Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận.
Kinh Pháp cú
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
VIII- NIỆM CHUYÊN CHÚ 1 CẢNH PHẬT HIỆN TẠI
Hỏi: Về niệm Phật vị lai tức là Chúng sanh, đã biết rõ huyền nghĩa và sự lý sâu rộng rồi. Song, sợ niệm như thế tâm tán loạn khó kiểm soát. Nay muốn hợp nhất bằng cách chuyên hướng về Tây phương niệm một Phật Di Ðà ngõ hầu đến được địa vị bất thối, dứt trừ tâm hữu lậu, bơi chiếc xuồng con ở ao Huỳnh Kim, lễ đức Di Ðà trong điện Bạch Ngọc, thấu suốt được ba đời, thấm nhuần ngôi cửu phẩm. Như thế có được hay chăng?
Ðáp: Trong Thập Trụ Bà Sa Luận của Long Thọ Bồ Tát viết để giải thích Kim Hoa Nghiêm, phần luận về hạnh dễ hành có nói: “Bồ tát đạo có hạnh khó hành như bơi xuồng trên lộ, cũng có hạnh dễ hành như chèo ghe dưới nước. Ðức Phật A di Ðà vốn có nguyện lực. Nếu ai nghe đến danh hiệu của ngài rồi xưng niệm tự muốn về nước ấy thì khác nào như ghe gặp nước, lại được thuận gío, phút chốc vượt cả ngàn dặm, rất là dễ dàng. Nhờ thế mà phụ vương và quyến thuộc của Ðức Thích Ca Như lai gồm 6 muôn người họ Thích đều sanh về cõi Cực lạc cả. Bởi vì Phật A di Ðà cùng với chúng sanh ở cõi này có nhân duyên rất sâu xa”. Như vậy, chuyên chú niệm một cảnh ấy cũng là phương pháp rất hay để thấu suốt trọn vẹn ba đời chư Phật.
Hỏi: Chuyên chú niệm một cảnh thì thấu suốt trọn vẹn ba đời là điều chắc thật rồi. Song, xưng niệm tự muốn vãng sanh về nước ấy cũng là việc hữu vi hư ngụy như gío nhiều sóng to, làm tâm thêm loạn. Vì sao không bỏ các ý tưởng giong ruỗi bên ngoài ấy, chỉ gom tâm vào trong cho hợp với yếu chỉ vô vi?
Ðáp: Hữu vi tuy hư ngụy nhưng xả bỏ thì đạo nghiệp không thành. Vô vi tuy chơn thật nhưng chấp thủ thì tuệ tâm cũng chẳng sáng. Kinh nói: “Chán lìa công đức hữu vi tức là ma nghiệp, đắm thích công đưùc vô vi cũng là ma nghiệp”. Nay người còn có tâm chán thích thì làm sao ra ngoài vòng ma.
Lại như thấy Thánh Hiền nhiếp tâm mà gọi là trong, thấy phàm phu giong ruỗi tư tưởng mà bảo là ngoài. Rồi cho rằng “duyên ra là loạn, trụ vào là định” thì cũng là cái giong ruỗi trong ngoài, chẳng phải ý chỉ nhiếp tâm của niệm Phật tam muội. Khi giải nghĩa kinh Duy ma, ngài La Thập pháp sư có kể: “Ởû một nước nọ có một cô gái, thân mình màu vàng ròng. Cô ta được con một trưởng gỉa tên là Ðạt-mô-đa-la đem ngàn lượng vàng làm lễ mời vào rừng trúc cùng đi. Bấy giờ ngài Văn Thù Bồ Tát hiện thân làm một người cư sĩ mặc y phục bằng ngọc báu đứng ở giữa đường. Cô gái trong thấy, trong tâm liền khởi lòng tham. Ngài Văn Thù đoán biết nên nói rằng: “Cô muốn được y này phải phát tâm bồ đề”. Cô gái hỏi: “Thế nào là tâm bồ đề?” Ngài Văn Thù đáp: “Chính là thân cô”. Cô gái hỏi: “Sao là thân tôi?”, ngài Văn Thù trả lời:” Tánh của Bồ đề là không, thân của cô cũng không nên tâm bồ đề là thân cô vậy”. Cô gái này đã từng ở nơi đức Phật Ca Diếp gieo trồng nhiều căn lành, rộng tu trí tuệ nên nghe lời ấy rồi liền chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ðắc xong Pháp Nhẫn, cô bèn bày tỏ lỗi lầm ham muốn của mình, sau đó quay ra đi với con trưởng gỉa vào rừng. Khi đã vào trong rừng, cô hoá hiện thân mình chết, sình trướng hôi thối. Người con trưởng giả thấy vậy rất ghê sợ, bèn đi đến chỗ Phật. Ðức Phật vì ông nói pháp. Ông cũng chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn”.
Chưa thành tựu Ðại giác tức chưa rảnh việc làm nên gọi là nhẫn. Quán thật tướng của thân mình và thật tướng của thân Phật, thì thân người nữ là không, thân Phật cũng không, chưa từng có dị biệt. Cũng thế, nghĩa của bồ đề há có dị biệt sao?
Vậy thì tất cả hữu vi đều là vô vi, mọi thứ trong ngoài đều chẳng phải trong ngoài. Song, tại hữu mà chưa từng có hữu, hữu mà thường vo â; ở nơi vô mà chưa từng vô, vô mà luôn luôn hữu, như thế thì lo gì Phật có tướng, tâm có niệm. IX – ÐỜI NÀY ÐỜI SAU TÙY THUỘC MỘT NIỆM VÀ MƯỜI NIỆM.
Hỏi: Vấn đề dễ hành, khó hành và quán thân là bồ đề, yếu chỉ ấy đã rõ ràng không còn thắc mắc nữa. Xét nghĩ, con người sống trong thế gian, thế gian thoáng mau như chớp lóe lưaû xẹt, một niệm sai lạc rồi thì ăn năn không kịp. Người tu đạo đã không yêu tiếc tâm há lại yêu luyến thân, thân mình còn không thương yêu há lại thương yêu thân ngoài ư? Thường sợ hơi thở đi ra rồi không trở lại phải thuộc đời sau như cỏ bồng trong gió cuốn mờ mịt không biết về đâu. Xin ngài chỉ bày pháp một niệm và mười niệm ngõ hầu dự bị cho đời này và đời sau.
Ðáp: Gặp được pháp môn tịnh độ là có phước nghiệp và công đức lớn vậy. Hàng nhị thừa ngưng thần trong cảnh giới hư vô, đắm trước ngoan không sợ hãi các tướng, chẳng nghĩ đến chúng sanh nên không có tịnh đoä. Chỉ có đại thừa mới có Tịnh độ mà thôi.
Kinh Bi Hoa nói: “Phật A Di Ðà, thuở xưa là vua Chuyển Luân tên Vô Tránh Niệm có đủ các báu và ngàn người con. Nhờ có Ðại Thần Bảo Hải làm Thiện tri thức, nên ngài ở nơi đức Phật Bảo Tạng phát bồ đề tâm, nguyện giữ lấy cõi Tây phương Cực lạc tịnh độ”. Trong tất cả các kinh, những vị Phật Bồ Tát Thinh Văn đều là ngàn người con của ngài thưở xưa cả. Trong đó vị thái tử đều tên Bất Thuấn tức ngài Quán Thế Âm. Vị kế tên Ma ni là ngài Ðại Thế Chí. Vị kế nữa tên Vương Chúng là ngài Văn Thù Sư Lợi. Vị kế nữa tên Năng-gìa-nô là ngài Kim Cương Trí Tuệ Quang minh Bồ Tát. Vị kế nữa tên Vô Uý tức là Liên Hoa Tôn Như Lai. Vị kế nữa tên Am-bà-la tức Hư Không Quang Minh Bồ Tát. Vị kế nữa tên Thiện Tý tức Sư Tử Hương Bồ Tát. Vị kế nữa tên Miên đồ tức ngài Phổ Hiền Bồ Tát. Vị kế nữa tên Mật-Tô tức là Phật A Súc.
Ngài Vương tử Mật-tô từ khi phát tâm đến nay, mỗi lúc đi, ở từng bước chân từng tâm niệm đều luôn niệm chư Phật. Hiện nay ngài đã thành Chánh giác sanh về cõi Diệu Lạc. Chúng ta đây cũng thấy mình đi trên đường rộng, bước chỗ rừng sâu thì có khác gì cái thấy của Ngài Mật tô. Như vậy lúc vào nơi náo nhiệt, khi đi chỗ bình yên, với đủ vẻ trang nghiêm hay đang ngựa xe vội vã há chẳng thể dụng tâm niệm Phật trong từng bước một được ư? Ðược thế thì so với xưa, tiết tháo vẫn không sai khác vậy.
Phàm lúc uống ăn, làm việc, giao tiếp trong vòng sanh tử, không ai không có hơi thở ra vào. Một hơi thở ra mà không trở lại thì thuộc đời sau đúng như điều ở trên đã hỏi. Người ở đời phần nhiều dùng ngọc báu, thủy tinh, kim cương, hột bồ đề hoặc các thứ cây để làm chuỗi. Chúng ta nếu lấy hơi thở làm chuỗi, tùy theo hơi thở mà xưng niệm Phật tức có chỗ nương nhờ thì đâu còn sợ “hơi thở không trở vào liền thuộc đời sau” (chẳng còn lo tái sanh). Tôi thường đi đứng nằm ngồi đều dùng chuỗi hơi thở này, giả như có ngủ mê thì ngậm Phật mà ngủ, tỉnh dậy liền tiếp tục. Như thế chắc chắn trong mộng sẽ được thấy Phật. Như cọ cây lấy lửa, khói là tướng trước của lửa, thấy có khói thì lửa sẽ co ù; cũng vậy trong mộng thấy Phật thường xuyên thì tam muội chắc chắn thành, tương lai chắc chắn được tận mặt thấy đức Phật Di Ðà, được thân cận ngài và được ngài thọ ký. Ðược như thế thì muôn việc chẳng mất một điều gì vậy. người hãy nên cố gắng!
Hỏi: Một niệm vãng sanh và mười niệm vãng sanh, điều nào đúng?
Ðáp: Chỉ một niệm được vãng sanh trụ vào hàng bất thối. Ðây là điều đúng vậy. như Phật nói: “báng Phật, huûy kinh, đánh tăng,chửi thánh, làm tội ngũ nghịch tứ trọng đều chỉ một niệm mà ác nghiệp thành tựu, đọa vào vô gián địa ngục nhanh như tên bắn. Nay niệm phật sanh về tịnh độ, cũng chỉ một niệm mà thiện nghiệp thành tựu, vãng sanh cực lạc chóng tợ co tay. Một niệm trước ngũ ấm diệt, một niệm sau ngũ ấm sanh giống như sáp đèn cầy dính vào vật, sáp hết thì thành dấu. Như thế còn chẳng cần đến hai niệm há cần đến mười niệm ư?
Lại một niệm như kinh nói: Chú Sa di thích ăn Lạc tô, chỉ vì khởi một tâm niệm ham muốn mà sau bị sạnh làm con trùng trong lạc tô. Hay như vợ trưởng giả Ðại-Tát-bà ngồi soi gương tự yêu thích thân mình, sau đi trên biển bị gió thổi lật thuyền làm chết đuối, sanh làm trùng trong tử thi của mình, cứ vui chơi qua lại chẳng rời tử thi ấy. Ðó đều là một niệm chẳng phải mười niệm.
Lại Kinh Ðại Vô Lượng Thọ nói: “Chỉ một niệm niệm Phật cũng đều được vãng sanh”. Trong Quán kinh nói mười niệm là có lý do. Bởi người mắc bệnh gầy yếu, sức kém, tâm yếu đuối cần phải xưng 10 lần đức Di Ðà để trợ lực cho tâm niệm bên trong. Nếu kẻ có tâm mạnh mẽ không mê muội thì chỉ được một niệm liền được vãng sanh. X-TÂM NÀY LÀ PHẬT, TÂM NÀY LÀM PHẬT
Hỏi: Kinh đã nói: “Tâm này là Phật, tâm này làm Phật”, sao lại còn dụng tâm xưng niệm Di Ðà, giữ tư tưởng nơi nước Cực lạc xa xôi? Vả lại niệm Phật hiện tại và khởi cung kính Phật ở vị lai đều là cầu bên ngoài làm sao gọi “tâm này là Phật” được?
Ðáp: Ông hỏi như thế chẳng đúng! Ông chỉ biết dẫn Kinh mà chẳng biết chỗõ qui thú của Kinh. Câu ấy ở trong Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh là kinh nói về niệm Phật A Di Ðà. Vì niệm Phật, Phật từ tư tưởng sanh ra nên nói “tâm này là Phật”. sao lại trộm lấy pháp quán Di Ðà rồi trở lại bêu rêu tâm Di Ðà. Nếu hiểu như thế thì chẳng niệm Phật vẫn bảo rằng tâm là Phật, chẳng tưởng ác lại nói rằng tâm là ác được sao? Cả hai đều đã chẳng phải như vậy. Huống hồ đối với đức Di Ðà, 10 vạn ức núi tu di chẳng ngăn được nhãn căn của ngài, hà sa tướng hảo quang minh đều do nguyện lực tạo thành; và đối với Cực Lạc, chỉ trong khoảng co cánh tay liền được vãng sanh, sao còn lo ngại phương ấy gần xa?
Hỏi: Xin nghe theo sưï giảng giải về lý “Tâm này là Phật” của ngài. Song, về 16 pháp quán trong kinh này trình bày thì có thể tưởng băng, mặt trời, núi vàng sáng chói...; còn ánh sáng ma ánh sáng Phật, quán của mình, quán của người có tà chánh lẫn lộn nếu cả hai đều trong lặng thì làm sao phân biệt. Xin ngài chỉ bày các việc này để người niệm Phật tu tập một mình không gần thầy có thể tự an tâm.
Ðáp: Tưởng về băng là gốc để mở rộng tưởng đến đất lưu ly, tưởng mặt trời để dần dần tưởng đến ánh sáng bạch hào. Y theo tư tưởng mà hiện thì gọi là của mình là chánh. Còn chẳng hiện đúng với sự tưởng tượng thì gọi là của kẻ khác, là tà. Như vốn tưởng về bạch hào, bạch hào chưa hiện rõ; trong khi chưa tưởng về mắt xanh mà mắt xanh lại hiện ra, như thế là trái với tâm gốc, gọi là tà. Tưởng tượng về các thứ khác cũng vậy.
Lại nữa, ánh sánh ma thì có bóng và chóa mắt, ánh sáng Phật thì không có bóng và chẳng chóa mắt. Nên trong Lăng Già Kinh có kệ nói:
“Cõi Phật hơn tất cả
Rất thanh tịnh trang nghiêm
Rực rỡ như lửa hừng
Quang minh soi cùng khắp
Sáng bừng không hại mắt
Bao trùm hết ba cõi”.
Hỏi: Như thế thì ánh sáng bừng chiếu làm hại mắt là ma, còn ánh sáng không chóa mắt là Phật phải chăng?
Ðáp: Nếu là ánh sáng chơn thì nó làm cho thân tâm người niệm Phật được lặng trong thanh tịnh. Còn ánh sáng ngụy thì khiến người niệm Phật tâm xao động hoảng hốt. Do đó kinh Niết Bàn nói: “Trong ngần thanh tịnh là chơn giải thoát. Chơn giải thoát tức là Như lai”.
Hỏi: Ðấng Chí Nhơn (Thánh) vô tư, ta nay lại dùng tưởng há chẳng sai lầm ư?
Ðáp: Chẳng sai lầm. Như Kinh Ðại Uy Ðức Ðà la ni nói: “Muốn vượt ngoài sự ràng buộc của các cõi phải phát tâm ham thích tưởng nghĩ điều vô dục”. Nay cũng vậy, muốn tu niệm Phật cũng phải phát tâm tưởng để nghĩ tưởng điều vô tưởng. Vì lẽ đó mà Kinh Phương Ðẳng Phổ Hiền nói: “Lòng ham muốn ác, tưởng về người nữ thì mộng thấy người nữ; lòng ham thích thiện; tưởng đến Phật thì mộng thấy Phật”.
Nên biết hai tư tưởng ấy tuy đồng là tưởng mà có thiện ác cách biệt như trời vực. Ðừng nghe nói “đó là tưởng” rồi chán bỏ. Nếu chán bỏ tưởng thì tuy chẳng hủy kinh báng Phật cũng vẫn chỉ sanh vào cõi trời cô tưởng. Nếu cứ cố chấp vô tưởng rồi dèm chê việc tưởng Phật thì gọi là báng Pháp. Báng pháp thì đọa trong tù ngục ở mười phương không có ngày ra, há có thiên cung để mong cầu. Giả như được sanh lên cõi trời vô tưởng ấy thì cũng gọi là ngoại đạo thiên, chẳng phải đường giải thoát.
Niết bàn kinh nói: “Nghe nhằm tiếng trống độc, gần xa đều chết cả”. Ðiều này cũng như vậy. người nào bỏ tư tưởng thì gần xa đều sa đọa. Kinh nói: “Có khi cách mặt đất một thước hai thước du hành qua lại” là ý nói chỗ này. Như thế thì làm sao khỏi trôi lăn trong ba cõi, đồng vãng sanh vào cửu phẩm liên hoa. Huống hồ làm chìm ghe, làm nổi ghe đều do nước; nguyên nhân vấp ngã, nguyên nhân đứng dậy là đất; Cũng vậy tư tưởng vọng là chúng sanh, tư tưởng chơn là Phật, lìa ngoài tư tưởng thì lấy gì mà dùng.
Hỏi: Sự đã giải xong, còn lý thì thế nào? Như Kinh Ban Châu tam muội nói: “Tâm khởi tư tưởng tức là si mê, vô tưởng là Niết bàn”. Nay nói phải dùng tư tưởng thì chẳng trái với kinh sao?
Ðáp: Chẳng trái. Vì giữ tư tưởng Phật, tâm thường nghĩ tưởng đến Phật thì chẳng phải si. Chỉ có bỏ tư tưởng Phật lấy tư tưởng ác và chấp thủ cái Không làm vô tưởng mới là điều rất si mê. Chúng ta nay rõ biết Phật từ tư tưởng sanh, vốn thật không có Phật không có tưởng, như thế thì có gì là si. Ðó là quán “Không tam muội” là chẳng tà kiến vậy.
Ông lại hỏi về lý, tôi nói cho ông rõ. Người đã thể nhập được thể tánh chơn thật lặng lẽ thì tâm thường rỗng rang như hư không, tuy vaïn pháp soi chiếu mà tâm chưa từng có niệm. Ấy là Chơn trí không duyên vào đâu thì không có niệm, Tục trí có duyên neân niệm tưởng sanh. Lại nữa “Tưởng chẳng khác Không, Không chẳng khác tưởng” gọi là “Ðệ nhất nghĩa trung đạo”; đây là hiển bày pháp thân. “Tưởng tức là Không” gọi là chơn đế; phá 25 cõi đắc 25 tam muội, thường không tịch thường hóa hiện hòa quan lợi vật đều từ chơn đế, đây là hiển nói hóa thân. “Không là tưởng” gọi là tục đế, hằng sa vạn đức đều nương vào tục đế, đây là hiển báo thân. Như thế là lấy tam quán để quán tam đế chứng tam đức thành tựu tam thân, cho đến thập chủng tam pháp, có gì lại chẳng được mà muốn loại trừ tư tưởng thanh tịnh, thủ lấy cái tưởng vô tưởng, bế tắc nẽo thiền định giữ mãi sự cách ngăn với việc thành Phật.
Kinh Lăng Già Mật Nghiêm chép: “Thà khởi cái thấy có như núi tu di, đừng khởi cái thấy không dù chỉ bằng hột cải” cái thấy có nghĩa là tin nhân quả, giữ tư tưởng Phật. khởi thấy như thế được sanh về cõi tịnh độ Cực Lạc nên bảo “thà khởi thấy có”. Khởi thấy”Không” nghĩa là bài bác nhân quả, hủy báng niệm Phật. Khởi thấy như vậy chắc chắn sanh vào A tỳ địa ngục nên răn bảo “đừng khởi thấy không”. Ðây là điều đáng sợ vậy. XI- TO TIẾNG NIỆM PHẬT MẶT HƯỚNG VỀ TÂY
Hỏi: Trong Phương Ðẳng Kinh nói: “Muốn tu pháp môn vô thượng thâm diệu thiền định, nên tưởng liên tục tướng bạch hào của Phật kèm theo xưng danh hiệu để được thắng định. Khi đã khế hợp với định rồi thì tâm và Phật đều mất”. Ðiều này có thể tin nhận, nhưng xét nghĩ: Mặc niệm lặng lẽ thì tam muội tự sanh cần gì phải to tiếng niệm Phật mới thành tựu chánh đạo?
Ðáp: Ðúng như điều đã hỏi thì to tiếng niệm Phật cũng không có gì sai, mà trái lại hỏi như thế là làm rõ công năng của nó vậy. Vì sao? Bởi điều thiết yếu để trừ tán loạn là phải giữ cho có tiếng. Tiếng niệm chẳng rõ ràng thì tâm niệm rời rạc lông bông không định. Còn tiếng niệm rõ ràng thì tâm được chuyên nhất không còn lo nghĩ, đây là nghĩa thứ nhất. Nghĩa thứ hai là tiếng vang ra thì tai họa tiêu mất, công đức được sung thạnh. Nghĩa thứ ba là to tiếng niệm thì cảm ứng đến chư Phật bồ tát, khiến sanh ra các tướng lành như Phật soi ánh sáng đến, hoa báu rơi xuống lác đác như mưa... Nghĩa thứ tư, to tiếng là một phương tiện trợ niệm thần diệu, giống như khúc cây nặng không khiên đi nỗi nhưng chỉ một tiếng hô mà nhấc bổng đi được. Nghĩa thứ năm, to tiếng niệm Phật có năng lực hàng phục các ma não, giống như trong trận chiến, biết dùng tiếng trống lấn áp tinh thần đối phương thì chắn chắn thắng được địch.
To tiếng có đủ năm nghĩa như thế sao lại bỏ đi. Nếu vừa tưởng tướng bạch hào vừa to tiếng xưng hiệu Phật thì chắc chắn khế hợp với ý Phật, được định tuệ quân bình, và vào được cảnh giới tâm Phật đều mất. Vì vậy mà ở bài tựa trong “Niệm Phật Tam muội”, ngài Huệ Viễn nói: “Xét về công đức cao lại dễ tu tiến thì niệm Phật là pháp đứng đầu”.
Còn nói về niệm thầm, khởi tiếng liên tục trong tâm, tâm chuyên chú lắng nghe làm cho trần lụy tiêu tan, các tình niệm trệ ngăn được sáng thông thì không phải là pháp dễ dàng để mọi người hành theo được.
Ðể minh chứng, Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Thà chịu vô lượng khổ để được nghe tiếng Phật,
Chớ chẳng nhận điều vui mà không nghe tiếng Phật.”
Vậy thì to tiếng niệm Phật là mầm mống phát sanh điều thiện, giống như tiếng sấm muà xuân là khởi động cỏ cây, sao lại khinh chê?
Hỏi: Kính nhận ý nghĩa về to tiếng và nhỏ tiếng niệm Phật. Xin hỏi: Ở mười phương tịnh độ đều có Như Lai, nay chỉ hướng mặt về phương tây, như thế có phải vướng mắc không?
Ðáp: Chẳng phải. Ðiều này trong Kinh Phương Ðẳng có nói, không phải do người bày ra, há có thể hủy báng Kinh Phương Ðẳng ư?
Hỏi: Xin được nghe lý này thế nào?
Ðáp: Cũng có lý của nó. Như người si mê thấy đức Quán thế Âm có 11 mặt, liền vấn nạn rằng “Sao không là 12 mặt?”; rồi tùy theo trả lời thế nào, liền hỏi trở lại: “sao không là 11 mặt”. Ông nay muốn lấy Ðông để nạn vấn Tây thì cũng như người ấy.
Lại nữa, vì chúng sanh còn mê chưa tỉnh, cần phải giữ thân an ổn, để tâm theo một hướng không rời thì có thể tỉnh ngộ được, còn bằng chẳng ngộ được thì không làm sao giáo hóa được, chỉ đáng thương vậy.
Trong “Thắng Thiên Vương Kinh” phẩm “Nhị hạnh” nói Như Lai có 80 tướng đẹp, trong đó coù tướng “Tùy hảo quang minh công đức” là tướng luôn hướng về chúng sanh không lìa bỏ một ai, sẵn sàng phóng hào quang đến chúng sanh nào cần cầu, thật rất từ bi.
Ngài Trí Giả Ðại sư từ lúc còn bé luôn luôn giữ lệ là nằm thì chấp tay, ngồi thì day một về Tây. Về sau lớn lên khi đọc 48 lời nguyện và chín phẩm vãng sanh, cảm ứng được tướng lành ánh sáng soi rực núi, thiên nhạc tấu vang trời. Sau cùng ngài được sanh Tây phương Cực Lạc. Như thế, việc day mặt hướng về phương Tây chẳng đáng rộng tuyên dương ư?
Hỏi: Xin được nghe về ý nghĩa của Ban Châu
Ðáp: Tiếng Phaïm là Ban Châu, tàu dịch la “Hiện tiền”, nghĩa là nghĩ nhớ Phật liên tục không ngừng thì Phật sẽ hiển hiện tring định. Vấn đề 90 ngày thường hành đạo là để trợ duyên cho pháp ban châu chớ không phải là chính nghĩa.
Hỏi: Về diệu môn của tịch độ là Ban Châu đã được giải rồi. Song thời cận đại đến nay có ai đến được An dưỡng Quốc, đã không có tướng báo tin làm sao biết là đã đến nơi ấy. Xin ngài giảng rõ.
Ðáp: Ðời nhà Tấn, ngài Huệ Viễn ở Lư Sơn là vị đầu tiên khởi xướng tu tịnh độ. Ðược ngài Phật-Ðà-bạt-đà-la truyền pháp môn niệm Phật tam muội, ngài cùng các huynh đệ là Huệ Trì, Huệ Vĩnh nhóm họp các sĩ phu, quan lại về hưu, người ẩn dật, bậc có uy tín như Tông Nạp, Trương Dã, Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông, Châu Tục Chi, Khuyết Công Tắc,... 123 người cùng nhau đục núi làm bài minh phát thệ sanh Tịnh Ðộ. bài văn do Lưu Di Dân trước tác đại lược như:
“Buông xả vòng thế gian chìm đắm, tỉnh ngộ kiếp vô thường chóng vánh, rõ ba báo thường xuyên thôi thúc, cõi hiểm nguy biết khó thoát ra. Thế nên các hiền sĩ cùng chí khí hướng đây ngày đêm kính cẩn chuyên cần mong đức Di Ðà từ bi sang cứu độ. Dùng diệu quán đại nghi để khai mở tâm hồn, luyện trí quán chiếu luôn rõ ràng chánh trực. Ðể ý thức nhờ đó mà tỏ ngộ, thể xác bởi đó được đổi thay. Ngõ hầu mượn thân phuø dung giả tạm để vào dòng thánh chúng, núp bóng Quỳnh Kha chư Phật để trưởng dưỡng tánh linh, mặc áo giải thoát bay nơi cực lạc có ao sen bát đức, thổi ngọn gió thơm thanh tịnh trở về độ kẻ cùng niên (cùng tử) lầm lạc. Thân hết mọi an nguy mà luôn luôn hòa mục, tâm vượt cả khổ vui mà vẫn tự tươi vui. Trông xuống Tam đồ thấy sâu hun hút, nhìn lại thiên cung thì đã bỏ xa. Theo con đường của hàng Thánh chúng; mong được về tịch tịnh Niết bàn”.
Rõ xét, đạo như thế, há chẳng nên hoằng dương ư?
Ngài Huệ Viễn viết lời tựa sách “Niệm Phật tam muội” có nói rằng: “Sao gọi niệm Phật tam muội? Là nhớ chuyên, tưởng lặng vậy. Nhớ chuyên (luôn nhớ không ngừng) thì chí Không dời đổi. Tưởng lặng (các tưởng đều lặng) thì khí thanh thần sáng. Khí thanh thì trí giác soi khắp, thần sáng thì chiếu suốt chỗ tối tăm. Hai điều này thầm hợp nhau và chung hội lại mà thành ra diệu dụng. Các môn tam muội rất nhiều, nhưng về phần công đức cao dễ tu tiến thì niệm Phật là bực nhất. vì mỗi người đều có nhân duyên với các thứ định khác nhau nên không thể nói định nào hay dỡ được”. Tạ Linh Vận có bài thơ vịnh tịnh độ như:
“Pháp Tạng trưởng vương cung
Hoài đạo xả quốc thành
Nguyện ngôn tứ thập bát
Hoằng thệ chủng quần sanh
Tịnh độ nhất hà diệu
Lai giả giai tinh anh
Ðồi niên an khả ký
Thừa hóa tất thần chinh”.
Tạm dịch:
“Pháp Tạng xưa vốn ở Vương Cung
Lòng say mến đạo xả quốc thành
Từ tâm khởi bốn mươi tám nguyện
Thề cứu khắp cùng các chúng sanh
Lập một tịnh bang đầy thắng diệu
Ai về đây đủ vẻ tinh anh
Không già nua không điều đau khổ
Nương đài sen hoá hiện du hành”.
Ông hỏi rằng chưa thấy ai báo tin được vãng sanh, sao chẳng nhớ chuyện Khuyết Công Tắc đời tấn vãng sanh rồi trở lại báo tin. Ông Khuyết Công Tắc lúc còn sống có lời nguyện khi được vãng sanh xong sẽ trở về báo tin cho mọi người biết. Về sau ông mất, vào một đêm trong chùa Bạch Mã ở Ðông Kinh những người bạn từng cùng ông phát thệ tu hành đang tụng kinh là lễ kỵ giỗ ông. Giữa lúc ấy bỗng đại diện trở nên sáng lòa màu vàng kim, trong hư không có tiếng nói rằng: “Tôi là Khuyết Công Tắc trước kia cầu sanh về Cực Lạc, nay đã đạt kết quả nên trở về đây báo tin”. Nói xong các tướng lạ này liền mất.
Ông Chi Ðạo Lâm thấy vậy có lời tán thán rằng:
Ðại tai Khuyết Công
Hâm hư nạp linh
Thần hóa Tây vức
Tích nghiệm Ðông Kinh
Bồi hồi tiêu hứ
Lưu hưởng diệu hình
Khởi khâm nhứt tán
Thị dĩ phi mình”.
Tạm dịch:
Cao cả thay Khuyết Công
Lặng sáng mà hiển linh
Chánh niệm thần về miền lạc cảnh
Giác mê ứng tích tại Ðông Kinh
Trong mây dường rõ tiếng
Nét ngọc khó quên hình
Nhiệm mầu khen nói khôn cùng tận
Phật thánh ai rằng chuyện mộng minh.
(Trích Mấy Ðiệu Sen Thanh)
ông Ngô hiếu Kính cũng có lời khen:
“Y dư Công Tắc
Tiên cam pháp vị
Tri ngã gỉa hi
Kỳ đạo nãi quí
Kim Quang dạ lãng
Ngọc nhan triều túy
Bất xả hữu duyên
Ngôn cáo kỳ lụy (loại)”.
tạm dịch:
Hay thay Công Tắc
Trước nếm Pháp Vị
Biết tôi mong cầu
Ðạo ấy thật quí
Nên hiệu Kim Quang
Diệu tướng rõ ràng
Không quên nguyện cũ
Về báo Tây phang”. XII-MỘNG TỈNH ÐỀU CHỈ MỘT TÂM.
Hỏi: Phật nói tất cả pháp đều như mộng, Không biết đức Phật ta niệm và tịnh độ ta cầu sanh đây có như mộng chăng? Nếu chẳng mộng thì thành ra Phật ở ngoải tâm, còn Phật là mộng thì Phật chỉ là điều trong mộng, giống như trong mộng thấy vàng, tỉnh dậy chẳng có gì cả, e rằng niệm tưởng 3 thân thành ra rỗng tuếch rốt cùng đều là hư vọng. Xin ngài giảng giải thêm.
Ðáp: Chẳng phải hư vọng. Vì sao biết như vậy. nếu người niệm Phật tam muội đều giống như chiêm bao thấy vàng thì cái cứu cánh nhờ niệm Phật mà sanh tịnh độ rõ ràng như thế, há cho rằng vọng ư?
Lại như người tập thiên nhãn, mới đầu tưởng tượng ánh sáng của viên ngọc lửa, tưởng mãi không dừng nghĩ, sau phát sanh thiên nhãn thật sự, điều này cũng bảo là vọng được ư, cũng đồng với chiêm bao thấy vàng rốt cuộc không có gì ư? Thế nên đừng xem sự việc xa bằng con mắt cận rồi cho rằng mộng, đừng bao giờ cho niệm Phật vãng sanh toàn là điều trong mộng.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm, Phật và chúng sanh ; cả ba không sai biệt”. Tâm mê giống như mộng đó là chín cõi của chúng sanh, tâm ngộ đồng như tỉnh tức là pháp giới của chư Phật. Mê ngộ đều chỉ ở một tâm, mộng tỉnh chưa từng ở hai nơi.
Song Kinh nói: “Rõ vọng vốn là chơn”. Như vậy thì thấy Lô-xá-na như mộng cũng chẳng sai. Ðây là do tâm xét thấy vậy. XIII-NIỆM BA THÂN PHẬT PHÁ BA CHƯỚNG
Hỏi: Phật có 3 thân làm sao nhớ niệm, xin ngài chỉ bày để lúc niệm không còn sai thất.
Ðáp: Ba thân Phật là pháp thân, báo thân và hóa thân. Pháp thân như mặt trăng thật trên hư không. Báo thân như ánh sáng của mặt trăng. Hóa thân như bóng của trăng in trên mặt nước. Trong muôn ngàn mặt nước đều có trăng như vậy trăng này nhiều hay chỉ có một? Chẳng thể nói một vì ở muôn ngàn mặt nước đều có trăng riêng biệt, cũng chẳng thể nói nhiều vì trên hư không chỉ có một mặt trăng.
Kinh nói: “Hoặc hiện thân nhỏ cao một trượng sáu, ngang 8 thước đều là Phật trong tâm chúng sanh”. Như vậy hình dáng còn không có, há Phật có hai ư? Cõi tịnh, cõi trược đều trong tâm mình vậy.
Nếu muốn dùng pháp niệm ba thân Phật để phá ba chướng thì nay nên xét rõ rằng: Thân Phật ấy có ra là do ta chỉ quán sanh, tu chỉ quán chẳng đồng đều thì các chướng phát Khởi. Người niệm Phật tu chỉ tâm trầm thì “hôn ám chướng” khởi động làm chướng ngại hóa thân Phật. lúc ấy nên dùng pháp quán để phấn chấn tâm bằng các niệm tưởng ánh sáng bạch hào của Phật, như thế thì phá được “hôn ám chướng”.
Nếu tu quán tâm phù động, nghĩ tưởng các việc ác, làm chướng ngại báo thân thì nên trở lại tu chỉ để ngăn trừ tất cả ác niệm bằng cách niệm tưởng “các nhân lành xưa của Phật có hằng sa công đức tròn đầy trí tuệ, do nhân ấy mà được báo thân”, như thế thì phá được “ác niệm chướng”.
Nếu “nhị biên chướng”(chướng phân biệt chấp trước) phát động sanh ra nhiều hình trạng lạ lùng, các tướng mạo lẫn lộn, mềm cứng phá rối là chứng ngăn Pháp thân Phật thì dùng pháp “Trung Ðạo đệ nhất nghĩa Không” để phá nó. Như Kệ nói:
“Vô sắc vô hình tướng
Vô căn vô trụ xứ
Bất sanh bất diệt cố
Kính lễ vô sở quán”
Tạm dịch:
Không có sắc cũng không hình tướng
Không có căn cũng không chỗ trụ
Tất cả vốn chẳng sanh chẳng diệt
Kính lễ diệu quán “vô sanh hữu”.
Ý nghĩa của pháp quán vô sở hữu này giống như luồng gió mạnh thổi tan đám mây dày đặc để hiện bày rõ ràng mặt trăng Pháp thân thanh tịnh, phá dẹp các chướng phiền não bức bách.
Tùy theo bịnh cho thuốc thích hợp không ngoài các điều này. Khi ta đã đồng hóa với người, người đồng hóa với vật, ta và vật như nhau thì tam muội tròn đầy mạnh mẽ. Bấy giờ, chúng sanh mà vô tận thì tam muội cũng vô cùng.
Sáu điều trên đây là nói về niệm Phật A Di Ðà hiện tại để thấu suốt ý nghĩa niệm Phật ba đời (tam thế Phật). Rộng như trong An Lạc Tập, Thiên Thai thập nghi luận, Thích Quần Nghị Luận (Hoài Cảm Pháp Sư) Vãng Sanh truyện, Pháp bửu nghĩa luận (trù Thiền Sư), Vô thượng thâm diệu thiền môn truyện tập pháp bửu (Phi tích thiền sư) đã giảng.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.145.88.104 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.