Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận.
Kinh Pháp cú
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi."
Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Nghe như vầy:
Một thuở nọ, đức Phật cùng sáu vạn Tỳ-kheo ở trong núi Kỳ-Xà-Quật, thuộc nước La-Duyệt-Kỳ và còn có bảy vạn ba ngàn Bồ-tát đều là những vị tôn kính từ mười phương cõi Phật đến.
Các vị Bồ-tát đều đã đắc pháp Đà-la-ni, ý thích không bị chướng ngại, lòng luôn nghĩ sự hổ thẹn, chú trọng về tu hành nhẫn nhục, do đó mà được chứng đắc.
Tâm của các vị như kim-cang, không gì có thể chặt đứt được, tu tập giáo pháp của Phật, thích đầy đủ pháp Phật, việc làm muốn thù thắng, ý không lìa bỏ tâm Bồ-tát và cũng chỉ bảo người khác như vậy, thực hành bố thí, kềm chế tâm không tán loạn, đem cho những vật ưa thích mà không thương tiếc, giữ giới thanh tịnh, trang nghiêm thân - khẩu - ý, nhẫn nhục, hòa nhã. Đó là lực, đó là lời thệ nguyện. Trải qua nhiều A-tăng-kỳ kiếp với trăm ngàn việc làm luôn tinh tấn, không giải đãi, thiền định nhất tâm vào tam muội tam-ma-việt.
Tâm của các vị ấy biết ý người khác, lấy đây để tự vui.
Công đức trí tuệ của các vị thông suốt mọi vấn đề.
Tâm vững như núi Tu-Di, không gì ví dụ được.
Tâm ấy như địa - thủy - hỏa - phong, không thương không ghét, luôn có lòng từ.
Ánh sáng nơi thân sáng rỡ không bị chướng ngại, có lòng trắc ẩn yêu thương chúng sanh, lấy pháp tâm bình đẳng để làm niềm vui, cứu giúp mọi người không để rơi vào hàng nhị thừa; dù có lợi hay vô lợi, khen hay chê, có tiếng tăm hay không có tiếng tăm, khổ hay vui đều vượt qua tất cả pháp thế gian; không tụ tập nơi hội hè, tránh xa các ngoại đạo, thu phục quân ma.
Các vị này khó gặp, giống như hoa Ưu-bát-la lâu xa mới trổ một lần, làm người thay thế cho người không ai thay thế, nên gọi là bạn. Bạn chính là sự đạt đến Niết-bàn với áo giáp đại thệ nguyện vô cùng cực làm pháp thâm sâu, mạnh mẽ như sư tử, được dấu ấn của Như Lai ấn, được thọ ký không chướng ngại.
Lời nói của các vị ấy chân thật, dùng đế pháp để suy xét, có ánh sáng chiếu sáng hơn ánh sáng mặt trời mặt trăng, danh tiếng vang khắp mười phương, được tất cả chư Phật hộ trì, không làm cho lìa xa pháp.
Các vị đều giữ gìn kho pháp thâm sâu, không đoạn mất Tam bảo, công đức lan khắp vô số cõi.
Tâm các vị ấy thanh tịnh. Ở cõi của mình dù có qua lại đến chỗ Phật cũng không nhầm lẫn, luôn giáo hóa hướng dẫn chúng sanh, đã nhập vào phương tiện thiện xảo của trí Bát-nhã ba-la-mật.
Đó là niềm vui mừng của tâm người hành đầu-đà. Nhờ giáo pháp chiếu sáng, chúng sanh được thanh tịnh, biết tướng mọi người, làm việc vui vẻ, không làm mất tâm ý, là vị thầy thuốc có ân đức trị bệnh già chết, cúng dường vô số chư Phật ở quá khứ. Nhờ công đức ấy mà được tướng tốt đẹp, thông suốt pháp không - vô tướng - vô nguyện, thấy các pháp không thật, như huyễn, như sóng nắng, như mộng, như bóng trong nước, như âm thanh vọng lại trong núi; biết rõ âm thanh của tất cả, thâm nhập các pháp, trả lời thông suốt tất cả vấn nạn, làm theo ý mình, vận dụng trí tuệ để hiểu rõ đạo pháp, lần lần gần với mười lực của Phật; dùng nhục nhãn, tuệ nhãn, đạo nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn cứu vớt những kẻ bị mê lầm tăm tối, thể nhập sâu các hạnh công đức, hiểu biết tạng Bồ-tát, nghe pháp không lay động, đắc được tướng Ấn tam muội, Kim-cang hạnh tam muội, Kỳ pháp tại sở tác tam muội, Bảo minh trì tam muội, Bất xả nhất thiết nhân tam muội. Sau khi biết rõ các tâm tam muội thì đắc được trí tuệ của Phật, làm theo những hạnh của Phật đã làm, vốnđầy đủ tướng tốt đẹp.
Trong đó:
Có Bồ-tát tên Nhạo Tác
Có Bồ-tát tên Nhạo Đẳng Hữu
Có Bồ-tát tên Bảo Thủ
Có Bồ-tát tên Minh Hoa
Có Bồ-tát tên Bảo Diệm
Có Bồ-tát tên Hỷ Kiến
Có Bồ-tát tên Ý Hỷ
Có Bồ-tát tên Hỷ Dĩ Nhãn Kiến
Có Bồ-tát tên Trì Địa
Có Bồ-tát tên Hoan Hỷ Tác
Có Bồ-tát tên Đại Xứ Phế
Có Bồ-tát tên Đại Lợi
Có Bồ-tát tên Bích Ma
Có Bồ-tát tên Ý Hỷ Hương
Có Bồ-tát tên Nhơn Trung Chi Thiên
Có Bồ-tát tên Đế Nguyện
Có Bồ-tát tên Đẳng Thị
Có Bồ-tát tên Tận Kiến Đẳng Bất Đẳng
Có Bồ-tát tên Chấp Ngự
Có Bồ-tát tên Nhất Thiện Vô Thiện Nhi Tác Thiện Chi
Có Bồ-tát tên Di-Lặc
Có Bồ-tát tên Vũ Âm
Có Bồ-tát tên Lưỡng Nhược Sơn Bán
Có Bồ-tát tên Lưỡng Sơn Đảnh
Có Bồ-tát tên Từ Hạnh
Có Bồ-tát tên Quang Anh
Có Bồ-tát tên Quang Thanh Trường
Có Bồ-tát tên Khải Minh Vương
Có Bồ-tát tên Đương Nhãn Sở Kiến
Có Bồ-tát tên Quang Đẳng Tri
Có Bồ-tát tên Tôn Quan
Có Bồ-tát tên Thiên Quan
Có Bồ-tát tên Thiên Nhãn
Có Bồ-tát tên Thân Xứ Tất Kết
Có Bồ-tát tên Khoái Tý
Có Bồ-tát tên Đế Nghĩa Ý
Có Bồ-tát tên An Xứ Ý
Có Bồ-tát tên An Xứ Độ
Có Bồ-tát tên Vô Sở Động Nhi Độ
Có Bồ-tát tên Kim Cang Hành Độ
Có Bồ-tát tên Tam Đế Hành Độ
Có Bồ-tát tên Đế Như Tận Bất Di
Có Bồ-tát tên Trì Nghiêm Dục Hảo
Có Bồ-tát tên Bất Tận Dục
Có Bồ-tát tên Bất Khể Lưu Dục
Có Bồ-tát tên Ý Âm
Có Bồ-tát tên Tịnh Âm
Có Bồ-tát tên Bảo Mãn Nhất Thiết Âm
Có Bồ-tát tên Văn Thù Sư Lợi...
Bảy vạn ba ngàn Bồ-tát ấy ở ba ngàn đại thiên cõi.
Lại có Thích, Phạm, Hộ đời, tất cả trưởng giả, chư thiên, long, Dạ-xoa, Càn-đà-la, Tu-a-luân, Ca-lưu-la, Ma-hầu-lặc, nhơn, phi nhơn... đều đến hội họp. Ai cũng muốn nghe pháp đức Phật dạy.
Bồ-tát Đề Vô Ly đứng dậy, sửa pháp phục, quỳ dài, chấp tay khen ngợi đức Phật:
- Ánh sáng thế tục không bằng ánh áng của đạo, vì nó làm nền tảng cho thế gian và chiếu sáng cứu giúp cho những người tăm tối.
Nay con xin tự quay về với bậc độ đời. Nhờ bố thí mà giữ gìn được mười lực, tự điều phục tâm mình và giáo hóa người khác. Đó là vị cứu độ tất cả, ai nấy đều tuân theo.
Nay con xin quay về với đấng ba cõi không ai sánh bằng, làm việc gì cũng đều có lợi ích. Ánh áng đó giống như vàng ròng, âm thanh hòa nhã, thân tướng đẹp đẽ, không ai sánh bằng.
Nay con xin quay về với đấng được tất cả chúng sanh cung kính, đã vượt qua những gì cần vượt qua, thu phục hàng ngoại đạo, trí tuệ rất thù diệu, vượt lên trên những người có trí, không ai lay chuyển được, biết rõ hành vi của tất cả chúng sanh, công đức của Ngài rất thù thắng.
Nay con xin quay về với đấng có lòng đại bi vô cực. Đối với ái dục, Ngài đạt được vô sở đắc. Chúng ma dù chống đối thế nào cũng không có khả năng; giữ gìn giới thanh tịnh an lạc. Đối với chư thiên, Ngài là trời trong loài trời, tâm không vướng mắc.
Nay con xin quay về với đấng không ai chống cự lại nổi. Nghe đức của Ngài, ai nấy hoan hỷ. Hình tướng sáng như châu báu, ai thấy cũng yêu mến. Thực hành bố thí, lìa bỏ tham - sân - si.
Nay con xin quay về với đấng có đức như bầu trời bao trùm tất cả, dùng bốn đế để vượt qua bốn hang sâu, dù người mù cũng đều trông thấy, nói pháp không cùng tận, làm nền tảng cho tất cả chúng sanh trong ba đời.
Nay con xin quay về với đấng dưới chân có dấu bánh xe. Ngài được chư thiên và tất cả loài người phụng thờ, dù không phải nam hay không phải nữ đều được nương nhờ, chúng ma không dám chống cự. Ngài được chúng sanh cung kính, tôn quý, tu tập và giữ gìn các đế chánh pháp, lòng từ bi bao la cùng khắp, làm người dẫn đường cho chúng sanh trụ bình đẳng vào pháp.
Nay con xin quay về với đấng không ai sánh bằng. Âm thanh hòa nhã, thanh tịnh, ai nghe cũng đều vui thích, tiếng như trời Phạm thiên, vang khắp mọi nơi, chúng sanh đều nghe đầy đủ âm thanh ấy.
Nay con xin quay về với đấng có chánh pháp chắc thật, tôn quý. Ngài đã giác ngộ không - vô tướng - vô nguyện, trí tuệ sâu xa không có hạn lượng, đã thể nhập vào môn giải thoát, đó là công đức.
Nay con xin quay về với đấng được giải thoát, biết rõ các pháp do nhân duyên sanh, công đức đạt được của vị ấy không ở trong, không ở ngoài, đều bình đẳng, lời nói đi đôi với việc làm.
Nay con xin quay về với đấng vượt qua những sự hiểu biết, không từ đâu sanh, cũng không đi về đâu; thấy các pháp đều giải thoát vì nó như huyễn, như sóng nắng.
Nay con xin quay về với công đức của pháp, chỗ sanh hay không có chỗ sanh đều vô sanh; sanh rồi diệt không cùng tận, sở trụ đúng như pháp, giống như sở nhập của Tát-Đát (?); suy xét rồi nói đúng với pháp; như Tát-Đát (?) không bị lay chuyển, đức như núi lớn, thân như kim-cang.
Nay con xin quay về với đấng an ổn như núi, thân tâm hợp ý nhau, tiếng tốt lưu cả ba đời, ai cũng nghe biết; trả lời thông suốt các nghi vấn, không chút phiền muộn mà nói một cách khẳng khái.
Bồ-tát Đề Vô Ly có vấn đề muốn thưa hỏi, sau khi khen ngợi Phật xong, Bồ-tát thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con có điều xin muốn thưa.
Phật dạy:
- Ông hỏi điều gì cứ tự nhiên.
Đề Vô Ly thưa:
- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào mà Bồ-tát nói pháp một cách tự tại để trang nghiêm thân?
Vì sao nói rằng Bồ-tát thích pháp thâm sâu, pháp nào cũng thể nhập vào được?
Vì sao nói rằng Bồ-tát biết tâm chúng sanh?
Vì sao nói rằng Bồ-tát giáo hóa tùy hỷ?
Vì sao nói rằng Bồ-tát tâm hành là một?
Vì sao nói rằng Bồ-tát biết nhơn duyên không có tạo tác?
Vì sao nói rằng Bồ-tát vì trang nghiêm thân mà bố thí, giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm và trí tuệ?
Vì sao nói rằng Bồ-tát ở cõi Phạm thiên?
Vì sao nói rằng Bồ-tát có trí tuệ sâu xa?
Vì sao nói rằng Bồ-tát luôn có sự thù thắng?
Vì sao nói rằng Bồ-tát đối với Thanh văn, Bích Chi Phật, tất cả chúng sanh dù thị hiện các pháp nhưng không hội nhập vào?
Vì sao nói rằng Bồ-tát lìa sanh tử mà không nhập Niết-bàn?
Vì sao nói rằng Bồ-tát biết tất cả chúng sanh không lìa pháp thân?
Vì sao nói rằng Bồ-tát không rời bản vị mà thị hiện khắp nơi?
Vì sao nói rằng Bồ-tát tôn quý phước của Ngài như kho tàng?
Vì sao nói rằng Bồ-tát theo sự ưa thích mà nhập đạo?
Vì sao nói rằng Bồ-tát biết rõ các pháp?
Vì sao nói rằng việc làm của Bồ-tát luôn an ổn chắc chắn?
Vì sao nói rằng Bồ-tát dù ở thế gian nhưng không vướng mắc?
Vì sao nói rằng Bồ-tát tự tại, đoan chánh, không ai sánh bằng?
Vì sao nói rằng Bồ-tát không lìa Phật?
Vì sao nói rằng Bồ-tát học an ổn, chắc chắn?
Vì sao nói rằng Bồ-tát với pháp không có tâm nắm bắt, không buông xả?
Vì sao nói rằng Bồ-tát cứu hộ chúng sanh?
Vì sao nói rằng Bồ-tát đạt chuyển pháp luân?
Vì sao nói rằng Bồ-tát đạt A-duy-nhan?
Đức Phật dạy:
- Lành thay! Lành thay! Này Đề Vô Ly! Bồ-tát hỏi rất đúng, làm cho những vị ở trong hội này được lợi ích. Về đương lai, chắc chắn làm người dẫn đường cho chúng sanh, chính là làm cho Ma-ha-diễn (Đại thừa) được tồn tại lâu dài.
Phật dạy tiếp:
- Ông hãy lắng nghe cho kỹ những lời Ta nói hôm nay.
Đề Vô Ly thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con muốn được nghe.
Phật dạy:
- Bồ-tát nhờ bốn việc mà được tự tại. Bốn việc đó là gì?
1- Ánh sáng chiếu khắp tất cả không chướng ngại.
2- Đối với tất cả châu báu nổi tiếng đem cho người đến xin, không luyến tiếc.
3- Nếu có người hiểu kinh đang nói pháp thì không nên làm gián đoạn nửa chừng, mà phải luôn ở một bên giúp đỡ.
4- Nếu được mời giảng pháp, không nên từ chối, nương bất khả tư nghì của Như lai mà hoan hỷ nói pháp. Đối với việc làm, Bồ-tát không mong cầu chi cả, đem pháp để bố thí.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc thể nhập sâu vào các pháp, những gì làm ra bằng trí tuệ không lìa các công đức. Thế nào là bốn?
1- Đối với mười hai nhân duyên, biết nó một cách đúng đắn.
2- Thương mình và người, vì cả hai không khác.
3- Đối với sanh tử không nghĩ có sự diệt.
4- Đối với tất cả pháp lấy không để thấy không.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc biết rõ tâm người và công đức của họ tăng hay giảm. Bốn việc đó là gì?
1- Nhập pháp thân hoàn toàn thanh tịnh.
2- Thị hiện những sự tốt đẹp.
3- Lấy bốn việc để quán.
4- Tâm không bị hoại, được đắc tam muội.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc theo những việc làm của chúng sanh mà giáo hóa họ. Bốn việc đó là gì?
1- Trí tuệ bình đẳng.
2- Giáo hóa tất cả mọi người.
3- Quán biết các pháp.
4- Tâm đã thanh tịnh và làm mọi người thanh tịnh.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc biết rõ hành vi của tâm mọi người mà giáo hóa. Bốn việc đó là gì?
1- Trí thể nhập vào các pháp.
2- Tuệ không bị chướng ngại.
3- Tâm không hai.
4- Các triền cái thùy miên không còn tiềm ẩn nữa.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc biết tội phước tạo ra không mất. Bốn việc đó là gì?
1- Tất cả không có gì để đoạn.
2- Không có gì để chấp trước.
3- Biết do nhân duyên tạo ra rồi tùy theo đó mà thị hiện, lấy pháp để giữ pháp.
4- Không nghĩ có ngã, không nghĩ có người, theo đây giáo hóa thì không mất đạo pháp.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc dùng bố thí để trang nghiêm. Bốn việc đó là gì?
1- Lấy tướng để trang nghiêm.
2- Theo sở thích của người mà thị hiện làm cho họ tốt đẹp.
3- Sắc tướng rất đẹp đẽ.
4- Việc làm không cùng tận.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc dùng giới thanh tịnh để trang nghiêm. Bốn việc đó là gì?
1- Làm Chuyển luân vương không mất tâm Bồ-tát.
2- Được làm Thích Đề Hoàn Nhơn, lấy tâm Bồ-tát để tự trang nghiêm.
3- Làm Phạm Thiên, lấy tâm Bồ-tát để trang nghiêm.
4- Lìa xa tất cả đường ác, chỉ sanh lên cõi trời và làm người trong thế gian, lấy tâm Bồ-tát để trang nghiêm.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc lấy nhẫn nhục trang nghiêm. Bốn việc đó là gì?
1- Âm thanh như tiếng trời Phạm âm, ai nghe cũng đều được lợi ích.
2- Âm thanh hòa nhã như chim Ca-lăng.
3- Mọi người ai cũng ưa thích.
4- Có công đức kiên cố.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc lấy tinh tấn trang nghiêm. Bốn việc đó là gì?
1- Thân như kim-cang, các tà đạo không hại được.
2- Làm bạn với tất cả chúng sanh.
3- Làm việc gì đều hoàn tất đầy đủ, không hối hận giữa chừng, học hỏi không nhàm chán.
4- Tâm mong thích gì đều có nấy.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc lấy thiền định trang nghiêm. Bốn việc đó là gì?
1- Làm việc không xúc phạm đến ai.
2- Không cười nhạo.
3- Không làm điều xấu ác.
4- Tự làm chủ tâm mình.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc lấy trí tuệ trang nghiêm. Bốn việc ấy là gì?
1- Không nghĩ có ngã, không nghĩ có nhơn, không nghĩ có thọ, không nghĩ có mạng, không chấp thường, không chấp đoạn.
2- Việc làm rất thù thắng.
3- Thể nhập tất cả.
4- Nói pháp không sợ sệt.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc trí tuệ đạt đến bằng Phạm thiên. Bốn việc đó là gì?
1- Lấy không từ để nghĩ đến chúng sanh.
2- Giáo hóa mọi người bằng cách tăng thêm lòng thương yêu.
3- Giữ gìn các pháp đã được giữ gìn.
4- Bình đẳng với tất cả nhưng không lìa bỏ Phật.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc không lìa trí. Bốn việc ấy là gì?
1- An trụ trong bốn tầng thiền, không làm Bồ-tát lay động.
2- Vận dụng tam muội tam-ma-việt và phương tiện thiện xảo nên không sanh cõi Vô sắc.
3- Tâm tự tại, nói năng không rời chánh pháp.
4- Thấy chư Phật khắp mười phương.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc tự tại. Thế nào là bốn?
1- Bên trong tịch tịnh, bên ngoài cũng tịch tịnh.
2- Hiểu rõ các pháp như huyễn.
3- Lấy trí tuệ làm năng lực.
4- Không tự cao mà phải vượt qua.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc thâm sâu vào trí tuệ. Bốn việc đó là gì?
1- Biết dục nhưng không đoạn dục, thủ chứng trung đạo.
2- Biết sanh tử nên trong đó sử dụng phương tiện thiện xảo.
3- Nghe những gì đều biết rõ là chánh đạo hay phi đạo mà không bỏ cái được nghe.
4- Biết vô minh để gần gũi vô minh.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc dùng pháp thị hiện La-hán, Bích Chi Phật, tất cả mọi người, nhưng trong đó không mong cầu. Thế nào là bốn?
1- Thấy các tam muội như huyễn.
2- Hiểu rõ các pháp để trang nghiêm.
3- Xem xét kỹ những sự vui thích do mình đã hành động.
4- Tự tâm biết rõ tất cả như huyễn.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc xa lìa sanh tử không bát Niết-bàn. Bốn việc ấy là gì?
1- Nhớ nghĩ chư Phật.
2- Tâm từ bi bình đẳng.
3- Dùng phương tiện thiện xảo.
4- Không quên lời thệ nguyện đã phát xưa.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc biết tất cả mọi người không lìa pháp thân. Bốn việc ấy là gì?
1- Thấy tất cả mọi người đều tự nhiên, họ thể nhập pháp thân cũng tự nhiên.
2- Biết tất cả mọi người tự nhiên.
3- Người tự nhiên, tuệ tự nhiên, không nghi ngờ.
4- Người tự nhiên, Nê-hoàn tự nhiên mà đắc nhẫn.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc không lìa cội gốc mà thấy không cội gốc. Bốn việc ấy là gì?
1- Luôn nghĩ nhớ Nê-hoàn, muốn đầy đủ pháp Phật, tâm ý biết khắp tất cả.
2- Thân thị hiện Chuyển luân vương, Phạm, ma, Thích. Trong cõi ấy tu tập tạo các công đức khiến cho họ tụ hội theo pháp ấy.
3- Thân thị hiện ngu đần để làm cho kẻ thấp kém được có công đức.
4- Cầu xin được gì, đích thân đem bố thí. Đối với hàng tôn quý thì thị hiện rất giàu sang đến giáo hóa họ.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc đem tưởng nhập vào vô tưởng. Thế nào là bốn?
1- Dù trong sanh tử vô thường nhưng giữ tâm thanh tịnh.
2- Do trước đã chịu khổ nên nay đắc tuệ.
3- Thấy tất cả pháp là vô ngã.
4- Thấy Nê-hoàn tịch tịnh.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc lìa các kiến pháp. Bốn việc đó là gì?
1- Thanh tịnh.
2- Với tuệ nhãn thấy khắp mọi nơi.
3- Phật nhãn chắc chắn ở ngay hiện tiền.
4- Đã giác ngộ các pháp, được ấn định Nhất sanh bổ xứ.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc quyết định một cách tự nhiên không nghi ngờ. Bốn việc đó là gì?
1- Cầu mong điều gì đều không chướng ngại.
2- Thể nhập vào trí tuệ chân thật.
3- Không bị che phủ.
4- Không lìa các Đà-la-ni.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc mặc dù tùy thuận theo thế tục nhưng không vướng mắc. Thế nào là bốn?
1- Biết tường tận việc thế gian.
2- Độ thoát tất cả mọi người.
3- Không còn tánh thương ghét.
4- Làm thanh tịnh nguồn gốc, không bị nhiễm ô.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc an trụ trong chánh pháp. Bốn việc ấy là gì?
1- Tâm tự tại.
2- Tuệ tự tại.
3- Trí tự tại.
4- Phương tiện thiện xảo tự tại.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc:
1- Không lìa Như Lai.
2- Trước mọi người khen ngợi thân tướng Phật.
3- Đem giáo pháp chiếu rọi vào người để họ phát tâm làm Bồ-tát.
4- Luôn nghĩ nhớ đến Phật.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc tịch tịnh biết rõ các pháp:
1- Đối với đạo pháp biết rõ tận tường việc thế tục.
2- Hiểu rõ các tuệ của mọi người.
3- Nghe việc gì đều không nghi ngờ nên được đắc pháp nhẫn.
4- Không nghĩ hữu hay vô, không theo tập tục người đời.
Đó là bốn.
Lại có bốn việc làm thầy không tham trước. Bốn việc ấy là gì?
1- Tạo điều kiện làm nhân duyên cho mọi người.
2- Tâm chất phác, thật thà, không dua nịnh.
3- Vì sự an vui của mọi người mà xả thân mạng, luôn lo lắng cho họ.
4- Trí tuệ đạt được không vì bản thân mà chỉ vì mọi người.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc được mọi người khen ngợi. Bốn việc ấy là gì?
1- Tự xả bỏ thân mình, thương yêu người khác.
2- Bỏ tất cả sự vui thích, lấy chánh pháp để tự vui.
3- Nghe điều gì không tự cho là thông suốt.
4- Tự nuôi sống bằng chánh pháp.
Đó là bốn việc.
Lại có bốn việc sẽ thành luân chuyển. Bốn việc ấy là gì?
1- Chứng đắc các Đà-la-ni, chứng đắc tùy theo ý muốn.
2- Vô tận diệt.
3- Thể nhập vào tâm, bên trong hiểu rõ các pháp.
4- Hiểu rõ người khác.
Đó là bốn việc.
Sau khi đức Phật giảng nói bốn việc của Bồ-tát thì ba ngàn đại thiên cõi chấn động sáu cách, ánh sáng chiếu khắp cùng tận. Chư thiên bay trên hư không trỗi trăm ngàn âm nhạc để cúng dường đức Phật. Mưa hoa trời phát ra tiếng:
- Lành thay! Lành thay! Những công hạnh của đức Phật đã tu hành từ vô số kiếp, hôm nay con mới được nghe. Trong chúng hội, ai nghe pháp này đều do kiếp trước đã tạo nhiều công đức, nghe rồi đọc tụng thọ trì, lại giảng nói cho người, tâm vị ấy không bao giờ quên. Những công hạnh của các vị ấy tu hành cũng sẽ giống như đức Phật. Hôm nay chúng con được lợi ích ấy. Vì sao? - Vì đã được nghe pháp này.
Bấy giờ chư thiên và tám vạn bốn ngàn người đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, một vạn hai ngàn Bồ-tát đắc Vô sanh pháp nhẫn.
Bồ-tát Đề Vô Ly thưa:
- Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh này rồi đọc tụng, thọ trì, khen ngợi, phụng thờ thì sẽ được bao nhiêu pháp công đức?
Đức Phật dạy:
- Sẽ được tám công đức:
1/ Có lòng tin kiên cố, không khác gì Bồ-tát.
2/ Đích thân đem công đức ban bố cho người để họ tăng trưởng lợi ích mà lòng không bao giờ hối hận.
3/ Nuôi lòng từ bi vô cực, đem giáo pháp chiếu soi vào mọi người.
4/ Vì pháp nên học hỏi không bao giờ nhàm chán, giống như biển cả luôn đón nhận các dòng nước.
5/ Muốn hộ trì chánh pháp.
6/ Tự nuôi sống bằng công đức của giáo pháp. Mặc dù chết rồi nhưng sắc tướng vẫn đẹp gấp bội.
7/ Thể nhập vào các phước công đức, đầy đủ nguyện xưa, được chư Phật ủng hộ.
8/ Thu phục quân ma, xa lìa sợ hãi.
Bồ-tát nhờ tám công đức này, sau khi Như Lai diệt độ sẽ được pháp công đức.
Khi ấy, đại địa ở ba ngàn đại thiên cõi chấn động sáu cách, đất đai tất cả đều bằng phẳng như lòng bàn tay. Núi non, đất liền, sông biển, rạch ngòi, khe hố đều thấy giống như đất ở trong nước, những loài trong nước đều không thấy điều này. Cây cối khô héo đã trăm năm, nay đều trổ rất nhiều hoa.
Ở chỗ đức Phật, những cánh hoa ấy đều chỉa ra nghiêng về phía Ngài. Những cây tốt tươi khác cũng như vậy. Mặt đất mọc ra hoa sen lớn như bánh xe, có vô số màu sắc và có ánh sáng chiếu khắp ba ngàn đại thiên cõi. Từ dưới nhìn lên chẳng thấy gì cả, chỉ nghe tiếng của âm nhạc rất hay.
Khi ấy, từ núi Băng, núi Hương, cây ấy tỏa ra mùi thơm thấu khắp mọi nơi. Hoa ấy cũng từ đất hiện ra, đến rải trên đức Phật, đầy tràn trên đất ngập tới mắt cá.
Cây Phật đang ngồi cũng trổ hoa, có tiếng nhạc như nhạc trời, phía trên đức Phật có ba mươi vạn lý lọng trổ hoa bằng châu báu, che kín ba ngàn đại thiên cõi.
Xá-lợi-phất quỳ dài chấp tay:
- Bạch Thế Tôn! Vì nguyên nhân gì mà hiện điềm lành này?
Đức Phật dạy Xá-lợi-phất:
- Có vua tên Thuần Chơn Đà La ở núi Hương, cùng vô số trăm ngàn Thuần Chơn Đà La, vô số Kiền-đà-la, vô số chư thiên cùng nhau đến đây nên có điềm lành ấy.
Đức Phật nói chưa dứt lời thì thấy Thuần Chơn Đà La với tám vạn bốn ngàn kỹ nhạc và vô số người cùng nhau kéo đến. Hoa từ hư không rơi xuống giống như mưa từ trên đổ xuống. Tất cả những người đến lạy sát đất, lễ lạy Phật rồi đi nhiễu ba vòng và đứng lùi phía trước.
Vua Thuần Chơn Đà La cầm đàn lưu ly. Vì sao? - Vì đó là bổn nguyện. Bốn phía có bốn vạn hai ngàn kỹ nhạc. Thuần Chơn Đà La đứng ở giữa, đồng thời đánh đàn; tiếng đàn vang khắp ba ngàn đại thiên cõi. Các kỹ nhạc của trời cõi Dục đánh nghe không hay bằng tiếng đàn này. Vì sao? - Vì bị tiếng đàn này lấn át nên các vị trời cõi Dục, cõi Sắc không sánh bằng.
Khi Thuần Chơn Đà La đến chỗ Phật đánh đàn thì các cây cối, núi lớn, núi Băng, núi Mục-chân-lân tự nhiên lay động nhè nhẹ giống như múa và tất cả đều cung kính hướng về đức Phật, ví như sự lễ bái của con người. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả đều tôn trọng cung kính. Hàng Tỳ-kheo và Bồ-tát mới phát tâm, người trong chúng hội, trời, rồng đang ngồi cũng đều reo hò vui mừng, muốn đứng dậy múa.
Bồ-tát Đề Vô Ly hỏi:
- Thanh văn đã lìa các dục, đã đắc tám Duy-vụ thiền, thấy rõ bốn đế, nay sao lại múa?
Các Thanh văn trả lời:
- Chúng tôi không tự chủ được với tiếng đàn ấy. Đang ngồi mà nghe tiếng đàn thì không sao chịu nổi và cũng không thể kềm chế tâm mình cho yên ổn.
Bồ-tát Đề Vô Ly hỏi Ma-ha Ca Diếp:
- Thưa ngài, ngài là vị tuổi cao đức trọng, biết nhàm chán, tự giữ đúng theo giới luật, được chư thiên và người kính mến, tôn trọng, vì sao không thể kềm chế tâm mà lại múa giống như con nít vậy?
Ma-ha Ca Diếp trả lời:
- Ví như một cơn gió lớn nổi lên thì cây cối dù to như cây đại thụ cũng không tự kềm chế được. Vì sao? - Vì tôi không tự chủ được trước tiếng đàn của vua Thuần Chơn Đà La, ví như khi gió lớn nổi lên. Đó là nguyên do mà chúng tôi không tự giữ tâm mình được. Hôm nay mới biết điều của thượng nhơn làm, công đức ấy không thể sánh bằng. Các Thanh văn đều bị tiếng đàn ấy che lấp.
Bồ-tát Đề Vô Ly nói với Ma ha Ca Diếp:
- Thấy việc làm của các vị A-duy-việt-trí (Bất thối chuyển), nghe tiếng đàn ấy không có vị nào rung động. Người có trí nghe vậy thì rối tâm nên không thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Tất cả thần lực của Thanh văn đều bị tiếng đàn ấy che lấp, nhưng âm thanh ấy không thể nào làm lay động các vị Ma-ha-diễn (Đại thừa). Tất cả tám vạn bốn ngàn âm điệu kỹ nhạc của Thuần Chơn Đà La được oai thần Phật đón nhận, làm cho phước bổn nguyện của ông ta được thành tựu.
Các tiếng nhạc ấy ai cũng nghe và họ nói rằng:
“ - Các pháp bình đẳng và đều giải thoát. Thượng - trung - hạ đều thanh tịnh hoàn toàn như nhau. Với tất cả mọi người không chấp về người. Quá khứ, tương lai, hiện tại cũng đều như vậy. Nhưng tiếng nhạc được nghe đó, hiểu rõ ra không có sở hữu. Các pháp, tất cả mọi người và âm thanh cũng đều như vậy.
- Tất cả cõi giống như một cõi. Vì đã đồng đẳng nên không có cõi khác.
- Hiểu rõ không có sở hữu. Vì đồng đẳng nên nói các cõi không sanh, cũng không trưởng thành. Cho nên hoàn toàn không có thức mà tự nhiên; các sở hữu không sở hữu mà tự nhiên.
- Không thể đắc ngoại hành, không đắc nội hành. Tuệ vốn không giống với pháp, nhưng chữ và pháp cũng không có sở hữu, nên cái tên cũng như vậy.
- Biết danh sắc không có sở hữu, hành đã không chấp trước thì quá khứ an trụ không cùng cực.
- Đã được nghe pháp căn bản diệt tận không có sở hữu, không có chỗ đến, cũng không có chỗ trụ.
- Những gì chấp trước chỉ có danh tự, nhưng khi đã biết rõ về danh tự thì danh tự và pháp đều bình đẳng như nhau.
- Tâm bình đẳng, vì bình đẳng nên không có sở hữu. Nó vốn có lay động nhưng không biết nhau. Dù tâm có đối tượng và suy nghĩ nhưng không có chỗ sanh. Với trí tuệ biết rõ như vậy tức là thể nhập vào pháp.
- Các căn đã đoạn trừ bình đẳng, pháp trước và sau bình đẳng. Biết ba đời bình đẳng thì trí tuệ thể nhập vô số.
- Con người bị danh sắc trói buộc, đó là do con người tạo ra. Từ xưa đến nay, từ sanh đến lão nó đã không có. Đã biết do nhân duyên thì còn phải diệt. Nếu nói rằng có ngã, có nhơn, đó là ngược lại với căn bản.
- Sở trụ của ngã là bình đẳng nên không có chỗ trụ. Các pháp cũng không có chỗ trụ. Biết trụ không có chỗ trụ, đó là nghe và tin một cách hoan hỷ.
- Ví như mưa thì có sấm chớp, đó là cách tự nhiên trên trời. Tất cả các pháp giống như ngã nên nói rằng tự nhiên.
- Ngã và nhơn là tự nhiên không. Đã biết như vậy thì thể nhập vào con dấu ấn Đà-la-ni, biết rõ các cửa đã được mở tung; vì tướng đồng với tướng nên không có tướng của pháp và không có không, không có hy vọng dùng chữ. Cho nên khác với pháp mà có thượng - trung - hạ. Chữ nó không tự biết dùng khác bởi vì không thể thấy. Tâm ấy từ xưa nay hễ có nguồn gốc là tương tục, đã biết các pháp không sở hữu vì đoạn trừ bổn tế, đã đoạn trừ bổn tế thì tất cả có hành động, đã biết bổn tế bình đẳng thì đó là từ bi. Lòng từ bi thanh tịnh thì bình đẳng với khổ vui, không mừng không buồn; đó là thượng nhơn đã thể nhập vào bổn tế.
Pháp học tịch tịnh lại càng tịch tịnh, dù nói hay không nói thì pháp đó không tăng giảm. Cho nên không mong cầu tịch tịnh. Tiếng giữa hư không không thể nào nắm bắt được, chỉ nghe mà không thể nói. Nếu có chỗ nghe, chỗ nói thì đều không thành thật”.
Khi nghe âm thanh ấy thì tám ngàn Bồ-tát chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn.
Bồ-tát Đề Vô Ly thưa Phật:
- Âm thanh khen ngợi ấy từ đâu phát sanh?
Đức Phật dạy:
- Vua Thuần Chơn Đà La làm ra. Như vừa nói ra thì lập tức ghi nhận lời nói.
Đức Phật hỏi Thuần Chơn Đà La:
- Âm thanh khen ngợi ấy từ đâu phát ra?
Thuần Chơn Đà La nói:
- Do tiếng người phát ra.
Hỏi:
- Tất cả tiếng người từ đâu phát ra, từ hư không phát ra sao?
Bồ-tát Đề Vô Ly nói:
- Này Thuần Chơn Đà La! Tất cả tiếng người không phải từ ý phát ra.
Thuần Chơn Đà La hỏi Bồ-tát Đề Vô Ly:
- Tiếng ấy từ thân phát ra hay từ tâm phát ra?
Đề Vô Ly nói:
- Không phải do thân hay do tâm phát ra. Vì sao? - Vì thân không thường trụ, giống như cây cỏ không sống mãi, như tường vách không tồn tại lâu dài, có lúc nghiêng đổ. Còn tâm thì không hình tướng, không thể thấy, không thể nghe, không thể nói, nó như huyễn.
Thuần Chơn Đà La hỏi Đề Vô Ly:
- Nếu không phải thân, không phải tâm thì tiếng ấy do đâu phát ra?
Đề Vô Ly trả lời:
- Tất cả do niệm tự nhiên mà có âm thanh.
Thuần Chơn Đà La hỏi:
- Nếu ngài nói âm thanh từ nơi niệm mà có thì nay âm thanh khen ngợi của tôi do hư không mà phát ra ư? Do đó, các âm thanh không lìa hư không?
Thuần Chơn Đà La nói:
- Nếu ngài muốn biết về âm thanh đều do hư không mà tự nhiên có tiếng, thì chỉ nghe âm thanh chứ không thể thấy, vì nó liền diệt; cái diệt ấy cũng là không. Cho nên nói là tự nhiên.
Các pháp sở dĩ bình đẳng vì bình đẳng như hư không. Dù có nói được hay không nói cũng đều bình đẳng cho nên nói bình đẳng như hư không.
Tất cả pháp chỉ có thể nghe mà không thể thấy. Pháp mà được nghe ấy đối với sự nghe thì không thấy pháp ấy. Nếu âm thanh của pháp không thấy được thì âm thanh ấy không biết pháp. Các pháp không hay biết, sở dĩ nghe được là nhờ dùng phương tiện thiện xảo. Nếu như không được nghe thì dùng phương tiện thiện xảo để biết, đối với pháp không mong cầu gì cả. Không mong cầu cho nên cần phải có năng lực kiên cố, không yếu mà lại mạnh mẽ, không ai có thể dứt đoạn. Không bị dứt đoạn thì không có sanh, không sanh thì không bị lệ thuộc, không bị lệ thuộc thì nhẹ nhàng, nhẹ nhàng thì thanh tịnh, thanh tịnh thì không còn cấu bẩn, không cấu bẩn thì sáng suốt càng sáng suốt. Sáng suốt đó là gốc của tâm, gốc của tâm là lỗi lầm.
Tội lỗi ấy hết rồi thì không còn vọng tưởng. Các vọng tưởng không còn thì ngay xứ ấy từ từ chuyển lên. Chuyển lên là nhẫn nhục của Bồ-tát. Được đắc nhẫn rồi thì không có đối tượng để nhẫn; cũng nhẫn về không và nhẫn về người. Vì sao? - Vì cái không không lìa người.
Thế nào là không? - Người là không.
Nhẫn với vô tưởng và nhẫn với hữu tưởng. Vì sao? - Vì tưởng là tự nhiên nên vô tưởng. Nên nhẫn vô nguyện cũng nhẫn hữu nguyện. Vì sao? - Vì nguyện và tưởng là tự nhiên, không có gốc của nguyện.
Các pháp Nê-hoàn cũng là nhẫn sanh tử. Cho nên sanh tử ví như huyễn mộng. Bồ-tát đắc nhẫn thì không còn nghi ngờ về hữu và vô, chắc chắn biết rõ tất cả chúng sanh. Nhờ đắc nhẫn nên biết rõ tất cả pháp không đến không đi, biết rõ các pháp đều trụ. Các pháp đều trụ thì biết tất cả chúng sanh cũng đều trụ. Ai đã thể nhập vào pháp ấy thì đắc Vô sanh pháp nhẫn. Chỉ có âm thanh pháp nhẫn ấy không thể nói năng, vốn nó không thể nói. Đức Phật là đấng chí tôn, dù không nói pháp nhưng khiến mọi người đều hiểu rõ.
Bồ-tát Đề Vô Ly bạch Phật:
- Lành thay! Lời nói của Thuần Chơn Đà La rất vi diệu, làm hiểu rõ pháp thâm sâu, được đắc nhẫn, được mọi người tôn quý. Tất cả nhẫn đã thể nhập được ấy rất sâu xa.
Và thưa Phật:
- Vua ấy tạo bao nhiêu công đức với đức Phật mà muốn gì cũng đều được tự tại như vậy?
Đức Phật dạy Bồ-tát Đề Vô Ly:
- Ông nên biết! Sông Hằng có vô số cát, cứ lấy một hạt cát làm thành một cõi Phật, đếm hết số lượng tinh tú trong đó thì còn tính đếm được. Nhưng số lượng công đức cúng dường Phật của Thuần Chơn Đà La không thể nào đếm được.
Bồ-tát Đề Vô Ly hỏi Thuần Chơn Đà La:
- Cúng dường Phật nhiều quá như vậy, công đức tụ hội cao vòi vọi, vậy sao không mau thành Phật?
Thuần Chơn Đà La nói:
- Bồ-tát nhờ mười việc không nhàm chán. Mười việc đó là gì?
1- Cúng dường Như Lai không nhàm chán.
2- Tạo công đức không nhàm chán.
3- Học hỏi giáo pháp không nhàm chán.
4- Với năm thiền chi của bốn tầng thiền, biết không nhàm chán.
5- Thấy các pháp không nhàm chán.
6- Muốn giảng dạy rộng rãi về giáo pháp không nhàm chán.
7- Muốn chỉ dạy mọi người không nhàm chán.
8- Luôn luôn ủng hộ chánh pháp không nhàm chán.
9- Muốn đầy đủ Ba-la-mật không nhàm chán.
10- Muốn cảm hóa, dìu dắt, giúp đỡ người không nhàm chán.
Đó là mười việc không nhàm chán của Bồ-tát.
Thuần Chơn Đà La thưa:
- Con nghe Đại Bồ-tát có tam muội tên Bảo Như Lai, ai đắc được tam muội ấy thì đều có đầy đủ các quý báu. Nếu có ai hỏi pháp thì vị ấy nói tự tại.
Phật dạy:
- Ông hãy lắng nghe Ta nói.
Thuần Chơn Đà La thưa:
- Xin vâng! Con muốn được nghe.
Phật dạy:
- Bồ-tát không đoạn mất Phật - Pháp - Tăng, đó là ba sự phát tâm, nó có tám mươi pháp báu. Tám mươi pháp báu là gì?
1- Tâm không quên Nhất thiết trí, đó là báu.
2- Tâm không lìa bỏ lòng tin, đó là báu.
3- Tâm huân tập các công đức, không giải đãi, đó là báu.
4- Tâm kiên cố không xả bỏ lời nguyện cầu của mình, đó là báu.
5- Đem bố thí tất cả, tâm không luyến tiếc, ngược lại còn làm tăng trưởng lợi ích, đó là báu.
6- Làm điều gì tâm chỉ nghĩ đến Bồ-tát, đó là báu.
7- Tâm trang nghiêm, thân không phạm ba điều thuộc thân, đó là báu.
8- Tâm thanh tịnh, không nói lời ác, đó là báu.
9- Tâm trang nghiêm, lòng không nghĩ điều ác, đó là báu.
10- Tâm đã giữ giới, đem giới trang nghiêm lại thân, không ham muốn, không nghĩ đến cái xấu của người, đó là báu.
11- Tâm không bị chướng ngại, bình đẳng với chúng sanh, đó là báu.
12- Tâm đã nhẫn nhục được trang nghiêm, nhẫn tất cả điều ác, đó là báu.
13- Tâm không thương tiếc thân mạng, sống theo hạnh Bồ-tát, đó là báu.
14- Tâm không thương ghét, không bị nó làm lay động, đó là báu.
15- Tâm kiên cố, tinh tấn, không biếng nhác, đó là báu.
16- Tâm nghĩ làm điều gì cũng được thành tựu, đó là báu.
17- Tâm nghĩ gì làm đúng, không quên muốn được đầy đủ hạnh Bồ-tát, đó là báu.
18- Tâm hành thiền tam muội tam-ma-việt; phát tâm rồi thì việc làm được tự tại, đó là báu.
19- Tâm cầu pháp muốn thể nhập vào các trí, đó là báu.
20- Được nghe pháp, tâm tu tập tụng đọc, liền được tinh tấn, đó là báu.
21- Nói pháp, tâm không mong cầu điều gì vì vượt qua các mong cầu, đó là báu.
22- Tâm không hư dối, đó là báu.
23- Tâm nghĩ đến chánh đạo và làm đúng theo, đó là báu.
24- Những gì nghe được, làm một cách cẩn thận, đó là báu.
25- Tâm đầy đủ trí tuệ rồi, không theo sự chỉ dạy của người khác, đó là báu.
26- Tâm có lòng từ vô cực để tự hộ mình, đó là báu.
27- Tâm thương yêu vô cực, bình đẳng với người, đó là báu.
28- Tâm có sự bảo hộ vô cực rồi, lấy chánh pháp để tự vui, đó là báu.
29- Tâm đã bình đẳng vô cực, quán thấy các pháp, đó là báu.
30- Trong sanh tử, tâm không lấy làm đau khổ vì đã thể nhập vào công đức, đó là báu.
31- Tâm muốn chỉ dạy mọi người, phần nhiều nghĩ nhớ đến người, không nghĩ đến bản thân mình, đó là báu.
32- Tâm không thấy thiếu pháp mà còn phân chia cho người để họ được học, đó là báu.
33- Với đại trí, tâm hiểu tất cả vấn đề, có thần túc làm cảm động đến tất cả, đó là báu.
34- Tâm gần gũi Ba-la-mật, điều gì không nghe thì học hỏi, đó là báu.
35- Tâm xa lìa người ác, luôn tu tập các công đức, đó là báu.
36- Tâm bình đẳng với tất cả chúng sanh, nhờ sự tu tập ấy nên không có hai tâm, đó là báu.
37- Tâm biết sanh tử là bệnh đau khổ nên thể nhập vào ý mọi người, đó là báu.
38- Tâm làm thuốc hay để trị các chứng bệnh cho chúng sanh, đó là báu.
39- Tâm không xem thường người thiếu trí, phải đem pháp tôn trọng họ, đó là báu.
40- Tâm không tự cao mà nhẫn với tất cả mọi người, đó là báu.
41- Tâm không dua nịnh, đó là báu.
42- Nghe pháp, tâm không quên vì an trụ vào pháp, đó là báu.
43- Tâm tận lực hộ trì chánh pháp, luôn nghĩ nhớ báo ân Phật, đó là báu.
44- Tâm luôn muốn báo ân với sự kiên cố sâu dày, đó là báu.
45- Nếu bị ai xâm hại, tâm không nghĩ báo thù, đó là báu.
46- Tâm vui thích ở núi rừng vì muốn giữ gìn pháp thanh tịnh, đó là báu.
47- Tâm luôn nghĩ đến từ giã gia đình, làm Sa-môn vì để đạt được chánh giác, đó là báu.
48- Tâm luôn hướng về đạo, tự kềm chế mình, phòng hộ các điều ác, đó là báu.
49- Tâm biết đủ, làm người khác hoan hỷ, đó là báu.
50- Với việc đời, tâm biết đủ, đó là không nhàm chán pháp, đó là báu.
51- Tự hộ mình, tâm không theo đến nơi đông đảo ồn náo, đó là báu.
52- Tâm không nhàm chán các công đức, với các tướng đầy đủ những vẻ đẹp, đó là báu.
53- Tâm không nhàm chán trí tuệ, vì muốn quyết nghi cho mọi người, đó là báu.
54- Tâm luôn nghĩ đến Phật vì không lìa Phật, đó là báu.
55- Tâm luôn nghĩ đến pháp vì lời nói không lìa pháp, đó là báu.
56- Tâm luôn nghĩ đến Tăng thì đạt được A-duy-việt trí tăng, đó là báu.
57- Tâm luôn nghĩ đến giới, không lìa hạnh Bồ-tát, đó là báu.
58- Tâm luôn nghĩ đến bố thí, không tham tiếc thân mạng, đó là báu.
59- Tâm luôn nghĩ đến cõi trời, liền nhập vào Nhất sanh bổ xứ, đó là báu.
60- Tâm biết rõ bổn tế, tìm hiểu các sở hữu, đó là báu.
61- Tâm biết pháp vì không hoại pháp thân, đó là báu.
62- Làm việc gì, tâm đều biết đúng như việc ấy, biết rõ lời nói của chúng sanh, đó là báu.
63- Tâm biết tự tại làm no đủ cho mọi người, đó là báu.
64- Tâm đắc Đà-la-ni, nghe pháp rồi không hề quên mất, đó là báu.
65- Tâm biết bổn pháp, hiểu rõ một cách tự nhiên, đó là báu. 66- Tâm hộ tuệ, biết thức như huyễn, đó là báu.
67- Tâm học rất kỹ, chắc chắn, do đó mà được giải thoát, việc làm không bị hoại, đó là báu.
68- Tâm hộ pháp, muốn biết cái tự nhiên của con người, đó là báu.
69- Tâm biết vô thường, khổ, sanh tử ở trong ba cõi mà không bị vướng mắc, đó là báu.
70- Tâm quán các pháp đều không có ngã, không có người, đó là báu.
71- Tâm nhập Nê-hoàn, nguồn gốc vốn tịch tịnh, đó là báu.
72- Tâm biết không - vô tướng - vô nguyện. Đã giải thoát vượt qua gần đến cửa Nê-hoàn, đó là báu.
73- Tâm không sanh, không chỗ sanh, không bị hoại, không bị diệt. Ai vượt qua khỏi các điều này thì đắc nhẫn, đó là báu.
74- Tâm biết nó như huyễn, như mộng, như sóng nắng, như tiếng vang trong núi, như bong bóng trong nước, kiên cố không có sự mong cầu, đó là báu.
75- Tâm vui vẻ, biết mười hai nhân duyên trừ bỏ đoạn tận, đó là báu.
76- Tâm hiểu biết rất rõ, không tìm cầu, không rơi vào nhị biên, đó là báu.
77- Tâm không tham dự vào cả hai vấn đề, dùng một vấn đề mà biết tất cả các pháp, đó là báu.
78- Tâm đầy đủ các hạnh, không thối lui, vượt qua các danh sắc, đó là báu.
79- Tâm nhẹ dần vì đầy đủ các pháp, đó là báu.
80- Tâm hòa hợp ba mươi bảy phẩm để vượt các pháp, đó là báu.
Đức Phật dạy Thuần Chơn Đà La:
- Nếu tu tập đầy đủ tám mươi điều thì đắc tam muội bảo Như Lai. Ai đã đắc tam muội này thì không vướng mắc vào sự quý báu của đạo hay sự quý báu của thế tục.
Sao nói là sự quý báu của thế tục?
Sao nói là sự quý báu của đạo?
- Quý báu của đạo là sự tôn qúy trong loài người, chư thiên, Thích, Phạm, Tứ thiên vương, Chuyển luân Thánh vương. Nếu ai tôn quý thì làm chư hầu. Nếu là người tôn quý thì nơi nào cũng tự được tôn quý. Ai đã được như vậy thì không gì mạnh mẽ bằng và vui thích muốn được làm Bồ-tát. Đó gọi là quý thế tục.
- Quý báu của đạo là lấy pháp để giáo hóa thế tục. Lấy pháp gì để giáo hóa thế tục? - Đó là lấy giáo pháp. Vì sao? - Vì muốn làm việc gì cũng nhờ nơi trí tuệ. Tuệ là đạo pháp. Giống như các dòng nước đều chảy về biển cả. Như núi Tu-Di cao quý nhất trong các núi. Trong các vì sao, ánh sáng của trăng sáng nhất. Như mặt trời chiếu sáng chỗ tối tăm. Trong các loài thú, sư tử là mạnh nhất. Trong loài người, vua là trên hết. Ở cõi Đao-Lợi, Đế Thích là trên hết. Như trong chúng Phạm, Phạm thiên là hơn cả. Do đó, tuệ tôn quý hơn các pháp, cho nên nói là vua trí tuệ.
Vì thế, ai muốn giải thoát thì nhờ trí tuệ mà được độ, vì đó là đạo an ổn. Giống như nơi tối tăm được sáng là nhờ có ngọn đuốc, là người mạnh mẽ thu phục quân ma, là y vương điều chế thuốc thang, là thầy hiểu rõ các việc. Như giương cung bắn, dù có xa mấy cũng trúng đích. Như lực sĩ dẫn binh đi đánh được chiến thắng, địch không ai toàn mạng. Còn như dùng trí tuệ đánh ngu dốt thì chúng đều tận diệt. Vì sao? - Vì khử trừ dơ cấu.
Tâm bình đẳng không sai khác, không tranh cãi giành giật với người, không hại hay oán hận người, việc làm đều được hoàn toàn rốt ráo vì tuệ ấy trung thực, chất phác, làm việc gì đều chí thành, đó là nhất tâm.
Tất cả đều bình đẳng, đó là nhơn duyên để đoạn trừ.
Đem thần túc hòa hợp với các công đức, đó là căn bản.
Những việc làm theo sau, đó là lực.
Đối với vô trí cho là trí, đó là giác.
Chỉ con đường tắt cho người, đó là đạo.
Đã tịch tịnh mà lại tịch tịnh, hướng quán mà quán, muốn làm ánh sáng chiếu nơi tăm tối. Bóng tối hết rồi thì sáng. Vì ánh sáng ấy tự nhiên, không cấu bẩn, thanh tịnh trừ bỏ các ham muốn. Trừ bỏ ham muốn thì không còn thấy các cõi đã độ thoát. Nếu không còn các cõi thì bên trong đã tịch tịnh, thông suốt các không vì thể nhập vào không
Lìa các sở kiến đó là vô tướng.
Không cầu tịch tịnh là vô nguyện.
Đã vượt qua ba cõi, vì tướng mà không có tướng đó là tướng. Tướng ấy bình đẳng với hư không. Vì sao? - Vì vô cầu đó là bố thí. Vượt qua ngã sở chẳng phải ngã sở, không còn mong cầu, đó là giới.
Ngã không có chỗ trụ, đó là nhẫn.
Không nắm bắt, không xả bỏ, đó là tinh tấn.
Không tăng giảm, đó là thiền.
Không biết xứ sở, đó là tuệ.
Được thể nhập vào tất cả là đều do tuệ. Đắc rồi thì tương đắc với phương tiện thiện xảo, giống như mộng. Đã trang nghiêm bằng vô ngã thì mỗi hành động đều có công đức, lìa các sở trụ.
Phật dạy Thuần Chơn Đà La:
- Đó là tuệ bảo. Nếu Bồ-tát đầy đủ tuệ bảo thì đạt được tam muội Bảo Như Lai. Ví như biển cả dung chứa các dòng nước nên chữ “Bảo” do đây mà có. Bồ-tát nào đạt tam muội này thì dung nạp tất cả mọi người, là nơi tập hợp các pháp, là ánh sáng trong các báu, là nguồn gốc của các báu. Cho nên đối với Tam bảo, không thể biết hết được.
Bồ-tát Đề Vô Ly thưa:
- Vua Thuần Chơn Đà La có đạt được tam muội ấy không?
Phật dạy:
- Ông hãy đích thân đến hỏi Thuần Chơn Đà La ấy.
Bồ-tát Đề Vô Ly hỏi Thuần Chơn Đà La:
- Ông có đắc tam muội ấy không?
Thuần Chơn Đà La trả lời:
- Tam muội ấy không phải làm ra, đó là niệm trụ. Dù tôi đắc, hay tôi không đắc thì tam muội không có cái để đắc.
Tam muội ấy không có sắc nên không thể biết. Thọ, tưởng, hành, thức đều không thể biết.
Tam muội ấy không thể dùng sắc để thấy, không thể nghe, không có tướng sanh, không có tướng tận, không có tướng có; đối với tướng và tướng của tướng không thể quán, không thể thấy. Nếu nói tôi có thể thấy, tôi có thể quán thì không phải là tam muội. Vì sao? - Vì còn có tưởng về nhân duyên.
Tam muội không có tưởng về nhân duyên, vì tam muội bình đẳng với pháp. Đã bình đẳng với pháp thì ngã cũng vậy. Tất cả mọi người bình đẳng với một người. Vì sao? - Vì bình đẳng với tất cả không.
Tam muội là không tướng, mọi người không có tưởng, nếu không có tưởng tức là tướng tam muội. Mọi người không có nguyện, không có nguyện là tướng tam muội. Mọi người đều thanh tịnh, đều thanh tịnh là tướng tam muội. Mọi người không có ngã, không có ngã là tướng tam muội. Không có thân, không có mềm mại, việc làm cũng không thể đắc. Nếu nói tôi biết pháp, tôi thấy pháp thì đều không thể có.
Bồ-tát Đề Vô Ly thưa Phật:
- Con thấy y phục của Thuần Chơn Đà La mặc là của thể nữ và kỹ nhạc. Vậy là dâm dật, không biết thể nhập vào pháp thâm sâu vi diệu, mà lại nói là tự tại như pháp.
Phật dạy:
- Bồ-tát đã nhập vào tuệ thâm sâu, rõ phương tiện thiện xảo. Đạo ấy không có gì mà không làm được. Thuần Chơn đã cầm đàn đánh, ai cũng nghe tiếng đàn ấy, làm cho bảy lươi ức Chơn-đà-la, ba mươi ức Kiền-đà-la, tám vạn bốn ngàn trời người đi theo đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề.
Bồ-tát nhờ tuệ phương tiện thiện xảo ấy mà liền được tiếng thơm vang lừng. Người ở địa vị tôn quý nhiều vô số nên làm nền tảng cho họ. Như người đốt lửa, nếu không bỏ thêm củi vào thì biết rằng không lâu lửa sẽ tắt.
Bồ-tát trụ một mình thì không thể làm gốc cho người, phải hòa hợp với người thì mới có thể làm lợi ích cho họ. Muốn làm cho lửa cháy lớn thì phải chất thêm củi vào. Cho nên để có ánh sáng lớn, Bồ-tát phải lấy người làm củi thì mới có ánh sáng lớn được.
Phật dạy:
- Người được Bồ-tát thọ nhận đều đã được đắc bổn.
Bồ-tát Đề Vô Ly thưa Phật:
- Thuần Chơn Đà La làm sao có thể đem những âm thanh kỹ nhạc để khiến người phát tâm Vô thượng Bồ-đề?
Đức Phật dạy:
- Vì Thuần Chơn Đà La, Kiền Đà La đều thích kỹ nhạc nên lấy kỹ nhạc để làm cho họ vui, tất cả đều hoan hỷ.
Biết họ được vui vẻ rồi làm cho họ nghe tiếng Phật, nghe tiếng Pháp và nghe tiếng Tăng, khen ngợi Bồ-tát có đức cao quý; đem Nhất thiết trí huân tập vào tâm họ.
Chỉ cho họ nghe tiếng bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, từ bi, ý chỉ, ý đoạn, thần túc, căn, lực, giác đạo, hướng quán, duy vụ tam muội tam ma việt.
Nghe tiếng vô thường, khổ, vô ngã, tịch diệt; nghe tiếng không, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô sở sanh, không sanh tử.
Nghe tiếng Đà-la-ni của Bồ-tát, Kim-cang hạnh tam muội, Tịnh tạng chư pháp vương ấn hải ấn tam muội, Nhập nhất thiết chư pháp tự tứ chư pháp tam muội, Trang nghiêm tam muội, Bảo Như Lai tam muội, Bảo tự nhiên tam muội, Tri thiền tam muội, Hoan hỷ tam muội, Linh địa tất tác liên hoa tam muội, Liên hoa tôn tam muội, Vô sở bất biến nhập tam muội, Kỳ ý sai đặc tam muội, Đại diện minh tam muội, Sư tử minh tam muội, Vô ương số nhơn tam muội, Dĩ nhập bổn tam muội, Kim cang thự tam muội, Kim cang tràng phang tam muội, Nhược kim cang tam muội, Kim cang tế tam muội, Như địa tam muội, Nhược tu di tam muội, Nhược kim cang trụ tam muội, Minh hoa tam muội, Kỳ tâm tự tứ tam muội, Tri nhất thiết nhập tam muội, Nhất thiết sở hành kỳ địa nhơn thị tam muội, Thậm thâm toàn tam muội, Khai minh tam muội, Tri nhất thiết nhơn tâm hành tam muội, Sở lạc tam muội, Sanh tuần tam muội, Hàng phục chúng ma tam muội, Hiện chư sắc tam muội, Các nhập kỳ âm tam muội, Pháp hành tam muội, Huệ địa thủ tam muội, Địa thủ tam muội, Kiến đế sở hữu tam muội, Giải chư phược tam muội, Tắc nhập chư nhơn duyên tam muội. KINH THUẦN CHƠN ĐÀ LA SỞ VẤN NHƯ LAI TAM MUỘI
Hết quyển thượng
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.144.103.20 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.