự mình trụ nơi Đại thừa, tuy muốn khai thị nhưng chúng sanh căn tánh trì độn [e rằng không hiểu được], nên Phật suy ngẫm chuyện này rất lâu, chưa vội thuyết giảng.” Do vậy nói là hộ niệm.
“Phật thuyết kinh ấy xong, ngồi kết già nhập Tam-muội Vô Lượng Nghĩa Xứ”
Đức Phật thuyết giảng kinh [Vô lượng nghĩa] rồi, liền nhập Tam-muội Vô lượng nghĩa xứ, tức là trí tuệ và định lực cùng thành tựu. Chẳng phải là thiền không trí tuệ, nên trước phải nhập định. Chẳng phải là trí tuệ không có thiền, cho nên trước phải thuyết pháp. Ngay nơi trí mà định, ngay nơi định mà trí, trước hay sau, nhập hay xuất đều chẳng có gì ngăn ngại cách trở.
Có người khởi tâm nghi ngờ hỏi rằng: “Nếu chưa thuyết giảng kinh Vô lượng nghĩa thì có thể nhập phép định này, còn đã thuyết giảng kinh này rồi thì tại sao lại nhập định?
Giải thích rằng: “Như [đức Phật] trước tiên nhập vào định này, sau đó mới thuyết giảng kinh là điều có thể hiểu được. Nhưng thuyết giảng kinh này rồi lại nhập định, chính là vì để tạo thành phần tự cho kinh Pháp Hoa. Vì sao vậy? Nếu trước không khai mở thì về sau ắt không có hợp lại. Trước tiên nhập định khai mở vì [để có] định hợp lại về sau mà thành phần tự. Gọi là điềm lành tức là ở nghĩa này. Nếu theo thứ tự thì trước nhập tam-muội Vô lượng nghĩa xong rồi, lẽ ra nên nhập tam-muội Pháp Hoa. Nếu kinh văn nêu ra sáng tỏ rõ ràng thì đại chúng đều biết, đâu cần đợi đến khi Bồ Tát Di-lặc ân cần thưa hỏi, ngài Văn-thù thận trọng trình bày. Cho nên biết rằng có phần tự này là để ý nghĩa trở nên sáng tỏ hơn.
“Thân tâm chẳng động”
Thân tâm chẳng động, là nói việc tương ưng với chỗ duyên theo. Cội nguồn của thân vốn rỗng rang như hư không. Tánh lý của tâm rốt ráo thường vắng lặng. Thân thể và tay chân của [đức Phật] Đại Thông Trí Thắng thường tịch tĩnh an nhiên bất động, tâm ngài cũng điềm nhiên vắng lặng, không hề có sự tán loạn. Thân [kiên định] như kim cương, không thể lay chuyển động. Tâm như hư không thì không có sự phân biệt. Nhờ pháp tam-muội Vô lượng nghĩa xứ hộ trì thân tâm cho nên bất động.
Gọi là vô lượng, vì phép định này vắng lặng thường soi chiếu, có thể rõ biết thế gian. Từ một pháp này lưu xuất vô lượng pháp. Nếu nói theo nghĩa của phần tự thì thể pháp của thân là vận động, nay làm cho không vận động, thể pháp của tâm là phân biệt, nay làm cho không phân biệt. Như vậy thì ý nghĩa của phần tự đã sáng tỏ.
Hỏi: Điềm lành theo lẽ thì phải là những điều khác thường, nhưng việc thuyết pháp, nhập định là những việc thông thường của Phật, sao lại được xem là điềm lành?
Đáp: Khi thuyết pháp đã xong mà đại chúng không giải tán, tất nhiên có chỗ chờ đợi, cho nên biết rằng phần thuyết pháp trước là để đại chúng vân tập, chờ nghe phần [thuyết pháp] sau. Điều này đặc biệt kỳ lạ, khác với những lần thuyết pháp thông thường, sao có thể nói là chẳng phải điềm lành? Tuy nhập định khai mở mà hàm ý ở nơi định hợp lại, so với những lần nhập định thông thường có khác, sao có thể nói không phải điềm lành?
Lại nữa, ngài Văn-thù dẫn việc các đức Phật xưa kia hiện sáu điềm lành đều có những việc này. Nếu xưa kia chẳng phải điềm lành thì biết lấy gì chứng nghiệm chuyện ngày nay? Chuyện xưa chuyện nay đều giống nhau, có thể dùng sự nhận hiểu của phàm phu mà cho là chẳng phải điềm lành?
Trời mưa xuống bốn loại hoa, rơi trên thân Phật và khắp thảy đại chúng
KINH VĂN
Lúc bấy giờ trời mưa xuống hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, hoa rơi trên thân Phật và khắp thảy đại chúng.
Trời mưa xuống 4 loại hoa, các nhà cựu giải nói hoa màu trắng có hai loại lớn nhỏ và hoa màu đỏ có hai loại lớn nhỏ. Theo kinh Chánh Pháp Hoa thì đó là bốn loại ý hoa, đại ý hoa, phổ hưởng hoa và đại phổ hưởng hoa.
Thích luận, quyển 99, nói rằng: “Hoa trời mầu nhiệm, tên là mạn-đà-la. Lại ở quyển 79 nói rằng: “800 vị tỳ-kheo thành Phật, cõi nước [của các vị ấy] thường có mưa hoa mạn-đà-la năm màu.”
Các nhà cựu giải nói rằng: “Trời mưa xuống hoa màu trắng hai loại lớn nhỏ là biểu thị cho hai chúng tại gia [nam nữ], hoa màu đỏ hai loại lớn nhỏ là biểu thị cho hai chúng xuất gia [tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni]. Nói biểu thị như vậy thì từ xưa đến nay chỉ có nhân mà chưa thấy quả. Nay cho rằng giải thích như vậy thì ý nghĩa hẹp mà không thích hợp.
Nay luận về ý nghĩa của bốn chúng, xét trong Tam tạng kinh luận nói có 16 chúng thì như vậy cũng đã chưa nói hết, huống chi đến [trong ba thừa thì phải đến] 48 chúng. Cho nên gọi [bốn chúng] là hẹp.
Thông thường hiện tướng [mưa] hoa là ngấm ngầm báo cho biết về nhân [đã tạo]. Bốn chúng từ xưa đến nay vốn đã là nhân, đâu cần đợi mưa hoa báo hiệu. Còn nếu là báo cho biết về quả thì lẽ ra trời mưa xuống quả hạt, sao lại là mưa hoa? Cho nên nói là không thích hợp.
Nay nói mưa hoa là làm rõ nhân thuở xưa [của đại chúng], không phải nhân thành Phật. [Nhân của đại chúng ấy,] nhân trong Tạng giáo là nhân Nhị thừa, nhân trong Thông giáo là nhân chung cùng, nhân trong Biệt giáo là nhân Bồ Tát. Tất cả [các nhân đó] đều chẳng phải nhân thành Phật. Nay trời mưa hoa, đó là điềm báo [hết thảy đại chúng] rồi sẽ được nhân thành Phật. Nhơn Nhân thành Phật tức là bốn nhân [biểu thị bằng] bốn bánh xe.
Hoa màu trắng nhỏ tượng trưng cho bánh xe đồng, tức là tập chủng tánh, biểu thị [Thập trụ], khai mở tri kiến Phật.
Hoa màu trắng lớn tượng trưng cho bánh xe bạc, tức là tánh chủng tánh, biểu thị Thập hạnh, chỉ bày hiển lộ tri kiến Phật.
Hoa màu đỏ nhỏ tượng trưng cho bánh xe vàng, tức là đạo chủng tánh, biểu thị Thập hồi hướng, ngộ tri kiến Phật.
Hoa màu đỏ lớn tượng trưng cho bánh xe lưu ly, tức là thánh chủng tánh, biểu thị Thập địa, nhập vào tri kiến Phật.
Bốn bánh xe đều là nhân. Nhân đều do bên trong sinh ra, cho nên [hoa] từ trời mưa xuống. Do [khác biệt] về giai vị của nhân, nên dùng hoa [khác nhau] để biểu thị. Nhân có khuynh hướng tạo thành quả, cho nên rải hoa lên [thân] Phật (nhi tán Phật thượng). Nhân quả như thế, ai là người có thể cảm nhận sâu sắc được? Chỉ là đại chúng trong hội này, cho nên nói là “cùng với đại chúng” (cập chư đại chúng).
Ở phần sau, ngài Văn-thù giải thích chỗ nghi [cho đại chúng] có nêu ra bốn câu “mưa cơn mưa pháp lớn, thổi tù-và pháp lớn, đánh trống pháp lớn, giảng giải nghĩa pháp lớn”. Hơn nữa, trong kinh văn lại nói các nghĩa khai, thị, ngộ, nhập [tri kiến Phật], cùng đưa ra ví dụ dùng xe lớn dạo chơi bốn phương, mỗi mỗi đều tiếp nối ý nghĩa nói về giai vị. Cho nên biết rằng các loại hoa tượng trưng cho giai vị [khác nhau] của nhân.
● Hỏi: Bốn bánh xe là ý nghĩa giai vị của Biệt giáo, đâu thể dùng để giải thích giai vị của Viên giáo?
● Đáp: Danh xưng theo Thông giáo nhưng ý nghĩa theo Viên giáo còn chẳng sai, huống chi danh xưng theo Biệt giáo mà giải nghĩa theo Viên giáo thì có gì là không được?
● Hỏi: Hiền thánh theo nghĩa Biệt giáo cũng có trong Viên giáo sao?
● Đáp: [Điều này đã có] trong [Pháp Hoa] huyền nghĩa. Nếu nói bốn loại hoa đều từ trời rơi xuống, đó là biểu thị cho bốn chúng sẽ cùng thành một nhân. Giải thích như vậy là rõ nghĩa của Tạng giáo, chưa rõ được nghĩa của Thông giáo. Nếu nói bốn chúng đều cùng là nhân Bồ Tát thì sự giải thích này làm rõ được ý nghĩa của Thông giáo nhưng chưa làm rõ được nghĩa của Biệt giáo. [Những cách giải thích như vậy] đều chẳng phải nhân thành Phật, cũng chẳng phải ý nghĩa của Pháp Hoa. Ý nghĩa của Pháp Hoa như trước đã nói là “cõi đất chấn động sáu cách trong khắp thế giới Phật”.
KINH VĂN
Cõi đất chấn động khắp thế giới Phật. Bấy giờ trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân, cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương. Đại chúng ấy gặp việc chưa từng có, hoan hỉ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật.
“Cõi đất chấn động khắp thế giới Phật”
Các nhà cựu giải nói rằng: “Đây là nói chấn động nhân quả của người trong ba thừa, quyết định là sáu sự bám chấp.” Như vậy là phá trừ sáu sự bám chấp của ba thừa theo Tạng giáo, nhưng chưa phá trừ được sáu sự bám chấp của ba thừa theo Thông giáo. Thông giáo cho rằng xét về pháp thì nhân quả của người trong ba thừa đều đồng như nhau, nhưng xét về người thì nhân quả của người trong ba thừa có sai khác. Sự giống và khác như thế [lẽ ra] đều phải phá trừ tất cả. Nhưng theo Cựu giải thì ý nghĩa phá trừ không phá được như vậy.
Biệt giáo không có danh xưng ba thừa, tất nhiên không có sáu sự bám chấp. Đó là chỗ Cựu giải không phá trừ. Nay nói rõ theo Biệt giáo lúc tạo nhân có ba pháp, lại chia ra đồng thời và khác thời. Lúc kết thành quả cũng có ba pháp chia ra đồng thời và khác thời như vậy. Những điều như vậy đều nên phá trừ.
Nay giải thích sáu cách chuyển động của cõi đất là biểu trưng cho sáu lượt phá trừ vô minh của Viên giáo. Vô minh như khối đá kiên cố to lớn, chưa từng bị tấn công phá hủy, nay sắp bị phá trừ hủy hoại nên dùng sự chấn động cõi đất để biểu trưng. Vô minh nếu chuyển hóa được sẽ thành sáng suốt, cho nên khắp thế giới Phật cõi đất chấn động theo sáu cách. Sáu cách chấn động biểu trưng cho [sáu tầng bậc giai vị tuần tự là Thập] trụ, [Thập] hạnh, [Thập] hồi hướng, [Thập] địa, Đẳng [giác] và Diệu [giác].
Kinh Ưu-bà-tắc thanh tịnh hạnh nói rằng: “Lúc Bồ Tát sinh ra, cõi đất chấn động để biểu thị rằng lần sanh này là chấm dứt, không còn trở lại nhận chịu phiền não nữa. [Khi Phật ra đời], hết thảy chúng sanh rồi sẽ được đạo, phiền não sẽ bị diệt trừ cho nên chấn động.” Chính là ý nghĩa này.
Giải thích theo bản tích thì như ngài Văn-thù dẫn việc chư Phật thuở xưa để giải đáp chỗ nghi [của đại chúng], nếu ngầm hiểu được ý nghĩa này tức là nhận hiểu được bản. Không chỉ riêng chư Phật thuở xưa từng hiện những điềm lành này, mà đức Thế Tôn của chúng ta trước đây cũng đã từng hiện điềm lành như vậy, ngày nay cũng chẳng phải là lần thứ nhất quay lại [thế gian]. Đại lược là như vậy.
Giải thích theo quán hạnh thì đó là chấn động sáu căn. Tướng của cõi đất là kiên cố, ví như mức độ bám chấp nơi sáu căn, chưa từng thể nhập đạo Đại thừa. Nay có sự chấn động cõi đất khó chấn động là biểu trưng cho việc làm thanh tịnh các căn chưa thanh tịnh.
[Trong sáu cách chấn động của cõi đất, trước hết nói] phía đông trồi lên phía tây sụp xuống. Phương đông là màu xanh, chủ về gan, gan tác động về con mắt, phương tây là màu trắng, chủ về phổi, phổi tác động về lỗ mũi. Đây là biểu hiện khi công đức của nhãn căn sinh ra thì phiền não của tị căn sẽ theo đó diệt mất. [Tương tự, phía tây trồi lên phía đông sụp suống là biểu thị] khi công đức của tị căn sinh ra thì phiền não của nhãn căn hỗ tương theo đó diệt mất. Các phương khác [mặt đất] trồi lên sụp xuống là biểu hiện cho sự sanh diệt [của công đức và phiền não] của các căn, cũng đều giống như vậy.
Sáu cách chấn động là động (chuyển động), khởi (khởi lên), dũng (vọt lên), chấn (chấn động), hống (phát tiếng kêu lớn), giác (khiến cho giác ngộ). Trong mỗi cách chấn động này lại được xảy ra theo ba cách khác nhau là động (chấn động), biến động (chấn động thay đổi) và đẳng biến động (chấn động thay đổi cùng khắp). Chấn động trực tiếp tại chỗ gọi là động. Chấn động lan khắp bốn thiên hạ gọi biến động. Chấn động khắp cả thế giới đại thiên gọi là đẳng biến động. Đối với năm cách còn lại như [khởi, dũng, chấn, hống, giác] cũng đều như vậy. Cộng tất cả là 18 loại chấn động. Đây là biểu thị cho việc làm thanh tịnh 18 giới. Đại lược là như vậy.
“Đại chúng ấy gặp việc chưa từng có, hoan hỉ chắp tay”
Tiếp đến giải thích về điềm lành “trong lòng đại chúng hoan hỷ”. Đại chúng thấy trời mưa hoa, cõi đất chấn động, biết rằng nước pháp cam lồ sắp được rưới xuống nên trong lòng hân hoan tràn ngập vui mừng. Điều này biểu thị một khi căn cơ lớn lao phát khởi sẽ cảm được sự ứng hiện thù thắng.
● Hỏi: Chuyện vui buồn ghét giận là những tình cảm thông thường, sao có thể xem là điềm lành?
● Đáp: Hoa trời mưa xuống làm vui mắt, cõi đất chấn động nên tâm rung động. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Lúc [cõi đất] chấn động có thể làm cho tâm chúng sanh động.” Hoa [trời rơi], đất [chấn động], là những điềm lành bên ngoài. Tâm hoan hỷ là điềm lành bên trong, đây không phải niềm vui thông thường. [Đại chúng] trước đây tuy cũng từng hoan hỷ vui mừng, nhưng không có việc động tâm vui mừng mà vẫn có thể một lòng chiêm ngưỡng Phật. Như vậy sao có thể nói không phải là điềm lành?
Nếu nói sự hoan hỷ này làm động tâm năm ấm thì đó là ý nghĩa trong hai cõi trời người. Nếu nói hoan hỷ làm động tâm vô lậu chân đế thì đó là ý nghĩa theo Tạng giáo và Thông giáo. Nếu [hiểu] sự hoan hỷ rung động ấy tức là tâm giả tạm thì đó là ý nghĩa theo Biệt giáo. Nếu [hiểu] sự hoan hỷ ấy rung động tâm thật tướng thì đó là ý nghĩa thuộc về Viên giáo.
“Lúc bấy giờ, đức Phật phóng hào quang từ nơi tướng lông trắng giữa hai chân mày”
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Phật phóng hào quang từ nơi tướng lông trắng giữa hai chân mày, soi chiếu 18.000 thế giới ở phương đông, không một nơi nào không soi thấu, phía dưới chiếu đến địa ngục A-tỳ, phía trên chiếu đến cõi trời A-ca-ni-trá.
Tiếp theo giảng rõ điềm lành đức Phật phóng hào quang. Đây là biểu thị việc [Phật] tùy theo căn cơ thích hợp mà thiết lập giáo pháp, phá trừ nghi hoặc. Tướng lông trắng [giữa hai chân mày của Phật] là đầy đủ mọi công đức. Kinh Quán Phật Hải Tam-muội nói rằng: “Lúc Phật vừa sinh ra, lông trắng ấy kéo ra dài 5 thước. Khi Phật tu khổ hạnh, [lông trắng ấy kéo ra] dài 14 thước. Khi thành Phật thì [lông trắng ấy kéo ra] dài 15 thước. Lông ấy trong ngoài đều trong suốt rỗng không như ống ngọc lưu ly trắng thanh tịnh. Từ lúc [Bồ Tát] mới phát tâm cho đến khoảng thời gian ở tu hành mọi công hạnh, thị hiện đủ mọi tướng mạo, cho đến khi nhập Niết-bàn, tất cả mọi công đức đều hiện ra trong tướng lông trắng này. Lông trắng này nằm giữa hai chân mày. Điều này biểu thị Trung đạo, là [chân] thường. Lông này mềm mại biểu thị [chân] lạc. [Lông ấy rất dài nhưng] duỗi ra cuộn vào dễ dàng không trở ngại là biểu thị [chân] ngã. Lông có màu trắng trong sạch biểu thị [chân] tịnh.
[Đức Phật] phóng hào quang phá tan tăm tối biểu thị Trung đạo sanh trí tuệ. Hào quang chiếu sáng cõi này, cõi khác, biểu thị sự tự giác, giác tha.
Lại nữa, Nhị thừa tuy đạt được Không đế và Giả đế nhưng chưa rõ được Trung đạo, cũng giống như có hai chân mày nhưng không có tướng lông trắng [ở giữa]. Biệt giáo tuy rõ biết Tam đế [giống như có tướng lông trắng] nhưng không thể trong lông trắng ấy có đủ hết thảy các pháp. Nên biết rằng, từ [ban sơ phát tâm] đến cuối cùng [nhập Niết-bàn], hết thảy sự việc trong pháp giới đều hiển hiện đầy đủ trong tướng lông trắng [của Phật]. Tức Đó là biểu thị ý nghĩa theo Viên giáo.
Ngoài ra, các kinh nói về sự phóng hào quang [của Phật] không giống nhau. Theo kinh Đại phẩm [Bát-nhã] thì từ tướng hình bánh xe có ngàn nan hoa dưới bàn chân Phật lên đến nhục kế trên đỉnh đầu, mỗi một nơi đều phóng ra sáu mươi ngàn ức tia hào quang, như kinh ấy có nói rộng ra. Kinh Đại Bát Niết-bàn thì nói [đức Phật] phóng quang từ nơi miệng. Kinh [Pháp Hoa] này nói [Phật] phóng hào quang từ tướng lông trắng [giữa hai chân mày]. Nhân duyên thích hợp [của mỗi kinh] đều khác nhau.
Lại nữa, khi hào quang thâu lại cũng chẳng giống nhau. Kinh A-dục Vương nói: “[Hào quang] thâu lại nhập vào sau lưng [Phật] là muốn ghi nhớ việc quá khứ, [hào quang] thâu lại nhập vào phía trước [ngực] là muốn ghi việc vị lai.” Không thấy nói ghi việc hiện tại. Có thể nói còn riêng việc thâu vào hai bên hông ghi việc hiện tại.
[Hào quang] thâu vào bàn chân là ghi việc địa ngục, thâu vào gót chân là ghi việc súc sanh, thâu vào ngón chân là ghi việc cõi quỷ, thâu vào đầu gối là ghi việc loài người, thâu vào lòng bàn tay trái là ghi việc của Thiết luân vương, thâu vào lòng bàn tay phải là ghi việc của Kim luân vương cùng việc của chư thiên, thâu vào giữa rốn là ghi việc của hàng Thanh văn, thâu vào miệng là ghi việc của hàng Duyên giác, thâu vào nơi tướng bạch hào là ghi việc của hàng Bồ Tát và thâu vào nơi nhục kế [trên đỉnh đầu] là ghi việc của Phật. Nay trong kinh [Pháp Hoa] này nói việc phóng hào quang màu trắng nhưng không thấy kinh văn nói việc thâu lại hào quang, là do có sự lược bớt.
Lại cũng giải thích rằng: Phóng hào quang chiếu soi là [biểu thị việc trong] hiện tại, thâu hào quang lại là biểu thị việc của tương lai. Kinh này chủ yếu luận về việc ở cõi này hay cõi kia thì đạo của chư Phật cũng đều như nhau, cho nên nói chủ yếu về việc phóng hào quang. Nếu giảng rõ việc đạo của chư Phật đều giống nhau, [thì chỗ giống nhau đó] tức là khai, thị, ngộ, nhập [tri kiến Phật], tự nhiên đạt được. Nay đã nói việc phóng hào quang là chính thì việc thâu hào quang trở vào là phụ. Do vậy nên [kinh văn] lược bớt không nói hết.
Nếu hiểu rằng thân Phật cao một trượng sáu thước đang phóng quang, đó là theo ý nghĩa của Tạng giáo. Nếu hiểu rằng thân Phật cao một trượng sáu thước cũng là đức Phật Thế Tôn tôn quý nhất đang phóng quang, đó là theo ý nghĩa của Thông giáo. Nếu thấy chỉ có Phật Thế Tôn tôn quý nhất đang phóng quang, đó là ý nghĩa theo Biệt giáo. Nếu thấy thân Phật cao một trượng sáu thước đó cũng tức là pháp thân Tỳ-lô-giá-na đang phóng quang, đó là ý nghĩa theo Viên giáo.
Các nhà cựu giải cho rằng sáu điềm lành ở cõi này mở rộng đến tận cõi trời Hữu đỉnh. Nay xem trong kinh văn [từ chỗ] nói [hào quang] “chiếu về phương đông qua một vạn tám ngàn cõi nước” trở đi là nói về điềm lành ở các cõi khác. Cho nên thêm bớt thay đổi [cách hiểu] đều là do con người. Cựu giải nói rằng thật ra là [hào quang] chiếu khắp mười phương. Soi chiếu về phương đông là biểu thị nhân quả Nhất thừa vượt hơn hết so với các loại nhân quả khác. Một vạn là số tròn, biểu thị quả vị viên mãn. Tám ngàn là số khuyết, biểu thị nhân quả chưa trọn đủ. Nếu [hào quang] soi chiếu về phương đông đã có ý nghĩa đầy đủ rồi, thì soi chiếu chín phương khác đâu còn biểu thị được gì nữa?
Nay làm rõ rằng phương đông là [ý nghĩa] khởi đầu, biểu thị Thập trụ là các giai vị đầu tiên. Thuyết pháp theo Tích môn là Bồ Tát mang thân xác thịt, thấy được lý đạo sáng tỏ rõ ràng, thể nhập các giai vị Thập trụ, khai mở tri kiến Phật. Chỉ nêu chỗ ban đầu như vậy tức là rõ biết được khoảng giữa và [các giai vị] về sau. [Kinh văn] nói “mĩ bất chu biến” (không đâu là không cùng khắp) cho nên biết rằng các phương khác cũng đều như vậy, các giai vị khác cũng đều như vậy.
Nếu thuyết pháp theo Bản môn thì chư Phật bốn phương vân tập là biểu thị pháp thân Bồ Tát tăng trưởng trí tuệ Trung đạo, suy giảm dần biến dịch sinh tử, bốn giai vị đều tăng trưởng.
Giải thích theo quán tâm thì một vạn tám ngàn là ước định về 18 giới. Nói rộng ra 100 pháp giới có 1.000 tánh tướng, [nhân với 18 giới] tức thành ra một vạn tám ngàn. Những cảnh giới này còn chưa khai mở trí tuệ Phật, nay sắp khai mở, cho nên dùng con số này để biểu thị.
Kinh văn nói [bên dưới] từ địa ngục A-tỳ, phía trên lên đến cõi trời Hữu Đỉnh, tức là nói sáu pháp giới. Lại [nói] thấy được chư Phật, Bồ Tát, các vị tỳ-kheo v.v... đó là nói đầy đủ mười pháp giới. Cho nên kinh văn nói là “mĩ bất chu biến” (không đâu là không cùng khắp), tức là ý nghĩa này.
Nếu phân kinh văn nói về cõi này thì [điềm lành phóng quang] là tướng thứ sáu, nếu nói về những cõi khác thì [điềm lành phóng quang] này là tướng tổng quát soi chiếu các cõi.
Tiếp đến làm rõ sáu điềm lành trong việc [phóng hào quang] soi chiếu các cõi khác. [Điềm lành] thứ nhất là thấy [hết thảy chúng sanh trong] sáu đường, thứ hai là thấy chư Phật, tức là nói “trên thánh dưới phàm” hợp thành một cặp. [Điềm lành] thứ ba là nghe Phật thuyết pháp, thứ tư là bốn chúng đạt đạo, tức là nói “người và pháp” hợp thành một cặp. [Điềm lành] thứ năm là thấy Bồ Tát tu hành công hạnh, thứ sáu là thấy Phật nhập Niết-bàn, tức là nói chỗ khởi đầu và kết thúc hợp thành một cặp.
Nếu có chúng sanh có thể giáo hóa, liền có Phật có khả năng giáo hóa. Có Phật là có thuyết pháp, có thuyết pháp tức là có đệ tử. Có đệ tử tức là có tu hành công hạnh ban đầu. Có tu công hạnh ban đầu tức là có đạt đến kết quả cuối cùng.
Nếu như sáu điềm lành ở cõi này là điềm báo chung tất cả chúng sanh sẽ được tự giác, thì sáu điềm lành ở cõi kia là điềm báo chung tất cả chúng sanh sẽ được giác tha. Lại nữa, sáu điềm lành ở cõi này và cõi kia là biểu thị đạo của Phật ở bất cứ nơi đâu cũng đều như nhau.
KINH VĂN
Từ nơi thế giới này thấy hết thảy sáu đường chúng sanh cõi kia, lại thấy chư Phật hiện tại ở cõi ấy cùng nghe được những kinh điển giáo pháp mà chư Phật ấy thuyết giảng, cùng thấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, những vị tu hành đạt đạo. Lại thấy các vị Đại Bồ Tát, đủ mọi nhân duyên, đủ mọi tín giải, đủ mọi tướng mạo, thực hành đạo Bồ Tát. Lại thấy chư Phật nhập Niết-bàn. Lại thấy sau khi chư Phật nhập Niết-bàn, [đại chúng] thu xá-lợi Phật, dựng tháp thờ bằng bảy món báu.
Từ câu “[từ nơi thế giới này] thấy hết thảy sáu đường chúng sanh cõi kia” cho đến “thực hành đạo Bồ Tát” là thị hiện cõi kia vốn đồng như cõi này.
Từ câu “lại thấy chư Phật [nhập Niết-bàn]” cho đến “dựng tháp bằng bảy báu” là thị hiện cõi này rồi sẽ đồng như cõi kia.
Phần nói giản lược đến đây là hết. Lại nói rộng ra thì từ chỗ “thấy chúng sanh sáu đường” là thị hiện đức Phật ở cõi kia vì thế gian có năm sự uế trược cho nên mới xuất hiện ở đời. Đức Phật ở cõi này cũng giống như vậy. Ý nghĩa [Phật] ra đời ở hai cõi đều giống nhau.
“Cùng nghe được những kinh điển giáo pháp mà chư Phật ấy thuyết giảng” là thị hiện đức Phật ở cõi kia ban sơ [thuyết giảng] từ một pháp vô tướng, không phải đốn mà đốn, so với ở cõi này [đức Phật] ban đầu thuyết kinh Hoa Nghiêm ý nghĩa giống nhau.
Từ câu “cùng thấy các vị tỳ-kheo...” ở cõi kia là thị hiện đức Phật cõi kia [thuyết pháp] không phải tiệm mà tiệm, so với đức Phật ở cõi này tiếp theo giảng thuyết Tam tạng giáo điển ý nghĩa như nhau.
Từ câu “lại thấy các vị Đại Bồ Tát” trở đi là thị hiện đức Phật ở cõi kia sau khi thuyết Tam tạng giáo điển rồi lại thuyết các kinh Phương đẳng, Bát-nhã, so với đức Phật cõi này thuyết các kinh sau Tam tạng giáo điển thì ý nghĩa giống nhau.
Từ câu “lại thấy chư Phật [nhập Niết-bàn]” cho đến “dựng tháp thờ bằng bảy món báu” là thị hiện đức Phật ở cõi kia sau khi thuyết kinh Bát-nhã liền khai trừ pháp quyền biến, hiển lộ pháp chân thật, thâu vô lượng pháp nhập vào một pháp, báo trước việc nhập Niết-bàn, hoàn tất việc giáo hóa, [đại chúng] dựng tháp. Hào quang chiếu đến cõi kia [khiến cho mọi việc] từ trước đến sau, rốt ráo đều hiện ra rõ ràng trước mắt [đại chúng], cho nên biết rằng ở cõi này [đức Phật cũng] từ một pháp sinh ra vô lượng pháp, không phải đốn mà đốn, không phải tiệm mà tiệm. Những việc như vậy đã hoàn tất, tất nhiên [đức Phật cũng sẽ] thâu vô lượng pháp nhập vào một pháp, trừ bỏ quyền biến, hiển lộ chân thật, dừng việc giáo hóa, quay về nguồn chân, so với [đức Phật] cõi kia cũng đồng như nhau.
[Kinh văn nói] “đủ mọi nhân duyên”, đó là nói [đức Phật] thuở xưa tích lũy việc lành là nhân, ngày nay giáo hóa [chúng sanh] là duyên. Nếu nói chi tiết hơn thì đó chính là sau khi thuyết giảng Tam tạng giáo điển, đức Phật giảng rõ [ý nghĩa] “cộng” và “bất cộng” trong Bát-nhã là nhân, các pháp trợ đạo, giới, định, tuệ là duyên. Lại ước định người trong ba thừa tức là có đủ mọi nhân duyên. Các hạng người “cộng” và “bất cộng” cũng có đủ mọi nhân duyên.
Kinh nói “đủ mọi tướng mạo”, đó là nói mỗi hạng người “cộng” hay “bất cộng” đều có [phân ra theo] bốn pháp môn [Tạng, Thông, Biệt, Viên], mỗi một pháp môn lại có vô số tướng mạo. Năm trăm vị tỳ-kheo, mỗi vị đều nói ra bản nhân của chính mình, tức là ý nghĩa này. Hạng “bất cộng” trong bốn pháp môn lại cũng như vậy. Cho nên biết rằng có vô số các loại tướng mạo nhân duyên sai biệt. Đây là điều mà ở cõi kia với cõi này đều giống như nhau. Ở cõi kia thị hiện rõ tướng nhân duyên tướng mạo như thế rồi lại thể nhập một nhân, một duyên, một tướng, một mạo. Nên biết rằng ở cõi này cũng đồng như cõi kia.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ Bồ Tát Di-lặc nghĩ rằng: Nay đức Thế Tôn hiện tướng thần biến, do nhân duyên gì mà có điềm lành này? Nay đức Phật Thế Tôn đã nhập tam-muội, thật không thể nghĩ bàn, hiện ra việc ít có, nay nên hỏi ai? Ai có thể giải đáp? Rồi lại nghĩ rằng: Ngài Văn-thù-sư-lợi, là con dấng Pháp vương, đã từng thân cận cúng dường vô số chư Phật trong quá khứ, chắc hẳn đã từng được thấy tướng ít có này, nay ta nên thưa hỏi. Lúc ấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cùng với chư thiên, loài rồng, quỷ thần... cũng đều nghĩ rằng: Tướng thần thông chiếu sáng hào quang của đức Phật, nay biết thưa hỏi ai?
Từ câu “Lúc bấy giờ [Bồ Tát] Di-lặc nghĩ rằng” cho đến “nay nên hỏi ai” là phần mở đầu niệm nghi.
Kinh văn phần này có hai ý. Một là niệm nghi của Bồ Tát Di-lặc, hai là niệm nghi của đại chúng.
Niệm nghi của ngài Di-lặc lại có ba ý. Một là nghĩ đến sáu điềm lành, hai là nghĩ đến việc nên hỏi ai, ba là nghĩ đến ngài Văn-thù. Khi khởi lên ý niệm nghĩ đến ngài Văn-thù thì niệm thứ hai mất đi, chỉ còn niệm thứ nhất [về sáu điều lành], hợp thành một niệm nghi.
[Ngài Di-lặc nghĩ: “Nay đức Thế Tôn hiện tướng] thần biến.” Thần là bên trong, biến là bên ngoài. Thần gọi là “lòng trời”, tức là trí tuệ tự nhiên bên trong. Biến gọi là biến động, tức là sáu điềm lành hiện rõ bên ngoài.
Kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Đức Phật trụ nơi pháp không phân biệt, có thể hiện thần thông.” Đấng Pháp vương pháp lực siêu việt che trùm hết thảy. Ngài Di-lặc không lường được sự biến đổi bên ngoài, cũng không rõ biết được trí tuệ bên trong, cho nên khởi niệm như vậy. Nói chung, kẻ tầm thường không thể rõ biết người có phương thuật, kẻ tán loạn không thể rõ biết người có định tâm, người phàm không thể rõ biết các bậc thánh, hàng tiểu thánh không thể rõ biết [bậc Đại Thanh văn như ngài] Xá-lợi-phất, ngài Xá-lợi-phất không thể rõ biết hàng Bồ Tát, hàng Bồ Tát không thể rõ biết bậc [Nhất sanh bổ xứ], bậc Nhất sanh bổ xứ không thể rõ biết Đấng Tôn quý tối cực. [Sự thị hiện này của đức Thế Tôn] cũng là chỗ tối cực nên ngài Di-lặc không thể rõ biết.
Lại nói rằng, ngài Di-lặc [đã từng] ở nơi các đức Phật trồng nhiều căn lành, lẽ nào [đối với việc này] không mơ hồ biết được phần nào hay sao? [Nên biết,] đây là [vì sự giáo hóa chúng sanh nên cần] che khuất chỗ rõ biết, thị hiện như không biết, dùng phương tiện quyền biến mà nói là không biết.
Về đại chúng thì [ở đây nói] khởi lên hai ý niệm. Một là ý niệm chính về sáu điềm lành và thứ hai là ý niệm chưa biết hỏi ai [về việc này]. Nếu theo [nội dung] phần kệ bên dưới để hiểu chỗ này thì thấy có ba ý niệm. Trong lời kệ, [ngài Di-lặc] nói: “Bốn chúng đều hân hoan, đang chăm chú nhìn ngài và tôi [đợi câu trả lời].” Nếu không có ý niệm thứ ba [là nghĩ đến ngài Văn-thù] thì sao có sự chăm chú nhìn ngài Văn-thù [chờ đợi]? [Kinh văn] chỗ này không nói đủ, đó là muốn [người đọc tự] suy ra nghĩa [Bồ Tát] Bổ xứ có cương vị đứng trước [đại chúng].
Theo Cựu giải thì [vị Bổ xứ đứng] trước [đại chúng] có ba ý. Thứ nhất là [Nhất sinh] Bổ xứ, [chỉ còn một đời nữa là thành Phật], thứ hai là có đủ ba ý niệm, thứ ba là thưa hỏi [Phật]. Do ý nghĩa này nên [nói về] đại chúng thiếu đi một niệm.
● Hỏi: Hai vị Văn-thù, Di-lặc về đức độ và giai vị đều như nhau, đều chỉ kém Phật, vì sao lại có kẻ hỏi người đáp?
● Đáp: Nói chung, cơ duyên tuy có nhưng vốn ở nơi không, giai vị tuy đồng như nhau nhưng vai trò chủ khách phải thích nghi khác nhau. [Thứ nhất là vì] bậc Thánh [giáo hóa] tùy cơ duyên, nhưng không có người thưa hỏi thì không thể đáp. [Thứ hai là vì] pháp môn có quyền có thật. Vị Bồ Tát Bổ xứ quyền thừa nên thưa hỏi, vị Bồ Tát Bổ xứ chân thật nên giải đáp. [Thứ ba là vì tuy cùng tu tập] từ thuở xưa nhưng có lâu xa, có gần đây hơn. [Vị Bồ Tát tu tập] gần đây hơn nên thưa hỏi, [vị Bồ Tát tu tập] rất lâu xa nên giải đáp. [Thứ tư là dựa theo] danh xưng để có sự thuận tiện, dễ dàng [nhận hiểu. Danh xưng] Di-lặc có nghĩa là “từ”, từ tâm [thương xót] vì chúng sanh nên thưa hỏi. [Danh xưng] Văn-thù có nghĩa là “diệu đức”, đức độ cao quý nên giải đáp. Đó là bốn cách giải để hiểu rõ ý nghĩa kinh văn.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.22.41.80 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.