Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Phân Biệt Công Đức Luận [分別功德論] »» Bản Việt dịch quyển số 3 »»

Phân Biệt Công Đức Luận [分別功德論] »» Bản Việt dịch quyển số 3

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.31 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.38 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận Phân Biệt Công Đức

Kinh này có 5 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 |
Việt dịch: Nguyên Huệ

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Đức Phật nói với các Tỳ-kheo: Đức Phật là bậc Đại từ, muốn khiến cho các đệ tử nhận biết đầy đủ về nghĩa của niệm Phật. Cũng như người cha dựa theo lời khuyên răn để dạy bảo con cháu, nhằm khiến chúng thành tựu, không nhằm báo đáp cho mình. Đệ tử đã chuyên tinh niệm Phật, quán hình tướng của Như Lai mắt chưa từng rời. Cũng như Tôn giả A-nan quán Phật không chán, tâm niệm không dừng.
Lúc nầy, Tôn giả A-nan trên lưng sinh mụt nhọt, Đức Phật sai Kỳ-bà chữa trị. Kỳ-bà bạch Phật: Không dám chạm tay lên lưng Tôn giả A-nan. Đức Phật bảo Kỳ-bà: Chỉ chữa trị, chớ nghi. Tự Ta sẽ vì Tôn giả A-nan thuyết pháp, khiến không còn biết đau.
Đức Như Lai khiến Tôn giả A-nan luôn chiêm ngưỡng tướng hảo của Phật, Phật vì Tôn giả mà thuyết pháp.
Thân Như Lai là thuộc về kim cương không thể hủy hoại. Ba ngàn hai trăm công đức của phước báo tạo thành, Tôn giả A-nan mắt nhìn không biết mỏi, tai lắng nghe không biết chán, tâm nhớ nghĩ không buông. Bấy giờ, Kỳ-bà phá vỡ mụt nhọt trên lưng Tôn giả A-nan rồi bôi thuốc. Đức Phật hỏi Tôn giả A-nan: Ông có thấy đau trên lưng không? Tôn giả A-nan thưa: Không thấy đau.
Không thấy đau là do niệm Phật.
Mười lực tạo thành cùng bốn vô sở úy. Xưa, có vị Trưởng giả dẫn theo kẻ hầu nữ đi lễ Thâu-bà (Tháp), đọc: Nam-mô Đức Thế Tôn mười lực! Kẻ hầu nữ đứng sau lễ, đọc: Nam-mô Đức Như Lai mười một lực. Trưởng giả bảo: Như Lai chính là có mười lực, vì sao lại đọc mười một? Kẻ hầu nữ thưa: Mười một lực lại có trở ngại gì sao? Chỉ không nên nói chín lực. Nói mười một lực là thêm một lực, đâu có lỗi lầm gì. Ông Trưởng giả im lặng trở về nhà. Lại hỏi các vị Pháp sư: Đức Như Lai có bao nhiêu lực? Đáp: Hoặc có ba lực. Hoặc có mười lực. Hoặc nói là vô số. Theo đấy mà nói thì không hạn định nơi mười chăng? Trưởng giả liền xuất gia học đạo, cho kẻ hầu nữ khỏi hầu chủ nhà. Nói bốn chẳng phải là không đủ. Nói vô số chẳng phải là có thừa. Hợp thời, ứng vật, không có lượng cố định.
* Niệm Pháp: Từ dục đến không dục. Từ dục đến đạo. Từ lậu đến vô lậu. Từ hữu vi đến vô vi. Do đâu nhận biết như thế? Ngày trước, Đức Thế Tôn ở tại nước của vua Ưu-điền thuyết pháp, giáo hóa. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lên cõi trời Ba Mươi Ba (Trời Đao-lợi) vì mẹ là Ma-da, thuyết pháp, chín mươi ngày mới trở về trần gian, từ nơi phía Bắc thành Ca-thi đi xuống. Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-liên-hoa tâm niệm muốn riêng mình được thấy Phật trước. Các vị Quốc vương không trông thấy Phật đã chín mươi ngày, đều có tình cảm khao khát, ngưỡng mộ, nên cùng tề tựu đông đủ. Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-liên-hoa suy nghĩ: Ta là Tỳ-kheo-ni, không nên ở trong chỗ đông đảo, ồn ào nầy. Cần tạo ra phương tiện thích hợp để được đón Phật trước. Liền hóa làm vị Chuyển luân Thánh vương, đám tùy tùng đều đúng theo pháp của Thánh vương. Các Tiểu vương quốc trông thấy Thánh vương thảy đều tự tránh xa. Tỳ-kheo-ni liền hiện trở lại hình tướng như trước, gặp Phật, lễ bái, vấn an. Các vị vua đều đến yết kiến Đức Phật, không còn thấy Chuyển luân vương, mới biết là do Tỳ-kheo-ni nầy hóa ra, bèn nói: Điều trông thấy vừa rồi là lừa dối như thế chăng? Lúc nầy, Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-liên-hoa tâm niệm tự cho mình là người thấy Phật trước nhất. Đức Phật bảo Ưu-bát-liên-hoa: Cô tự cho mình là người thấy Phật trước tiên, nhưng lại có người thấy Phật trước cô đấy. Cô biết rõ là vị nào chăng? Đức Phật nói: Nơi mé núi phía Đông thành La-duyệt (Vương-xá), Tôn giả Tu-bồ-đề đang vá y ở đấy. Có vị trời báo cho biết: Đức Phật đã trở lại trần gian. Tu-bồ-đề nói: Tôi là đệ tử, theo pháp là phải đi đến lễ bái, thưa hỏi. Lại tự tư duy: Phật hiện ở tại chốn nào? Hoặc sắc vàng óng là Phật chăng? Vàng lại có hạn lượng nào? Đức Phật đã dạy: Tất cả các pháp là không, là vô sở hữu, nếu hiểu rõ mười hai nhân là không, không tạo, không tác, không người, không sĩ phu, không thọ mạng, không kẻ thọ mạng, tức là thấy pháp. Thấy pháp không mạng, chẳng phải là mạng là thấy ta. Liền chấp tay, đọc: Bà nam! Đúng là như thế! Liền ngồi trở lại để vá y. Theo đấy mà nói, Tu-bồ-đề là người thấy Phật trước cô!
Phật là chủ của các pháp. Hiểu rõ pháp không tức là niệm Pháp.
* Niệm Chúng (Tăng): Là chúng Hiền Thánh. Phàm là chúng, tức có từng ấy loại. Chín mươi lăm thứ ngoại đạo, mỗi thứ cũng đều có chúng. Hoặc có thứ hòa hợp. Hoặc có thứ chẳng đồng. Cũng dùng giới luật để tự ngăn cấm. Hoặc hành thiền định. Hoặc cho vô tưởng là vi diệu tột bậc. Đều tin nơi việc làm của mình, tự cho là chân thật. Song không đạt được bát Thánh đạo phẩm đích thực, do đấy không thể đạt đến Niết-bàn. Tuy lại có kẻ chứng đắc năm thông, sống lâu cùng nhập vô tưởng kéo dài hàng kiếp, đều không tránh khỏi sinh tử. Chỉ có Thánh chúng của Như Lai gồm các vị đã đắc bốn hướng bốn quả là không còn bị bốn thứ nhanh chóng (bốn Bộc lưu?) làm cho nổi trôi, chín thứ dứt dừng khiến cho tan tác. Nên kinh nói: Chín mươi sáu thứ Tăng, Tăng của Đức Phật là chân thật hơn hết. Bốn bộ chúng của Như Lai đều là đồng Thích chủng. Dụ như bốn dòng sông Hằng đều có riêng năm trăm nhánh, đều hợp nhập nơi biển cả để cùng một vị. Chúng cũng như thế. Có người là chủng tộc Sát-đế-lợi. Có người là chủng tộc Bà-la-môn. Có vị là chủng tộc Trưởng giả, Cư sĩ. Trong bốn chủng tánh, có người xuất gia học đạo đều đồng là Thích chủng, là một họ, không có các tên gọi riêng như thế. Do phạm vi bao quát càng xa, nên về nghĩa càng sâu rộng. Chúng Tăng chính là đều thọ nhận nơi ba thừa. Tăng A-la-hán cũng xuất sinh từ đấy. Hàng Duyên giác cũng ở trong đó. Tăng Đại thừa cũng vậy. Thế nên gọi là ruộng phước tốt đẹp bậc nhất. Cứu giúp chúng sinh trong ba cõi, không gì vượt hơn loại “Ruộng đất” tốt đẹp ấy. Đức Như Lai tuy đã thành Chánh giác, vẫn thường hướng trở lại đến chúng Tăng để sám hối. Là do “đất” của Tăng dày, nặng. Ba đời chư Phật, Duyên giác, Thanh-văn, không bậc nào là không do Tăng mà được diệt độ. Cũng như Tỳ-kheo Phạm-ma-đạt, nhờ nơi Thánh chúng mà được cứu độ vẹn toàn.
* Niệm giới: Nghĩa là hành trì giới tịnh gồm thâu các luật nghi. Cũng như người thợ gốm sử dụng các thứ đất thó, bùn v.v… tạo thành những đồ chứa đựng lớn nhỏ, vuông tròn, đều thích hợp với sự mong muốn của người tiêu dùng. Giới cũng như vậy. Hoặc nguyện sinh thiên, thọ phước của ba cõi. Hoặc muốn đoạn trừ kiết cầu đạo, sở nguyện đều hợp ý. Giống như chiếc bình Cát tường, tùy theo ý muốn của người giữ lấy, tức được như ý. Dùng giới làm gốc, hành trì luôn ba mươi bảy phẩm và các Tam-muội, định, đoạn bảy sử, chín kiết, tiến đến thành Niết-bàn, dụ như đất thó thành đồ đựng, không thể bị hư hoại nữa.
* Niệm thí: Tức thí có hai sự: Hoặc có chủ thí, hoặc không chủ thí. Lại có hai thí: Một gọi là cho. Hai gọi là xả. Lại có hai thí: Một là của cải. Hai là giáo pháp. Cho tức là thí có chủ. Xả là thí không chủ. Xả tức là xả bỏ kiết. Cho tức người trước mặt thọ nhận của cải, giáo pháp.
Sở dĩ thí đạt đến Niết-bàn: Là nếu lúc cho người của cải, giáo pháp, tâm không mong cầu quả báo, không chấp mình, người, do ba sự vô ngại tức đồng với giải thoát. Hoặc có thể xả bỏ kiết, cũng là Niết-bàn. Xả, cho cùng đạt đến Niết-bàn. Cũng như chú voi tuân theo đứa trẻ mạnh mẽ, tiến tới cùng thối lui. Nếu cả hai được thịt, tiến tới thì phá trừ quân binh, thối lui thì mất việc ăn thịt, tất nhiên là thế.
* Niệm thiên: Có ba loại thiên (trời): Có Thiên cử, có Thiên sinh, có Thiên thanh tịnh.
Thế nào là Thiên cử? Nghĩa là Chuyển luân Thánh vương, được mọi người suy cử. Sở dĩ gọi là thiên: Là do Thánh vương có mười thiện giáo hóa ở đời, khiến người đều sinh thiên. Vì ở trên con người nên gọi là Thiên. Hoặc có người nói: Thánh vương hơn Phật. Do đâu mà nói như thế? Vì Thánh vương trị đời, người không bị đọa vào đường ác. Lúc Phật xuất hiện nơi thế gian, ba đường ác không dứt. Do đấy nên là hơn. Hoặc lại có thuyết nói: Phật hơn Thánh vương. Sở dĩ nói hơn là vì Thánh vương dùng mười thiện giáo hóa ở đời, không hơn người, trời. Phật xuất hiện, giáo hóa thế gian đạt đến Niết-bàn. Do đấy nên là hơn.
Thế nào là Thiên sinh? Là từ bốn Thiên vương cho đến hai mươi tám cõi trời, những người thọ nhận phước, đều là Thiên sinh, do đó nói Thiên sinh. Lưu chuyển không dứt, chẳng lìa sinh tử, nên gọi là Thiên sinh.
Thế nào là Thiên thanh tịnh? Là ba bậc Phật, Duyên giác, Thanh-văn, đều dứt hết kiết sử, ra khỏi ba cõi, thanh tịnh không dục, nên nói là Thiên thanh tịnh.
Tám Tịnh cư thiên: Là vượt hơn Thiên sinh, Thiên cử, không bằng xứ thanh tịnh, ở khoảng giữa ấy, là chỗ kính mộ của người niệm thiên. Nhân niệm về sinh, cử, cũng có lý đạt đến Niết-bàn. Vì sao? Chuyện kể trong thành Xá-vệ có đôi vợ chồng là Thanh tín sĩ (Ưu-bà-tắc) không có con cháu, cả hai đều tinh tấn, tâm luôn nhớ nghĩ đến Tam bảo. Bấy giờ, người vợ mất sớm, được sinh lên cõi trời Tam Thập Tam, làm thiên nữ, nhan sắc tuyệt trần, trong cõi trời ít ai sánh bằng. Thiên nữ nầy tự suy nghĩ: Chồng của ta đang làm gì? Bèn dùng thiên nhãn xem xét thế gian, thấy người chồng cũ của mình đã xuất gia học đạo, do tuổi cao trí kém, chỉ chuyên tin tưởng mà thôi, công việc thường làm là dùng chổi quét dọn tháp miếu. Thấy sự siêng năng ấy, lý nên sinh thiên, tất trở lại làm chồng mình. Lúc nầy, người chồng cũ đang ở tĩnh thất, ngồi một mình suy nghĩ, bất chợt có ánh sáng hiện ra, cho là điều lạ, nên ngẩng đầu lên nhìn, thấy có thiên nữ, liền hỏi nàng là ai, từ đâu đến? Thiên nữ đáp: Tôi từ nơi cõi trời Ba Mươi Ba tới đây, vốn là vợ của chàng, nay là thiên nữ. Trên cõi trời ấy, không ai nhận làm chồng tôi. Xem thấy chàng luôn tinh tấn với công việc, nên trở lại làm chồng tôi. Vì thế nên đến đây để nêu bày ý mình. Nói xong, hốt nhiên biến mất, quay trở về cõi trời.
Từ đấy trở về sau, người Tỳ-kheo già càng thêm siêng năng, lại gồm luôn việc tu bổ tháp miếu cũ, sớm chiều không biếng trễ. Do tích chứa công sức, khiến phước đức càng hơn, nên được sinh lên cõi trời thứ tư là Đâu-suất. Thiên nữ lại dùng thiên nhãn xem xét, thấy người chồng cũ được sinh nơi cõi trời Đâu-suất, lại đi tới, bảo: Chàng tích chứa tinh tấn, nên đã vượt qua cảnh giới của tôi. Tôi lại không có được chàng để làm chồng. Nói xong liền lui gót.
Tỳ-kheo nầy lại càng tinh tấn, hơn cả thời gian trước. Ngày thì kinh hành, đêm thì tọa thiền, tâm ý chuyển sáng, tư duy về bốn đế. Như vậy không lâu, bèn chứng đắc A-la-hán. Đó là nhân niệm thiên mà đạt đến Niết-bàn.
* Niệm dừng dứt: Nghĩa là đạt được định. Dừng dứt có hai: Có dừng dứt của thế tục. Có dừng dứt của đạo.
Dừng dứt của thế tục: Cũng như hành tác mệt nhọc để dứt bỏ biếng nhác, nhưng an trụ rất nhỏ.
Dừng dứt của đạo: Là người hành định. Do đâu nhận biết điều ấy?
Xưa có Tỳ-kheo tên là Đẳng Hội, tọa thiện nhập định gần mé đường lớn. Lúc ấy, có năm trăm cỗ xe chạy ngang qua, tiếng động rất dữ, nhưng người tọa thiền vẫn hoàn toàn không hay biết gì. Rồi trời lại nổi sấm sét liên hồi, phút chốc mặt đất rúng động, nhưng Tỳ-kheo nhập định thảy đều không nghe biết. Người đi qua, các thứ bụi đất càng nhiều phủ bám đầy nơi y. Có kẻ tới gần, thấy Tỳ-kheo nầy ngồi thẳng người, bất động, bụi đất bám đầy y, đều không hay biết. Tỳ-kheo xuất định, vui vẻ phủi đập bụi đất. Người qua đường hỏi: Vừa rồi thầy ngủ chăng? Đáp: Không. Lại hỏi: Nếu không ngủ, thì sao vừa rồi có đoàn xe chạy qua, trời lại sấm sét, mặt đất rúng động, mà thầy không hay biết, kinh hãi? Tỳ-kheo đáp: Khi đó tôi nhập Tam-muội dừng dứt, nên đều không nghe biết gì.
Do đấy mà nói, người đắc định dừng dứt, tuy trời đất có ụp xuống cũng không thay đổi ý chí. Nên gọi là định dừng dứt.
* Niệm hơi thở: Là dứt các thứ dong ruổi lúc tọa thiền. Con đường hướng tới đạo không phải chỉ một nẻo. Phương, hướng của sự tỏ ngộ đều có nơi chốn. Do đâu nhận biết như thế?
Chuyện kể Tôn giả Thân Tử (Xá-lợi-phất) thời xa xưa từng cúng dường mười bốn ức Đức Phật, theo Phật nghe pháp, nhưng chưa từng hành tập pháp niệm hơi thở. Đến đời Phật Thích-ca-văn, theo Tỳ-kheo Mã Sư, mới đạt pháp không, tức thấy “Dấu vết đạo”. Đức Phật diễn nói đủ, tuệ đầy, kiết hết, lãnh hội thông suốt, nay là trí tuệ bậc nhất, không do pháp niệm hơi thở mà đắc Niết-bàn.
Tôn giả Mục-kiền-liên, xưa, trong ba mươi kiếp cúng dường chư Phật, tu hạnh Đại thừa, không thể trọn vẹn, được gặp Đức Thế Tôn, lui giữ lấy bậc “Lậu dứt hết”. Từ xưa đến nay chưa từng hành tập pháp niệm hơi thở.
Tỳ-kheo Ca-diếp, xưa cũng từng cúng dường ba vạn Như Lai, cũng chưa từng tu tập pháp niệm hơi thở, nên đắc quả Phật Bích-chi, nay thối chuyển làm A-la-hán.
Tỳ-kheo Mã Sư, ngày xưa cũng cúng dường bảy Phật, cũng không tu tập pháp niệm hơi thở, nay cũng dứt hết các lậu.
Tôn giả A-nan xưa từng cúng dường hai vạn Đức Như Lai, đã theo chư Phật hỏi, nhận giáo pháp, cũng không hành tập sổ tức.
Chỉ có La Vân, Ma-kha-kiếp-thất-la, từ ngày xưa đến nay luôn hành tập pháp ấy, nay cũng đạt đạo.
Theo đấy mà nói, đường hướng tới đạo không phải chỉ một nẻo.
Niệm hơi thở: Là nhận biết hơi thở dài ngắn, lạnh nóng, chậm mau, từ thô đến tế, dần dần chế ngự tưởng loạn, đạt tới vi diệu. Hoặc nhân nơi hơi thở để tỏ ngộ. Hoặc phân biệt để hiểu rõ. Hoặc hành hạnh Đầu-đà để giữ khí tiết. Hoặc đa văn ghi nhớ giỏi. Hoặc thần túc nhận biết sâu xa. Hoặc tẩy tịnh, hoặc giáo huấn, để tỏ ngộ. Đó gọi là “Đường đi khác nhau” (Thù đồ) mà cùng quy về một chốn (đồng quy).
* Niệm thân: Nghĩa là phân biệt về bốn đại, hiểu rõ về năm ấm, đều đồng là huyễn mộng. Do đâu biết được niệm thân đạt đến Niết-bàn?
Xưa, sau thời Phật nhập Niết-bàn khoảng trăm năm, có vua A-dục, làm chủ cõi Diêm-phù-đề, quần thần, phu nhân, voi ngựa, mỗi thứ đều có tám vạn bốn ngàn. Bấy giờ, vua tuần hành khắp nước, thấy vua Diêm-la có mười tám địa ngục, cũng có quan chức làm công việc họp, hỏi tội nhân. Vua A-dục hỏi kẻ tả hữu: Đây là những người gì? Đáp: Đây là vua của những người chết, chủ việc phân biệt thiện ác. Vua bảo: Vua của người chết hãy còn có thể tạo địa ngục để xử trị tội nhân. Ta là vua của người sống, lại không thể tạo địa ngục sao? Liền hỏi các quan ai có thể làm được công việc ấy? Các quan tâu: Chỉ có người cực ác mới có thể tạo địa ngục. Vua lệnh cho các quan đi hỏi tìm người ác. Các quan vâng mệnh đi tìm khắp, thấy có một người ngồi trên đất dệt len, bên cạnh có cung tên, cùng các vật dụng câu bắt cá. Lại dùng cơm trộm độc để nhử chim sẻ. Vừa dệt len, vừa câu cá, bắn chim, bắt sẻ. Các quan trở về cung tâu vua hiện có kẻ ác như thế. Vua bảo: Người nầy cực ác, tất có thể thực hiện được các sự việc của địa ngục. Vua sai người đến nói với anh ta: Đại vương muốn gặp ông! Kẻ ác đáp: Ta là hàng tiểu nhân, không có hiểu biết. Vua dùng ta làm gì? Quan nói: Vua đang muốn được ông để xử trị công việc nơi địa ngục. Người ác liền trở về nhà có mẹ già, nói với mẹ: Vua cho người gọi con. Bà mẹ hỏi: Vua cho gọi con làm gì? Người con thưa: Vua muốn sai con xử trị việc ở địa ngục. Mẹ bảo: Con đi rồi, mẹ làm sao sống được? Nói xong bà mẹ liền ôm chặt lấy chân con không buông ra. Người con ý đã muốn đi, tức rút dao chém chết mẹ, rồi đi tới chỗ vua. Vua hỏi: Mẹ không buông tha ngươi, do đâu đến được đây? Tâu: Giết chết mẹ mà đến. Vua phán: Đúng là người ác, tất có thể làm tốt công việc ở địa ngục. Liền giao cho người nầy làm tường địa ngục, đặt vạc nước sôi, rừng kiếm, lạy tôn làm vua địa ngục, cùng lập quan phụ tá, đều đúng phép tắc như vua Diêm-la. Vua dặn kỹ: Nếu có người vào thành nầy, không cần hỏi sang hèn, được toàn quyền trị tội. Vua bảo tiếp: Giả sử ta có vào trong ấy, cũng chớ cho ra.
Lúc nầy, có Tỳ-kheo lớn tuổi, tên là Thiện Giác, thường đi khất thực, đến cửa thành nầy, đứng bên ngoài thấy hoa đẹp tỏa hương, cho là bên trong có người, liền đi vào, chỉ thấy tội nhân bị xử trị, kinh sợ muốn trở ra, nhưng ngục tốt không cho, lại dẫn tới chỗ vạc nước sôi. Đạo nhân cầu cứu, nói: Xin tha cho tôi đến giữa trưa. Trong chốc lát có hai người nam nữ vì phạm dâm dục nên bị dẫn vào đây trị tội. Cả hai bị đặt trong cối lớn, ngục tốt dùng chày đâm giã, phút chốc biến thành đống bọt. Đạo nhân trông thấy mới nghĩ tới lời Đức Phật dạy: Thân người như đống bọt tụ lại. Đúng thay lời dạy ấy! Khoảnh khắc lại biến làm sắc trắng. Đạo nhân lại niệm: Thân người như mớ tro trắng, biến đổi chẳng phải một, như huyễn như hóa, xét kỹ chẳng thật. Tức thì ý ngộ, lậu hết, kiết tận. Ngục tốt lại thôi thúc đưa vào vạc nước sôi. Tỳ-kheo già mỉm cười. Ngục tốt giận dữ sai bốn người xốc giữ chặt hai bên nách, đưa lộn ngược vào trong vạc, nước sôi tức thì thành nước lạnh. Tỳ-kheo liền hóa ra ngàn đóa hoa sen, ở trong hoa sen ngồi kiết già. Ngục tốt kinh hãi, tâu vua A-dục: Nay trong ngục có sự việc kỳ quái, cúi xin nhà vua phí chút thì giờ đến xem qua. Vua bảo: Ta trước đã dặn kỳ: Giả sử ta có vào trong ấy cũng không cho ra. Ta nay đâu được vào trong đó. Quan tâu: Chỉ vào thôi, không thọ khổ. Vua liền theo vào, thấy Đạo nhân ngồi yên trên hoa sen. Vua hỏi: Ông là ai? Đáp: Tôi là Đạo nhân. Đạo nhân nói với vua: Vua là kẻ si mê. Vua hỏi: Vì sao gọi ta là kẻ si mê? Đạo nhân nói: Ông vào thời xưa lúc làm Đồng tử, dùng một nắm đất lớn dâng lên Phật, Phật nhận và chú nguyện: Con về sau sẽ làm vua châu Diêm-phù-đề, là bậc Thiết luân vương, tên A-dục, trong một ngày sẽ dựng tám vạn bốn ngàn tháp Phật. Ngục nầy là tháp Phật chăng? Tâm ý vua liền tỏ ngộ, nên sám hối lỗi lầm trước, dùng Thiện Giác làm thầy, bãi bỏ ngục, hưng phước, dựng tám vạn bốn ngàn tháp miếu. Do đấy mà nói, niệm thân đạt được Niết-bàn, nghĩa ấy là như thế.
Thế nào là niệm tử đạt đến Niết-bàn?
Xưa, vua A-dục phụng pháp tinh tấn, thường cúng dường năm trăm chúng Tăng nơi cung nội, bốn sự không thiếu. Bên ngoài, gồm luôn việc cung cấp cho năm trăm vị khất thực, trụ nơi A-luyện-nhã. Lại biếu tặng vật dụng cho năm trăm người, theo đấy mà cúng dường. Ở trong bốn cửa thành đều lập nơi chốn cung cấp cho những người nghèo thiếu. Cúng dường, cung cấp nhiều và lâu dài như thế nên tài sản, châu báu giảm dần. Lúc ấy, người em vua tên Tu-già-đố-lộ không tin Tam bảo. Đại thần Da-xá, phu nhân Thiện Dung cũng cùng không tin. Ba người đồng tâm gây vạ cho vua, thường xuyên can gián: Cúng dường Đạo sĩ khiến tài sản của quốc gia khánh kiệt, sao lại làm công việc như thế. Vua bảo: Người nên khéo giữ lời. Phàm kẻ sĩ xử thế, sở dĩ thân bị chém là do lời nói ác. Tu-già-đố-lộ tâu vua: Những Đạo sĩ nầy đều là tuổi trẻ, ăn uống luôn ngon miệng, tình dục càng dấy mạnh, lại ở trong cung sâu, nơi có nhiều người nữ, há có thể tin được? Vua nói: Đạo sĩ luôn chế ngự hình tướng, dùng pháp tự ngăn giữ, giảm thân giữ giới, không bị sắc dục sai khiến. Sau đấy, Tu-già-đố-lộ đi săn, trông thấy bầy nai, ở giữa có một người giăng lưới vây bắt. Tu-già-đố-lộ gặp người ấy, hỏi: Ông là ai? Đáp: Tôi vào lúc được tám tuổi, mất hết cha mẹ, chạy trốn vào trong núi, được uống sữa nai, từ đấy tới giờ. Lại hỏi: Lúc nai không sữa thì lấy gì để ăn? Đáp: Tôi theo bầy nai ăn cỏ lá để tự nuôi sống. Lại hỏi: Từng có ý dục chăng? Đáp: Có.
Tu-già-đố-lộ trở về cung, đem sự việc tâu vua: Kẻ ấy ăn cỏ lá, thân hình gầy ốm, hãy còn có dục tình, huống chi là các Đạo sĩ ăn uống ngon miệng, thân thể khỏe mạnh, đâu lại không có dục tình? Vua tâm niệm: Nên tạo phương tiện gì để hóa độ người em nầy? Tức lập quyền mưu, dối bảo là sắp xuất du, tập hợp đông đảo quân binh, kẻ hầu, chỉnh đốn để lên đường. Vua lén trở về cung, ẩn mình không hiện. Nhà vua trước đã cùng với các quan bàn luận: Nếu ta xuất du, sau đấy nên suy cử người em mình làm vua. Các quan liền khuyên người em vua mặc thử vương phục. Người em dối giả vờ không chịu. Các quan nói: Chỉ mặc thử trước chúng tôi thôi. Người em liền mặc vương phục, đội mão vua, các quan cùng hô: Vạn tuế, tả hữu đứng hầu, như pháp của Thánh vương. Vua A-dục trông thấy sự việc đã rõ, liền từ bên ngoài đi vào, bảo: Ai như là đại vương? Người em thấy vua, hổ thẹn đỏ mặt, không biết phải làm gì. Vua A-dục nói: Ta vừa xuất du thì khanh vì sao liền làm sự việc nầy? Thiết luân của ta không còn chăng, nên chỉ mới như thế mà đã xem như không có ai? Chỉ trong chốc lát ta sẽ xử chém ngươi. Bèn lệnh cho các quan bắt giữ, tra vào gông cùm, ngầm sai kẻ thân tín thưa với Đạo nhân: Thiện Niệm có ý ấy, nên đến để giải cứu. Đang muốn giết ngươi, nhưng nghĩ ngươi làm vua quá ít, chưa được thỏa ý, nên nay ta lại nhờ ngươi làm vua bảy ngày, đúng như vương pháp của ta, quần thần theo hầu, cung nhân kỹ nữ, ăn uống tiến dâng. Thỏa ý trong bảy ngày sẽ chịu hình pháp. Tức như lời dạy thi hành, nhưng Tu-già-đố-lộ không còn tâm để tự vui. Đạo nhân tới thỉnh cầu, cầm bát, chống tích trượng, đi đến cửa cung vua. Vua hỏi: Thầy tới đây muốn thỉnh cầu điều gì? Đáp: Muốn xin người chết. Vua nói: Tội nhân nầy đáng chết, Đạo nhân không được xin. Đạo nhân lại thưa: Chỉ xin làm người tu hành, sẽ khiến học đạo. Vua nói: Hỏi kẻ ấy xem có thể học đạo được không? Đạo nhân liền đến chỗ tội nhân hỏi: Nay xin ông làm Sa-di, có thể được chăng? Đáp: Giả sử làm nô tỳ cũng chấp nhận, huống chi lại làm Sa-di. Vua phán: Làm Đạo nhân rất khó, phải xét kỹ xem mình có thể làm được hay không. Pháp của người tu hành là mặc áo thô, ăn uống kham khổ chỉ nhằm giữ lấy thân mạng mà hành đạo. Ngươi quen với vui nhiều, sao có thể kham nổi khổ hạnh ấy? Đáp: Nên đáng chết, được sống, há không kham nổi khổ hạnh. Vua bảo: Nếu kham nổi thì cho phép.
Khiến bảy ngày khất thực. Vua dặn những người trong cung: Lúc Tu-già-đố-lộ tới khất thực, thì chỉ cho các thức ăn rất dở, hoặc các thứ dư thừa, hôi thiu. Tu-già-đố-lộ mặc y cũ rách, tới các phòng khất thực, nơi nơi đều chỉ được thức ăn dở. Do tình nặng của việc thoát khỏi chết, nên cam tâm ăn những thức ăn dở? Đủ bảy ngày rồi, vua thấy người em không có hối hận, liền cho phép tu đạo, bảo: Ông thường nói: Đạo nhân nhàn lạc, có nhiều dục tình, khó tin. Chỗ khất thực của ông vừa qua tại cung nội của vua, cũng hãy còn tinh tế. Đạo nhân khất thực, còn tệ hơn nhiều so với đấy, việc ăn uống như thế, há có thể có tình dục chăng? Tức giao phó cho Thiện Niệm làm Sa-môn, sai khiến đến thành Thạch Thất. Ở trong thành ấy hành các thiền quán. Hoặc ở nơi nghĩa địa, hoặc ở bên gốc cây. Lúc đó, tại nơi nghĩa địa quán thây người chết, ban đêm thấy có ngạ quỷ đánh đập một thây người chết. Sa-môn Tu-già-đố-lộ hỏi: Vì sao lại đánh thây chết nầy? Đáp: Vì nó đã làm khốn khổ tôi như thế, do đấy nên đánh nó. Đạo nhân nói: Vì sao không đánh vào tâm ông? Đánh thây chết ấy thì có ích gì? Trong chốc lát lại có một vị trời, dùng hoa trời Văn-đà-la tung rải lên thây chết. Đạo nhân lại hỏi: Vì sao lại tung rải hoa nơi thân chết xú uế nầy? Đáp: Tôi do thây chết nầy mà được sinh lên cõi trời. Thây chết ấy tức là thiện hữu của tôi, nên đến đây rải hoa báo đáp ân ngày trước. Đạo nhân nói: Vì sao không rải hoa ở trong tâm của ông, mà lại rải hoa nơi thây chết xú uế ấy? Phàm gốc của thiện ác, đều ở nơi tâm, các ông lại bỏ gốc để chọn lấy ngọn chăng.
Bấy giờ, Tu-già-đố-lộ tự nghĩ: Ta từ chết được sống, do nhân duyên ấy nên được giải thoát. Đối với việc quán thân, niệm tử ấy, tư duy, phân biệt, hiểu rõ về vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã), tức đắc La-hán. Theo đấy mà nói, niệm tử cũng đạt đến Niết-bàn.
HẾT - QUYỂN 3

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 5 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Tôi đọc Đại Tạng Kinh


Truyện cổ Phật giáo


Kinh Phổ Môn


Sống thiền

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.220.217.3 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập