Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Quyển Thứ Ba
V- Phẩm Thăm Bệnh
Khi ấy, đức Phật bảo Diệu Cát Tường:
- Ông hãy đến thăm bệnh Vô Cấu Xứng hỉ!
Diệu Cát Tường thưa:
- Bạch Thế Tôn! Ðại cư sĩ ấy khó bề đối đáp lại được, vì ông ấy thể nhập sâu vào pháp môn, có khả năng hiện thuyết khéo léo, trụ vào biện tài vi diệu, trí huệ vô ngại, đã hoàn thành những sự nghiệp của tất cả Bồ tát, tùy ý nhập vào chỗ bí mật của chư Như Lai và các Ðại Bồ tát, thâu phục chúng ma, phương tiện thiện xảo vô ngại, đã đạt đến chỗ tối thắng không hai không xen tạp, sở hành về pháp giới đã rốt ráo đến bờ bên kia, với một tướng, ông ta có thể trang nghiêm cả pháp giới, giảng pháp môn vô biên tướng trang nghiêm, thấu rõ căn hạnh của tất cả hữu tình, có thể du hí các thần thông tối thắng, đạt đến chỗ đại trí huệ phương tiện thiện xảo, đã giải quyết được tất cả những vấn đáp một cách tự tại không sợ, những lời nói thấp hèn sắc bén không thể chống cự nổi. Tuy vậy, con sẽ nương oai thần của Phật đến thăm bệnh ông ta. Ðến đó, con sẽ tùy theo năng lực của con để đàm luận với ông ta.
Thế rồi, trong chúng có các Bồ tát và đại đệ tử Thanh văn, Thích, Phạm, hộ đời, chư thiên... đều nghĩ rằng: “ Hai vị Bồ tát này đều là người có thắng giải quãng đại sâu xa. Nếu cùng nhau bàn luận quyết định là nói giáo pháp vi diệu. Vì nghe pháp, chúng ta cũng sẽ đốc suất nhau đi theo đến đó”.
Bấy gờ, trong chúng có tám ngàn vị Bồ tát, năm trăm vị Thanh văn, vô lượng trăm ngàn Thích, Phạm, chư thiên hộ đời... vì nghe pháp nên xin đi theo. Thế rồi, Diệu Cát Tường cùng các Bồ tát, đại đệ tử Thanh văn, Thích, Phạm, chư thiên hộ đời cung kính đảnh lễ Thế Tôn rồi cùng nhau ra khỏi rừng Yêm La đến thành Quảng Nghiêm để thăm bệnh ông Vô Cấu Xứng. Lúc ấy Vô Cấu Xứng nghĩ rằng: “ Ta nên dùng thần lực của mình biến thành nhà trống, không còn những giường chiếu, ghế ngồi, của cải, vật dụng và những người giả... Chỉ để lại một chiếc giường hiện đang nằm bệnh”. Sau khi nghĩ như vậy, Vô Cấu Xứng liền dùng sức đại thần thông làm cho nhà mình trống không, không còn vật gì cả chỉ để lại một chiếc giường hiện đang nằm bệnh mà thôi.
Bấy giờ, Diệu Cát Tường cùng đại chúng vào nhà ông ta, nhưng thấy nhà trống không, không có những vật dụng cả người thị giả nữa, chỉ có một chiếc giường Vô Cấu Xứng nằm thôi. Thấy Diệu Cát Tường, Vô Cấu Xứng vui mừng chào : “Lại đây, tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy, tướng không nghe mà nghe”.
Diệu Cát Tường nói:
- Ðúng rồi, cư sĩ! Nếu đã đến tức là không còn đến, đã đi tức là không còn đi. Vì sao? Ðã đến chẳng phải từ đâu đến, đã đi chẳng phải từ chỗ đi. Ðã thấy tức là không còn thấy, đã nghe tức là không còn nghe. Thôi hãy gát việc đó qua một bên. Cư sĩ! Bệnh ấy có chịu nổi không? Mạng sống có thể cứu được không? Giới có điều hòa không? Bệnh có thể trị liệu được không? Có thể làm cho bệnh ấy đừng tăng nữa được không? Thế Tôn ân cần gởi lời thăm ông. Cư sĩ! Bệnh này có thuyên giảm chút nào không? Ði đứng khí lực có được khỏe không? Nguồn gốc của bệnh này do đâu mà có? Bệnh đã bao lâu rồi? Phải làm sao cho hết bệnh?
Vô Cấu Xứng nói:
- Vô minh hữu ái của các hữu tình sanh ra đã lâu rồi, bệnh này của tôi sanh ra cũng như vậy. Lâu xa trước khi sanh tử đến nay. Vì hữu tình bệnh nên tôi cũng bệnh. Nếu hữu tình hết bệnh thì tôi cũng hết bệnh. Vì sao? Vì tất cả Bồ tát theo các hữu tình trôi mãi dòng sanh tử, do theo vào sanh tử thì có bệnh. Nếu các hữu tình lìa được bệnh khổ thì các Bồ tát không còn bệnh. Ví như cư sĩ trưởng giả ở thế gian chỉ có một người con duy nhất nên rất yêu thương, cưng chìu không muốn xa nó. Nếu đứa con bệnh thì cha mẹ cũng bệnh, còn như con lành bệnh thì cha mẹ cũng hết bệnh. Cũng vậy, Bồ tát thương các hữu tình giống như con một. Nếu hữu tình bệnh thì Bồ tát cũng bệnh, hữu tình hết bệnh thì Bồ tát hết bệnh. Ngài lại hỏi bệnh ấy từ đâu mà có ư? Bồ tát có bệnh là do lòng đại bi sanh ra.
Diệu Cát Tường hỏi:
- Vì sao nhà này hoàn toàn trống không, lại không có người hầu?
Vô Cấu Xứng nói:
- Tất cả cõi Phật đều không.
Diệu Cát Tường hỏi:
- Lấy gì làm không?
Vô Cấu Xứng trả lời:
- Lấy không làm không.
Hỏi:
- Không này vì sao lại không?
Ðáp:
- Vì không này không phân biệt nên không.
Hỏi:
- Tánh không có thể phân biệt được sao?
Ðáp:
- Nó có thể phân biệt nhưng cũng đều không. Vì sao? Vì tánh không không thể phân biệt nên là không.
Hỏi:
- Không này phải tìm ở đâu?
Ðáp:
- Tìm trong sáu mươi hai kiến.
Hỏi:
- Sáu mươi hai kiến này nên tìm ở đâu?
Ðáp:
- Tìm trong các pháp giải thoát của chư Phật.
Hỏi:
- Pháp giải thoát của chư Phật phải tìm ở đâu?
Ðáp:
- Tìm trong tâm hành của tất cả hữu tình. Ngài lại hỏi vì sao không có thị giả ư? Tất cả ma oán và các ngoại đạo đều là thị giả của tôi cả. Vì sao? Vì tất cả ma oán vui thích sanh tử, tất cả ngoại đạo thì ham thích các kiến. Với những thứ ấy, Bồ tát đều nhàm chán xa lìa. Cho nên oán ma và ngoại đạo là thị giả của tôi.
Diệu Cát Tường hỏi:
- Cư sĩ! Bệnh này tướng như thế nào?
Ðáp:
- Bệnh của tôi hoàn toàn không có sắc tướng, cũng không thể thấy.
Hỏi:
- Bệnh này tương ưng với thân hay tương ưng với tâm?
Ðáp:
- Bệnh của tôi chẳng tương ưng với thân vì lìa tướng thân; cũng tương ưng với thân vì như ảnh tượng. Chẳng tương ưng với tâm vì lìa tướng tâm, cũng tương ưng với tâm vì như huyễn hóa.
Hỏi:
- Ðịa, thủy, hỏa, phong giới, trong bốn giới này bệnh thuộc vào giới nào?
Ðáp:
- Thân của các hữu tình đều do bốn đại mà có. Vì chúng có bệnh nên tôi bệnh. Nhưng bệnh này chẳng phải do bốn đại ấy sanh vì lìa tánh của giới.
Diệu Cát Tường hỏi:
- Bồ tát an ủi Bồ tát bị bệnh như thế nào để họ được vui vẻ.
Vô Cấu Xứng trả lời:
- Chỉ bảo thân vô thường nhưng khuyên không nhàm chán thân; chỉ bảo thân có khổ mà không khuyên thích Niết bàn. Chỉ bảo thân là vô ngã nhưng khuyên làm thành thục hữu tình, chỉ bảo thân là không tịch nhưng không khuyên tu rốt ráo tịch diệt, chỉ bảo sám hối tội trước nhưng không nói tội có thay đổi; khuyên lấy bệnh của mình mà thương các hữu tình để trừ bệnh cho họ; khuyên phải nhớ đến tội khổ lúc trước đã chịu mà làm lợi ích hữu tình; khuyên phải nhớ vô lượng gốc lành đã tu để tu mạng thanh tịnh; khuyên đừng sợ hãi mà phải tinh tấn dõng mãnh, khuyên phát nguyện rộng lớn mà làm đại y vương trị liệu các bệnh thân tâm của các hữu tình để vĩnh viễn được tịch diệt. Bồ tát nên an ủi Bồ tát bị bệnh như vậy để họ được vui vẻ.
Diệu Cát Tường hỏi:
- Bồ tát trị bệnh phải điều phục tâm như thế nào?
Vô Cấu Xứng nói:
- Bồ tát bị bệnh nên nghĩ như vầy: “ Bệnh này của ta đều do phiền não, điên đảo vọng tưởng hư dối từ đời trước mà sanh ra. Trong thân hoàn toàn không có một pháp nào chân thật cả, vậy ai có thể chịu bệnh đó. Vì sao? Vì do bốn đại hòa hợp lại giả gọi là thân - Trong các đại không có chủ, thân cũng không có ngã. Nếu bệnh này do chấp ngã sanh ra thì không nên vọng sanh chấp ngã. Nên hiểu rõ rằng chấp ngã này là nguồn gốc đưa đến bệnh. Vì vậy nên trừ diệt tất cả ý tưởng về ngã mà an trụ vào ý tưởng pháp. Nên nghĩ rằng: Do các pháp hòa hợp lại mà thành ra thân này, sanh diệt xoay vần, vậy sanh chỉ do pháp sanh, diệt chỉ do pháp diệt. Như vậy các pháp xoay vần liên tục nhưng chúng không biết lẫn nhau lại không nhớ nghĩ đến. Khi sanh không nói là ta sanh, đến khi diệt không nói là ta diệt. Bồ tát có bệnh nên biết đúng đắn pháp tưởng như vậy. Pháp tưởng này của ta là điên đảo. Hễ có pháp tưởng là có đại hoạn, ta nên trừ bỏ chúng, cũng cần phải diệt trừ tất cả đại hoạn của hữu tình. Làm thế nào để trừ đại hoạn ấy? Nghĩa là phải trừ bỏ chấp ngã và ngã sở. Làm thế nào để trừ bỏ chấp ngã và ngã sở? Là lìa bỏ hai pháp. Làm sao lìa hai pháp? Là với pháp trong và pháp ngoài hoàn toàn không hành. Làm thế nào để không hành hai pháp? Là quán bình đẳng, không động, không chuyển, không có đối tượng để quan sát. Bình đẳng thế nào? Nghĩa là ngã và Niết bàn cả hai đều bình đẳng. Vì sao? Vì tánh của hai pháp là không. Hai pháp ấy đã không có vậy lấy cái gì làm không? Chỉ dùng danh tự giả gọi là không. Hai pháp ấy không thật, đã thấy bình đẳng thì không còn bệnh gì nữa cả, chỉ có cái bệnh không, nên quán bệnh không ấy cũng là không. Vì sao? Vì bệnh không ấy hoàn toàn là không. Bồ tát có bệnh đem cái không có sự thọ mà thọ các thọ. Nếu đối với Phật pháp mà chưa được viên mãn thì không nên diệt thọ để có sở chứng, phải lìa hai pháp năng thọ và sở thọ. Nếu khổ chạm vào thân thì nên thương tất cả hữu tình trong đường nguy hiểm mà phát lòng đại bi diệt trừ các khổ cho họ. Bồ tát có bệnh nên nghĩ như vầy: “ Ðã diệt trừ bệnh của mình thì cũng nên trừ bỏ các bệnh của hữu tình. Khi diệt trừ bệnh của mình và người như vậy, thì không có một pháp nhỏ nào mà có thể trừ diệt. Nên quán sát đúng đắn rằng bệnh do nhân duyên sanh hãy mau diệt trừ vì họ mà nói chánh pháp. Sao gọi là bệnh do nhân duyên sanh?. Nghĩa là duyên suy nghĩ, các hữu duyên suy nghĩ đều là nhân của bệnh. Hễ ai có duyên suy nghĩ thì đều có bệnh. Duyên suy nghĩ vào đâu? Duyên vào ba cõi. Làm sao biết duyên suy nghĩ như vậy? Nghĩa là thông đạt rõ ràng đúng đắn hữu duyên suy nghĩ này hoàn toàn vô sở đắc. Nếu Vô sở đắc thì không duyên suy nghĩ, làm thế nào để chấm dứt duyên suy nghĩ, nghĩa là không duyên vào nhị kiến. Thế nào là nhị kiến? Là nội kiến và ngoại kiến. Nếu không có hai kiến này thì vô sở đắc. Ðã vô sở đắc thì duyên suy nghĩ hoàn toàn chấm dứt. Vì duyên suy nghĩ hoàn toàn chấm dứt nên không có bệnh. Nếu mình không có bệnh thì đoạn diệt bệnh của hữu tình.
Thưa ngài Diệu Cát Tường! Bồ tát có bệnh nên điều phục tâm như vầy: Chỉ có Bồ đề của Bồ tát mới có thể đoạn trừ tất cả khổ già bệnh chết. Nếu tự mình không siêng năng tu hành như vậy tức là bị vứt bỏ uổng phí. Vì sao? Vì như người chiến thắng quân địch thì mới gọi là người dõng tướng. Cũng vậy nếu đoạn dứt hẳn khổ già bệnh chết thì mới gọi là Bồ tát.
Thưa ngài Diệu Cát Tường! Bồ tát bệnh nên tự mình quán sát; nếu bệnh này của ta chẳng phải thật chẳng phải có thì tất cả bệnh của các hữu tình cũng chẳng phải thật chẳng phải có. Khi quán như vậy không nên lấy ái kiến mà buộc tâm mình vào các hữu tình để phát sanh lòng đại bi, mà cần phải đoạn trừ khách trần phiền não để phát sanh lòng đại bi với các hữu tình. Vì sao? Vì nếu Bồ tát đem ái kiến buộc tâm mình, phát sanh lòng đại bi với các hữu tình thì tức là nhàm chán sanh tử. Nếu đoạn trừ khách trần phiền não, phát sanh lòng đại bi với các hữu tình tức là không nhàm chán sanh tử. Vì các hữu tình mà Bồ tát ở trong sanh tử không nhàm chán, không bị ái kiến trói buộc tâm mình. Vì không bị ái kiến trói buộc tâm nên ở trong sanh tử không bị trói buộc. Vì không bị trói buộc trong sanh tử nên được giải thoát. Vì ở trong sanh tử được giải thoát nên có năng lực giảng nói pháp vi diệu khiến cho các hữu tình xa lìa sự trói buộc mà chứng đắc giải thoát. Ðức Thế Tôn căn cứ vào mật ý này mà nói. Nếu bản thân mình bị trói buộc mà cởi tháo trói buộc cho người thì không có vấn đề ấy xảy ra. Còn như bản thân mình đã tháo gỡ sự trói buộc có thể tháo gỡ trói buộc cho người thì việc này có xảy ra. Cho nên Bồ tát cần cầu giải thoát xa lìa các sự trói buộc.
Thưa ngài Diệu Cát Tường! Sao gọi là Bồ tát bị trói buộc? Sao gọi là Bồ tát được giải thoát? Nếu các Bồ tát đắm trước vào những sự tu về tịnh lự giải thoát, đẳng trì, đẳng chí thì gọi là Bồ tát bị trói buộc. Nếu các Bồ tát dùng phương tiện thiện xảo giúp đỡ các hữu tình nhưng không tham trước đó là Bồ tát được giải thoát. Nếu không có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ thì gọi là trói buộc. Nếu có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ thì gọi là giải thoát. Vì sao Bồ tát không có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ gọi là trói buộc? Nghĩa là Bồ tát lấy pháp không - vô tướng - vô nguyện để tự điều phục mình, không dùng tướng tốt trang sức thân mình, trang nghiêm cõi Phật làm thành thục chúng sanh. Bồ tát này không có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ nên gọi là trói buộc. Vì sao Bồ tát có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ gọi là giải thoát? Nghĩa là Bồ tát lấy pháp không - vô tướng - vô nguyện để điều phục tâm mình, quán sát các pháp hữu tướng vô tướng tu tập để chứng đắc, lại dùng tướng tốt trang sức thân mình, trang nghiêm cõi Phật, làm thành thục chúng sanh. Các Bồ tát này có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ gọi là giải thoát. Vì sao Bồ tát không có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ gọi là trói buộc? Nghĩa là Bồ tát an trụ vào các kiến, tất cả phiền não trói buộc tùy miên, tu các gốc lành, nhưng không hồi hướng lên Chánh Ðẳng Bồ đề lại chấp trước sâu chặt vào đó. Bồ tát này không có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ gọi là trói buộc. Vì sao Bồ tát có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ gọi là giải thoát? Nghĩa là các Bồ tát xa lìa các kiến, tất cả phiền não trói buộc tùy miên, tu các gốc lành hồi hướng lên Chánh Ðẳng Bồ đề mà không có chấp trước. Bồ tát này có phương tiện thiện xảo thâu nhiếp diệu huệ gọi là giải thoát.
Thưa ngài Diệu Cát Tường! Bồ tát có bệnh nên quán các pháp, thân và bệnh đều là vô thường, khổ, không, vô ngã đó gọi là huệ. Mặc dầu thân có bệnh nhưng thường ở trong sanh tử làm lợi ích cho hữu tình mà không hề mệt mỏi, đó gọi là phương tiện. Lại quán thân tâm và các bệnh xoay vần nương vào nhau lưu chuyển mãi không có đầu mối, sanh diệt không gián đoạn, chẳng phải mới, chẳng phải cũ, đó gọi là huệ. Không mong cầu thân, tâm và các bệnh hòa toàn tịch diệt, đó gọi là phương tiện.
Thưa ngài Diệu Cát Tường! Bồ tát có bệnh nên điều phục tâm mình như vầy: Không nên an trụ vào tâm điều phục hay không điều phục. Vì sao? Vì nếu trụ vào tâm không điều phục thì đó là pháp của phàm phu. Nếu trụ vào tâm điều phục thì đó là pháp của Thanh văn. Cho nên Bồ tát không an trụ vào hai biên này, đó gọi là Sở hành của Bồ tát. Nếu ở chỗ ấy, chẳng phải sở hành của phàm phu, chẳng phải sở hành của bậc Thánh thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu ở chỗ quán sát sở hành sanh tử mà không có sở hành của tất cả phiền não, thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu ở chỗ quán sát sở hành Niết bàn mà không có sở hành tịch diệt rốt ráo thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu ở chỗ thị hiện sở hành bốn ma nhưngvượt qua sở hành của tất cả ma sự, thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu cầu sở hành trí Nhất thiết trí mà không có sở hành của phi thời chứng trí, thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu cầu sở hành trí Tứ đế diệu mà không có sở hành phi thời chứng đế thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu quán sát đúng đắn về sở hành nội chứng nên bao gồm sở hành sanh tử, thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu hành sở hành của tất cả duyên khởi là có thể xa lìa sở hành kiến thú thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu hành sở hành tất cả hữu tình và các pháp lìa nhau mà không có sở hành phiền não tùy miên thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu quán sát đúng đắn sở hành vô sanh mà không rơi vào sở hành chánh tánh của Thanh văn thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu bao gồm tất cả sở hành của hữu tình mà không có sở hành phiền não tùy miên thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu thật sự ưa thích sở hành viễn ly mà không cầu sở hành thân tâm tận diệt thì đó là sở hành của Bồ tát. Nếu thích quán sát sở hành ba cõi mà không hoại sở hành pháp giới, thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát tánh không mà sở hành cầu tất cả công đức thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát vô tướng mà sở hành cầu độ thoát hữu tình thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát vô nguyện mà sở hành thị hiện hữu thú thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích qua lại vô tác mà sở hành thường tạo tất cả căn lành không thay đổi đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích qua lại lục độ nhưng sở hành không hướng đến diệu trí bờ bên kia của tâm hành hữu tình, đó gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát bốn vô lượng từ bi hỷ xả mà sở hành không cầu sanh vào cõi Phạm Thiên đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích qua lại sáu thần thông mà sở hành không hướng đến chứng lậu tận thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích kiến lập các pháp mà sở hành không phan duyên theo tà đạo, thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát sáu niệm mà sở hành không theo đó sanh ra các lậu, gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát phi chướng mà sở hành không mong cầu tạp nhiễm, đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát các định tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí mà sở hành không theo thế lực của các định để đến thọ sanh, đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích qua lại niệm trụ mà sở hành không mong cầu xa lìa thân - thọ - tâm - pháp, đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích qua lại chánh đoạn mà không thấy hai pháp thiện và bất thiện, đó gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích qua lại thần túc mà sở hành của thần túc biến hóa tự tại không có công dụng đó gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích qua lại năm căn mà sở hành với diệu trí không phân biệt các căn thắng liệt của tất cả hữu tình, đó gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích an trụ vào năm lực mà sở hành cầu mười lực của Như Lai thì gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích an trụ vào sự viên mãn của bảy đẳng giác chi mà sở hành không cầu sự sai biệt diệu trí thiện xảo của Phật pháp đó gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích an trụ vào sự viên mãn của Bát Thánh đạo mà sở hành không nhàm chán bọn tà đạo, đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành cầu tư lương chỉ - quán mà sở hành không rơi vào tịch diệt rốt ráo, đó gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát các pháp không có tướng sanh diệt mà sở hành dùng tướng tốt trang nghiêm thân mình, thành tựu tất cả Phật sự đó gọi là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích thị hiện oai nghi của Thanh văn, Ðộc giác mà sở hành không lìa bỏ duyên suy nghĩ về tất cả Phật pháp đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành tùy theo với bản tánh hoàn toàn thanh tịnh, thường tịch diệu định của các pháp mà sở hành tùy theo sự ưa thích oai nghi của tất cả hữu tình, đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích quán sát tất cả cõi Phật là tánh không tịch, không thành không hoại như hư không mà sở hành thị hiện tất cả công đức trang nghiêm cõi Phật, làm lợi ích cho các hữu tình, đó là sở hành của Bồ tát. Nếu sở hành thích thị hiện tất cả Phật pháp chuyển pháp luân vào đại Niết bàn làm Phật sự mà sở hành tu hành những sự sai biệt của Bồ tát hạnh, gọi là sở hành của Bồ tát.
Khi Vô Cấu Xứng nói tất cả sở hành việc hiếm có của Bồ tát, thì tám ức đồng tử mà Diệu Cát Tường dẫn theo được nghe pháp đều phát tâm lên ngôi Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ đề. VI- Phẩm Bất Tư Nghì
Thấy trong nhà này không có giường ngồi, Xá Lợi Tử thầm nghĩ: “ Các Ðại Bồ tát và đại Thanh văn này phải ngồi ở đâu”, biết tâm niệm của Xá Lợi Tử, Vô Cấu Xứng liền nói:
- Thưa ngài Xá Lợi Tử! Ngài vì pháp mà đến hay vì cầu chỗ ngồi mà đến?
Xá Lợi Tử nói:
- Tôi vì pháp đến chứ chẳng phải vì cầu chỗ ngồi.
Vô Cấu Xứng hỏi:
- Thưa ngài Xá Lợi Tử! Những người cầu pháp không đoái hoài đến thân mạng mình huống chi chỗ ngồi. Thưa Xá Lợi Tử! Người cầu pháp không cầu sắc uẩn cho đến thức uẩn. Người cầu pháp không cầu Nhãn giới cho đến Ý thức giới. Người cầu pháp không cầu Nhãn xứ cho đến Pháp xứ. Người cầu pháp không cầu Dục giới - Sắc giới và Vô sắc giới.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Người cầu pháp không cầu sự chấp trước Phật, Pháp và Tăng. Người cầu pháp không cầu theo sự biết khổ, đoạn tập, chứng diệt và tu đạo. Vì sao? Vì pháp không có hý luận. Nếu nói rằng ta biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo tức là hý luận chẳng phải gọi là cầu pháp.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Người cầu pháp không cầu sanh, không cầu diệt. Vì sao? Vì pháp là tịch tịnh và gần gũi tịch tịnh. Nếu hành sanh diệt thì đó là cầu sanh diệt, chẳng phải gọi là cầu pháp, chẳng phải cầu viễn ly. Người cầu pháp không cầu tham nhiễm. Vì sao? Vì pháp không có tham nhiễm lìa các tham nhiễm. Nếu đối với các pháp cho đến Niết bàn mà có chút tham nhiễm thì đó là cầu tham nhiễm chẳng phải gọi là cầu pháp.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Người cầu pháp không cầu cảnh giới. Vì sao? Vì pháp chẳng phải cảnh giới. Nếu hành tất cả cảnh giới thì đó là cầu cảnh giới, chẳng phải gọi là cầu pháp.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Người cầu pháp không cầu thủ và xả. Vì sao? Vì pháp không thủ và xả. Nếu pháp thủ - xả thì là cầu thủ - xả, chẳng phải là cầu pháp.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Người cầu pháp không cầu sự cất chứa. Vì sao? Vì pháp không cất chứa. Nếu thích cất chứa đó là cầu sự cất chứa, chẳng phải là cầu pháp.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Người cầu pháp không cầu tướng của pháp. Vì sao? Vì pháp là vô tướng. Nếu theo tướng mà biết tức là cầu tướng chứ chẳng phải cầu pháp.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Người cầu pháp không trụ với pháp. Vì sao? Vì pháp không có chỗ trụ. Nếu trụ với pháp tức là cầu trụ, chứ chẳng phải cầu pháp.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Người cầu pháp không cầu thấy nghe và hay biết. Vì sao? Vì pháp không thể thấy nghe hay biết. Nếu hành thấy nghe hay biết tức là cầu sự thấy nghe hay biết, chứ chẳng phải là cầu pháp.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Người cầu pháp không cầu hữu vi. Vì sao? Vì pháp là vô vi, lìa tánh hữu vi. Nếu hành hữu vi, tức là cầu hữu vi chứ chẳng phải cầu pháp.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Cho nên, nếu muốn cầu pháp thì đối với tất cả phải nên không có sự cầu.
Khi Vô Cấu Xứng nói pháp ấy, có năm trăm thiên tử xa lìa trần cấu, ở trong các pháp được chứng đắc Pháp Nhãn tịnh.
Khi ấy, Vô Cấu Xứng hỏi Diệu Cát Tường:
- Ngài đã từng đi qua vô lượng vô số trăm ngàn câu chi cõi chư Phật trong mười phương thế giới, vậy ngài thấy những cõi Phật nào có tòa Sư tử đầy đủ công đức tốt đẹp thượng diệu?
Diệu Cát Tường trả lời:
- Cách đây về phương Ðông ba mươi sáu hằng hà sa các cõi Phật có cõi Phật tên Sơn Tràng. Như Lai cõi ấy hiệu là Sơn Ðăng Vương hiện đang trụ trì an ổn. Thân đức Phật ấy cao tám mươi bốn ức du thiện na. Tòa Sư tử của đức Phật ấy cao sáu mươi tám ức du thiện na. Thân của Bồ tát cõi ấy cao bốn mươi hai ức du thiện na, tòa sư tử của Bồ tát cao ba mươi bốn ức du thiện na.
Cư sĩ nên biết! Tòa Sư tử của Như Lai cõi ấy rất là thù diệu có đầy đủ công đức.
Khi đó Vô Cấu Xứng nhiếp tâm nhập định phát sanh thần thông tự tại. Lập tức đức Phật Sơn Ðăng Vương ở thế giới Sơn Tràng phía Ðông dời ba mươi hai ức tòa đại Sư tử cao rộng trang nghiêm sạch sẽ, nương hư không mà vào nhà Vô Cấu Xứng. Ðiều này làm cho các Bồ tát, đại Thanh văn, Thích, Phạm, Chư thiên hộ đời... xưa chưa từng thấy chưa từng nghe. Nhà của ông ta sáng sủa rộng lớn nghiêm tịnh có thể dung chứa ba mươi hai ức tòa Sư Tử mà không chướng ngại nhau, mà đại thành Quảng Nghiêm, bốn đại châu Thiệm Bộ Châu.v.v... thành ấp xóm làng đô thành đất nước trong các thế giới, cung điện của trời, rồng, Dạ xoa, Tố lạc... cũng không bị chật hẹp. Tất cả đều thấy xưa sao bấy giờ vậy không khác.
Lúc ấy Vô Cấu Xứng mời Diệu Cát Tường lên ngồi tòa Sư tử cùng các Ðại Bồ tát và đại Thanh văn theo chỗ sắp đặt mà đến ngồi. Nhưng phải tự mình biến thân xứng với tòa Sư tử ấy. Các Ðại Bồ tát có thần thông đều biến thân cao bốn mươi hai ức du thiện na lên ngồi tòa Sư tử một cách đoan nghiêm. Còn các Bồ tát mới học thì không thể lên ngồi tòa Sử tử được. Khi ấy, Vô Cấu Xứng nói chánh pháp để tất cả vị ấy được năm thần thông, các vị ấy liền dùng thần lực tự mình biến hóa thân cao bốn mươi hai ức du thiện na rồi lên tòa Sư tử ngồi rất đoan nghiêm. Trong đó, có các đại Thanh văn không thể nào lên tòa Sư tử để ngồi được.
Bấy giờ, Vô Cấu Xứng nói với Xá Lợi Tử:
- Vì sao ngài không lên tòa ngồi.
Xá Lợi Tử nói:
- Tòa ấy cao lớn quá tôi không thể nào lên được.
Vô Cấu Xứng nói:
- Thưa ngài Xá Lợi Tử! Ngài nên lễ kính đức Phật Sơn Ðăng Vương để xin ban cho thần lực thì mới có thể lên ngồi được.
Lúc ấy, các đại Thanh văn đều lễ kính đức Phật Sơn Ðăng Vương để xin ban cho thần lực và tất cả đều lên tòa Sư tử ngồi rất đoan nghiêm.
Xá Lợi Tử nói:
- Thật kỳ diệu thay này cư sĩ! Ngôi nhà nhỏ như thế này có thể chứa trăm ngàn tòa Sư tử cao lớn nghiêm tịnh như vậy mà không bị chướng ngại nhau, đến đại thành Quảng Nghiêm, Bốn đại châu; Thiệm Bộ Châu..., thành ấp, xóm làng, đô thành, đất nước trong các thế giới, tất cả cung điện của trời, rồng, dạ xoa, A tố lạc... cũng không bị chật hẹp. Tất cả đều thấy trước sao nay vậy không khác.
Vô Cấu Xứng nói:
- Thưa ngài Xá Lợi Tử! Chư Phật Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác và Bồ tát Bất thối chuyển có pháp giải thoát tên là Bất Khả Tư Nghì. Nếu Bồ tát trụ vào giải thoát Bất tư nghì ấy thì có thể dùng thần lực đem núi chúa Diệu Cao to lớn kia bỏ vào trong hạt cải mà hình thái và trọng lượng của hạt cải không tăng còn hình thái và trọng lượng của núi chúa Diệu Cao thì không giảm. Mặc dầu hiện tác dụng thần thông như vậy nhưng không làm cho Tứ đại thiên vương, tam thập tam thiên hay biết chúng ta đi đâu và vào đâu. Chỉ trừ làm cho những người nhờ sức thần thông để điều phục mới hay biết núi Diệu Cao vào trong hạt cải. Cũng vậy, Bồ tát an trụ vào giải thoát bất tư nghì dùng phương tiện thiện xảo và trí lực mà nhập vào cảnh giới giải thoát Bất tư nghì. Cảnh giới ấy chẳng phải hàng Thanh văn, Ðộc giác đo lường được.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát an trụ vào giải thoát Bất tư nghì này có thể dùng thần lực đem bốn biển sâu rộng bỏ vào lỗ chân lông mà hình thái và trọng lượng của lỗ chân lông không tăng, còn hình thể và trọng lượng của bốn biển lớn không giảm. Mặc dầu hiện tác dụng thần thông như vậy nhưng không làm cho các rồng, dạ xoa, A tố lạc... biết chúng ta đến đâu và vào đâu. Cũng không làm cho các loài thủy tộc khác: cá, rùa, ba ba..., các rồng, thần... tất cả hữu tình lo sợ não hại, chỉ trừ làm cho những người nhờ sức thần thông để điều phục mới thấy nước của bốn biển lớn vào trong lỗ chân lông. Cũng vậy, Bồ tát an trụ vào giải thoát Bất tư nghì dùng phương tiện thiện xảo trí lực nhập vào cảnh giới giải thoát bất tư nghì cảnh giới mà hàng Thanh văn, Ðộc giác không thể đo lường được.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát an trụ vào giải thoát Bất khả tư nghì với ba ngàn đại thiên thế giới có hình thể trọng lượng rộng lớn như vậy mà có thể dùng thần lực phương tiện đem lấy đặt trong lòng bàn tay, giống như bánh xe của thợ gốm quay tròn rất mau lẹ, quăng ra ngoài hằng hà sa cõi khác. Rồi đem trở về chỗ cũ mà không bị tăng hay giảm. Mặc dầu hiện tác dụng thần thông như vậy nhưng làm cho hữu tình đang sống nơi ấy không biết rằng chúng ta đi đâu và về đâu, hoàn toàn không làm cho họ có ý tưởng qua lại và cũng không bị não hại. Chỉ trừ làm cho những người nhờ thần thông để điều phục mới biết thế giới có đến có đi. Bồ tát an trụ vào giải thoát Bất khả tư nghì dùng phương tiện thiện xảo trí lực nhập vào cảnh giới giải thoát bất tư nghì. Cảnh giới mà hàng Thanh văn, Ðộc giác không thể đo lường được.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát an trụ vào giải thoát Bất tư nghì như vậy, có các hữu tình cần có thời gian lâu dài để điều phục, có hữu tình cần thời gian ít để điều phục thì có thể dùng thần lực theo sự thích nghi của họ mà kéo dài bảy ngày làm một kiếp, làm cho hữu tình ấy cho rằng đã qua một kiếp. Hoặc rút ngắn một kiếp thành bảy ngày khiến hữu tình kia cho rằng qua bảy ngày theo sự hiểu biết của họ để điều phục. Mặc dầu hiện tác dụng thần thông như vậy nhưng không làm cho hữu tình đã giáo hóa ấy biết có thời gian kéo dài hay rút ngắn như vậy. Chỉ trừ làm cho những người nhờ sức thần thông để điều phục biết kéo dài rút ngắn. Cũng vậy, Bồ tát an trụ vào giải thoát Bất tư nghì dùng phương tiện thiện xảo, trí lực nhập vào cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì. Cảnh giới mà hàng Thanh văn, Ðộc giác không thể đo lường được.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Bồ tát an trụ vào giải thoát Bất khả tư nghì như vậy có thể dùng thần lực tập họp tất cả thế giới công đức trang nghiêm thanh tịnh của chư Phật đặt vào một cõi Phật để chỉ dạy các hữu tình. Lại dùng thần lực đem tất cả hữu tình trong một cõi Phật bỏ vào lòng bàn tay phải, rồi theo ý dùng thế lực thần thông đi đến khắp mười phương chỉ bày khắp tất cả cõi chư Phật. Mặc dầu đến tất cả cõi Phật mười phương trụ vào một cõi Phật nhưng vẫn không bị lay động. Lại dùng thần lực từ một lỗ chân lông hiện ra tất cả vật cúng dường thượng diệu, đi qua khắp tất cả thế giới mười phương để cúng dường chư Phật, Bồ tát và Thanh văn. Lại dùng thần lực từ một lỗ chân lông hiện lên tất cả mặt trời, mặt trăng, sao trong các thế giới mười phương lại dùng thần thông hút đại phong luân... của tất cả thế giới khắp mười phương bỏ vào trong miệng mà thân không bị tổn hại. Tất cả cỏ cây rừng rậm mặc dầu gặp gió này nhưng hoàn toàn không bị lay động. Khi tất cả cõi Phật trong mười phương thế giới gặp kiếp thiêu lại dùng thần lực nuốt tất cả lửa vào trong bụng. Sức của lửa này cháy rực không dứt nhưng thân ấy hoàn toàn không bị tổn hại.
Lại dùng thần lực bưng một cõi Phật qua vô lượng câu chi hằng hà sa cõi Phật ở phương dưới quăng trong một cõi Phật qua câu chi hằng hà sa cõi Phật ở phương trên, chỉ giống như mũi kim nhọn đâm lá táo nhỏ quăng sang nơi khác mà hoàn toàn không bị tổn hại. Mặc dầu hiện tác dụng thần thông như vậy nhưng người không có duyên thì không thấy không biết các hữu tình không bị tổn hại. Chỉ trừ những người nhờ sức thần thông để điều phục thì mới thấy việc ấy. Cũng vậy, Bồ tát an trụ vào giải thoát Bất tư nghì dùng phương tiện thiện xảo và trí lực mà nhập vào cảnh giới giải thoát bất tư nghì, cảnh giới mà Thanh văn, Ðộc giác không thể nào đo lường được.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát an trụ giải thoát bất tư nghì như vậy thì có thể dùng thần lực hiện làm đủ sắc tướng của thân Phật, hoặc hiện các sắc tướng Thanh văn, Ðộc giác, hoặc hiện các sắc tướng của Bồ tát có đầy đủ các tướng đẹp trang nghiêm. Hoặc hiện làm Phạm Vương, Ðế Thích, Tứ Ðại Thiên Vương, Chuyển Luân Vương... Hoặc dùng thần lực biến các hữu tình thành thân Phật và các Bồ tát, Thanh văn, Ðộc giác, Thích, Phạm, Hộ đời, Chuyển Luân Vương... Hoặc dùng thần lực biến tất cả âm thanh sai khác bậc thượng, bậc trung, bậc hạ của các hữu tình thành một âm thanh vi diệu đệ nhất của đức Phật. Từ âm thanh của đức Phật này diễn nói những ngôn ngữ sai khác về nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã, cứu cánh, Niết bàn, tịch tịnh, cho đến tất cả âm thanh thuyết pháp của chư Phật, Bồ tát, Thanh văn, Ðộc giác đều từ trong đó phát ra. Cho đến tất cả âm thanh sai biệt về chữ từ câu của thân chư Phật mười phương nói ra cũng đều phát ra từ âm thanh của đức Phật ấy, làm cho tất cả hữu tình được nghe và tùy theo sự sai biệt ấy mà đều được điều phục.
Hoặc dùng thần thông theo các âm thanh sai biệt của các hữu tình mười phương rồi ứng theo từng hạng mà phát ra những âm thanh giảng nói diệu pháp, khiến cho các hữu tình được lợi ích.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nay tôi nói sơ lược về Bồ tát an trụ vào giải thoát bất khả tư nghì, dùng phương tiện thiện xảo và trí lực mà nhập vào cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì. Nếu tôi có giảng nói trải qua một kiếp hay hơn một kiếp hoặc quá hơn đó nữa thì với trí huệ biện tài không thể cùng tận. Trí huệ biện tài của tôi cũng không cùng tận. Bồ tát an trụ vào cảnh giới bất tư nghì, dùng phương tiện thiện xảo và trí lực mà nhậpï vào cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì cũng không cùng tận, bởi vì nó vô lượng.
Bấy giờ, tôn giả Ca Diếp Ba nghe nói thần lực giải thoát bất khả tư nghì của Bồ tát an trụ vào giải thoát bất khả tư nghì liền khen ngợi chưa chưa từng có, và nói với tôn giả Xá Lợi Tử:
- Ví như có người đứng đối diện với người mù, mặc dầu người ấy có thể biểu hiện những hình tượng sai khác nhưng người mù kia hoàn toàn không thể thấy. Cũng vậy, tất cả Thanh văn, Ðộc giác đều giống như người mù kia không có con mắt thù thắng, nghe nói thần lực giải thoát bất khả tư nghì của Bồ tát an trụ giải thoát bất khả tư nghì hiện ra cho đến một việc cũng không thể hiểu nổi. Người nam người nữ nào có trí nghe nói thần lực giải thoát bất khả tư nghì ai mà không phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Giác. Ðối với Ðại thừa này, chúng ta giống như hạng tiêu nha bại chủng, mất hẳn các căn không làm gì được nữa. Nghe nói về thần lực giải thoát bất khả tư nghì hàng Thanh văn, Ðộc giác chúng ta đều kêu khóc chấn động cả ba ngàn đại thiên thế giới. Còn tất cả các Bồ tát nghe nói thần lực giải thoát bất khả tư nghì thì đều hân hoan vui mừng cung kính thọ trì, giống như thái tử con vua nhận ngôi Quán Ðảnh càng thêm thế lực, có lòng tin hiểu kiên cố. Nếu các hữu tình nghe nói thần lực giải thoát bất khả tư nghì này thì có lòng tin hiểu kiên cố. Còn tất cả ma vương, các chúng không thể nào làm gì được với Bồ tát này.
Tôn giả Ca Diếp Ba đang nói như vậy thì trong chúng có ba vạn hai ngàn thiên tử đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Giác.
Bấy giờ, Vô Cấu Xứng nói với tôn giả Ca Diếp Ba:
- Những kẻ làm ma vương trong vô lượng vô số thế giới khắp mười phương, phần đông đều là Bồ tát an trụ vào giải thoát Bất tư nghì, dùng phương tiện thiện xảo làm ma vương bởi vì muốn làm thành thục các hữu tình.
Thưa Ðại Ca Diếp Ba! Tất cả các Bồ tát trong vô lượng vô số thế giới khắp mười phương, có người đến xin vị ấy tay chân mũi tai đầu mắt tủy não máu thịt, gân cốt, tất cả những bộ phận trên thân thể cho đến vợ con trai gái, nô tỳ thân thuộc, xóm làng thành ấp, đô thành, bốn bộ châu..., những tài của trên ngôi vị vua, các vật trang sức trân bảo vàng bạc, chân châu, san hô, luy hối, lưu ly..., nhà cửa, giường chiếu, y phục, thức ăn uống, thuốc thang, tài sản, voi ngựa, xe cộ, các thuyền lớn nhỏ, binh khí, quân chúng, tất cả đến bức bách để xin thì phần đông những người đó là Bồ tát an trụ vào giải thoát Bất khả tư nghì, dùng phương tiện thiện xảo hiện làm những việc như vậy để thử Bồ tát, mục đích là để biết ý lạc kiên cố không. Vì sao? Vì các Bồ tát dõng mãnh tăng thượng vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình mà thị hiện những đại sự khó khăn như vậy. Kẻ phàm phu thấp kém, lại không có thế lực thì không thể nào bức bách Bồ tát để cầu xin được.
Thưa ngài Ðại Ca Diếp Ba! Ví như lửa đom đóm hẳn không có oai lực để che ánh sáng mặt trời. Cũng vậy kẻ phàm phu thấp kém lại không có oai lực đến bức bách Bồ tát để cầu xin như vậy.
Thưa ngài Ðại Ca Diếp Ba! Ví như long tượng hiện oai chiến đấu, loài lừa không thể chống cự được, chỉ có long tượng chiến đấu với long tượng mà thôi. Cũng vậy, kẻ phàm phu thấp kém không có thế lực để bức bách Bồ tát. Chỉ có Bồ tát bức bách với Bồ tát mà thôi. Ðó gọi là Bồ tát an trụ vào giải thoát Bất khả tư nghì, dùng phương tiện thiện xảo trí huệ mà nhập vào cảnh giới giải thoát bất tư nghì. Khi nói pháp này có tám ngàn Bồ tát được nhập vào Bồ tát dùng phương tiện thiện xảo trí lực nhập vào cảnh giới giải thoát Bất khả tư nghì. Hết quyển thứ ba
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.145.10.80 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.