Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay.
Kinh Bốn mươi hai chương
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm ngự tại cung Trời Tịnh Cư cùng với chúng Đại Bồ Tát Ma Na Hát với vô lượng Tịnh Cư Thiên Chủ trước sau vây quanh , cung kính tôn trọng , khen ngợi, chiêm ngưỡng Đức Như Lai.
Lúc đó Đức Thế Tôn chính ở trong Chúng vì các Đại Chúng nói Đà La Ni, vô lượng Pháp màu nhiệm. Lại vì lợi ích cho các chúng sinh bạc phước đời vị lai cho nên liền nhập vào Tam Muội tên là Diễn Quang. Ở trên đỉnh đầu của Ngài phóng ra vô lượng mọi thứ ánh sáng . Ánh sáng ấy xoay vòng chiếu soi vô lượng vô biên các Thế Giới của Phật. Chiếu xong liền quay lại , nhiễu quanh Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử rồi nhập vào đỉnh đầu.
Ánh sáng ấy theo đỉnh đầu vào xong thì Văn Thù Sư Lợi liền nhập vào Tam Muội tên là Đà La Ni Tự Tại Vương. Vào Tam Muội này liền trừ trong miệng tuôn ra vô lượng mọi thứ ánh sáng của sắc tướng . Ánh sáng ấy phát ra xong liền nhập vào trong đỉnh đầu của Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát.
Bấy giờ Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, hướng về Đức Phật, chắp tay cung kính đỉnh lễ, chiêm ngưỡng Tôn Nhan rồi bạch Phật rằng:”Xưa kia Đức Thế Tôn vì con nói lời như vầy: “Sau khi Pháp của Ta đã diệt, vào thời ác thế ở Thiệm Bộ Châu thì Văn Thù Sư Lợi rộng hay vì lợi ích cho vô lượng chúng sinh sẽ làm việc Phật”Nguyện xin Đức Thế Tôn vì con phân biệt diễn nói. Trụ ở nơi nào ? Lại ở phương nào để có thể hành lợi ích thương xót ủng hộ các chúng sinh ? Nguyện xin hãy nói !”
Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng:”Thiện Nam Tử đã vì các Hữu Tình mà hỏi Ta. Lành thay ! Lành thay ! Nay ông hãy lắng nghe ! Lắng nghe rồi khéo nghĩ nhớ.Nay Ta vì ông phân biệt diễn nói”.
Lúc đó Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát nghe Phật nói xong thì vui mừng hớn hở, sửa soạn quần áo, một lòng lắng nghe.
Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng:”Sau khi Ta diệt độ thời ở phương Đông Bắc của Thiệm Bộ Châu này có một nước tên là Đại Chấn Na (Trung Quốc) Trong nước ấy có ngọn núi tên là Ngũ Đỉnh (Ngũ Đài Sơn) . Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử đi du hành rồi cư ngụ trong đó vì chúng sinh mà nói Pháp với có vô lượng các hàng Trời, Rồng, Thần, Dạ Xoa, La Sát, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người, Phi Nhân vây quanh cúng dường cung kính”.
Lúc ấy Đức Thế Tôn lại bảo Kim Cương Mật Tích Chủ rằng:”Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử đó có vô lượng uy đức của nhóm như vầy: Thấn Thông biến hóa trang nghiêm, rộng hay nhiêu ích cho tất cả Hữu Tình, thành tựu viên mãn sức của Phước Đức chẳng thể luận bàn”.
Lại bảo Kim Cương Mật Tích Chủ rằng:”Văn Thù Sư Lợi có Đà La Ni tối thắng, Tâm Chân Ngôn rất bí mật và cách vẽ tượng với Án Pháp của Mạn Noa La.
Vào đời mạt thế sau này, khi Phật Pháp bị diệt thì Pháp ác tăng trưởng, các tai nạn bùng phát. Như Thời này, ở đời sau , các nhóm chúng sinh bạc Phước kém Trí trong Thiệm Bô Châu tăng trưởng nghiệp ác, năm Hành mất chỗ dựa, Âm Dương xen lẫn , gió mưa chẳng điều hòa, sao ác biến quái. Người Trời và Tu La khởi chiến đấu. Người Trời giảm ít, Tu La tăng nhiều
Như Thời này, mọi loại tai chướng lưu hành ở đời. Quỷ ác giáng xuống biến làm hình nữ cùng các chúng sinh tạo mọi thứ bệnh là: nghẹt cổ họng, nhọt bọc, ghẻ, hủi, , đau bụng, bệnh sốt rét theo chu kỳ một ngày, hai ngày, ba ngàt, bốn này cho đến bảy ngày phát bệnh một lần. Hoặc bị trúng gió, vàng da, bệnh về đàm rãi, hoặc ba bệnh đều khởi một lúc. Đau đầu, sưng nhọt, gân thịt sưng vù lên , đau mắt, bệnh về đại tiểu tiện, kiết lỵ, các nhóm bệnh tạp.
Quỷ Thần ác ấy hoặc biến thân làm thân sâu trùng, sói, cọp, báo, sư tử , mọi loại thân thú … ở trong Thế Gian nhiếp các chúng sinh, ăn nuốt Tinh Khí khiến cho mất uy , suy giảm sức lực.
Như thời này, vô lượng chúng sinh trong Thiệm Bộ Châu đột ngột bị chết oan, giả sử có các Thầy thuốc cũng chẳng thể cứu chữa.Trong một ngày của Thời này có 30 Vĩ Mạt La số chúng sinh bị như vậy.
Thế nên Kim Cương ! Nay Ta khiến ông chuyển cho chúng sinh , nói Pháp Đà La Ni này khiến họ triển chuyển thọ trì. Tại sao thế ? Vì hết thảy chúng sinh ở Thiệm Bộ Châu này thường phát Tâm Nguyện Bồ Đề Đại Thiện : “Ngày nào bọn Ta mới có thể được lìa biển khổ phiền não, Ngục Ái Vô Minh này ?” . Chính vì thế cho nên khiến ông thường gíao hóa rộng vì họ lưu bố , làm cho họ phát tâm Chính Tín nơi Tháp Phật với ba Báu (Phật Pháp Tăng), tu học nghiệp lành chẳng khởi Phi Pháp, hiếu thuận với cha mẹ, tôn trọng Sư Trưởng. Đối với các Hiền Thánh khéo sinh tưởng đặc biệt. Luôn đem hương hoa, trăm vị ngon ngọt cúng dường, cung kính ,tôn trọng , khen ngợi, Tụng Đà La Ni tối thắng này 7 ngày 7 đêm , thọ Bát Quan Trai Giới. Cũng nên niệm tụng các Đà La Ni này.
Bấy giờ Đức Như Lai Đại Bi nghĩ thương, liền nói Quảng Thâm Trí Lôi Aâm Vương Như Lai Đà La Ni này là:
Nẵng mô vĩ bổ la , một địa, nghiễm tỳ la, nghiệt lý nhĩ đá, la nhược dã, đát tha nga đá dã.
Đát nễ-dã tha: Vĩ bổ la nghiệt nhĩ đế, vĩ bổ la sa-phộc lệ, vĩ bổ la dụ nễ thế, a nẵng la tế, a nẵng la sa nga đế-dựng nga đế, sa-phộc hạ
NAMO VIPULABUDDHI GAMBHĪRA GARJITA-RĀJAYA TATHĀGATĀYA
TADYATHĀ : VIPULA GARJATI , VIPULASVARE , VIPULA YONI’SE, ANALASYE, ANALA SAGATYAM GATE SVĀHĀ
Tiếp nói Trừ Nhất Thiết Chướng Như Lai Đà La Ni
Nẵng mạc tát phộc nễ phộc la noa vĩ sắt-kiếm tỳ nĩnh, đá tha nga đá dã.
Đát nễ-dã tha: Hệ , minh hệ , minh hệ mãng hệ, sa-phộc hạ
NAMAH SARVA NĪVARANA VISKAMBHINI TATHĀGATĀYA
TADYATHĀ: HE MAHE , MAHĀ MAHE SVĀHĀ
Tiếp nói A Di Đà Như Lai Đà La Ni
Nẵng mô nhĩ đá bà dã, đát tha nghiệt đá dã.
Đát nễ-dã tha: A mật lý đô nạp-bà phệ, a nhĩ đá tam bà phệ, a nhĩ đá vĩ cật-lan đế, sa-phộc hạ
NAMO AMITĀBHAYA TATHĀGATĀYA
TADYATHĀ: AMRTODBHAVE , AMRTA SAMBHAVE , AMRTA VIKRĀNTE SVĀHĀ
Tiếp nói Công Đức Xứ Như Lai Đà La Ni
Nẵng mô ngu noa ca la dã, đát tha nghiệt đá dã.
Đát nễ-dã tha: Nga nga nẵng lệ , nga nga nẵng tam bà phệ, nga nga nẵng cát đế yết lệ, sa-phộc hạ
NAMO GUNAKARA TATHĀGATĀYA
TADYATHĀ: GAGANAKARE , GAGANA SAMBHAVE , GAGANA KĪRTTIKARE SVĀHĀ
Tiếp nói Biến phú Hương Như Lai Đà La Ni
Nẵng mạc tam mãn đa ngạn đà dã, đát tha nghiệt đá dã.
Đát nễ-dã tha: Tam ma tam minh, sa-phộc hạ
NAMAH SAMANTAGANDHĀYA TATHĀGATĀYA
TADYATHĀ: SAMA ASAME SVĀHĀ
Tiếp nói Nan Thắng Hạnh Như Lai Đà La Ni
Nẵng mạc a bả la nhĩ đa, vĩ cật-la ma ma nghiệt nhĩ đa, nga nhĩ ninh, đát tha nghiệt đá dã.
Đát nễ-dã tha: Ma ma minh, sa-phộc hạ
NAMAH APARĀJITA VIKRAMA MARGAJITA GAMĪNE TATHĀGATĀYA
TADYATHĀ: AMĀT MAHĪ SVĀHĀ
Tiếp nói Trừ Mạn Như Lai Đà La Ni
Nẵng mô ma nẵng sa-đam bà dã, đát tha nghiệt đá dã.
Đát nễ-dã tha: Ma nỗ vĩ thuấn đệ, ma nỗ vĩ nhung đà ninh, sa-phộc hạ
NAMO MANA STAMBHĀYA TATHĀGATĀYA
TADYATHĀ: MANO VI’SUDDHE , MANO VI’SODHANE SVĀHĀ
Tiếp nói Đoạn Nhất Thiết Chướng Như Lai Đà La Ni
Nẵng mạc tát phộc một đà mạo địa tát đát phộc nam
Nẵng mạc tát phộc ninh phộc la noa, vĩ sử kiếm tỳ nê , đát tha nghiệt đá dạ, la hạ đế, tam miểu tam mẫu đà dã ,Đát nễ-dã tha: thấp phệ đế, ca la bệ, nhập-phộc lý đế duệ, sa-phộc hạ (NAMAH SARVA NĪVARANA VISKAMBHINI TATHĀGATĀYA ARHATE SAMYAKSAMBUDDHĀYA _ TADYATHĀ: ‘SVETE KALĀPI JVALATĪYE SVĀHĀ)
Báo noa lý ca dã, sa-phộc hạ (PUNDARÌKĀYA SVĀHĀ)
Hộ minh, đạt ma đạt ma, tiến đá duệ, sa-phộc hạ (HOME DHARMA DHARMA ‘SIKTĀYE SVĀHĀ)
Đạt lệ ,vĩ đạt lệ, ca la vĩ dựng, ca lỗ đá duệ, sa-phộc hạ (DHĀRE VIDHĀRE KARA VIKRTAM LOKOTTĀYE SVĀHĀ
Phiến đế cật ninh nễ phộc bả nê, sa-phộc hạ (‘SĀNTE ‘SIVI NIRVĀPANĪYE SVĀHĀ)
Đổ lỗ đổ lỗ, vĩ đổ lỗ địa duệ, sa-phộc hạ (DHURU VIDHURĪYE SVĀHĀ)
Bát nạp-ma sa phộc lệ, bát nạp ma tam bà phệ, chỉ ca lệ hứ đan ca lý duệ, sa-phộc hạ (PADMASVARE PADMASAMBHAVE KIMKARI HITAM KĀRYE SVĀHĀ)
Tiếp nói Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni
Nẵng mạc tát phộc một đà , mạo địa tát đát phộc nam
Đát nễ-dã tha: Chiến nại la bát la bệ, chiến na nẵng ,chủ la noa kế la sa phộc đế, tát phộc một đà địa sắt xỉ đá, noa mô nễ đế, sa-phộc hạ
NAMAH SARVA BUDDHA BODHISATVĀNĀM
TADYATHĀ: CANDHAPRABHE CANDANA ‘SURA KĪLASVATI -SARVA BUDDHA ADHISTITA NAMO JITE SVĀHĀ
Tiếp nói Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Đà La Ni
Nẵng mô a lý-dạ mạn tổ thất lý duệ, mạo địa tát đát-phộc dã
Đát nễ-dã tha: Nhạ duệ, nhạ duệ, nhược dã lạp phệ nhạ dã, ma ha ma, sa-phộc hạ
NAMO ĀRYA MAMJU’SRĪYA BODHISATVĀYA
TADYATHĀ: JAYE JAYE , JAYA RĀMATI , JAYA MAHĀ MAHĪ SVĀHĀ
Tiếp nói Quán Tự Tại Bồ Tát Đà La Ni
Nẵng mô a lý-dạ phộc lộ chỉ đế thấp-phộc la dã, mạo địa tát đát-phộc dã
Đát nễ-dã tha: Nga nga nẵng trệ, nga nga nẵng tam mẫu nghiệt đế, nga nga nẵng vĩ cật-lan đế, ê nhĩ minh nhĩ , ma nhạ minh nhĩ, sa-phộc hạ
NAMO ĀRYA AVALOKITE’SVARĀYA BODHISATVĀYA
TADYATHĀ: GAGANA ADYE , GAGANA SAMUDGATE , GAGANA VIKRĀNTE EHYEHI SVĀHĀ
Tiếp nói Phổ Hiền Bồ Tát Đà La Ni
Nẵng mô a lý-dã tam mãn đa bạt nại-la dã, mạo địa tát đát-phộc dã
Đát nễ-dã tha: Hệ, bạt nại-lệ, ma hạ bạt nại-lệ , a đế bạt nại-lệ , vĩ nga đa la nhạ tế, hệ ma phộc đế yết ma phộc la noa, vĩ thú đà ninh, sa-phộc hạ
NAMO ĀRYA SAMANTABHADRĀYA BODHISATVĀYA
TADYATHĀ: HE BHADRI, MAHĀBHADRI , ADHI-BHADRE , VIGATA RĀJASYE , HĪMAM VATI , KARMA AVARANA VI’SODHANE SVĀHĀ
Tiếp nói Di Lặc Bồ Tát Đà La Ni
Nẵng mô a lý-dã muội đát-lý dạ dã. Mạo địa tát đát-phộc dã
Đát nễ-dã tha: Muội đát-lý, muội đát-lý, muội đát-la, ma nẵng tế, sa-phộc hạ
NAMO ĀRYA MAITRĪYĀYA BODHISATVĀYA
TADYATHĀ: MAITRĪ MAITRĪ , MAITRA MANA’SE SVĀHĀ
Tiếp nói Hư Không Tạng Bồ Tát Đà La Ni
Nẵng mạc a lý-dã khất-sái dã ma đa duệ, mạo địa tát đát-phộc dã
Đát nễ-dã tha: A khất-sái duệ phổ, a khất-sái duệ phổ, a khất-sái dã, yết ma vĩ thú đà ninh phổ, sa-phộc hạ
NAMAH ĀRYA AKĀ’SĀYA MĀTĀYA BODHISATVĀYA
TADYATHĀ: AKĀ’SĀYE HOH , AKĀ’SĀYE HOH , AKĀ’SĀYAKARMA VI’SODHANE SVĀHĀ
Tiếp nói Vô Tận Ý Bồ Tát Đà La NI
Nẵng mạc a lý-dã khất-sái dã ma đa duệ mạo địa tát đát-phộc dã
Đát nễ-dã tha: A khất-sái duệ phổ , a khất-sái duệ phổ, a khất-sái duệ phổ , a khất-sái dã yết ma , vĩ thú đà ninh, sa-phộc hạ
NAMAH ĀRYA AKSAMATĪYA BODHISATVĀYA
TADYATHĀ: AKSAYE HOH , AKSAYE HOH , AKSAYE HOH , AKSAKARMA VI’SODHANE SVĀHĀ
Tiếp nói Duy Ma Cật Bồ Tát Đà La Ni
Nẵng mạc a lý-dạ vĩ ma la cát đa duệ, mạo địa tát đát-phộc dã
Đát nễ-dã tha: Ngôn đế đá, tát phộc nhĩ nãi la đế cát đế đá, tát phộc nhĩ phộc nhật-la ca lệ , phộc nhật-la bà phệ, phộc nhật-la bệ na ca lệ, sa-phộc hạ
NAMAH ĀRYA VIMALA KĪRTITĀYE BODHISATVĀYA
TADYATHĀ: ANIKĪRTITA SARVA JIT NIRBHĪ KĪRTITA, SARVA VAJRA KARE, VAJRA SAMBHAVE , VAJRA BHIDAKARI SVĀHĀ
Tiếp nói Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Đà La Ni
Nẵng mạc tát phộc ninh phộc la noa vĩ sắt kiếm tỳ nê, mạo địa tát đát phộc dã.Đát nễ-dã tha: Tát phộc la noa vĩ sắt kiếm tỳ nương, sa-phộc hạ (NAMAH SARVA NĪVARANA VISKAMBHINI BODHISATVĀYA_ TADYATHĀ: SARVA AVARANA VISKAMBHINI SVĀHĀ)
Đà đổ vĩ ca nương, sa-phộc hạ (DHĀTU VIKĪRANA SVĀHĀ)
Mê già vĩ sa phổ tra nê, sa-phộc hạ (MEGHA SPHOTANI SVĀHĀ)
A phộc chỉ đa ca duệ, sa-phộc hạ (AVACITTA KĀYE SVĀHĀ )
Ma la nại na nê, sa-phộc hạ (BALA DHÀNANE SVĀHĀ )
Mạo địa dựng nga na nê, sa-phộc hạ (BUDDHYAM GĀMINE SVĀHĀ)
Yết ma nễ phộc tỳ đa ca duệ, sa-phộc hạ(KĀMADEVA VIDHĀKĀYE SVĀHĀ)
Mục ca la ma duệ, sa-phộc hạ (EKA RĀMĀYE SVĀHĀ)
Dữu nga tá duệ, sa-phộc hạ (YOGA CĀRYE SVĀHĀ)
Tát phộc một đà tỳ sắc cật đa duệ, sa-phộc hạ(SARVA BUDDHA ‘SIKTĀYE SVĀHĀ)
Mật la hám minh bả ngu trà duệ, sa-phộc hạ(BRAHMA UPAGUTTĀYE SVĀHĀ)
Tát phộc đạt ma tỳ sắc cật đa duệ, sa-phộc hạ (SARVA DHARMA ABHI’SIKTĀYE SVĀHĀ)
Tát phộc một đà tỳ sắt chủ đá duệ, sa-phộc hạ (SARVA BUDDHA ABHISAMSKRTĀYE SVĀHĀ)
Mục ca thất lữ nga duệ, sa-phộc hạ (EKA ‘SRINÕGĀYE SVĀHĀ)
A thất lăng nga duệ, sa-phộc hạ (A-‘SRINÕGĀYE SVĀHĀ)
A bộ đá duệ, sa-phộc hạ (ABHUTĀYE SVĀHĀ)
A tam bộ đá duệ, sa-phộc hạ (ASAMBHUTĀYE SVĀHĀ)
Tát phộc nậu khư bát xả mãn nê, sa-phộc hạ (SARVA DUHKHA UPA’SAMĀYE SVĀHĀ)
Tiếp nói Nguyệt Quang Đồng Tử Đà La Ni
Nẵng mạc chiến nại-la bát-la bà dã củ ma la bộ đá dã.
Đát nễ-dã tha: Bát-la bệ, bát-la bà phộc đế, đạt ma vĩ thuấn địa, bà mạt đổ minh, sa-phộc hạ
NAMAH CANDRAPRABHĀYA KUMARABHÙTĀYA
TADYATHĀ: PRABHE , PRABHAVATI , KARMA VI’SUDDHE BHAVATU ME SVĀHĀ
Bấy giờ Đức Phật bảo Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng:”Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện niệm tụng Đà La Ni của 28 Trời này 7 ngày 7 đêm thì hết thảy tội của nhóm ba nghiệp trong đời quá khứ , hiện tại cho đến tất cả các chướng thảy đều được tiêu diệt, thân tâm thanh tịnh. Hết thảy bệnh tật, gió máy, bệnh vàng da với các bệnh hoạn khác thảy đều được trừ khỏi
Tất cả Quỷ Thần, Bố Đan Na Quỷ, Điên Cuồng Quỷ, Dạ Xoa, La Sát, Chấp Quỷ, Tỳ Xá Xà Quỷ, Noa Chỉ Nễ Quỷ, Tinh hút tinh khí của ngường , tất cả các Quỷ Thần khác thường cách xa người này 20 do tuần với nạn mất mùa đói kém, bệnh dịch bệnh khác và các tai vạ về gió, sấm chớp, điện, sét đánh… chẳng thể gây tổn hại
Nếu người nam , kẻ nữ… thân có tai ách. Nên ở trong nhà an trí Tháp Xá Lợi và hình tượng Phật, vẽ tượng Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử. Đốt mọi thứ hương, Trầm Thủy Hương, Bạch Giao Hương. Thắp đèn, rải hoa , quả trái thượng diệu, mọi vị thức ăn ngon ngọt (trân tu) mỗi ngày cúng dường cho 7 vị Tỳ Khưu ăn. Viết chép , thọ trì, đọc tụng Kinh này. Y theo Pháp tu hành, siêng năng , tâm niệm tụng, nhiểu quanh Tháp hành đạo thì hết thảy các tai vạ với tai ách khác đều sr4 được trừ diệt
Khi ấy Đức Thế Tôn lại bảo Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng:”Trong Pháp Tạng của Văn Thù Sư Lợi này có Pháp chân thật, Pháp rất thù thắng , Pháp không thể so sánh hay vì chúng sinh làm báu Như Ý, hay khiến cho đất nước đang ở tinh cần hóa mười Thiện. Nếu quốc vương hành mười Thiện thì việc quốc vương làm thảy đều viên mãn
Bát Tự Đại Uy Đức Đà La Ni này , xưa kia vô lượng trăm ngàn hằng hà sa chư Phật quá khứ đã nói để ủng hộ cho tất cả quốc vương hành mười Thiện khiến được như ý, thọ mệnh dài lâu, Quả Báo Phước Đức không có gì so sánh hơn được. Binh giáp các phương thảy đều ngưng nghỉ, quốc thổ an ninh, mọi thứ sở hữu của vua thường được tăng trưởng
Đà La Ni này hay làm lợi ích, thương xót tất cả Hữu Tình, các chúng sinh cho nên hay cắt đứt ba nẻo ác, hay làm tất cả Pháp an ổn như Phật hiện tại ở đời không có khác. Đây là thân của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát vì lợi ích chúng sinh cho nên hiện thân đó làm tượng Chú Thần hay viên mãn tất cả việc mà ý ưa thích
Nếu có người tạm thời nghe nhớ, niệm Đà La Ni này liền hay diệt tội của nhóm 4 trọng, 5 nghịch huống chi thường niệm tụng
Khi Đức Thế Tôn nói lời này xong. Kim Cương Bồ Tát lại bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Đấng hướng đạo ! Đức Như Lai đã nói Bát Tự Đại Uy Đức Đà La Ni thì điều ấy ra sao ? Nguyên xin diễn nói !”
Lúc đó Đức Thế Tôn bảo Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng:” Nay ông hãy lắng nghe ! Hãy lắng nghe ! Ta sẽ vì ông . Tám chữ này có tên là Đại Uy Đức Bí Mật Tâm Đà La Ni như Đức Phật trụ ở đời không có sai khác, hay cùng với tất cả chúng sinh ở trong chốn hắc ám làm ngọn đèn sáng lớn
Bấy giờ Đức Như Lai liền nói Đà La Ni là:
Nẵng mạc a bả lý nhĩ đá dữu chỉ-nương nẵng vĩ hiệt thất giả dã, la nhạ nại-la dã, đát tha nghiệt đa dã
Nẵng mô mạn tô thất-lý duệ củ ma la bộ đá dã
Đát nễ-dã tha: Án, ác vĩ la hồng khư tá lạc
NAMAH APARIMITĀYURJNÕĀNA SUVINE’SCITA TEJA RĀJAYA TATHĀGATĀYA
NAMO MAMJU’SRĪYA KUMARABHÙTĀYA
TADYATHĀ: AH VĪRA HÙM KHACARAH
Lúc ấy Đức Thế Tôn bảo Kim Cương Mật Tích Chủ rằng:”Bát Tự Tối Thắng Đại Uy Đức Tâm Chân Ngôn đó trụ ở nơi nào cũng như Đức Phật ở đời không có khác, hay hiện mọi loại Thần Lực chẳng thể luận bàn của chư Phật, cũng hay tác Đại Thần Thông biến hóa. Nay Ta lược khen chút phần công năng của Đà La Ni này. Nếu Ta nói đủ thời vô lượng câu chi na dữu đa trăm ngàn Đại Kiếp cũng không thể nói hết được.
Kim Cương Mật Tích Chủ ! Đà La Ni này. Nếu kẻ nam người nữ chẳng thể làm được việc thừa sự cúng dường Pháp vì tại nhà bị mọi thứ Gia Nghiệp quấy rối, chỉ có thể ghi nhớ chẳng quên , y theo Thời niệm tụng , tùy phần chẳng bỏ, cúng dường ít nhiều cũng được thành tựu. Trừ kẻ chẳng chí tâm, chẳng có tâm chính tín, chắng phát tâm Bồ Đề thuộc Đại Thừa, hưng khởi hành vi phỉ báng Tam Bảo, đã khởi tâm chẳng lành , hành các Nghiệp ác. Người thuộc nhóm này , tất cả Pháp nhỏ cũng chẵng thành tựu huống chi lại có thể thành tựu Pháp lớn !...
Bấy giờ Đức Phật bảo Kim Cương Mật Tích Chủ rằng:”Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện hay niệm tụng Đà La Ni này một biến liền hay tự hộ giúp mình. Hai biến hay hộ giúp đồng bạn. Ba biến tức ủng hộ lớn , hàng Bồ Tát trụ Thập Địa chẳng thể vượt qua huống chi các chúng sinh loại nhỏ. Nếu tụng bốn biến liền hay ủng hộ kẻ lớn người nhỏ ở trong nhà. Năm biến liền hay ủng hộ tất cả quyến thuộc. Sáu biến liền hay ủng hộ tất cả thành, ấp, thôn, phường…Tụng bảy biến liền hay ủng hộ tất cả chúng sinh
Muốn mặc xiêm áo thời nên gia trì 7 biến , hay trừ tất cả độc ác với các tai nạn. Nếu rửa tat, mặt thời nên gia trì vào nước 7 biến, hay khiến cho mọi người sinh tâm quý ngưỡng. Hết thảy Quỷ Thần nhìn thấy sẽ bị giáng phục. Tất cả các người đều phục kính trọng, hàng phục tâm ác ấy sinh tâm vui vẻ
Nếu có người, thân thể chi tiết bị đau buốt , gia trì vào nước nóng ấm 108 biến tắm rửa liền được trừ khỏi
Nếu mỗi ngày, sáng sớm thức dậy lấy một bụm nước gia trì 7 biến rồi uống thì hết thảy chính báo tại thân đều được tiêu diệt huống chi người không có tai ách , cũng tiêu trừ hết 3 Nghiệp và được thọ mệnh dài lâu
Nếu gia trì vào thức ăn uống 7 biến rồi ăn thì tất cả các độc chẳng thể làm hại
Nếu thấy người ác với thấy oan gia cần phải tụng Chân Ngôn này thì hết thảy oan gia, kẻ khởi tâm ác sẽ tự hàng phục, nhiếp tâm giận dữ, cùng hướng về tâm hiền lành
Có nơi đáng sợ nên chí tâm niệm Chân Ngôn ngày liền trừ được sự sợ hãi
Nếu muốn nằm thời tụng Chân Ngôn này 108 biến liền được mộng tốt, biết việc thiện ác
Nếu có người bị các bệnh sốt rét. Người trì tụng ấy nhìn vào mặt người bệnh sốt rét, gấp rút tụng Bát Tự Chân Ngôn 1008 biến liền được trừ khỏi.
Nếu muốn vào trận, nên dùng Ngưu Hồng viết Chân Ngôn này trên giấy lụa rồi đeo trên thân thì tất cả đao, gậy, cung tên, mâu, búa chẳng thể gây hại
Nếu vào trận thời vẽ tượng Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử rồi đặt để trên voi, ngựa… ở trước mặt quân, dẫn các quân đi thì nhóm giặc chẳng thể gây hại tự nhiên lui tan. Tượng vẽ ấy có tướng mạo Đồng Tử ngồi cỡi trên chim công màu vàng ròng, các giặc nhìn thấy thảy đều lui tan
Nếu thường niệm tụng thì hết thảy tội của nhóm 5 nghịch , 4 trọng đều được tiêu diệt. Thường được diện kiến Văn Thù Bồ Tát
Đi, đứng, ngồi, nằm thường nên niệm tụng, nhớ giữ chẳng quên. Mỗi lần tụng 108 biến đừng để bị cắt đứt, thường được tất cả chúng sinh quy phục
Nếu gia trì vào búi tóc 7 biến thì tất cả chúng sinh nhìn thấy thảy đều hàng phục, người ác lui tan
Nếu hay mỗi ngày niệm tụng ba thời, một thời tụng 108 biến thì việc làm vừa ý, mong cầu như ý, các Nguyện đều được tùy tâm, tất cả đều được viên mãn đầy đủ, được đại phú quý, các hành tự tại. Lúc lâm chung thời được Tam Muội Phổ Môn với được gần gũi nhìn thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Khi ấy Đức Phật bảo Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng:”Thiện Nam Tử ! Văn Thù Sư Lợi Đà La NI này. Nếu có quốc vương, vương tử, phi, hậu, công chúa với các quan quý hay viết chép rồi dán ở trong nhà sẽ được đại phú quý, hết thảy các tai nạn thảy đều được tiêu diệt, đều được tròn đủ các Nguyện mong cầu, thường được Thiện Thần vây quanh gia hộ chẳng để cho lồi Quỷ Ma đến gây nhiễu não
Lúc đó, Đức Phật lại bảo Mật Tích Chủ rằng:”Đà La Ni bí mật này chẳng thể luận bàn, Uy Đức của chư Phật cũng chẳng thể luận bàn”
Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai lại bảo Kim Cương Mật Tích Chủ rằng:” Bát Tự Bí Mật Uy Đức Đại Đà La Ni này lại có Pháp vẽ tượng lợi ích cho tất cả , vì các quốc vương tu hành mười Thiện mà nói
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện trì Đà La Ni này chỉ dùng chút công phu mà được sự che giúp to lớn. Lại hay ủng hộ các vương tử, phi hậu, cung nhân, thể nữ, bách liêu, phụ tướng với các sĩ nữ và quốc sĩ, hết thảy ruộng nhà của tất cả người dân . Như loại này thảy đều được an vui
Phàm vẽ tượng này. Nếu có người chỉ có thể an trí Tượng ngay tại chỗ ở. Ở trong chốn đó có các nạn về giặc vua chúa, nước, lửa, đao binh , giặc cướp với các nạn khác…thời mọi nạn ấy đều được ngưng trừ cho đến bệnh dịch không đúng thời, nắng mưa không đều, côn trùng, sương muối gây tổn hại… đều sẽ được trừ diệt. Thường được Long Vương giáng mưa y theo Thời, lúa mạ được mùa, người trong nước khỏe mạnh vui sướng không có các tai nạn
Lúc đó Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Đấng Hướng Đạo đã nói Pháp của nhóm vẽ tượng rộng lớn. Vậy nên làm thế nào ? Nguyện xin diễn nói”
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo rằng:”Này Thiện Nam Tử ! Phàm muốn vẽ Tượng. Trước tiên tìm lụa trắng mịn cực tốt. Tiếp nên lựa chọn ngày tháng có sao Tú tốt, sao Diệu hiền, sao Thái Bạch trực . Tiếp chọn thời khắc cát tường, giờ tốt… sau đó vẽ Tượng. Ở nơi thanh tịnh dùng nước nóng thơm lau rẩy, lấy Cù Ma Di (phân bò) xoa tô mặt đất. Treo các phan, lọng . Đốt hương của nhóm Long Não, bày thức ăn ngon để cúng dường. Mảnh lụa ấy rộng 8 khuỷu tay , dài 12 khuỷu tay
TRước tiên ở chính giữa vẽ Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi trên tòa hoa sen bảy báu như thế Thuyết Pháp
Ở bên phải Đức Phật vẽ Văn Thù Sư Lợi như tướng mạo của Đồng Tử , đỉnh đội mão báu, cổ đeo Anh Lạc, mọi thứ trang nghiêm. Thân như màu vàng nghệ (Uất Kim) , diện mạo vui vẻ, chiêm ngưỡng Đức Như Lai
Tiếp bên phải vẽ Quán Tự Tại Bồ Tát, tiếp vẽ Phổ Hiền Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Vô Tận Ý Bồ Tát
Tiếp ở bên trái Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, vẽ Di Lặc Bồ Tát, tiếp vẽ Vô Cấu Xưng Bồ Tát, tiếp vẽ Trừ Nhất Thiết Chướng Bồ Tát, tiếp vẽ Nguyệt Quang Đồng Tử, tiếp vẽ Kim Cương Tạng Bồ Tát
Nhóm Bồ Tát bên trên đều ngồi trên tòa hoa sen bảy báu, đều nên vẽ Bản Hình cho đến tay cầm đều y theo Bản Pháp mà vẽ đừng để bị rỉ thốt
Lại ở bên trên Đức Thích Ca Như Lai vẽ bảy Đức Phật. Áy là: Quảng Đại Trí Thậm Thâm Lôi Aâm Vương Như Lai, Trừ Nhất Thiết Chướng Như Lai, A Di Đà Như Lai, Công Đức Xứ Như Lai, Phổ Hương Như Lai, Nan Thắng Dũng Lôi Aâm Hạnh Như Lai, Tâm Bất Động Như Lai. Bảy Đức Phật này đều nên vẽ theo thứ tự với thân đều có màu vàng vòng, đều như tướng Thuyết Pháp
Hai góc bên trên tượng vẽ ấy đều vẽ một Thiên Tiên, đỉnh đội vòng hoa đều có một tay cầm hoa, một tay rải hoa , ẩn nửa thân trong mây, hình mạo đoan chính, mọi thứ bảy báu dùng làm Anh Lạc trang sức thân ấy
Bên dưới hoa sen của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật vẽ hai vị Long Vương, vị thứ nhất tên là Nan Đà, vị thứ hai tên là Ưu Ba Nan Đà . Hai vị Long Vương ấy đều ở trong ao Vô Nhiệt Não ló ra nửa thân đưa tay nâng lên cùng cầm giữ cọng hoa sen ở tòa ngồi của Đức Thích Ca Như Lai, làm thế dùng sức trân trọng. Long Vương ấy đều có mặt người, trên đầu đều vẽ 7 cái đầu rắn, đầu đều màu trắng, thân làm hình người, mọi loại báu tạp dùng để nghiêm thân, đều ngửa xem nhìn ngó Đức Như Lai
Bên dưới Văn Thù Sư Lợi vẽ Dã Mạn Đức Ca Phẫn Nộ Vương , ngửa quán Văn Thù Bồ Tát như thế Thọ Giáo
Bên dưới Di Lặc Bồ Tát vẽ người Trì Minh , dùng Bản Tướng Mạo , tay cầm lò hương, quỳ gối mà ngồi, chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn như thế nghe Pháp
Bốn bên tượng vẽ , chia ra vẽ Long Hoa với các Diệu Hoa
Phía dưới, bên trái vẽ Phạm Thiên Vương, Ma Hê Thủ La Thiên, Tứ Thiên Vương Thiên . Tiếp vẽ bốn vị A Tố La Vương, tiếp vẽ bốn vị Chấp Quỷ Thần Diệu Vương
Bên phải vẽ Na La Diên Thiên, Đế Thích Thiên, bốn vị Thiên Vương. Tiếp vẽ bốn A Tố La Vương. Tiếp vẽ bốn vị Chấp Thần Vương
Bên trên đều y theo Bản Hình Mạo đều cầm giữ khí trượng chẳng được sai lầm
Tiếp vẽ chín vị Chấp Thần với nửa thân ẩn, chắp tay hướng về Đức Phật, quán tướng Như Lai
Nói Tượng này xong
Bấy giờ Đức Như Lai liền dùng Tán Tụng mà nói Kệ là
Pháp Vẽ Tượng nhiệm màu
Công Đức rất thù thắng
Xưa kia các Như Lai
Rộng khen chẳng thể bàn
Nay Ta nói chút phần
Nói khó luận bàn đó
Nếu có các bậc Trí
Hay khởi một tâm niệm
Y Pháp vẽ tượng này
Được Phước Đức vô lượng
Cúng dường sinh cung kính
Hết thảy câu chi kiếp
Nhóm bốn Trọng năm Nghịch
Các nghiệp ác cực sâu
Niệm công lực Tượng này
Sát na liền được diệt
Trong Thế Gian, hết thảy
Các chúng sinh, thú ác
Chẳng tin có Tam Bảo
Thường tu phá Giới Hạnh
Hủy báng các Pháp Phật
Chẳng sợ tất cả tội
Đọa ở trong sinh tử
Trụ Hắc Ám, Nê Lê
Trải qua vô lượng kiếp
Luân chuyển chịu các khổ
Nếu gặp Pháp vẽ tượng
Phát khởi Tâm Bồ Đề
Mừng vui tạm nhìn ngó
Hoặc chút khoảng sát na
Giữ tình không tán loạn
Một lòng mà quán tưởng
Các nhóm nghiệp ác này
Tất cả đều sẽ diệt
Được Quả Phước vô lượng
Huống chi hành nghiệp lành
Hay tu quả thanh tịnh
Lại có diệu tướng tốt
Đầy đủ hạnh Bồ Tát
Rộng vì các Hữu Tình
Khéo hành siêng tinh tiến
Tôn trọng sinh cung kính
Hết thảy Phật quá khứ
Với hiện tại, vị lai
Hay ở câu chi kiếp
Một lòng rộng cúng dường
Tụng Đà La Ni này
Với người tô vẽ Tượng
Nhóm ấy được quả báo
Phước đấy chẳng thể nói
Hết thảy cát sông Hằng
Ứng được, biết số ấy
Các sức Phước Đức này
Chẳng thể biết số ấy
Nhóm ấy sa số Phật
Thanh Văn với Duyên Giác
Và các chúng Bồ Tát
Hiền Thánh với tám Bộ
Siêng cúng dường nhiều kiếp
Nếu thấy Tượng vẽ này
Phước ấy hơn số kia
Nếu thọ trì Kinh này
Hoặc đang cung kính lễ
Khuyên, khen người cúng dường
Với khuyên các người khác
Cho đến sinh tùy vui
Thường chẳng để quên lãng
Người đó ở các Pháp
Với các Đà La Ni
Quyết định đều thành tựu
Giả sử Thế Chân Ngôn (Chân Ngôn của đời)
Và các Pháp Bộ khác
Nếu ở trước Tượng này
Một lòng chẳng niệm khác
Chiêm ngưỡng sinh cung kính
Tất Địa không có nghi
Khi ấy Đức Thế Tôn lại bảo Kim Cương Mật Tích Chủ rằng:”Trong Pháp Bát Tự Đại Uy Đức Đà La Ni này có Đàn bí mật tối thắng chẳng thể luận bàn, rất thù thắng ở trong các Pháp
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện hay y theo Pháp thọ trì, đọc tụng, viết chép, tu hành thì đời này thành tựu tất cả các việc tốt lành, viên mãn Nguyện chẳng hề luống mất, thọ mệnh dài lâu, mọi người cung kính sinh tâm yêu trọng, chết rồi sinh trước mặt Phật. Nếu sinh trong cõi Trời, Người thì sinh vào nhà Đại Tộc , giàu có , tôn quý
Lúc đó Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :”Thế Tôn ! Đấng Hướng Đạo đã nói ở trong Pháp này có Pháp Mạn Noa La bí mật. Việc ấy như thế nào ? Nguyện xin Đức Như Lai vì con, rộng vì chúng sinh đời vị lai y theo đây tu hành để lìa khỏi trần lao “
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Kim Cương Mật Tích Chủ rằng:”Lành thay ! Lành thay Thiện Nam Tử ! Nay ông hãy lắng nghe ! Ta sẽ vì ông mà nói”
Nếu có nhóm trai lành, nữ thiện phát tâm kính trọng muốn tác Pháp Mạn Noa La này . Trước tiên nên chọn lấy đất thành tựu trong sạch thù thắng.Nên ở chỗ ấy , đào sâu xuống đất, trừ bỏ: ngói,sỏi, cát, đá, cây có gai , lông, tóc, tro than, các vật thuộc nhóm chẳng sạch tạp ác. Sau đó mới có thể lường lấy đất đó đủ 8 khuỷu tay hoặc 4 khuỷu tay rồi làm . Lấy đất sạch tốt đổ vào hố đã đào rồi nện chắc cho bằng phẳng. Lấy phân bò , nhóm hương y theo pháp xoa bôi lau phết.
Mạn Noa La ấy làm 3 lớp Giới Viện đều nên dùng 5 màu tô vẽ khiến cho sáng tốt mới mẻ, đừng để cho mờ ám, rộng hẹp vừa phải
Phàm Pháp vẽ Đàn . Tất cả trước tiên bắt đầu từ mặt Đông , vẽ 5 Đỉnh Án. Tiếp vẽ Ưu Bát La Hoa Án , tiếp vẽ Nha Án, tiếp vẽ Văn Thù Đồng Tử Diện Án, tiếp vẽ Sóc Án.Nhóm Án này ở mặt đông bên trong Mạn Noa La
Vẽ xong, tiếp vẽ Liên Hoa Án, tiếp vẽ Ưu Bát La Hoa Án, tiếp vẽ Tràng Án, tiếp Phan Án, tiếp Tản Cái Áy, tiếp vẽ Ô Đầu Môn, tiếp vẽ Xa Lộ Án, tiếp voi trắng, tiếp ngựa, tiếp Phong Ngưu, tiếp Thủy Ngưu (con trâu) , Tiếp (Ca Bán Tất Sa Phộc) Cát Tường Án, tiếp Khổng Tước Án, tiếp Cổ Dương, tiếp Bạch Dương con dê trắng), tiếp người, tiếp đồng nam. Nhóm Án bên trên đều nên ở ngồi cửa (Môn Ngoại) vẽ rõ ràng theo thứ tự
Ba lớp bên ngồi Mạn Noa La như vầy
Ngoại Viện (viện bên ngồi) liền vẽ Dược Xoa Tướng, phía Đông là Ma Ni Bạt Na La Đại Tướng (Manibhadra hiệu là Bảo Hiền) , phía Nam là Bố Noa Bạt Na La Đại Tướng (Pùrnabhadra:Mãn Hiền), Tiếp vẽ Vĩ Lô Bác Khất-Xoa (Virùpaksa :Tây Phương Thần) Vi Sắt La Phộc Noa (Vai’sravana:Tên Phạn là Bắc Phương Thần) , tất cả các Thiên Thần, Nhật, Nguyệt, 7 Tinh, 28 Tú với Thị Giả của Phật, Ha Lý Để Mẫu Thần (tên Phạn là Hàrtye Màtr) )
Pháp Mạn Noa La này. Nếu vì hàng La Nhạ (Ràja:vua chúa) thì làm ở trong nhà
Nếu muốn cầu voi, liền làm ở Tượng Phường
Nếu muốn cầu ngựa, liền làm ở Mã Phường
Nếu bị rắn độc cắn, liền làm ở bên cái ao lớn hoặc cái ao có Rồng ở
Nếu bị bệnh sốt rét cứ một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày phát bệnh một lần thì nên ở thôn, phường, phòng, nhà… gần phía Nam mà làm
Nếu bị Quỷ Mỵ, La Xoa (Raksasa:La Sát) gây bệnh thì nên làm ở Không Thất (cái nhà bỏ hoang) hoặc bên cạnh rừng Thi Đà
Nếu bị Tỳ Xá Xà Quỷ gây bệnh thì nên làm dưới cây Tỳ Ma
Nếu tất cả Quỷ Thần với các Chấp Quỷ gây bệnh thì nên làm ở trong nhà người chết hoặc trong nhà có con nít mới sinh
Nếu bị các độc gây hại , nên tụng Bát Tự Chân Ngôn gia trì vào nước 7 biến rồi cho uống liền trừ được độc ấy
Nếu có súc sinh bị vướng bệnh dịch thì nên làm ở đưới cây có quả trái
Nếu muốn được lúa mạ tốt thì nên làm ở trong vườn hoa, vườn nuôi thú
Nếu có phụ nữ bị các bệnh ác. Hoặc bị nhóm Quỷ Thần, Ca Lâu La, Kiền Đạt Bà hút nút thân của người ấy, uống tinh khí của người ấy thành các bệnh, lên sới thì nên làm ở bên sông hoặc ở ngọn núi
Hoặc bị vướng tất cả bệnh với Noa Chỉ Nễ Quỷ , thì làm ở chốn Không Nhàn thanh tịnh hoặc ở nơi có dòng nước chảy
Pháp Tắc của nhóm này cần phải làm giữa trưa (Nhật trung) hoặc nửa đêm
Lúc muốn trừ bỏ Mạn Noa La (giải Đàn) thời nên tụng Bát Tự Chân Ngôn để trừ bỏ
Vật bên trong Mạn Noa La ấy nên đưa trong nước để tán thí hoặc cho trẻ con nghèo tức đều được viên mãn các việc mong cầu
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói Kệ là:
Đại Đà La Ni này
Uy lực chẳng thể nói
Nếu người thường thọ trì
Hay trừ tất cả bệnh
Các việc khác đã làm
Tất cả đều tròn đủ
Với được thọ mệnh dài
Nếu được thấy Đàn này
Thảy đều diệt các tội
Nếu cầu vui thế gian
Phú quý, sức tự tại
Hoặc hay chán thế gian
Muốn cầu thốt sinh tử
Vượt qua khỏi biển khổ
Học tập Hạnh Bồ Đề
Tồi phục các quân Ma
Nếu người vào Đàn này
Đều được Phước như vậy
Pháp đại bí mật này
Ví quốc vương tin Pháp
Chấp chính, hành bình đẳng
Rộng vì họ diễn nói
Nếu người ác không tin
Giả sử được châu báu
Giá trị bằng Đại Thiên
Hoặc trong ba ngàn cõi
Dùng hết báu có được
Cũng chẳng vì họ nói
Khi ấy Đức Thích Ca Mâu Ni Phật lại bảo Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng:”Án của Bát Tự Đà La Ni này tên là Đại Tinh Tiến hay mau chóng viên mãn tất cả ý vui thích, hay tăng trưởng tất cả tốt lành, thành tựu mọi việc
Kim Cương Mật Tích Chủ bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Án ấy ra sao ? Nguyện xin Đức Như Lai vì con tuyên nói”
Lúc đó Đức Phật bảo Kim Cương Mật Tích Chủ rằng:”Phàm muốn tác Án. Trước tiên nên dùng nước sạch rửa tay. Dùng Bạch Đà, Uất Kim, Long Não, Trầm Thủy với các thứ hương tốt thượng diệu để trên đá dùng nước mài rồi hòa chung với nhau, xoa bôi bàn tay khiến cho mùi thơm tinh khiết thấm vào thịt. Sau đó rộng phát Nguyện, đỉnh lễ chư Phật (rồi nói lời này)
Kính lễ Bà La Nhạ Vương Phật (Tên Phạn là Sa Lễ Nại La La Nhạ: Sàlendraràja)
Kính lễ Khai Phu Hoa Vương Phật (tên Phạn là Tam Củ Tô Nhị Đa: Sampuspìta)
Kính lễ Bảo Tràng Phật (tên Phạn là La Đát Nẵng Kế Đô: Ratnaketu)
Kính lễ A Di Đà Phật (tên Phạn là A Nhĩ Đá Bà Dã: AmitàbhĀYA)
Kính lễ Vô Lượng Thọ Trí Phật (tên Phạn là A Nhĩ Đá Chỉ Nương Nẵng: Amitàyurjnõàna)
Kính lễ Sơn Vương Phật (tên Phạn là Thế Lễ Nại La Nhạ: Giriv_ràja)
Kính lễ Tác Nhật Quang Phật (tên Phạn là Nễ Băng Ca La :Dìpamkàra)
Kính lễ Cực An Ổn Phật (tên Phạn là Tô Khất Sử Ma: Suksma)
Kính lễ Thiện Nhãn Phật (tên Phạn là Tô Ninh Đát La: Sunetra)
Kính lễ Pháp Tràng Phật (tên Phạn là Đạt Ma Kế Đô: Dharmaketu)
Kính lễ Quang Man Phật (tên Phạn là Bất Lễ Bà Ma Lý: Prabhamàle)
Các Phật của nhóm này rất Đại Thù Thắng với vô lượng chư Phật đều phải đỉnh lễ
Niệm tụng xong liền kết Đại Tinh Tiến Thủ Án. Án ấy là: Hợp 2 bàn tay lại, 8 ngón tay cài ngược nhau đều ở trong lòng bàn tay , hơi co 2 ngón cái cùng đè trên 2 ngón trỏ. Đạy gọi là Đại Tinh Tiến Án.Án ấy là điều mà tất cả chư Phật đã nói, Chân Ngôn ấy là Bát Tự
Tiếp nói Như Ý Bảo Án. Hợp 2 tay lại cùng cài chéo các ngón tay, dựng 2 ngón trỏ hơi co dầu ngón cùng trụ nhau, đưa 2 ngón cái cào trong lòng bàn tay cùng cài chéo nhau , bên phải đè bên trái. Đây gọi là Đại Tinh Tiến Như Ý Bảo Ấn
Liền nói Đại Tinh Tiến Như Ý Bảo Chân Ngôn là:
Án, đế tổ nhập-phộc la, tát phộc la-tha, sa đà ca, tất địa dã tất địa dã, tiến đá ma nê , la đát-nẵng, sa-phộc hạ
OM TEJO JVALA , SARVÀTHA SÀDHAKA , SIDDHYA SIDDHYA, CINTAMANI RATNA SVĀHĀ
Nếu tụng Chân Ngôn này với kết Án thì hay rộng làm tất cả sự nghiệp
Nếu muốn trang nghiêm trên thân, lúc mặc áo thời gia trì vào áo 7 biến rồi mặc. Liền được Hộ Thân, thường được mọi người cung kính
Nếu muốn vào trận chiến thời hết thảy khí trượng đều nên gia trì 1008 biến, tùy thân cùng vào liền giáng phục được, giặc kia tự nhiên lui tan
Nếu muốn giáng phục tất cả ốn địch. Dùng Chân Ngôn và trì vào áo rồi mặc , liền giáng phục được
Lại có Pháp. Lấy trân châu hoặc Mạt Yết hoặc vàng bạc, các báu tạp dùng gia trì 108 biến , khắc làm hình Đồng Tử rồi an trí trên cây phướng, hoặc an trên thân, hoặc ở trên con ngựa cùng vào quân trận , đi trước ba quân thì giặc kia nhìn thấy từ xa , tự nhiên hàng phục
Pháp của nhóm như vậy nhiều vô lượng vô biên chẳng thể nói đủ số
Hai Án ấy cần phải y theo Giáo, thanh khiết trì dùng sẽ được quả báo sống lâu, hay trừ tất cả bệnh, phá tất cả Ma với Tần Na Dạ Ca với các người ác cũng chẳng thể gây các chướng nạn. Thường được tất cả Thánh Chúng, Chú Thần hiện trước mặt ban cho ý nguyện mong cầu , mau được Tất Địa. Thường được Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử âm thầm gia hộ , trợ giúp theo làm bạn hữu cho đến Địa Bất Thối Chuyển, mau chứng Bồ Đề.
Lúc ấy Kim Cương Tạng Bồ Tát trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay cung kính hướng về Đức Thích Ca Như Lai , nói lời như vầy
“Lành thay ! Hiếm có ! Rất ư đặc biệt ! Đại Đà La Ni Pháp Tạng như vậy nay ở trong Thiệm Bộ Châu rộng hành lưu thông. Vì các quốc chủ với Tiểu Vương, Đại Thần và các người dân mà rộng nói lợi ích
Thế Tôn ! Đà La Ni này có công lực thế nào ? Hay làm việc gì ? Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện hay thọ trì, đọc tụng, viết chép, suy nghĩ , vì người khác nói thì Phước Đức ra sao ? Nguyện xin Đức NHư Lai vì con tuyên nói”
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng:’Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện với quốc vương, vương tử và tất cả hữu tình nghe pháp yếu của Đà La Ni này mà hay thọ trì, đọc tụng, viết chép, ghi nhớ . Hoặc tự mình làm hoặc khuyên người khác, hoặc sinh tùy vui hoặc hay rộng vì kẻ khác khen tụng công đức. Như người nghe nói này quyết định mau chứng A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề. Ở khoảng giữa ấy chẳng bị thối chuyển
Nơi nào đã lưu hành Đà La Ni này nên biết Văn Thù Sư Lợi ở tại chỗ ấy lưu truyền Pháp này với có hàng Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác , Khổ Hạnh Đại Tiên và Trì Minh Tiên với hàng Trời, Rồng , Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Khẩn Na La, Ma Hô Lạc Già, Người, Phi Nhân đứng trụ ở trong , thường sẽ vây quanh khen ngợi, cúng dường ,cung kính , tôn trọng Kinh này
Này Mật Tích Chủ ! Đà La Ni Kinh này tên là Như Lai Pháp Tạng . Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện thọ trì, đọc tụng, viết chép, tôn trọng , khen ngợi với đem mọi thứ hương, hoa, hương xoa bôi, bột hương , lọng, phướng, phan, chuông, trống, loa, khánh, đủ mọi loại âm thanh vi diệu ca vịnh, khen bái với áo thượng diệu cúng dường cung kính . Nên biết người này được 10 loại quả báo ngay trong đời hiện tại
Thế nào là mười ?
Một là: Trong nước vĩnh viễn chẳng bị ốn tặc phương khác đi đến xâm nhiễu
Hai là: Chẳng bị Mặt trời, mặt trăng, Tinh Thần, 28 Tú, các ác biến quái khởi các tai hoạn
Ba là: Chẳng bị trong nước có tai hoạnh lớn, nhóm Quỷ Thần ác gây tạo dịch chướng
Bốn là: Chẳng bị nạn về gió, lửa
Năm là: Chẳng bị tất cả oan gia được dịp thuận tiện hãm hại
Sáu là: Chẳng bị các bệnh áp bức
Bảy là: Chẳng bị sự chết đột ngột vướng vào thân
Tám là: Chẳng bị chết không đúng thời; gió , mưa hung bạo gây tổn hại
Chín là: Chẳng bị nắng mưa không điều hòa
Mười là: Chẳng bị cọp, sói, trùng, thú, các ác, tạp độc hây tổn hại
Này Thiện Nam Tử ! Nếu Kinh này ở tại chỗ nào với nơi có người niệm tụng sẽ được mười loại Quả Báo như trên
Khi ấy Đức Thế Tôn vì các Đại Chúng lại nói Kệ rằng:
Cúng dường Đấng Cứu Thế
Pháp Tạng tối thắng này
Thọ trì với đọc tụng
Văn Thù nói trong đây
Nhóm ấy tùy ý mãn
Đại phú quý nhiều tiền
Tiếng vang khắp mười phương
Đầy đủ Phước viên mãn
Nếu người ở Kinh này
Chọn một Chân Ngôn tụng
Liền được quả Bất Không
Tốt làng, mãn các Nguyện
Nếu có các quốc vương
Thống Sư muốn chiến đấu
Viết Đà La Ni này
An trí trên đỉnh đầu
Một lòng thường ghi nhớ
Chẳng bị ốn địch hại
Tất cả các đao gậy
Chẳng phạm vào thân ấy
Nếu vào trong quân trận
Vẽ tượng Văn Thù này
Cỡi trên lưng Khổng Tước
An trí ở trên ấy
Hoặc khiến người cầm đi
Các giặc thấy từ xa
Tự nhiên sẽ lui tan
Hoặc dùng nhóm vàng bạc
Tạo làm tượng Đồng Tử
Mọi loại diệu trang nghiêm
Để trên cây phan ấy
Cùng vào trong chiến trận
Đi trước dẫn ba quân
Các giặc từ xa thấy
Lúc đó đều lui tan
Hoặc đều mất bản tâm
Thuận theo , tự hàng phục
Nhân Chủ, người, Phi Nhân
Các Thiên Tiên, nhóm loại
Dạ Xa với La Sát
Kiền Thát, Khẩn Na La
Bố Đan cùng Yết Tra
Quỷ Mẫu với Long Thần
Trùng, sói và cọp, beo
Sư từ, các lồi voi
Thất cả nhóm độc ác
Nhìn thấy, quy phục hết
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng:”Thiện Nam Tử ! Uy đức của chư Phật với Thần Thông biến hóa của các Bồ Tát . Uy lực như vậy chẳng thể luận bàn. Pháp Bảo Tạng này cũng chẳng thể luận bàn. Vì thế Kim Cương thường nên tinh cần cung kính, ghi nhớ cho đến quốc vương, người dân, trăm quan, Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Tác Ca, Ô Ba Tư Ca và các Pháp Sư thường nên ghi nhớ sâu, sinh ý khó gặp Công Đức Pháp Bảo chẳng thể luận bàn của Đà La Ni này
Pháp này cho tất cả chúng sinh rộng hành lưu thông, từ nước này đến nước khác cho đến thôn, phường , nơi có người ở cùng truyền cho nhau. Ở trong Đại Chúng đều nên cúng dường, cung kính, tôn trọng, vì kẻ khác diễn nói, với dạy người khác chuyển rộng khiến cho người thọ trì đọc tụng. Nếu có thể như vậy sẽ được Phước vô lượng chẳng thể nói hết. Cho đên nước khác , nghe có quốc vương và người lành yêu thích Đại Thừa, tu hành việc lành cũng nên đến đó khuyên khiến y theo Pháp thọ trì, viết chép, đọc tụng
Nếu ủng hộ kết Giới tất cả các xứ cũng nên ứng dụng Đà La Ni này
Nếu có Pháp Sư thọ trì, đọc tụng Đà La Ni Kinh này . Thường nên cung kính như đang kính Phật không có ý khác. Quần áo, giường nằm, thức ăn uống, thuốc thang cần thiết cho đến vật của bốn sự… ít nhiều thảy đều sung túc. Đối với Pháp Sư, sinh tâm tôn trọng, trân kính . Nên hưng ý rộng lớn chẳng thể luận bàn
Này Mật Tích Chủ ! Nếu có người nghe Bảo Tàng Kinh này chẳng thể thọ trì, đọc tụng , viết chép, vì người khác diễn nói với chẳng luyền truyền khiến người khác trì, lại chẳng cung kính cúng dường Pháp Sư của Đà La Na này, cũng chẳng kính A Xà Lê, cũng chẳng thể phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, lại sinh nghi ngờ chẳng tin. Nhóm người như đây sẽ bị tội lớn như phạm vào nhóm tội 5 trọng 5 nghịch không có khác. Tất cả chư Phật với các Bồ Tát thường sẽ buông lìa , khó làm cứu giúp
Mật Tích Chủ ! nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện phỉ báng Kinh đó với nói lời thô lỗ, nói Kinh này là Phi Pháp, chẳng phải do Đức Phật đã nói . Nên biết người đó là kẻ ốn ác trong Phật Pháp, sau khi chết quyết định rơi vào Địa Ngục A Tỳ. Tất cả chư Phật Bồ Tát đều sẽ xa lìa
Bấy giờ Kim Cương Mật Tích Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát nghe Đức Phật nói Pháp Đà La Ni đó xong, liền ở trước mặt Phật, vui mừng hớn hở , đỉnh lễ Đức Thế Tôn rồi dùng Kệ khen Đức Phật
Rộng nhiêu ích Hữu Tình
Nói Pháp tối thắng này
Cũng vì lợi ích ta
Cũng lợi các chúng sinh
Liền khiến an vui lớn
Như Lai Tối Thắng Tôn
Khen ngợi Đức các Phật
Tất cả nghĩa Chân Ngôn
Người hay siêng tu hành
Hiếm hoi chưa từng có
Nói Pháp lợi chúng sinh
Nay con nên đỉnh lễ
Đại Bồ Tát tối thắng
Như Giáo đội, đeo, hành
Khi đó Đức Thích Ca Như Lai bảo Kim Cương Mật Tích Bồ Tát rằng:”Lành thay ! Lành thay ! Nay ông đã có thể nhiếp các Hữu Tình, làm lợi ích lớn
Này Mật Tích Chủ ! Nay Ta đem Pháp này phó chúc cho Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử khiến ở Thiệm Bộ Châu trong thời Mạt Thế sau này , rộng vì Hữu Tình tuyên truyên lưu bố.
Lúc ấy Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử liền ở trước mặt Đức Phật vui mừng hớn hở , vui vẻ mỉm cười rồi bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay nhờ Đức Như Lai ở trong Đại Chúng giao phó cho con. Con sẽ thọ trì. Thế Tôn ! Sau khi Đức Như Lai vào Niết Bàn , con ở đời vị lai khiến cho các chúng sinh y theo Giáo thọ trì , rộng hành lưu bố chẳng để bị cắt đứt.
Khi ấy Đức Thế Tôn nói Pháp đó thời vô lượng vô biên các chúng sinh nghe Pháp này cho nên đều được lìa các lo khổ, vô lượng chúng sinh phát tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói Kinh này xong thời Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát với Kim Cương Mật Tích Chủ và chư Thiên, tám Bộ Rồng Thần, tất cả Đại Chúng đồng thanh khen ngợi :Thật chưa từng có !” đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, hớn hở vui mừng, một lòng phụng hành. PHẬT NÓI KINH VĂN THÙ SƯ LỢI PHÁP BẢO TÀNG ĐÀ LA NI (Hết)
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.222.92.56 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.